Dịch giả: Maththunder
Mặt trời rực rỡ vẽ nên những cái bóng dài trên mặt đất. Bầu trời trong xanh đến mức bạn có thể bị xạ thủ bắn tỉa headshot từ khoảng cách vài kilomet. Trên sân, lá cờ của Đại đội #17 phấp phới bay trong cơn gió phương nam ẩm ướt vi vu từ Thái Bình Dương.
Không khí từ biển khơi như những con rắn trườn qua hai sống mũi, cọ cọ nơi đầu lưỡi rồi chui xuống cổ họng. Rita nhíu mày. Đó không phải là mùi hôi thối của Mimic. Giống cái mùi tanh tanh từ nước mắm hơn.
Nếu mặc kệ yếu tố thời chiến và nguy cơ bị thần chết đe dọa thì vùng Viễn Đông này cũng không đến nỗi tệ. Bờ biển tuy khó phòng ngự nhưng lại chứa đựng khung cảnh mặt trời lên rực rỡ. Cả không khí và nước đều rất trong lành. Nếu Rita, người chỉ có một phần mười sự tinh tế và trình độ văn hóa so với một người bình thường nghĩ rằng nơi đây thật tuyệt vời, vậy khách du lịch hẳn sẽ coi đây là thiên đường ấy chứ. Nếu có điểm trừ nào thì đó chắc là do cái không khí ẩm ướt khó chịu này.
Thời tiết vào đêm đó mà không kích thì tuyệt hảo. Một khi mặt trời mọc lên, những chiếc máy bay thả bom chất đầy những trái bom định vị GPS sẽ bay thành đàn trên trời hòng nổ banh hòn đảo thành địa hình mặt trăng trước buổi tập kích trên mặt đất vào sáng hôm sau. Những rặng san hô xinh đẹp, cùng với hệ động thực vật gọi nơi đó là nhà sẽ chịu chung số phận cùng kẻ thù, nếu mọi thứ diễn ra đúng theo kế hoạch.
“Một ngày đẹp trời nhỉ, cô có thấy thế không, Thượng sĩ Vrataski?” Một cái máy quay phim cũ kĩ gác bên cạnh chiếc cổ dày của gã, cỡ một thân cây tùng bách nếu đem đi so với những cây sồi bình thường của lính Chiến giáp. Rita mặc kệ hắn ta.
“Ánh sáng thật tuyệt. Những ngày như hôm nay có thể biến một chiếc máy bay chỉ toàn sắt thép trông như một tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci ấy chứ.”
Rita khịt mũi. “Anh đang làm nghiệp vụ chụp ảnh nghệ thuật à?”
“Cách nói như vậy có vẻ không hay lắm đối với phóng viên ảnh duy nhất trong chuyến viễn chinh tới Nhật Bản. Tôi vô cùng vinh dự với vai trò truyển tải sự thật của cuộc chiến này tới công chúng. Tất nhiên, 90% sự thật chỉ toàn là ánh sáng.”
“Khéo nói thật. Họ chọn anh hẳn vì tài PR của anh đấy. Anh đoán anh có mấy cái lưỡi?”
“Thượng đế chỉ trao một cái cho mỗi công dân Mỹ. Mặc dù vậy tôi nghe đồn rằng người Nga và người quốc đảo Crete có hai cái.”
“Chà tôi nghe kể rằng có một vị thần Nhật Bản chuyên cắt lưỡi những kẻ dối trá. Đừng có làm gì khiến cái của anh gặp rắc rối đấy.”
“Đừng nói xúi quẩy thế chứ.”
Tại góc sân huấn luyện, Rita và gã chụp ảnh đang đứng đó, hứng trọn cơn gió thổi vào từ đại dương. Ở giữa cái sân lớn, 146 gã đàn ông từ Đại đội #17 của binh đoàn bộ binh vũ trang Nhật Bản #301 đang cứng đờ thành hàng dọc trên mặt đất. Đó là một bài luyện tập được gọi là chống đẩy tổng hợp. Rita chưa từng thấy nó trước đây.
Những người còn lại trong đội của Rita đứng cách đó không xa, những cánh tay dày và lông lá khoanh trước ngực. Họ đang làm những chuyện sở trường của người lính, chính là chế giễu những kẻ kém may mắn hơn họ. Chắc đây là cách lũ đó tập cúi chào đấy! Này, samurai! Thử cầm kiếm lên sau một tiếng tập cái đó coi! Đồng đội của Rita không ai tới gần cô trong vòng ba mươi tiếng trước một đợt tấn công. Đó là một luật bất thành văn. Người duy nhất dám tới gần cô ấy là cô Kỹ sư người Mỹ cận thị nặng và tay thợ chụp ảnh, Ralph Murdoch.
“Họ không cử động gì sao?” Rita đầy nghi vấn.
“Không, họ chỉ giữ nguyên tư thế đó.”
“Tôi không biết cái đó có phải là bài huấn luyện samurai không nữa. Nếu anh hỏi tôi, nó trông giống yoga hơn.”
“Thật là kỳ khi truyền thống Nhật Bản và Ấn Độ thần bí lại có điểm tương đồng!”
“Chín mươi tám!”
“Chín mươi tám!”
“Chín mươi chín!”
“Chín mươi chín!”
Nhìn chằm chằm xuống đất như những người nông dân nhìn hạt gạo nảy mầm, những người lính đồng thanh đếm cùng với trung sĩ huấn luyện. Tiếng hét của 146 người đàn ông vang vọng trong hộp sọ của Rita. Cơn đau nửa đầu quen thuộc truyền những tín hiệu đau đớn đi khắp đầu cô. Cơn đau lần này khá nghiêm trọng.
“Lại đau đầu à?”
“Không liên quan tới anh.”
“Tôi không thể hiểu tại sao một tiểu đội với đầy bác sĩ chuyên gia mà lại không thể chữa được một bệnh đau đầu đơn giản.”
“Tôi cũng vậy. Sao anh không thử tìm hiểu xem?” cô ấy đốp chát lại.
“Họ giấu mấy gã đó kĩ quá. Tôi thậm chí còn không thể phỏng vấn được họ.”
Murdoch nâng camera lên. Không biết hắn ta định làm gì với những bức ảnh những gã bồ tượng khoanh tay trước ngực, đứng yên quan sát nữa. Có lẽ là bán cho tờ báo lá cải nào đó hết tin để đăng.
“Tôi không chắc vậy là đúng mực đâu.” Rita không biết ai trên sân huấn luyện cả, nhưng cô không cần phải biết họ để thấy quý họ nhiều hơn Murdoch.
“Những bức ảnh không có ngon hay dở. Nếu cô nhấp chuột vào một đường link và một bức ảnh pop-up có hình một cái xác hiện ra, cô có thể đệ đơn kiện. Nếu bức ảnh tương tự xuất hiện trên trang chủ của tờ New York Times, nó có thể giành giải báo chí Pulitzer.”
“Chuyện này thì khác.”
“Vậy sao?”
“Anh là người đột nhập vào trung tâm xử lý dữ liệu. Nếu không phải vì sai lầm của anh, những người này sẽ không bị trừng phạt, và anh sẽ không ở đây và chụp ảnh họ. Tôi sẽ xếp nó vào mục ‘dở ẹc’.”
“Đừng vội vàng thế chứ. Tôi bị vu cáo mà.” Tiếng cửa chớp của camera đóng mở liên tục, chen ngang cuộc nói chuyện của hai người.
“Hệ thống an ninh ở đây khá lỏng lẻo nếu so với trung tâm chỉ huy. Tôi không rõ anh định đào bới tìm kiếm cái gì tại nơi khỉ ho cò gáy này, nhưng đừng khiến người khác gặp họa vì nó.”
“Vậy ra cô nhắm vào tôi à.”
“Tôi chỉ ghét khi thấy những cảnh ‘censor’ khi anh xúc cái xẻng xuống thôi.”
“Chính phủ có thể nói cho chúng ta bất kỳ sự thật nào họ muốn. Nhưng có những cái là sự thật, và có những cái lại là sự thật,” Murdoch nói. “Tất cả tùy thuộc vào việc người ta quyết định cái nào là thật. Dù cho đó là thứ chính phủ không muốn công bố.”
“Quá độc đoán.”
“Thử kể tên một nhà báo giỏi nào mà không độc đoán đi. Cô phải như vậy thì mới có thể tìm thấy được câu chuyện. Cô có biết Kẻ Mơ Mộng nào không?”
“Tôi không theo tôn giáo.”
“Cô có biết lũ Mimic hành động gần như đúng vào thời điểm các cô khởi động chiến dịch đồ sộ đó tại Florida không?”
The Dreamers là một nhóm những người theo chủ nghĩa hòa bình –– tất nhiên là dân thường. Sự xuất hiện của Mimic đã tạo ra những tác động to lớn tới hệ sinh thái biển. Những tổ chức kêu gọi bảo vệ lũ cá heo, cá voi cùng những loài thú có vú ở biển khác đã chết hết sạch. The Dreamers tiếp tục phát triển từ nơi họ đã bỏ lại.
Dreamers tin rằng Mimic có trí khôn, và họ khăng khăng cho rằng chính vì thất bại của loài người trong việc giao tiếp với chúng mới dẫn tới cuộc chiến này. Họ lý giải rằng nếu Mimic có thể nhanh chóng tiến hóa thành những vũ khí sống hùng mạnh đến vậy thì chúng cũng có thể phát triển phương tiện giao tiếp. The Dreamers đã bắt đầu chiêu mộ thành viên, những người đã phát chán vì chiến tranh, những người tin rằng loài người sẽ không bao giờ giành được thắng lợi trước chúng, và trong hai năm qua quy mô hoạt động của nó đã bành trướng đáng kể.
“Tôi đã phỏng vấn một vài người trước khi tới Nhật Bản,” Murdoch tiếp tục.
“Nghe có vẻ mệt mỏi nhỉ.”
“Họ đều có chung một giấc mơ vào mỗi ngày. Trong giấc mơ đó, loài người thất bại trước Mimic. Họ nghĩ đó là một thông điệp mà chúng cố gửi tới chúng ta. Còn thông điệp gì thì không cần tôi phải nói ra chứ.” Murdoch liếm liếm môi. Cái lưỡi quá bé so với thân hình quá khổ, gây ấn tượng rất khác biệt về một loài động vật thân mềm. “Tôi đã có một cuộc đào bới nhỏ, và hóa ra đã có những sự quan tâm đặc biệt tới những giấc mơ đó vào những ngày trước khi Đặc chủng Hoa Kỳ tiến hành tổng tiến công. Và trong những năm qua, số người có giấc mơ đó tiếp tục gia tăng. Chuyện này vẫn chưa được công bố, nhưng có vài người trong đó thậm chí còn ở trong quân đội.”
“Anh tin vào những gì lũ dở hơi đó nói sao? Cứ nghe họ một hồi và họ sẽ khiến anh nghĩ lũ khỉ biển đều là Einstein mất.”
“Những chuyên gia hàn lâm đã thảo luận về khả năng Mimic là loài có trí khôn rồi. Và nếu là thật, chuyện chúng cố gắng giao tiếp cũng không quá khó tin đâu.”
“Anh không nên giả định mọi thứ anh không biết đều là một tin nhắn,” Rita nói. Cô ấy khịt mũi. “Cứ như vậy, và tiếp theo anh sẽ nói tôi rằng anh đã tìm ra dấu hiệu của trí khôn trong chính phủ của chúng ta, và chúng ta đều biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”
“Rất hài hước đấy. Nhưng có một kiến thức khoa học mà cô không thể phớt lờ được. Mỗi bước đi trên nấc thang tiến hóa –– từ sinh vật đơn bào, tới những loài máu lạnh, và cuối cùng là động vật máu nóng –– đều có sự tăng trưởng gấp mười lần trong việc tiêu thụ năng lượng.” Ralph lại liếm môi. “Nếu cô nhìn vào lượng năng lượng một người trong xã hội hiện đại tiêu thụ, nó lớn gấp mười lượng một loài động vật máu nóng với cùng kích cỡ tiêu thụ. Vậy mà Mimic, những con được coi là động vật máu lạnh lại tiêu thụ cùng một mức năng lượng như con người.”
“Vậy có nghĩa là chúng ở vị trí cao hơn trên cái cầu thang kia? Lý thuyết hay đấy. Anh nên đem nó đi xuất bản.”
“Có vẻ như tôi phải nhắc lại cho cô về những giấc mơ.”
“Tất nhiên tôi có mơ. Giấc mơ bình thường.”
Với Rita, đi tìm hiểu ý nghĩa trong những giấc mơ thật sự là một sự lãng phí thời gian. Một cơn ác mộng là một cơn ác mộng. Và những vòng lặp thời gian mà cô ấy sẩy chân bước vào trong dòng chảy chiến tranh, chà, chúng chắc chắn là thứ hoàn toàn khác. “Ngày mai chúng ta có một đợt tiến công. Anh đã phỏng vấn được ai nhận được tin nhắn chưa?”
“Tất nhiên là rồi. Tôi đã gọi về Los Angeles vào sáng hôm nay để kiểm chứng. Cả ba người đó đều đã có giấc mơ đó.”
“Giờ tôi biết đó hoàn toàn là bố láo. Chuyện đó hoàn toàn là không thể.”
“Sao cô biết được?”
“Ngày hôm nay chỉ mới là lần đầu tiên.”
“Lại nó sao? Sao một ngày lại có lần đầu hay lần thứ hai được?”
“Hy vọng anh sẽ không bao giờ tìm ra.”
Murdoch nhún vai. Rita quay lại liếc những chàng trai đen đủi trên sân.
Lính chiến giáp không cần dùng nhiều cơ bắp. Tính nhẫn nại là hàng đầu, không phải là năng lực bùng cháy thể lực. Để rèn luyện tính nhẫn nại, bền bỉ, đội của Rita luyện tập một thế đứng của kung-fu gọi là đứng tấn. Đứng tấn yêu cầu bạn chân bước rộng bằng vai, cứ như bạn đang cưỡi ngựa vậy và giữ nguyên tư thế đó trong một khoảng thời gian xác định. Ngoài việc tăng cường độ bền cơ chân, đó là một biện pháp cực kỳ hiệu quả để tăng cường thăng bằng.
Rita không rõ lợi ích, nếu có, mà chống đẩy tổng hợp có thể mang lại là gì. Nó trông giống trừng phạt hơn, đơn giản và trần trụi. Những người lính Nhật Bản, xếp cạnh nhau như cá mòi trong đồ hộp, đứng yên bất động trong tư thế đó. Với họ, đây hẳn được xếp vào loại trải nghiệm tồi tệ nhất trong đời. Kể cả vậy, Rita hâm mộ họ khi có những ký ức đơn giản đó. Rita đã từ rất lâu rồi không còn có những kinh nghiệm sống hết mình cùng mọi người đó nữa.
Cơn gió vu vơ tung bay mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy. Chỗ tóc mái đó vẫn quá dài dù cô đã cắt nó không biết bao nhiêu lần, khiến trán cô đau nhói.
Thế giới này vẫn vậy tại điểm khởi đầu vòng lặp. Những gì xảy ra ở đây chỉ có Rita mới nhớ. Mồ hôi của những người lính Nhật Bản, tiếng hò hét và chế giễu của Lực lượng Đặc chủng Hoa Kỳ –– tất cả sẽ bị cuốn đi không để lại chút dấu vết.
Mặc dù tốt nhất là không nên nghĩ về nó, nhưng nhìn những người lính này luyện tập vào ngày trước khi bắt đầu tấn công, mồ hôi ướt đẫm áo sơ mi, dính cứng vào da họ trong bầu không khí ẩm thấp, cô vẫn cảm thấy có lỗi với họ. Theo cách nào đó, đây là lỗi của cô khi mang Murdoch theo cùng cô.
Rita quyết định tìm cách để rút ngắn buổi tập thể hình này và đặt dấu chấm hết cho cái bài tập trông như vô nghĩa này. Vậy nếu nó truyền dẫn cả tinh thần chiến đấu của samurai thì sao? Họ vẫn sẽ ướt đẫm mồ hôi vào lần đầu tập kích Mimic. Cô muốn dừng nó lại, dù đó chỉ là một hành động ủy mị mà chẳng ai ngoài cô trân trọng nó.
Bao quát sân huấn luyện, Rita tình cờ nhìn thấy một đôi mắt bướng bỉnh đầy thách thức nhìn chằm chằm vào cô. Cô đã quen được nhìn với vẻ kinh sợ, ngưỡng mộ, thậm chí là sợ hãi, nhưng cô chưa từng thấy ánh mắt này trước đây: ánh mắt chứa đầy lòng thù hận không thể kiềm chế được từ một người hoàn toàn xa lạ. Nếu người ta có thể bắn laser từ mắt, Rita hẳn đã bị nướng chín còn hơn cả con gà tây trong lễ phục sinh chỉ trong ba giây.
Cô chỉ duy nhất từng gặp một lần người đàn ông có đôi mắt đầy mãnh liệt như vậy. Đôi mắt xanh thẫm của Arthur Hendricks không hề biết tới sợ hãi. Rita đã giết anh ta, và giờ đôi mắt đó nằm sâu trong đất lạnh.
Căn cứ vào cơ bắp, người lính đang nhìn cô hẳn chỉ là một tay lính mới vừa bước ra khỏi trại huấn luyện không lâu. Chả có gì giống Hendricks cả. Anh ta là người Mỹ, là một thượng úy, và là chỉ huy của đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ.
Màu đôi mắt của người lính này thì khác. Cả mái tóc của gã nữa. Khuôn mặt và cơ thể lại càng khác biệt. Vậy mà vẫn có gì đó từ người lính Châu Á này khiến Rita Vrataski ưa thích.
Mặt trời rực rỡ vẽ nên những cái bóng dài trên mặt đất. Bầu trời trong xanh đến mức bạn có thể bị xạ thủ bắn tỉa headshot từ khoảng cách vài kilomet. Trên sân, lá cờ của Đại đội #17 phấp phới bay trong cơn gió phương nam ẩm ướt vi vu từ Thái Bình Dương.
Không khí từ biển khơi như những con rắn trườn qua hai sống mũi, cọ cọ nơi đầu lưỡi rồi chui xuống cổ họng. Rita nhíu mày. Đó không phải là mùi hôi thối của Mimic. Giống cái mùi tanh tanh từ nước mắm hơn.
Nếu mặc kệ yếu tố thời chiến và nguy cơ bị thần chết đe dọa thì vùng Viễn Đông này cũng không đến nỗi tệ. Bờ biển tuy khó phòng ngự nhưng lại chứa đựng khung cảnh mặt trời lên rực rỡ. Cả không khí và nước đều rất trong lành. Nếu Rita, người chỉ có một phần mười sự tinh tế và trình độ văn hóa so với một người bình thường nghĩ rằng nơi đây thật tuyệt vời, vậy khách du lịch hẳn sẽ coi đây là thiên đường ấy chứ. Nếu có điểm trừ nào thì đó chắc là do cái không khí ẩm ướt khó chịu này.
Thời tiết vào đêm đó mà không kích thì tuyệt hảo. Một khi mặt trời mọc lên, những chiếc máy bay thả bom chất đầy những trái bom định vị GPS sẽ bay thành đàn trên trời hòng nổ banh hòn đảo thành địa hình mặt trăng trước buổi tập kích trên mặt đất vào sáng hôm sau. Những rặng san hô xinh đẹp, cùng với hệ động thực vật gọi nơi đó là nhà sẽ chịu chung số phận cùng kẻ thù, nếu mọi thứ diễn ra đúng theo kế hoạch.
“Một ngày đẹp trời nhỉ, cô có thấy thế không, Thượng sĩ Vrataski?” Một cái máy quay phim cũ kĩ gác bên cạnh chiếc cổ dày của gã, cỡ một thân cây tùng bách nếu đem đi so với những cây sồi bình thường của lính Chiến giáp. Rita mặc kệ hắn ta.
“Ánh sáng thật tuyệt. Những ngày như hôm nay có thể biến một chiếc máy bay chỉ toàn sắt thép trông như một tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci ấy chứ.”
Rita khịt mũi. “Anh đang làm nghiệp vụ chụp ảnh nghệ thuật à?”
“Cách nói như vậy có vẻ không hay lắm đối với phóng viên ảnh duy nhất trong chuyến viễn chinh tới Nhật Bản. Tôi vô cùng vinh dự với vai trò truyển tải sự thật của cuộc chiến này tới công chúng. Tất nhiên, 90% sự thật chỉ toàn là ánh sáng.”
“Khéo nói thật. Họ chọn anh hẳn vì tài PR của anh đấy. Anh đoán anh có mấy cái lưỡi?”
“Thượng đế chỉ trao một cái cho mỗi công dân Mỹ. Mặc dù vậy tôi nghe đồn rằng người Nga và người quốc đảo Crete có hai cái.”
“Chà tôi nghe kể rằng có một vị thần Nhật Bản chuyên cắt lưỡi những kẻ dối trá. Đừng có làm gì khiến cái của anh gặp rắc rối đấy.”
“Đừng nói xúi quẩy thế chứ.”
Tại góc sân huấn luyện, Rita và gã chụp ảnh đang đứng đó, hứng trọn cơn gió thổi vào từ đại dương. Ở giữa cái sân lớn, 146 gã đàn ông từ Đại đội #17 của binh đoàn bộ binh vũ trang Nhật Bản #301 đang cứng đờ thành hàng dọc trên mặt đất. Đó là một bài luyện tập được gọi là chống đẩy tổng hợp. Rita chưa từng thấy nó trước đây.
Những người còn lại trong đội của Rita đứng cách đó không xa, những cánh tay dày và lông lá khoanh trước ngực. Họ đang làm những chuyện sở trường của người lính, chính là chế giễu những kẻ kém may mắn hơn họ. Chắc đây là cách lũ đó tập cúi chào đấy! Này, samurai! Thử cầm kiếm lên sau một tiếng tập cái đó coi! Đồng đội của Rita không ai tới gần cô trong vòng ba mươi tiếng trước một đợt tấn công. Đó là một luật bất thành văn. Người duy nhất dám tới gần cô ấy là cô Kỹ sư người Mỹ cận thị nặng và tay thợ chụp ảnh, Ralph Murdoch.
“Họ không cử động gì sao?” Rita đầy nghi vấn.
“Không, họ chỉ giữ nguyên tư thế đó.”
“Tôi không biết cái đó có phải là bài huấn luyện samurai không nữa. Nếu anh hỏi tôi, nó trông giống yoga hơn.”
“Thật là kỳ khi truyền thống Nhật Bản và Ấn Độ thần bí lại có điểm tương đồng!”
“Chín mươi tám!”
“Chín mươi tám!”
“Chín mươi chín!”
“Chín mươi chín!”
Nhìn chằm chằm xuống đất như những người nông dân nhìn hạt gạo nảy mầm, những người lính đồng thanh đếm cùng với trung sĩ huấn luyện. Tiếng hét của 146 người đàn ông vang vọng trong hộp sọ của Rita. Cơn đau nửa đầu quen thuộc truyền những tín hiệu đau đớn đi khắp đầu cô. Cơn đau lần này khá nghiêm trọng.
“Lại đau đầu à?”
“Không liên quan tới anh.”
“Tôi không thể hiểu tại sao một tiểu đội với đầy bác sĩ chuyên gia mà lại không thể chữa được một bệnh đau đầu đơn giản.”
“Tôi cũng vậy. Sao anh không thử tìm hiểu xem?” cô ấy đốp chát lại.
“Họ giấu mấy gã đó kĩ quá. Tôi thậm chí còn không thể phỏng vấn được họ.”
Murdoch nâng camera lên. Không biết hắn ta định làm gì với những bức ảnh những gã bồ tượng khoanh tay trước ngực, đứng yên quan sát nữa. Có lẽ là bán cho tờ báo lá cải nào đó hết tin để đăng.
“Tôi không chắc vậy là đúng mực đâu.” Rita không biết ai trên sân huấn luyện cả, nhưng cô không cần phải biết họ để thấy quý họ nhiều hơn Murdoch.
“Những bức ảnh không có ngon hay dở. Nếu cô nhấp chuột vào một đường link và một bức ảnh pop-up có hình một cái xác hiện ra, cô có thể đệ đơn kiện. Nếu bức ảnh tương tự xuất hiện trên trang chủ của tờ New York Times, nó có thể giành giải báo chí Pulitzer.”
“Chuyện này thì khác.”
“Vậy sao?”
“Anh là người đột nhập vào trung tâm xử lý dữ liệu. Nếu không phải vì sai lầm của anh, những người này sẽ không bị trừng phạt, và anh sẽ không ở đây và chụp ảnh họ. Tôi sẽ xếp nó vào mục ‘dở ẹc’.”
“Đừng vội vàng thế chứ. Tôi bị vu cáo mà.” Tiếng cửa chớp của camera đóng mở liên tục, chen ngang cuộc nói chuyện của hai người.
“Hệ thống an ninh ở đây khá lỏng lẻo nếu so với trung tâm chỉ huy. Tôi không rõ anh định đào bới tìm kiếm cái gì tại nơi khỉ ho cò gáy này, nhưng đừng khiến người khác gặp họa vì nó.”
“Vậy ra cô nhắm vào tôi à.”
“Tôi chỉ ghét khi thấy những cảnh ‘censor’ khi anh xúc cái xẻng xuống thôi.”
“Chính phủ có thể nói cho chúng ta bất kỳ sự thật nào họ muốn. Nhưng có những cái là sự thật, và có những cái lại là sự thật,” Murdoch nói. “Tất cả tùy thuộc vào việc người ta quyết định cái nào là thật. Dù cho đó là thứ chính phủ không muốn công bố.”
“Quá độc đoán.”
“Thử kể tên một nhà báo giỏi nào mà không độc đoán đi. Cô phải như vậy thì mới có thể tìm thấy được câu chuyện. Cô có biết Kẻ Mơ Mộng nào không?”
“Tôi không theo tôn giáo.”
“Cô có biết lũ Mimic hành động gần như đúng vào thời điểm các cô khởi động chiến dịch đồ sộ đó tại Florida không?”
The Dreamers là một nhóm những người theo chủ nghĩa hòa bình –– tất nhiên là dân thường. Sự xuất hiện của Mimic đã tạo ra những tác động to lớn tới hệ sinh thái biển. Những tổ chức kêu gọi bảo vệ lũ cá heo, cá voi cùng những loài thú có vú ở biển khác đã chết hết sạch. The Dreamers tiếp tục phát triển từ nơi họ đã bỏ lại.
Dreamers tin rằng Mimic có trí khôn, và họ khăng khăng cho rằng chính vì thất bại của loài người trong việc giao tiếp với chúng mới dẫn tới cuộc chiến này. Họ lý giải rằng nếu Mimic có thể nhanh chóng tiến hóa thành những vũ khí sống hùng mạnh đến vậy thì chúng cũng có thể phát triển phương tiện giao tiếp. The Dreamers đã bắt đầu chiêu mộ thành viên, những người đã phát chán vì chiến tranh, những người tin rằng loài người sẽ không bao giờ giành được thắng lợi trước chúng, và trong hai năm qua quy mô hoạt động của nó đã bành trướng đáng kể.
“Tôi đã phỏng vấn một vài người trước khi tới Nhật Bản,” Murdoch tiếp tục.
“Nghe có vẻ mệt mỏi nhỉ.”
“Họ đều có chung một giấc mơ vào mỗi ngày. Trong giấc mơ đó, loài người thất bại trước Mimic. Họ nghĩ đó là một thông điệp mà chúng cố gửi tới chúng ta. Còn thông điệp gì thì không cần tôi phải nói ra chứ.” Murdoch liếm liếm môi. Cái lưỡi quá bé so với thân hình quá khổ, gây ấn tượng rất khác biệt về một loài động vật thân mềm. “Tôi đã có một cuộc đào bới nhỏ, và hóa ra đã có những sự quan tâm đặc biệt tới những giấc mơ đó vào những ngày trước khi Đặc chủng Hoa Kỳ tiến hành tổng tiến công. Và trong những năm qua, số người có giấc mơ đó tiếp tục gia tăng. Chuyện này vẫn chưa được công bố, nhưng có vài người trong đó thậm chí còn ở trong quân đội.”
“Anh tin vào những gì lũ dở hơi đó nói sao? Cứ nghe họ một hồi và họ sẽ khiến anh nghĩ lũ khỉ biển đều là Einstein mất.”
“Những chuyên gia hàn lâm đã thảo luận về khả năng Mimic là loài có trí khôn rồi. Và nếu là thật, chuyện chúng cố gắng giao tiếp cũng không quá khó tin đâu.”
“Anh không nên giả định mọi thứ anh không biết đều là một tin nhắn,” Rita nói. Cô ấy khịt mũi. “Cứ như vậy, và tiếp theo anh sẽ nói tôi rằng anh đã tìm ra dấu hiệu của trí khôn trong chính phủ của chúng ta, và chúng ta đều biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”
“Rất hài hước đấy. Nhưng có một kiến thức khoa học mà cô không thể phớt lờ được. Mỗi bước đi trên nấc thang tiến hóa –– từ sinh vật đơn bào, tới những loài máu lạnh, và cuối cùng là động vật máu nóng –– đều có sự tăng trưởng gấp mười lần trong việc tiêu thụ năng lượng.” Ralph lại liếm môi. “Nếu cô nhìn vào lượng năng lượng một người trong xã hội hiện đại tiêu thụ, nó lớn gấp mười lượng một loài động vật máu nóng với cùng kích cỡ tiêu thụ. Vậy mà Mimic, những con được coi là động vật máu lạnh lại tiêu thụ cùng một mức năng lượng như con người.”
“Vậy có nghĩa là chúng ở vị trí cao hơn trên cái cầu thang kia? Lý thuyết hay đấy. Anh nên đem nó đi xuất bản.”
“Có vẻ như tôi phải nhắc lại cho cô về những giấc mơ.”
“Tất nhiên tôi có mơ. Giấc mơ bình thường.”
Với Rita, đi tìm hiểu ý nghĩa trong những giấc mơ thật sự là một sự lãng phí thời gian. Một cơn ác mộng là một cơn ác mộng. Và những vòng lặp thời gian mà cô ấy sẩy chân bước vào trong dòng chảy chiến tranh, chà, chúng chắc chắn là thứ hoàn toàn khác. “Ngày mai chúng ta có một đợt tiến công. Anh đã phỏng vấn được ai nhận được tin nhắn chưa?”
“Tất nhiên là rồi. Tôi đã gọi về Los Angeles vào sáng hôm nay để kiểm chứng. Cả ba người đó đều đã có giấc mơ đó.”
“Giờ tôi biết đó hoàn toàn là bố láo. Chuyện đó hoàn toàn là không thể.”
“Sao cô biết được?”
“Ngày hôm nay chỉ mới là lần đầu tiên.”
“Lại nó sao? Sao một ngày lại có lần đầu hay lần thứ hai được?”
“Hy vọng anh sẽ không bao giờ tìm ra.”
Murdoch nhún vai. Rita quay lại liếc những chàng trai đen đủi trên sân.
Lính chiến giáp không cần dùng nhiều cơ bắp. Tính nhẫn nại là hàng đầu, không phải là năng lực bùng cháy thể lực. Để rèn luyện tính nhẫn nại, bền bỉ, đội của Rita luyện tập một thế đứng của kung-fu gọi là đứng tấn. Đứng tấn yêu cầu bạn chân bước rộng bằng vai, cứ như bạn đang cưỡi ngựa vậy và giữ nguyên tư thế đó trong một khoảng thời gian xác định. Ngoài việc tăng cường độ bền cơ chân, đó là một biện pháp cực kỳ hiệu quả để tăng cường thăng bằng.
Rita không rõ lợi ích, nếu có, mà chống đẩy tổng hợp có thể mang lại là gì. Nó trông giống trừng phạt hơn, đơn giản và trần trụi. Những người lính Nhật Bản, xếp cạnh nhau như cá mòi trong đồ hộp, đứng yên bất động trong tư thế đó. Với họ, đây hẳn được xếp vào loại trải nghiệm tồi tệ nhất trong đời. Kể cả vậy, Rita hâm mộ họ khi có những ký ức đơn giản đó. Rita đã từ rất lâu rồi không còn có những kinh nghiệm sống hết mình cùng mọi người đó nữa.
Cơn gió vu vơ tung bay mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy. Chỗ tóc mái đó vẫn quá dài dù cô đã cắt nó không biết bao nhiêu lần, khiến trán cô đau nhói.
Thế giới này vẫn vậy tại điểm khởi đầu vòng lặp. Những gì xảy ra ở đây chỉ có Rita mới nhớ. Mồ hôi của những người lính Nhật Bản, tiếng hò hét và chế giễu của Lực lượng Đặc chủng Hoa Kỳ –– tất cả sẽ bị cuốn đi không để lại chút dấu vết.
Mặc dù tốt nhất là không nên nghĩ về nó, nhưng nhìn những người lính này luyện tập vào ngày trước khi bắt đầu tấn công, mồ hôi ướt đẫm áo sơ mi, dính cứng vào da họ trong bầu không khí ẩm thấp, cô vẫn cảm thấy có lỗi với họ. Theo cách nào đó, đây là lỗi của cô khi mang Murdoch theo cùng cô.
Rita quyết định tìm cách để rút ngắn buổi tập thể hình này và đặt dấu chấm hết cho cái bài tập trông như vô nghĩa này. Vậy nếu nó truyền dẫn cả tinh thần chiến đấu của samurai thì sao? Họ vẫn sẽ ướt đẫm mồ hôi vào lần đầu tập kích Mimic. Cô muốn dừng nó lại, dù đó chỉ là một hành động ủy mị mà chẳng ai ngoài cô trân trọng nó.
Bao quát sân huấn luyện, Rita tình cờ nhìn thấy một đôi mắt bướng bỉnh đầy thách thức nhìn chằm chằm vào cô. Cô đã quen được nhìn với vẻ kinh sợ, ngưỡng mộ, thậm chí là sợ hãi, nhưng cô chưa từng thấy ánh mắt này trước đây: ánh mắt chứa đầy lòng thù hận không thể kiềm chế được từ một người hoàn toàn xa lạ. Nếu người ta có thể bắn laser từ mắt, Rita hẳn đã bị nướng chín còn hơn cả con gà tây trong lễ phục sinh chỉ trong ba giây.
Cô chỉ duy nhất từng gặp một lần người đàn ông có đôi mắt đầy mãnh liệt như vậy. Đôi mắt xanh thẫm của Arthur Hendricks không hề biết tới sợ hãi. Rita đã giết anh ta, và giờ đôi mắt đó nằm sâu trong đất lạnh.
Căn cứ vào cơ bắp, người lính đang nhìn cô hẳn chỉ là một tay lính mới vừa bước ra khỏi trại huấn luyện không lâu. Chả có gì giống Hendricks cả. Anh ta là người Mỹ, là một thượng úy, và là chỉ huy của đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ.
Màu đôi mắt của người lính này thì khác. Cả mái tóc của gã nữa. Khuôn mặt và cơ thể lại càng khác biệt. Vậy mà vẫn có gì đó từ người lính Châu Á này khiến Rita Vrataski ưa thích.
Danh sách chương