Brady và tôi ăn trưa tại một nơi gọi là Sandwich Hốc Mật – nghe hơi có vẻ khiêu dâm, nhưng ở đây bán những chiếc sandwich rất được. Nó được thiết kế theo kiểu sông nước u tối, với quầy bar trông như một cái lán cũ ở bờ sông. Nhân viên ở đây rất thân thiện, có vẻ thực sự thích thú với việc làm sandwich.
Sau bữa trưa, Brady thay chiếc áo (rất) được của cậu ta và mặc vào chiếc áo thun CBGB cũ. Chúng tôi trở vào xe hơi, lái tới Trung tâm Hội nghị, nhưng ở đó chẳng có gì cả.
“Hmm… lạ thật đấy”, tôi nói. “Chắc nó không phải sự kiện lớn như tôi nghĩ.”
“Hẳn là không”, Brady nói.
“Vậy cùng đến công viên Viretta đi”, tôi nói. “Nó ở ngay góc phố gần nhà cũ của Kurt.”
“Chỉ đường đi”, cậu ta nói. Tôi lấy ra tờ bản đồ Seattle, và chúng tôi lái xe tới đó để tỏ lòng tôn kính với Kurt.
Khi tới công viên ngay đối diện nhà cũ của Kurt, tôi rùng mình ngay khi xe dừng lại. Láng giềng ở đó đặc biệt tốt tính. Những ngôi nhà rất to. Rõ ràng đây là khu cực kỳ giàu có.
Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên bởi số người quá ít tại đó. Không vắng hoe, nhưng cũng không phải hàng nghìn hàng nghìn đứa trẻ như từng thấy tại Trung tâm Seattle mười năm trước. Những đứa trẻ đó hẳn đã trưởng thành, chúng có những điều hay hơn để làm. Chúng tôi đỗ xe rồi bước lên thảm cỏ.
Có hai anh chàng hippie phê thuốc, nồng nặc mùi dầu hoắc hương, đang tựa vào một gốc cây. Một trong hai kẻ đó nhìn Brady, cười khẩy.
“Chào, Bé Hợp thời”, hắn nói.
“Bé Hợp thời?”, Brady vặc lại, không chắc lắm mình đang phải đối mặt với điều gì.
“Ừ, Bé Hợp thời”, hắn nói, trỏ chiếc áo thun CBGB. “Mua cái áo thun đó ở đâu vậy… siêu thị hả?”
“Tôi từ New York tới. Tôi mua nó ở New York – nơi tôi sống.”
“Làm bộ làm tịch”, gã phê thuốc nói.
“Um… không. Tôi sống ở New York”, Brady nói.
“Mặc kệ hắn”, tôi nói.
“Ồ, giờ cô lại nói lý à?”, Brady nói với tôi.
“Ừ”, tôi đáp.
“Được thôi”, cậu ta đáp, vì biết là tôi đúng. Nếu là một ngày khác, tại một nơi khác, tôi sẽ tự mình bảo thằng nhóc này biến đi. Nhưng hôm nay thì không. Ở đây thì không.
Có nhiều người ngồi trên thảm cỏ, tựa vào gốc cây, chơi guitar, hát những bài của Nirvana. Băng ghế dường như trở thành bệ thờ. Lũ nhóc từng đến đây vào mười năm trước đã viết nguệch ngoạc lên đó những dòng nhắn cho Kurt. Nhưng hôm nay, nó đầy ắp nến, hoa, và ảnh Kurt. Cũng có thơ và thư viết cho Kurt, thậm chí còn có một thanh khử mùi Teen Spirit – tôi nghĩ việc đó thật thú vị. Lũ nhóc đang hát bài All Apologies. Tôi đứng cạnh băng ghế, nhìn chiếc bệ thờ dã chiến, mặc niệm một mình, bỗng một giọt nước mắt trào ra khỏi khóe mi. Tôi không kìm nén được.
Chúng tôi nói chuyện với một vài đứa trẻ. Tôi gặp một cô bé từ Kansas đến đây cùng mẹ. Chỉ vì sự kiện này. Cô bé kể với tôi rằng họ tình cờ gặp ông của Kurt sáng nay, ông mời họ tới nhà dùng trà. Ông còn tặng cô bé vài tấm ảnh lúc còn nhỏ của Kurt. Một câu chuyện thật tuyệt – thật đáng nhớ.
Thực ra, điều khiến tôi kinh ngạc, là lứa tuổi của những cô cậu nhóc này. Những người bạn nghĩ sẽ ở đây lại không chiếm số đông. Phần lớn thuộc lứa tuổi trẻ hơn. Có một cô bé mặc áo thun Nirvana, không quá mười ba tuổi, nghĩa là chỉ mới ba tuổi khi Kurt mất. Chúng cũng không có vẻ gì là những đứa trẻ trầm cảm, hư hỏng. Chúng trông như những đứa trẻ ngoan ngoãn, thông minh và yêu âm nhạc. Chúng đến đây vì nghĩ Kurt rất thật. Đúng là vậy! Nhiều người đang khóc. Số khác chỉ im lặng ngồi uống cà phê. Kỳ lạ là mọi người ở đây đều có một cốc cà phê Starbucks.
Rồi một thằng ngốc đột nhiên xuất hiện. Trước lúc này, mọi thứ khá bình yên, nhưng thằng cha này dẫn chương trình của một kênh truyền hình cáp địa phương, đưa ra đủ loại giả thuyết âm mưu về cái chết của Kurt.
Gã bắt đầu la hét đủ thứ nhảm nhí, những con số thống kê kinh hãi, trỏ tay vào Courtney Love, và khiến mọi thứ loạn xị cả lên. Gã chĩa camera về đám đông, một camera khác gắn ngay hông để tự quay chính mình. Gã đang làm trò để gây chú ý, điều này thật sự rất khó chịu.
“Biến khỏi đây đi!”, một đứa nhóc la lên.
“Toàn là ngụy biện!”, gã hét trả. “Cả đám các người thoải mái ngồi đây khóc lóc, nhưng chẳng ai làm gì để sửa chữa mọi thứ! Các người đã làm gì cho Kurt?” Gã bắt đầu đi theo một số cô cậu nhóc cùng chiếc camera, hét vào mặt chúng. Khi gã chọc tới một cậu bé đáng thương mười bốn tuổi, thực sự chọc vào người cậu bé, Brady bèn bước tới trước mặt gã.
“Anh bạn, bình tĩnh”, Brady nói. “Mọi người tới đây để thể hiện lòng tôn kính với Kurt. Họ không cần anh hét vào mặt.”
“Chính cha của Courtney nghĩ rằng cô ta đã làm đấy!”, gã hét lên.
“Ngậm quách cái mồm của ông lại đi”, gã hippie gọi Brady là “Bé Hợp thời” vào mười phút trước lên tiếng. Đúng vậy. Không gì khiến mọi người đồng tâm hiệu quả bằng một kẻ thù chung. Brady và gã hippie, cùng mọi người khác, hiện giờ đã ở cùng một chiến tuyến.
“Tất cả các người đều là đồng bọn! Đồ giết người!”, gã điên kia hét lên.
“Nghe này”, Brady nói, đột nhiên áp sát vào mặt gã. “Ở đây bọn tôi đông hơn ông. Nếu ông không mang cái camera nhỏ kia, cùng với cái mõm của ông biến đi chỗ khác, chúng tôi sẽ xé xác ông ra làm đôi, rồi quay lại đây sau mười năm nữa để kỷ niệm cái chết của ông đấy.”
Mọi người bắt đầu tung hô, còn gã hippie ôm chầm lấy Brady. Mọi người tiếp tục chơi các bài nhạc, và cùng nhau hát.
Tôi quay lại chỗ bệ thờ, nhận ra một dấu vết ai đó đã để lại dưới băng ghế. Dòng chữ ĐỪNG QUÊN LAYNE STALEY. Anh này là ca sĩ chính của nhóm Alice In Chains, một nhóm nhạc Seattle khác. Layne chết vì dùng heroin quá liều hai năm trước, cũng vào tháng này (tháng tồi tệ đối với các ngôi sao nhạc rock Seattle) ở tuổi ba mươi tư. Gần như ngay khi tôi thấy dòng chữ này, một con chó ba chân đi ngang qua buổi cầu nguyện. Thề với Chúa, tôi nói thật đấy!
Việc đó khiến tôi phát khiếp lên, vì trên bìa một album nhạc của Alice In Chains có bức ảnh của một con chó ba chân. Khác biệt duy nhất là con chó trên bìa đĩa bị mất chân trước, còn con chó này mất chân sau. Nhưng nó giống như một dấu hiệu. Như thể Layne cũng ở đây với chúng tôi. Hoặc có thể anh ta đến cùng Kurt, và cả hai đều ổn.
“Có chuyện gì với tất cả chỗ cà phê Starbucks kia thế nhỉ?” Brady hỏi khi chú ý thấy một bàn đầy hộp và ly cà phê Starbucks. “Cứ như thể họ tới đây để giễu cợt tôi ấy.”
“Ông chủ Starbucks sống ngay trên kia mà”, tôi nghe có người nói. Brady và tôi đồng loạt quay lại.
“Cậu đùa tôi chắc”, Brady nói.
“Giỡn mặt làm gì. Em nhớ tên ông ta là Howard thì phải. Em đến đây suốt để tỏ lòng kính trọng với Kurt. Em gặp ông ta rồi. Khá tốt tính. Ông ta quyên góp miễn phí toàn bộ cà phê Starbucks cho mọi người đến đây hôm nay.”
“Nhà nào vậy?”, Brady hỏi.
“Căn đầu tiên bên phải”, thằng nhóc chỉ tay.
“Không-thể-tin-nổi”, Brady nói.
“Cậu cần phải đến đó”, tôi nói với Brady. “Phải đến. Ý tôi là… chắc chắn phải đến. Đây là định mệnh.”
“Thật hơi kỳ lạ đấy.”
“Quá lạ. Linh hồn Kurt đã mang cậu đến đây.”
“Wow”, Brady nói. “Cảm ơn, Kurt.”
“Đến đó đi”, tôi thúc giục.
Brady quay sang cậu nhóc. “Căn nhà ngay trên kia đúng không?”
“Vâng”, thằng nhóc đáp. Brady nhìn tôi, chạy đến chỗ xe hơi, chộp bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ, rồi lao về phía căn nhà.
Tôi bước về phía mấy cô cậu nhóc đang ngồi hát thành vòng tròn.
“Không thể tin nổi”, một cô bé nói. “Ra đi ở tuổi hai mươi bảy. Quá trẻ!” Tôi lại được gợi nhắc về nỗi sợ hãi của mình. Tôi vẫn chưa tìm được chồng. Tôi thậm chí còn chưa hẹn hò. Trừ phi tính cả Darren vào đêm nọ, nhưng hôm đó chúng tôi thậm chí còn chẳng ra ngoài ăn tối. Tôi bắt đầu bồn chồn, muốn gạt nó ra khỏi tâm trí. Tôi không muốn nghĩ về điều đó vào lúc này. Hay sự thật rằng sự nghiệp chuyên môn PR của tôi đang nhạt phai thành dĩ vãng. Hay việc tôi thậm chí không giữ nổi công việc phục vụ bàn, chứ chưa cần nói tới một mối quan hệ nghiêm túc. Tôi sẽ quay lại với cái gì đây? Tôi cố gắng dẹp yên tiếng nói trong đầu và chỉ đứng đây. Yên lặng nghe mọi người hát và tưởng nhớ Kurt. Nhưng rồi họ hát sang bài Something in the Way, tâm trí tôi bắt đầu quay cuồng quanh cuộc chia tay với Darren và hai mối quan hệ nho nhỏ thất bại sau Darren. Rồi mọi thứ tua nhanh tới những bộ phim nhỏ - những họa tiết màu sắc nghèo nàn về những điều ngu ngốc tôi từng nói, từng làm. Có lẽ đó là những ví dụ cho nguyên do tại sao tôi vẫn độc thân? Vẫn thất nghiệp? Vẫn không có được điều gì đáng nói? Có lẽ mọi thứ hoàn toàn là lỗi của tôi.
Nhưng khoan, chết tiệt thật! tôi độc thân là vì tôi kén chọn. Tôi độc thân là vì tôi không định an phận. Đúng, tôi sẽ tìm một công việc, nhưng không phải việc gì cũng được. Và đúng, tôi cần phải kết hôn khá sớm, nếu không tôi sẽ chết, nhưng tôi vẫn sẽ không an phận. Đó không hoàn toàn lỗi của tôi. Chấm hết.
***
“Tôi đoán chúng ta đang rất nghiêm túc. Tôi đoán những trò bông đùa đã kết thúc rồi, nhỉ?”
- Carl Spackler, Caddyshack
“Nhưng làm sao cậu chắc chắn được?”
- Buttercup, The Princess Bride
Sau bữa trưa, Brady thay chiếc áo (rất) được của cậu ta và mặc vào chiếc áo thun CBGB cũ. Chúng tôi trở vào xe hơi, lái tới Trung tâm Hội nghị, nhưng ở đó chẳng có gì cả.
“Hmm… lạ thật đấy”, tôi nói. “Chắc nó không phải sự kiện lớn như tôi nghĩ.”
“Hẳn là không”, Brady nói.
“Vậy cùng đến công viên Viretta đi”, tôi nói. “Nó ở ngay góc phố gần nhà cũ của Kurt.”
“Chỉ đường đi”, cậu ta nói. Tôi lấy ra tờ bản đồ Seattle, và chúng tôi lái xe tới đó để tỏ lòng tôn kính với Kurt.
Khi tới công viên ngay đối diện nhà cũ của Kurt, tôi rùng mình ngay khi xe dừng lại. Láng giềng ở đó đặc biệt tốt tính. Những ngôi nhà rất to. Rõ ràng đây là khu cực kỳ giàu có.
Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên bởi số người quá ít tại đó. Không vắng hoe, nhưng cũng không phải hàng nghìn hàng nghìn đứa trẻ như từng thấy tại Trung tâm Seattle mười năm trước. Những đứa trẻ đó hẳn đã trưởng thành, chúng có những điều hay hơn để làm. Chúng tôi đỗ xe rồi bước lên thảm cỏ.
Có hai anh chàng hippie phê thuốc, nồng nặc mùi dầu hoắc hương, đang tựa vào một gốc cây. Một trong hai kẻ đó nhìn Brady, cười khẩy.
“Chào, Bé Hợp thời”, hắn nói.
“Bé Hợp thời?”, Brady vặc lại, không chắc lắm mình đang phải đối mặt với điều gì.
“Ừ, Bé Hợp thời”, hắn nói, trỏ chiếc áo thun CBGB. “Mua cái áo thun đó ở đâu vậy… siêu thị hả?”
“Tôi từ New York tới. Tôi mua nó ở New York – nơi tôi sống.”
“Làm bộ làm tịch”, gã phê thuốc nói.
“Um… không. Tôi sống ở New York”, Brady nói.
“Mặc kệ hắn”, tôi nói.
“Ồ, giờ cô lại nói lý à?”, Brady nói với tôi.
“Ừ”, tôi đáp.
“Được thôi”, cậu ta đáp, vì biết là tôi đúng. Nếu là một ngày khác, tại một nơi khác, tôi sẽ tự mình bảo thằng nhóc này biến đi. Nhưng hôm nay thì không. Ở đây thì không.
Có nhiều người ngồi trên thảm cỏ, tựa vào gốc cây, chơi guitar, hát những bài của Nirvana. Băng ghế dường như trở thành bệ thờ. Lũ nhóc từng đến đây vào mười năm trước đã viết nguệch ngoạc lên đó những dòng nhắn cho Kurt. Nhưng hôm nay, nó đầy ắp nến, hoa, và ảnh Kurt. Cũng có thơ và thư viết cho Kurt, thậm chí còn có một thanh khử mùi Teen Spirit – tôi nghĩ việc đó thật thú vị. Lũ nhóc đang hát bài All Apologies. Tôi đứng cạnh băng ghế, nhìn chiếc bệ thờ dã chiến, mặc niệm một mình, bỗng một giọt nước mắt trào ra khỏi khóe mi. Tôi không kìm nén được.
Chúng tôi nói chuyện với một vài đứa trẻ. Tôi gặp một cô bé từ Kansas đến đây cùng mẹ. Chỉ vì sự kiện này. Cô bé kể với tôi rằng họ tình cờ gặp ông của Kurt sáng nay, ông mời họ tới nhà dùng trà. Ông còn tặng cô bé vài tấm ảnh lúc còn nhỏ của Kurt. Một câu chuyện thật tuyệt – thật đáng nhớ.
Thực ra, điều khiến tôi kinh ngạc, là lứa tuổi của những cô cậu nhóc này. Những người bạn nghĩ sẽ ở đây lại không chiếm số đông. Phần lớn thuộc lứa tuổi trẻ hơn. Có một cô bé mặc áo thun Nirvana, không quá mười ba tuổi, nghĩa là chỉ mới ba tuổi khi Kurt mất. Chúng cũng không có vẻ gì là những đứa trẻ trầm cảm, hư hỏng. Chúng trông như những đứa trẻ ngoan ngoãn, thông minh và yêu âm nhạc. Chúng đến đây vì nghĩ Kurt rất thật. Đúng là vậy! Nhiều người đang khóc. Số khác chỉ im lặng ngồi uống cà phê. Kỳ lạ là mọi người ở đây đều có một cốc cà phê Starbucks.
Rồi một thằng ngốc đột nhiên xuất hiện. Trước lúc này, mọi thứ khá bình yên, nhưng thằng cha này dẫn chương trình của một kênh truyền hình cáp địa phương, đưa ra đủ loại giả thuyết âm mưu về cái chết của Kurt.
Gã bắt đầu la hét đủ thứ nhảm nhí, những con số thống kê kinh hãi, trỏ tay vào Courtney Love, và khiến mọi thứ loạn xị cả lên. Gã chĩa camera về đám đông, một camera khác gắn ngay hông để tự quay chính mình. Gã đang làm trò để gây chú ý, điều này thật sự rất khó chịu.
“Biến khỏi đây đi!”, một đứa nhóc la lên.
“Toàn là ngụy biện!”, gã hét trả. “Cả đám các người thoải mái ngồi đây khóc lóc, nhưng chẳng ai làm gì để sửa chữa mọi thứ! Các người đã làm gì cho Kurt?” Gã bắt đầu đi theo một số cô cậu nhóc cùng chiếc camera, hét vào mặt chúng. Khi gã chọc tới một cậu bé đáng thương mười bốn tuổi, thực sự chọc vào người cậu bé, Brady bèn bước tới trước mặt gã.
“Anh bạn, bình tĩnh”, Brady nói. “Mọi người tới đây để thể hiện lòng tôn kính với Kurt. Họ không cần anh hét vào mặt.”
“Chính cha của Courtney nghĩ rằng cô ta đã làm đấy!”, gã hét lên.
“Ngậm quách cái mồm của ông lại đi”, gã hippie gọi Brady là “Bé Hợp thời” vào mười phút trước lên tiếng. Đúng vậy. Không gì khiến mọi người đồng tâm hiệu quả bằng một kẻ thù chung. Brady và gã hippie, cùng mọi người khác, hiện giờ đã ở cùng một chiến tuyến.
“Tất cả các người đều là đồng bọn! Đồ giết người!”, gã điên kia hét lên.
“Nghe này”, Brady nói, đột nhiên áp sát vào mặt gã. “Ở đây bọn tôi đông hơn ông. Nếu ông không mang cái camera nhỏ kia, cùng với cái mõm của ông biến đi chỗ khác, chúng tôi sẽ xé xác ông ra làm đôi, rồi quay lại đây sau mười năm nữa để kỷ niệm cái chết của ông đấy.”
Mọi người bắt đầu tung hô, còn gã hippie ôm chầm lấy Brady. Mọi người tiếp tục chơi các bài nhạc, và cùng nhau hát.
Tôi quay lại chỗ bệ thờ, nhận ra một dấu vết ai đó đã để lại dưới băng ghế. Dòng chữ ĐỪNG QUÊN LAYNE STALEY. Anh này là ca sĩ chính của nhóm Alice In Chains, một nhóm nhạc Seattle khác. Layne chết vì dùng heroin quá liều hai năm trước, cũng vào tháng này (tháng tồi tệ đối với các ngôi sao nhạc rock Seattle) ở tuổi ba mươi tư. Gần như ngay khi tôi thấy dòng chữ này, một con chó ba chân đi ngang qua buổi cầu nguyện. Thề với Chúa, tôi nói thật đấy!
Việc đó khiến tôi phát khiếp lên, vì trên bìa một album nhạc của Alice In Chains có bức ảnh của một con chó ba chân. Khác biệt duy nhất là con chó trên bìa đĩa bị mất chân trước, còn con chó này mất chân sau. Nhưng nó giống như một dấu hiệu. Như thể Layne cũng ở đây với chúng tôi. Hoặc có thể anh ta đến cùng Kurt, và cả hai đều ổn.
“Có chuyện gì với tất cả chỗ cà phê Starbucks kia thế nhỉ?” Brady hỏi khi chú ý thấy một bàn đầy hộp và ly cà phê Starbucks. “Cứ như thể họ tới đây để giễu cợt tôi ấy.”
“Ông chủ Starbucks sống ngay trên kia mà”, tôi nghe có người nói. Brady và tôi đồng loạt quay lại.
“Cậu đùa tôi chắc”, Brady nói.
“Giỡn mặt làm gì. Em nhớ tên ông ta là Howard thì phải. Em đến đây suốt để tỏ lòng kính trọng với Kurt. Em gặp ông ta rồi. Khá tốt tính. Ông ta quyên góp miễn phí toàn bộ cà phê Starbucks cho mọi người đến đây hôm nay.”
“Nhà nào vậy?”, Brady hỏi.
“Căn đầu tiên bên phải”, thằng nhóc chỉ tay.
“Không-thể-tin-nổi”, Brady nói.
“Cậu cần phải đến đó”, tôi nói với Brady. “Phải đến. Ý tôi là… chắc chắn phải đến. Đây là định mệnh.”
“Thật hơi kỳ lạ đấy.”
“Quá lạ. Linh hồn Kurt đã mang cậu đến đây.”
“Wow”, Brady nói. “Cảm ơn, Kurt.”
“Đến đó đi”, tôi thúc giục.
Brady quay sang cậu nhóc. “Căn nhà ngay trên kia đúng không?”
“Vâng”, thằng nhóc đáp. Brady nhìn tôi, chạy đến chỗ xe hơi, chộp bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ, rồi lao về phía căn nhà.
Tôi bước về phía mấy cô cậu nhóc đang ngồi hát thành vòng tròn.
“Không thể tin nổi”, một cô bé nói. “Ra đi ở tuổi hai mươi bảy. Quá trẻ!” Tôi lại được gợi nhắc về nỗi sợ hãi của mình. Tôi vẫn chưa tìm được chồng. Tôi thậm chí còn chưa hẹn hò. Trừ phi tính cả Darren vào đêm nọ, nhưng hôm đó chúng tôi thậm chí còn chẳng ra ngoài ăn tối. Tôi bắt đầu bồn chồn, muốn gạt nó ra khỏi tâm trí. Tôi không muốn nghĩ về điều đó vào lúc này. Hay sự thật rằng sự nghiệp chuyên môn PR của tôi đang nhạt phai thành dĩ vãng. Hay việc tôi thậm chí không giữ nổi công việc phục vụ bàn, chứ chưa cần nói tới một mối quan hệ nghiêm túc. Tôi sẽ quay lại với cái gì đây? Tôi cố gắng dẹp yên tiếng nói trong đầu và chỉ đứng đây. Yên lặng nghe mọi người hát và tưởng nhớ Kurt. Nhưng rồi họ hát sang bài Something in the Way, tâm trí tôi bắt đầu quay cuồng quanh cuộc chia tay với Darren và hai mối quan hệ nho nhỏ thất bại sau Darren. Rồi mọi thứ tua nhanh tới những bộ phim nhỏ - những họa tiết màu sắc nghèo nàn về những điều ngu ngốc tôi từng nói, từng làm. Có lẽ đó là những ví dụ cho nguyên do tại sao tôi vẫn độc thân? Vẫn thất nghiệp? Vẫn không có được điều gì đáng nói? Có lẽ mọi thứ hoàn toàn là lỗi của tôi.
Nhưng khoan, chết tiệt thật! tôi độc thân là vì tôi kén chọn. Tôi độc thân là vì tôi không định an phận. Đúng, tôi sẽ tìm một công việc, nhưng không phải việc gì cũng được. Và đúng, tôi cần phải kết hôn khá sớm, nếu không tôi sẽ chết, nhưng tôi vẫn sẽ không an phận. Đó không hoàn toàn lỗi của tôi. Chấm hết.
***
“Tôi đoán chúng ta đang rất nghiêm túc. Tôi đoán những trò bông đùa đã kết thúc rồi, nhỉ?”
- Carl Spackler, Caddyshack
“Nhưng làm sao cậu chắc chắn được?”
- Buttercup, The Princess Bride
Danh sách chương