Anna quay vào trong bếp và bắt đầu rửa bát đĩa. Cô cố gắng để bắt trí óc đừng nghĩ đến những khuôn mặt đi ngược chiều với mình trong cầu thang, những khuôn mặt mà cô sợ sẽ đọng lại trong kí ức của cô suốt cuộc đời. Cô phát hiện ra mặt trái của khả năng thiên bẩm đặc biệt của mình.
Cô tập trung nghĩ đến Victoria Wentworth và những phương cách để ngăn chặn Fenston hủy hoại cuộc sống của người khác. Liệu Victoria có tin rằng Anna đã không biết một sự thật là Fenston đã lên kế hoạch để chiếm đoạt bức Van Gogh và hút cạn máu của bà ta? Làm sao bà ta tin được điều đó khi mà Anna, với tư cách là chuyên gia trong nghề và là một thành viên của ban giám đốc, lại để mình bị đánh lừa một cách dễ dàng như vậy? Anna rời khỏi căn bếp và đi tìm một tấm bản đồ. Cô tìm thấy hai tấm trong giá sách treo phía trên bàn làm việc của Tina: một tấm Đường phố Manhattan và một tấm Địa đồ Bắc Mỹ xếp cạnh một cuốn sách viết về John Adams, vị tổng thống thứ hai của Mỹ. Cô dừng lại để ngắm nhìn tấm áp phích có ảnh của Rothko treo ở phía đối diện với giá sách - không phải thời đại của cô, nhưng cô biết Tina rất hâm mộ nghệ sỹ này, bởi vì trong văn phòng của Tina cũng có một tấm như thế. Chuyện ấy đã trở thành chuyện của quá khứ, Anna nghĩ và bắt đầu óc mình quay trở về với hiện tại. Cô quay trở lại căn bếp và trải tấm bản đồ New York lên mặt bàn.
Sau khi đã quyết định về việc cô sẽ ra khỏi Manhattan theo lối nào, Anna gấp tấm bản đồ đó lại và mở tấm Địa đồ Bắc Mỹ ra với hy vọng nó sẽ giúp cô chọn được điểm vượt biên thích hợp.
Anna nhìn chỉ mục về Mehico và Canada, và rồi bắt đầu ghi chú tỉ mỉ như thể cô đang chuẩn bị một báo cáo để trình lên ban giám đốc; bao giờ cô cũng đưa ra hai phương án để lựa chọn, và bao giờ cũng kết thúc các bản báo cáo bằng một lựa chọn và cô cho là tối ưu nhất. Khi gấp tấm bản đồ lại, cô đã biết chắc mình cần đi theo hướng nào để tới được Anh quốc một cách kịp thời nhất.
***
Ngồi trong tắc xi trên đường tới Thornton House, Tina nghĩ cách làm thế nào để vào trong căn hộ của Anna, lấy hành lý ra mà không bị người gác cổng nghi ngờ. Khi chiếc tắc xi dừng lại bên ngoài tòa nhà, Tina định thò tay vào túi áo khoác.
Chị không mặc áo khoác. Chị đỏ mặt. Chị đã rời khỏi nhà mình mà không đem theo tiền. Chị nhìn chằm chằm vào tấm thẻ nhựa của người tài xế tắc xi: Abdul Affridi-một chuỗi tràng hạt đung đưa sát gương chiếu hậu. Anh ta nhìn quanh, nhưng không cười. Hôm nay không có ai cười.
“Tôi quên mang tiền rồi”, Tina nói và chờ đợi những lời chửi thề.
“Không sao”, người tài xế lẩm bẩm rồi nhảy ra khỏi xe và mở cửa cho chị. Mọi thứ ở New York đều đã thay đổi.
Tina cảm ơn anh ta rồi vừa hồi hộp đi về phía cổng ra vào tòa nhà vừa nhẩm lại kịch bản. Nhưng kịch bản ấy thay đổi khi chị trông thấy Sam đang ngồi sau buồng gác và ôm mặt khóc.
“Có chuyện gì vậy”, Tina hỏi. “Bác có bạn làm trong Trung tâm Thương mại Thế giới à?”
Sam nhìn lên. Trên bàn, trước mặt ông già là bức ảnh của Anna đang chạy trong một cuộc thi maratông. “Cô ấy vẫn chưa về”, ông già nói. “Tất cả những người trong khu nhà này đều đã về cách đây hàng giờ rồi”.
Tina ôm lấy ông già. Lại một nạn nhân nữa. Chị rất muốn nói cho ông già biết là Anna còn sống. Nhưng không phải vào lúc này.
Sau 8 giờ, Anna mới xong việc và bắt đầu lướt qua các kênh tivi. Chỉ có một câu chuyện duy nhất. Cô thấy mình không thể xem những hình ảnh ấy mà không nghĩ đến những điều kinh hoàng mà cô đã trải qua. Cô vừa định tắt tivi thì nghe thông báo là Tổng thống Bush sắp có bài phát biểu trước toàn dân. “Xin kính chào tất cả các bạn. Hôm nay, nhân dân Mỹ...” Anna chăm chú nghe, và gật đầu khi vị Tổng thống nói tiếp: “Các nạn nhân là những hành khách trên máy bay, những người làm việc trong các văn phòng, những doanh nhân, những nhân viên thư ký...” Anna lại nghĩ tới Rebecca. “Không ai trong chúng ta có thể quên ngày hôm nay...” vị Tổng thống kết luận, và Anna thấy có thể đồng ý với ông ta. Cô tắt tivi khi trên đó lại hiện ra hình ảnh tòa Tháp Nam đang sụp đổ, giống như đỉnh điểm của một thảm hoạ.
Anna lại trải tấm bản đồ New York ra và kiểm tra lại một lần nữa, rồi một lần nữa, tuyến đường mà cô đã chọn để ra khỏi thành phố. Khi cô đang chăm chú ghi lại từng chi tiết những gì mà cô cần làm trước khi lên đường vào sáng hôm sau thì cánh cửa trước mở toang và Tina loạng choạng bước vào-chiếc máy tính xách tay đeo một bên vai, còn chiếc va li được kéo lê phía sau. Anna chạy ra hành lang đón bạn. Tina trông như sắp ngất đi.
“Xin lỗi vì đã để cậu phải sốt ruột”, Tina vừa nói vừa để mọi thứ xuống sàn đại sảnh rồi đi theo hành lang đã được Anna hút sạch bụi bẩn tới căn bếp. “Không có mấy xe buýt chạy trên đường”, chị nói thêm, “đặc biệt là khi ta không mang theo tiền”, rồi chị ngồi bịch xuống ghế. “Mình sợ là mình đã ăn bớt tiền của cậu, món 500 đôla ấy, nếu không thì chắc phải đến nửa đêm mình mới về tới đây”. Anna cười. “Bây giờ đến lượt mình pha cà phê cho cậu”, cô đề nghị.
“Mình chỉ bị chặn lại có mỗi một lần, một anh cảnh sát rất dễ thương kiểm tra hành lý của cậu, và hoàn toàn tin rằng mình là một hành khách từ sân bay trở về vì tất cả các chuyến bay đều đã bị hoãn. Mình thậm chí còn đưa vé cho anh ta xem”.
“Có rắc rối gì chỗ căn hộ của mình không?” Anna vừa hỏi vừa rót cà phê cho bạn.
“Chỉ có mỗi một chuyện là phải an ủi Sam. Ông ấy chắc là quý cậu lắm. Có vẻ như ông ấy đã khóc nhiều giờ liền. Mình thậm chí còn chẳng cần phải nhắc đến cái tên Sullivan, bởi vì tất cả những gì Sam muốn là kể cho mình nghe về cậu. Đến khi mình vào trong thang máy, thậm chí ông ấy cũng chẳng để ý xem mình đi đâu”.
Tina nhìn quanh bếp. Chưa bao giờ chị thấy nó sạch như lúc này. “Vậy là cậu đã lên xong kế hoạch rồi chứ?” chị vừa hỏi vừa nhìn xuống tấm bản đồ đang trải trên mặt bàn ăn.
“Ừ”, Anna nói. “Có lẽ tốt nhất là đi phà tới New Jersey rồi thuê một chiếc xe, bởi vì tin mới nhất cho biết tất cả các cây cầu và đường hầm đều đã bị đóng cửa. Cho dù tới biên giới Canada còn hơn bốn trăm dặm, mình nghĩ chẳng có lý do gì mà mình không tới sân bay Toronto vào tối mai, và như thế mình sẽ tới London vào sáng ngày kia”.
“Cậu có biết chuyến phà sớm nhất vào buổi sáng khởi hành lúc mấy gờ không?” Tina hỏi.
“Về lý thuyết, dịch vụ này phục vụ 24 trên 24 giờ”, Anna nói, “nhưng trên thực tế, sau năm giờ sáng thì phà mới chạy, và cứ 15 phút có một chuyến. Nhưng ai mà biết được ngày mai phà có chạy không, chưa nói gì đến chuyện có chạy đúng giờ không”
“Dù gì thì”, Tina nói, “cậu cũng nên đi nghỉ sớm, và cố gắng ngủ cho ngon giấc. Mình sẽ đặt đồng hồ báo thức vào lúc 4:30”.
“4 giờ đi”, Anna nói. “Nếu phà khởi hành vào lúc 5 giờ, mình muốn là người đứng xếp hàng đầu tiên. Mình nghĩ việc ra khỏi New York có lẽ là chặng đường khó khăn nhất trong cả chuyến đi sắp tới”.
“Vậy thì cậu phải ngủ trong phòng ngủ”, Tina vừa cười vừa nói, “còn 31936 mình sẽ ngủ trên ghế bành”.
“Cậu vất vả quá”, Anna vừa nói vừa rót đầy cốc cà phê cho bạn. “Hôm nay cậu làm được quá nhiều chuyện”.
“Như thế này thì ăn thua gì”, Tina nói.
“Nếu Fenston biết cậu đã làm gì, ông ta sẽ đuổi cậu ngay lập tức”.
“Đó là điều mình ít bận tậm nhất”, Tina trả lời nhưng tránh đưa ra lời giải thích.
***
Jack ngáp dài một cái ngoài chủ ý. Một ngày quá dài, và anh có cảm giác đêm sẽ còn dài hơn.
Không ai trong đội của anh tính đến chuyện về nhà, và dáng vẻ cũng như giọng nói của họ cho thấy họ đều đã kiệt sức. Điện thoại trên bàn làm việc của anh đổ chuông.
“Tôi nghĩ là phải báo cho sếp biết”, Joe nói, “rằng Tina Forster, thư ký của Fenston, đã có mặt tại Thorton House vài giờ trước. Bốn mươi phút sau, cô ta ra khỏi tòa nhà, mang theo một chiếc va li và một chiếc máy tính xách tay, rồi đem tất cả về nhà cô ta”. Jack ngồi thẳng đứng. “Vậy thì Petrescu chắc chắn vẫn còn sống”, anh nói.
“Và cô ta không muốn chúng ta nghĩ như vậy”, Joe nói thêm.
“Nhưng tại sao?”
“Có lẽ cô ta muốn chúng ta nghĩ rằng cô ta bị mất tích hoặc đã chết”, Joe nói.
“Không phải chúng ta”, Jack nói.
“Vậy thì ai?”
“Fenston, tôi cuộc đấy”.
“Tại sao?”
“Tôi cũng chưa biết”, Jack nói, “nhưng tôi chắc chắn sẽ tìm ra nguyên nhân”.
“Và anh định làm điều đó bằng cách nào, sếp?”
“Bằng cách cho một đội theo dõi nhà của Tina Forster cho đến khi Anna Petrescu rời khỏi đó”.
“Nhưng chúng ta đâu có biết chắc là cô ta đang ở trong đó”, Joe nói.
“Tôi biết chắc cô ta đang ở trong đó”, Jack nói và đặt ống nghe xuống.
12/9
Cô tập trung nghĩ đến Victoria Wentworth và những phương cách để ngăn chặn Fenston hủy hoại cuộc sống của người khác. Liệu Victoria có tin rằng Anna đã không biết một sự thật là Fenston đã lên kế hoạch để chiếm đoạt bức Van Gogh và hút cạn máu của bà ta? Làm sao bà ta tin được điều đó khi mà Anna, với tư cách là chuyên gia trong nghề và là một thành viên của ban giám đốc, lại để mình bị đánh lừa một cách dễ dàng như vậy? Anna rời khỏi căn bếp và đi tìm một tấm bản đồ. Cô tìm thấy hai tấm trong giá sách treo phía trên bàn làm việc của Tina: một tấm Đường phố Manhattan và một tấm Địa đồ Bắc Mỹ xếp cạnh một cuốn sách viết về John Adams, vị tổng thống thứ hai của Mỹ. Cô dừng lại để ngắm nhìn tấm áp phích có ảnh của Rothko treo ở phía đối diện với giá sách - không phải thời đại của cô, nhưng cô biết Tina rất hâm mộ nghệ sỹ này, bởi vì trong văn phòng của Tina cũng có một tấm như thế. Chuyện ấy đã trở thành chuyện của quá khứ, Anna nghĩ và bắt đầu óc mình quay trở về với hiện tại. Cô quay trở lại căn bếp và trải tấm bản đồ New York lên mặt bàn.
Sau khi đã quyết định về việc cô sẽ ra khỏi Manhattan theo lối nào, Anna gấp tấm bản đồ đó lại và mở tấm Địa đồ Bắc Mỹ ra với hy vọng nó sẽ giúp cô chọn được điểm vượt biên thích hợp.
Anna nhìn chỉ mục về Mehico và Canada, và rồi bắt đầu ghi chú tỉ mỉ như thể cô đang chuẩn bị một báo cáo để trình lên ban giám đốc; bao giờ cô cũng đưa ra hai phương án để lựa chọn, và bao giờ cũng kết thúc các bản báo cáo bằng một lựa chọn và cô cho là tối ưu nhất. Khi gấp tấm bản đồ lại, cô đã biết chắc mình cần đi theo hướng nào để tới được Anh quốc một cách kịp thời nhất.
***
Ngồi trong tắc xi trên đường tới Thornton House, Tina nghĩ cách làm thế nào để vào trong căn hộ của Anna, lấy hành lý ra mà không bị người gác cổng nghi ngờ. Khi chiếc tắc xi dừng lại bên ngoài tòa nhà, Tina định thò tay vào túi áo khoác.
Chị không mặc áo khoác. Chị đỏ mặt. Chị đã rời khỏi nhà mình mà không đem theo tiền. Chị nhìn chằm chằm vào tấm thẻ nhựa của người tài xế tắc xi: Abdul Affridi-một chuỗi tràng hạt đung đưa sát gương chiếu hậu. Anh ta nhìn quanh, nhưng không cười. Hôm nay không có ai cười.
“Tôi quên mang tiền rồi”, Tina nói và chờ đợi những lời chửi thề.
“Không sao”, người tài xế lẩm bẩm rồi nhảy ra khỏi xe và mở cửa cho chị. Mọi thứ ở New York đều đã thay đổi.
Tina cảm ơn anh ta rồi vừa hồi hộp đi về phía cổng ra vào tòa nhà vừa nhẩm lại kịch bản. Nhưng kịch bản ấy thay đổi khi chị trông thấy Sam đang ngồi sau buồng gác và ôm mặt khóc.
“Có chuyện gì vậy”, Tina hỏi. “Bác có bạn làm trong Trung tâm Thương mại Thế giới à?”
Sam nhìn lên. Trên bàn, trước mặt ông già là bức ảnh của Anna đang chạy trong một cuộc thi maratông. “Cô ấy vẫn chưa về”, ông già nói. “Tất cả những người trong khu nhà này đều đã về cách đây hàng giờ rồi”.
Tina ôm lấy ông già. Lại một nạn nhân nữa. Chị rất muốn nói cho ông già biết là Anna còn sống. Nhưng không phải vào lúc này.
Sau 8 giờ, Anna mới xong việc và bắt đầu lướt qua các kênh tivi. Chỉ có một câu chuyện duy nhất. Cô thấy mình không thể xem những hình ảnh ấy mà không nghĩ đến những điều kinh hoàng mà cô đã trải qua. Cô vừa định tắt tivi thì nghe thông báo là Tổng thống Bush sắp có bài phát biểu trước toàn dân. “Xin kính chào tất cả các bạn. Hôm nay, nhân dân Mỹ...” Anna chăm chú nghe, và gật đầu khi vị Tổng thống nói tiếp: “Các nạn nhân là những hành khách trên máy bay, những người làm việc trong các văn phòng, những doanh nhân, những nhân viên thư ký...” Anna lại nghĩ tới Rebecca. “Không ai trong chúng ta có thể quên ngày hôm nay...” vị Tổng thống kết luận, và Anna thấy có thể đồng ý với ông ta. Cô tắt tivi khi trên đó lại hiện ra hình ảnh tòa Tháp Nam đang sụp đổ, giống như đỉnh điểm của một thảm hoạ.
Anna lại trải tấm bản đồ New York ra và kiểm tra lại một lần nữa, rồi một lần nữa, tuyến đường mà cô đã chọn để ra khỏi thành phố. Khi cô đang chăm chú ghi lại từng chi tiết những gì mà cô cần làm trước khi lên đường vào sáng hôm sau thì cánh cửa trước mở toang và Tina loạng choạng bước vào-chiếc máy tính xách tay đeo một bên vai, còn chiếc va li được kéo lê phía sau. Anna chạy ra hành lang đón bạn. Tina trông như sắp ngất đi.
“Xin lỗi vì đã để cậu phải sốt ruột”, Tina vừa nói vừa để mọi thứ xuống sàn đại sảnh rồi đi theo hành lang đã được Anna hút sạch bụi bẩn tới căn bếp. “Không có mấy xe buýt chạy trên đường”, chị nói thêm, “đặc biệt là khi ta không mang theo tiền”, rồi chị ngồi bịch xuống ghế. “Mình sợ là mình đã ăn bớt tiền của cậu, món 500 đôla ấy, nếu không thì chắc phải đến nửa đêm mình mới về tới đây”. Anna cười. “Bây giờ đến lượt mình pha cà phê cho cậu”, cô đề nghị.
“Mình chỉ bị chặn lại có mỗi một lần, một anh cảnh sát rất dễ thương kiểm tra hành lý của cậu, và hoàn toàn tin rằng mình là một hành khách từ sân bay trở về vì tất cả các chuyến bay đều đã bị hoãn. Mình thậm chí còn đưa vé cho anh ta xem”.
“Có rắc rối gì chỗ căn hộ của mình không?” Anna vừa hỏi vừa rót cà phê cho bạn.
“Chỉ có mỗi một chuyện là phải an ủi Sam. Ông ấy chắc là quý cậu lắm. Có vẻ như ông ấy đã khóc nhiều giờ liền. Mình thậm chí còn chẳng cần phải nhắc đến cái tên Sullivan, bởi vì tất cả những gì Sam muốn là kể cho mình nghe về cậu. Đến khi mình vào trong thang máy, thậm chí ông ấy cũng chẳng để ý xem mình đi đâu”.
Tina nhìn quanh bếp. Chưa bao giờ chị thấy nó sạch như lúc này. “Vậy là cậu đã lên xong kế hoạch rồi chứ?” chị vừa hỏi vừa nhìn xuống tấm bản đồ đang trải trên mặt bàn ăn.
“Ừ”, Anna nói. “Có lẽ tốt nhất là đi phà tới New Jersey rồi thuê một chiếc xe, bởi vì tin mới nhất cho biết tất cả các cây cầu và đường hầm đều đã bị đóng cửa. Cho dù tới biên giới Canada còn hơn bốn trăm dặm, mình nghĩ chẳng có lý do gì mà mình không tới sân bay Toronto vào tối mai, và như thế mình sẽ tới London vào sáng ngày kia”.
“Cậu có biết chuyến phà sớm nhất vào buổi sáng khởi hành lúc mấy gờ không?” Tina hỏi.
“Về lý thuyết, dịch vụ này phục vụ 24 trên 24 giờ”, Anna nói, “nhưng trên thực tế, sau năm giờ sáng thì phà mới chạy, và cứ 15 phút có một chuyến. Nhưng ai mà biết được ngày mai phà có chạy không, chưa nói gì đến chuyện có chạy đúng giờ không”
“Dù gì thì”, Tina nói, “cậu cũng nên đi nghỉ sớm, và cố gắng ngủ cho ngon giấc. Mình sẽ đặt đồng hồ báo thức vào lúc 4:30”.
“4 giờ đi”, Anna nói. “Nếu phà khởi hành vào lúc 5 giờ, mình muốn là người đứng xếp hàng đầu tiên. Mình nghĩ việc ra khỏi New York có lẽ là chặng đường khó khăn nhất trong cả chuyến đi sắp tới”.
“Vậy thì cậu phải ngủ trong phòng ngủ”, Tina vừa cười vừa nói, “còn 31936 mình sẽ ngủ trên ghế bành”.
“Cậu vất vả quá”, Anna vừa nói vừa rót đầy cốc cà phê cho bạn. “Hôm nay cậu làm được quá nhiều chuyện”.
“Như thế này thì ăn thua gì”, Tina nói.
“Nếu Fenston biết cậu đã làm gì, ông ta sẽ đuổi cậu ngay lập tức”.
“Đó là điều mình ít bận tậm nhất”, Tina trả lời nhưng tránh đưa ra lời giải thích.
***
Jack ngáp dài một cái ngoài chủ ý. Một ngày quá dài, và anh có cảm giác đêm sẽ còn dài hơn.
Không ai trong đội của anh tính đến chuyện về nhà, và dáng vẻ cũng như giọng nói của họ cho thấy họ đều đã kiệt sức. Điện thoại trên bàn làm việc của anh đổ chuông.
“Tôi nghĩ là phải báo cho sếp biết”, Joe nói, “rằng Tina Forster, thư ký của Fenston, đã có mặt tại Thorton House vài giờ trước. Bốn mươi phút sau, cô ta ra khỏi tòa nhà, mang theo một chiếc va li và một chiếc máy tính xách tay, rồi đem tất cả về nhà cô ta”. Jack ngồi thẳng đứng. “Vậy thì Petrescu chắc chắn vẫn còn sống”, anh nói.
“Và cô ta không muốn chúng ta nghĩ như vậy”, Joe nói thêm.
“Nhưng tại sao?”
“Có lẽ cô ta muốn chúng ta nghĩ rằng cô ta bị mất tích hoặc đã chết”, Joe nói.
“Không phải chúng ta”, Jack nói.
“Vậy thì ai?”
“Fenston, tôi cuộc đấy”.
“Tại sao?”
“Tôi cũng chưa biết”, Jack nói, “nhưng tôi chắc chắn sẽ tìm ra nguyên nhân”.
“Và anh định làm điều đó bằng cách nào, sếp?”
“Bằng cách cho một đội theo dõi nhà của Tina Forster cho đến khi Anna Petrescu rời khỏi đó”.
“Nhưng chúng ta đâu có biết chắc là cô ta đang ở trong đó”, Joe nói.
“Tôi biết chắc cô ta đang ở trong đó”, Jack nói và đặt ống nghe xuống.
12/9
Danh sách chương