Nhóm Lập Đông cũng hiểu đã gây chuyện rồi nên không dám cản, chỉ im lặng lùi sang một bên nhường đường cho Tạ Bạch.

Tạ Bạch sải bước tới cửa phòng, trước hết lấy ba viên yêu đan, xong vén vạt áo ngồi xuống bên cạnh tấm gạch lót sàn. Hắn vừa duỗi tay ra thì nghe Ân Vô Thư nói như đang đau khổ tê tái lắm:

– Êu… giẫm phải máu rồi.

Tạ Bạch giả điếc, lôi ra một thứ suýt bị bỏ sót từ kẽ nứt viên gạch.

Đó là một hạt châu tròn đỏ sẫm, nhỏ hơn cả hạt gạo, khi vê trên tay cảm thấy hơi giòn và cồm cộm. Tạ Bạch sợ mạnh tay sẽ bóp nát nó nên chỉ chạm nhẹ trên đầu ngón tay.

Hắn đứng dậy đi lại, đặt hạt châu đỏ trong lòng bàn tay đưa cho Ân Vô Thư xem:

– Đây là thứ gì? Thứ này thoạt trông rất bình thường, nếu bảo là hạt trang trí từ quần áo ai đó cũng có người tin. Song, giờ nó xuất hiện ở nơi này thì chắc chắn không đơn giản vậy. Dù sao, bộ phận thi thể ban nãy đã bị bày thành trận, mà trong trận thừa hay thiếu một thứ đều gây tác động lớn, nên người bày trận chắc chắn không mắc sơ sót. Nói thế đồng nghĩa hạt châu đỏ sậm trông tầm thường này ắt hẳn phải đóng vai trò gì đấy.

Hắn nhớ lại một loạt thứ có tác dụng hỗ trợ bày thi trận nhưng không nghĩ ra thứ nào trông như vầy cả.

Những lúc thế này, Tạ Bạch chỉ còn cách hỏi Ân Vô Thư, dù sao y cũng sống lâu nhất trong những người ở đây nên những thứ y từng thấy qua cũng nhiều nhất.

Ân Vô Thư nhíu mắt né ra sau, bày cái dáng “Này này đưa cái gì ra trước mặt ta thế” như thể y rất kỳ thị những thứ đồ được nhặt từ dưới đất lên. Y khoát tay hai cái rồi cau mày bịt mũi:

– Toàn mùi máu.

Nói xong, như chợt nhớ đến việc Tạ Bạch không có khứu giác, y ho khan một tiếng rồi bỏ tay xuống, nhẫn chịu mùi máu mà nói:

– Trông không quen lắm, cậu có chìa trước mặt ta vậy thì ta cũng không nhớ ra được đâu. Để ta về nghĩ lại rồi sẽ nhắn lại cho cậu, song dặn trước là ta cũng già rồi nên cậu đừng kỳ vọng gì nhiều.

Tạ Bạch thu năm ngón tay về, nắm hạt châu lại rồi thả tay xuống:

– Đừng ra vẻ khách sáo nữa.

Ân Vô Thư cau mày:

– Khách sáo gì chứ? Không chừng lần sau gặp mặt sẽ có manh mối đấy.

Tạ Bạch vốn đã tính rời khỏi nhưng nghe vậy thì không nhịn được mà ngước mặt lên, thản nhiên nói:

– Lần sau? Lần sau là một trăm năm sau à?

Ân Vô Thư bị hắn chặn họng, còn chưa nghĩ ra nên đáp lại thế nào thì Tạ Bạch đã nhân lúc y đang á khẩu mà bước thẳng ra khỏi phòng vệ sinh, đi xuống cầu thang. Nếu không phải tầng này quá đông người nên sợ bị phát hiện thì hắn đã sớm ném thẳng cổng Linh Âm để quay về rồi.

Từ lúc từ dưới bãi xe quay trở lên lầu, hắn đã đặt chướng nhãn pháp lên cơ thể mình nên người thường căn bản là không nhìn thấy hắn, cũng vì thế mà hắn vô cùng tự nhiên. Hắn đi xuyên thẳng qua cửa kính dưới đại sảnh tầng một, bước xuống bậc thang. Khi vừa sắp ra khỏi cổng chính thì bị ai đó vỗ nhẹ lên đỉnh đầu.

Tạ Bạch rất cao, dáng ốm gầy dong dỏng. Những người quen với hắn, cho dù là nhóm Lập Đông hay đồng nghiệp ở trung tâm pháp y, đều gần như thấp hơn hắn cả, chắc chắn sẽ không có ai đến vỗ đầu hắn, có cho mười lá gan cũng không dám.

Từ trên trời xuống dưới bể, người dám làm hành động này để gọi hắn lại chỉ có duy nhất một Ân Vô Thư.

– Tiểu Bạch chờ đã, ta nhớ rồi.

Tạ Bạch nhường một bước, quay đầu nhìn người sau lưng:

– Chuyện gì?

Ân Vô Thư dùng tay trái nâng cằm hắn:

– Hạt châu đó ta từng gặp rồi, tầm nửa tháng trước.

Tạ Bạch hỏi:

– Ở đâu?

Ân Vô Thư nghiêng đầu:

– Ta dẫn cậu đi.

Tạ Bạch hơi do dự, mới vừa nãy còn nói nhìn không quen mắt, mà mới nửa phút sau đã nhớ ra rồi. Hắn sống cùng nhà với Ân Vô Thư hơn trăm năm, đã tự trải nghiệm không biết bao nhiêu lần thói nói dối không chớp mắt của y, giờ đây nhất thời không phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Nhưng dù sao việc này cũng liên quan tới công việc của hắn, nên do dự chút rồi hắn vẫn gật đầu:

– Đi thôi.

Hai người lái xe về phía đông bắc thành phố Lâm, dừng lại tại một cửa tiệm nhỏ ở ngoại ô. Trước cửa tiệm là một biển đèn vuông vô cũng cũ kỹ không biết đã dùng bao lâu, chập sáng chập tối, phía trên có một cái tên trông vô cùng chán chường — Thuốc lá & Rượu Hòe Môn. Nhưng kinh dị ở chỗ, bóng đèn phía sau chữ “Hòe” (槐) đã hỏng nên chỉ sáng một nửa. Nếu chỉ lái ngang qua, mười người thoạt nhìn chắc phải tám người đọc thành “Thuốc lá & Rượu Quỷ Môn” (鬼).

Con đường này có thể nói là con đường vắng vẻ nhất thành phố Lâm, số lượng nhà ở dọc những căn treo biển bán nhà chỉ loe hoe được vài mống, trước cửa mấy cửa hàng nơi đây đa phần cũng để biển “Cho thuê”. Chỉ riêng mỗi cửa hàng thuốc lá và rượu này đứng trơ trọi ở cuối con đường, không khác nào một lằn ranh phân cách giữa nội thành và ngoại thành.

– Ở đây?

Tạ Bạch vừa vào liền muốn ngoảnh mặt đi thẳng.

Ông chủ cửa hàng rượu và thuốc lá Hòe Môn chợt ngẩng đầu từ sau quầy, kính mắt cũng theo đó mà trượt xuống sống mũi. Lão hơi sửng sốt rồi liên tục đánh rơi máy tính trong tay, đoạn đứng dậy hành lễ với Tạ Bạch và Ân Vô Thư từ xa. Kế đó, lão cầm lư hương từ dưới quầy lên rồi cắm ba cây nhang vào, hướng về phía hai người đốt lên cúng một cách cung kính.

Tạ Bạch: …

Ân Vô Thư cười khẩy, gật đầu với ông chủ đang run lẩy bẩy, xong ngoảnh đầu lại thì quay ngoắt thái độ, kéo Tạ Bạch đi với vẻ mặt ngao ngán.

Trước giờ y đều khó chịu cách hành lễ kiểu này, trích nguyên văn lời y nói với Tạ Bạch khi xưa chính là: “Ta có phải hạng tuổi già sức yếu đâu, cứ bị họ thắp hương cúng vái thế này thì có tổ mà đắc đạo thành tiên luôn.”

Bị ảnh hưởng bởi cách suy nghĩ này, nên sau này hễ Tạ Bạch gặp phải vái lạy như thế cũng thấy bực mình, cảm giác như lưng bị đóng cứng thành ván quan tài theo phản xạ có điều kiện vậy.

– Đi nào, dọc xuống theo con đường này.

Ân Vô Thư chỉ qua một bậc thang bên cạnh cửa hàng rượu và thuốc lá và ra hiệu Tạ Bạch đi trước.

Bước xuống ba bậc thang rồi đi tiếp về phía trước là con sông uốn quanh một nửa thành phố. Con sông không quá rộng, tầm chục mét thôi nhưng rất dài và khúc khuỷu, uốn lượn như không có điểm dừng. Trước kia, có một khu nhà cổ ven sông ở nơi đây, hai năm trước đã bị dỡ bỏ song phế tích còn chưa được dọn dẹp toàn bộ, lướt nhìn qua chỉ thấy tường gạch tan hoang.

Tạ Bạch thoáng ngạc nhiên, sau đó tiếp tục bước dọc bậc thang xuống dưới rồi vòng qua khu đổ nát và đi thẳng tới bờ sông.

Đêm mùa đông ở thành phố Lâm âm u ẩm ướt, không khí rét buốt cùng cực, một tầng sương mỏng giăng trên mặt sông, phía xa xa có thứ gì đó trông mơ hồ giữa làn sương.

Ân Vô Thư đuổi theo bước tới, đẩy nhẹ lưng Tạ Bạch ra hiệu hắn tiếp tục đi:

– Đi tiếp, chút nữa là tới rồi.

Con đường ven sông hẹp đến độ chỉ vừa đủ cho một người đi. Tạ Bạch không bước tiếp theo lời Ân Vô Thư mà nghiêng người né sang một bên, ngoắc tay về phía trước và thản nhiên nói:

– Ngài dẫn đường đi, tôi theo sau.

Ân Vô Thư gật đầu:

– Cũng được.

Nói đoạn cũng nghiêng người. Khi y nghiêng qua, Tạ Bạch hơi cúi đầu xuống, nửa thân trên ngả ra sau né ra một chút để tránh đụng phải Ân Vô Thư.

Trong nháy mắt, hai người đã đổi vị trí, Ân Vô Thư đi phía trước, Tạ Bạch theo sau, giữ khoảng cách một bước chân không xa không cần. Do ban nãy mưa nên trời hôm nay không trăng cũng không sao, chỉ có tia sáng từ phố thị nhạt nhoà rọi đến từ đằng sau thắp nên ánh sáng mờ ảo cho nơi đây.

Vóc người Ân Vô Thư rất cao, Tạ Bạch cũng phải hơi ngẩng đầu một chút, song bóng y rất nhạt, rơi xuống dưới bước chân Tạ Bạch thì gần như không nhìn thấy rõ.

Hai người càng bước về phía trước, sương mù trên mặt sông càng dày đặc, đi một lúc ngay cả bóng lưng Ân Vô Thư cũng không nhìn rõ nữa.

Hai người im lặng đi một quãng dài như vậy rồi Ân Vô Thư mới bất chợt mở miệng:

– Đã xong việc rồi sao còn phải bịt mắt thế?

Giọng y thấp và nhàn nhạt như thể sẽ chóng tan biến vào màn sương ngay khi thành lời.

Tạ Bạch có hơi bỡ ngỡ, không trả lời ngay mà đi tiếp mấy bước rồi mới nhẹ giọng:

– Tháo hay không cũng thế thôi.

Ân Vô Thư cười nói:

– Hình như đã lâu rồi chưa được nhìn mắt cậu.

Tạ Bạch:

– … Ngài đi đằng trước mà, có tháo ra cũng có thấy đâu.

Ân Vô Thư nghe vậy ngoái đầu, híp mắt chăm chú nhìn băng vải đen trên mắt Tạ Bạch một hồi, sau đó dừng lại, đạp chân trên đất:

– Nếu không nhầm thì là ở đây.

Đây là đoạn giữa sông, sương mù dày đặc hơn bất kỳ vị trí nào khác. Trước mắt họ có hai cây cầu song song vắt ngang sông, một cong một thẳng. Cây cầu thẳng trông rất cũ kỹ như đã được không ít người sử dụng nên mài nhẵn cả mặt đá. Còn cây cầu vòm tạo một cảm giác hoang vắng bí ẩn, từng kẽ hở gốc đá đều ánh xanh bởi xỉ rêu sinh sôi.

Hai cây cầu này thân thuộc với Tạ Bạch hơn ai hết, cây cầu thẳng là cầu cho khách đi lại, có nấn ná bao lâu cũng chỉ có thể di chuyển qua lại hai bên bờ sông. Còn cây cầu vòm kia nửa hiện ngoài, nửa ẩn sâu trong màn sương, không nhìn rõ đích đến là nơi đâu. Nếu người ngoài bước lên cây cầu ấy, đi đến nửa đường chỉ thấy đã gãy, bước không cẩn thận sẽ bổ nhào xuống sông.

Chỉ có Tạ Bạch mới có thể đi qua mà không gặp phải chướng ngại nào, vì bên kia cây cầu hình vòm chính là nơi ở của âm khách đương thời.

Tạ Bạch nhấc tay trái lên, nhíu mày:

– Ngài thấy hạt châu này ở đây? Sao ngài lại tới đây?

Ân Vô Thư liếc nhìn đoạn giữa hai cây cầu rồi bước lên cây cầu thân thẳng:

– À, nửa tháng trước ta đến khu này có việc, tiện đường ghé ngang nên đi vòng vòng một chút. Cậu không sống ở đây phải không? Ta xem chừng cây cầu hình vòm kia đã bị bỏ hoang từ lâu.

Tạ Bạch đứng yên một hồi, nhìn y đi tới giữa cây cầu thẳng rồi mới “Ừm” một tiếng, nói:

– Ồn ào quá, tôi đổi sang chỗ yên tĩnh hơn.

Ân Vô Thư ngạc nhiên nhìn hắn:

– Ồn ào? Nếu ta không nhầm thì nơi ở của Âm khách đều phỏng lại theo sở thích của Âm khách, không lý nào đến thời của cậu lại đi ngược lại mong muốn của cậu, có khi nào lâu quá không trùng tu nên hỏng rồi không? Nếu vậy cậu báo cáo lên trên đi.

Tạ Bạch lắc đầu, vừa định mở miệng nói gì đó thì thấy có thứ gì đó lóe sáng trong khe đá phía sau lưng Ân Vô Thư.

– Hết chương 7 –
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện