Sau đêm kinh hoàng ở đền thờ Cao Nỗ, đoàn người lại tiếp tục lên đường. Phạm Bách chỉ những phong cảnh, những suối, những đèo, những hang đầy hoa thơm cỏ lạ cho Thiều Hoa. Nhưng trong lòng nàng như mơ như tỉnh, đâu có biết ngoại vật là gì.
Đến địa phận núi Tam-thai, Phạm Bách nói:
– Tại đây có đền thờ vua Hùng-vương, trong đền có cái trống đồng bằng ba người ôm. Trống này là lễ vật của Sơn Tinh dâng cho vua để cầu hôn với công chúa Mỵ Nương, nay vẫn còn nguyên. Chúng ta vào đó nghỉ ngơi và lễ tổ.
Ghi chú của thuật giả:
Trống đồng này hồi trước 1950 vẫn còn tại núi Tam-thai, trong vùng núi Lam-sơn, Thanh-hoá. Đi từ thị xã Thanh-hoá về phía Tây Bắc 38 km gặp sông Mã, vượt bến Kiều sang đất Vĩnh-lộc. Gần bến Kiều có núi Xuân-đài, động Hồ-công, trong có nhiều nhũ đá, hang đá, tượng đá rất đẹp. Trong hang có khắc thơ Lê Thánh-tông và các danh sĩ đời xưa. Kế đến là Đan-nê, nằm cạnh núi Tam-thai. Trên núi có miếu Đồng-cổ. Trong miếu còn di tích cái trống đồng. Mặt trống đường kính 1,10 m, cao 0,50 m (Hồi thơ ấu, 8 tuổi, tôi được dẫn qua đây, ước lượng kích thước). Trên mặt trống có chín vòng tròn, giữa trống có rốn, lưng trống có khắc nhiều chữ, nhưng đã mờ, đọc không rõ. Tương truyền trống là di vật của thánh Tản-viên dâng vua Hùng làm sính lễ cầu hôn công chúa Mỵ Nương. Đây là những tài liệu ghi được của trường Viễn-đông Bác-cổ trước 1954. Không biết cho đến nay, biết bao tang thương đã qua, miếu và trống có còn hay không? Đoàn người tiến vào đền. Trịnh Quang đã chập chững đi được. Phạm Bách chỉ tượng vua Hùng ngồi trên ngai nói:
– Đây là tượng Lạc Long quân.
Thiều Hoa nhìn lên, thì thấy một người ngồi uy nghi trên ngai vàng, nhưng đầu hơi giống đầu rồng.
Nàng nghĩ thầm:
– Thì ra Lạc Long quân là loài rồng. Hèn chi người Việt mình cứ tự hào là con rồng, cháu tiên?
Nàng hỏi Phạm Bách:
– Thưa sư bá, còn mấy ngày nữa thì tới Hoa-lư?
– Độ năm ngày thôi.
– Sư bá nói, gửi chúng cháu tại Cao gia trang. Cao gia đây có phải là giòng dõi của đại tướng Cao Nỗ không?
– Đúng, Cao trang chủ hiện nay tên là Cao Cảnh Sơn, cháu bảy đời Cao Nỗ. Họ Cao thế lực rất lớn, có tới bảy trang khắp vùng núi Hoa-lư, Tam-điệp, Dục-thuý, tổng số người trong trang lên đến mấy vạn. Chúng ta vào đó an trí đám sư đệ này rồi ta với Trịnh Quang và cháu đi tìm sư phụ cháu.
Thiều Hoa mắc chiếc võng lên hai cây đào nằm. Nàng cố dỗ mắt mà không sao nhập được giấc ngủ. Hình ảnh Nghiêm Sơn lại hiện lên, với dáng điệu phong lưu tiêu sái. Rồi trong đầu nàng lại lởn vởn những lời giáo huấn của sư phụ sư mẫu về cái gương Mỵ Châu lấy chồng ngoại tộc, vì nhất tâm với chồng, làm mất nước. Trải 184 năm mà chưa khôi phục được.
Có tiếng người đi nhè nhẹ, nàng lắng tai nghe: Tiếng chân bước rất nhẹ nhàng, và mau, rõ ràng là tiếng chân của một cao thủ.
Nàng tự hỏi: Ai đây?
Nếu là tiếng chân của Phạm Bách thì nặng chịch, và lão không có trình độ võ công cao. Với bước chân này chỉ sư huynh đệ của nàng mới có thể đạt tới. Mà ở đây thì Trịnh Quang bị thương nặng, bước đi muốn không nổi, còn ai đâu? Phản ứng thực nhanh, nàng lộn khỏi võng, nằm sát mặt đất, hướng mặt về phía tiếng đi, thì thấy một bóng đen chạy ra đường cái lui húi vạch mấy vạch vào bên đường rồi trở về.
Nàng tự nhủ:
– Thế thì trong đám đệ tử Đào, Phạm gia không quá mười người này có gian tế. Chúng định làm gì đây? Ta phải theo dõi mới được.
Các biến cố từ khi rời Phạm trang đều lần lượt hiện ra trước mắt nàng: Cái chết của Tường Loan đầy bí mật. Cuộc chuẩn bị của Phạm Bách chỉ người nhà mới biết, mà bị Song-quái biết. Bất cứ đoàn người đi ngả nào, Phong-châu song quái cũng theo kịp. Ta phải tìm cho ra ai là gian tế? Hắn làm gian tế cho ai?
Sáng hôm sau, nàng ra chỗ bóng đen vẽ vạch bên đường thì thấy viết chữ Hoa-lư, Tam-điệp, Dục-thuý. Bên cạnh vẽ một chữ Vạn.
Thiều Hoa tỉnh ngộ:
– Thì ra gian tế báo tin cho đồng bọn biết đường đi của bọn mình. Nhưng chúng báo cho ai đây? Cho quân Hán hay cho Phong-châu song quái?
Nàng lấy đất chà hết các dấu hiệu rồi trở vào đền cùng đoàn người tiếp tục lên đường. Trong khi đi đường, nàng chú ý quan sát cử chỉ, hành động từng người, nhưng tuyệt không có gì đáng nghi.
Chợt nhớ ra điều gì nàng hỏi Phạm Bách:
– Sư bá, hôm trước trong lúc tiểu sư đệ giao chiến với Phong-châu song quái, y có dùng một chiêu thức rất kỳ quái, cháu chưa từng thấy qua. Với chiêu thức đó, y làm cho Vũ Hỷ trúng đòn, rồi Vũ Hỷ kêu lên “Phục ngưu thần chưởng”. Thưa sư bá, chưởng đó là chưởng gì, cháu chưa từng nghe sư phụ, sư mẫu nói qua, thì làm sao tiểu sư đệ biết mà sử dụng. Lại nữa, thế quyền đó bao hàm: Quyền, chỉ, trảo, cước biến hoá vô cùng, những biến hoá đó không nằm trong nguyên lý võ thuật Cửu-chân.
Phạm Bách gật đầu:
– Ta nghĩ cũng không ra. Chúng ta học võ Cửu– chân, gốc ở Vạn-tín hầu Lý Thân, sau truyền đến Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung... Dù quyền, cước, chỉ, trảo chăng nữa cũng nằm trên một nguyên lý. Nhưng tiểu sư đệ của cháu sử dụng chiêu thức đó nằm ngoài nguyên tắc Thục gia. Mà chỉ với một chiêu, tiểu sư đệ cháu làm cho Vũ Hỷ kinh hồn, đến nổi bắt mang đi tra hỏi, chắc phải có nguồn gốc ghê gớm lắm. Đợi sau này gặp sư phụ cháu, cháu nên hỏi, may ra biết được.
Ông quay sang Trịnh Quang:
– Cháu có nghe sư phụ, sư mẫu đề cập đến quyền pháp này không?
Trịnh Quang gật đầu:
– Một lần đứng hầu Đinh sư thúc với sư phụ cháu, cháu có nghe lõm về quyền pháp ấy. Đinh sư thúc nói rằng nguồn gốc võ học Lĩnh-nam có hai: Một là Văn– lang, hai là Âu-lạc. Võ công Văn-lang cổ nhất do Phù-đổng Thiên-vương chế ra. Sau khi đánh giặc xong, ngài lên núi Sài-sơn (Sóc-sơn) hưởng nhàn, dạy đệ tử, lập ra phái Sài-sơn còn truyền đến ngày nay. Cuối đời Hồng-bàng, một thiên tài võ học nữa xuất hiện là phò mã Sơn Tinh. Ông sáng chế ra Phục ngưu thần chưởng, gồm 36 chiêu rất cương mãnh. Với chưởng pháp này, ông thắng Thủy Tinh, cưới được Mỵ Nương, rồi lên hưởng hạnh phúc ở núi Tản-viên, lập ra phái Tản-viên còn lưu truyền đến nay. Sư phụ của Phong-châu song quái là người phái Tản-viên.
Chàng ngừng lại, nhăn nhó, tỏ ra còn đau đớn:
– Còn nguồn gốc thứ nhì, phát xuất từ đất Tây-vu, tức quê hương của Thục An Dương vương. Khi An Dương vương dựng nghiệp thì có các võ tướng theo phò tá là Vạn-tín hầu Lý Thân, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung tức ông Nồi. Một văn quan làm quân sư là Phương-chính hầu Trần Tự-Minh. Khi đại nghiệp thành, An Dương vương cùng các tướng trao đổi võ công với nhau thành ra võ Âu-lạc. Võ Âu-lạc chia ra Cửu-chân là giòng dõi Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung. Phái Long-biên giòng dõi của Vạn-tín hầu Lý Thân. Phái Hoa-lư giòng dõi Cao-cảnh hầu Cao Nỗ.
Thiều Hoa hỏi:
– Sư huynh, thế Phục ngưu thần chưởng là võ công của Văn-lang sao?
Trịnh Quang gật đầu:
– Đúng! Phong-châu song quái là người của phái Tản-viên, mà phái Tản-viên là đời sau của Sơn Tinh.
Phạm Bách hiểu ra giải thích:
– Vậy thì ta hiểu rồi. Phục ngưu thần chưởng là võ học trấn sơn của Văn-lang, nhưng nay đã thất lạc. Song-quái chỉ học được có vài chiêu, nên khi Kỳ sử dụng là chúng biết ngay. Có lẽ chúng bắt Kỳ để tìm hiểu xem có liên hệ gì với phái Tản-viên không, hoặc để tra hỏi tìm lại võ học phái họ đã mất. Cháu yên tâm, Đào Kỳ không gặp nguy hiểm đâu. Có điều lạ lùng là tại sao Kỳ lại biết võ công phái Tản-viên. Này Thiều Hoa!
– Dạ, cháu nghe.
– Ngoài sư phụ, sư mẫu ra, Kỳ có học võ với ai nữa không?
Thiều Hoa nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Có! Tiểu sư đệ học văn với Nguyễn Thành Công tiên sinh. Nhưng Trần tiên sinh không biết võ, thì làm sao mà dạy tiểu sư đệ được? Có điều trong tất cả các đệ tử học văn của tiên sinh thì tiểu sư đệ được cưng nhất. Tiên sinh thường dẫn tiểu sư đệ dạo chơi núi Nghi-sơn, Biện-sơn, và nhất là đền thờ An Dương vương với Mỵ Châu. Có lần tiên sinh thấy chiếc áo quàng trên tượng Mỵ Châu cũ quá, tiên sinh về mướn người may một cái áo lông ngỗng mới thay vào, và cất cái áo cũ đi.
Phạm Bách đập tay đánh chát một cái la lớn:
– Có thể là ông ấy!
Thiều Hoa hỏi:
– Bác muốn nói là ai?
– Ta muốn nói chính ông thầy đồ đó đã dạy chiêu Phục ngưu thần chưởng cho tiểu sư đệ cháu.
Trịnh Quang lắc đầu không phục:
– Sư bá dạy sai rồi, nếu Nguyễn Thành Công tiên sinh là cao nhân phái Tản-viên thì sư phụ cháu đã biết mặt, làm sao ông có thể giả làm thầy đồ được?
Thiều Hoa nói:
– Vừa rồi Song-quái bắt tiểu sư đệ đi, chúng mang cả cây trượng của Cao Cảnh hầu đi rồi.
Phạm Bách gật đầu:
– Cây trượng ấy là của vua Hùng, lúc Cao Nỗ đánh chiếm nước Văn-lang thì lấy được. Sau ngày Cao tướng quân tuẫn quốc, gậy vẫn được để thờ ở đền cho đến nay.
Chiều hôm ấy đoàn người đi đến địa phận Hoa-lư. Đang đi thì gặp bảy kỵ mã, họ trang phục theo lối quan binh người Hán. Nghiêm Sơn dẫn đầu đoàn kỵ đó. Từ đằng xa, thấy Thiều Hoa, chàng đã xuống ngựa đứng bên đường chào:
– Quế-lâm Nghiêm Sơn kính chào Phạm tiên sinh và Hoàng cô nương.
Phạm Bách thấy chàng không có ác ý, còn sáu đồng bọn dừng ngựa đứng xa xa. Oâng yên tâm. Ông kinh ngạc tự nghĩ:
– Tên Hán này là bạn thân của vua Quang Vũ nhà Hán, tước phong tới Lĩnh Nam công Bình-nam đại tướng quân. Uy quyền bao trùm sáu quận Lĩnh-nam. Bình thường ta muốn gặp một viên huyện uý, huyện lệnh cũng còn khó hơn bắc thang lên trời. Mà huyện uý, huyện lệnh đối với Lĩnh-nam công thì như hạt vừng, hạt đậu so với trái núi. Bây giờ y lại khách sáo với ta thế này thì thực là kỳ lạ.
Ông chắp tay hành lễ:
– Tên nhà quê Phạm Bách xin kính cẩn ra mắt Bình-nam đại tướng quân.
Nghiêm Sơn liếc nhìn Hoàng Thiều Hoa, thấy nàng nháy mắt hai lần. Chàng đoán ra Thiều Hoa có điều gì muốn nói riêng với chàng. Chàng hướng vào Phạm Bách:
– Phạm tiên sinh! Tiên sinh cho vãn bối đi cùng đường cho vui được chăng?
Phạm Bách nói:
– Chúng tôi là người làm ăn buôn bán, được Quốc-công đi chung, thì còn gì hân hạnh hơn nữa!
Đoàn người của Nghiêm Sơn xuống ngựa, cùng đi bộ theo Phạm Bách. tới một mỏm núi, thì ngồi lại nghỉ mệt.
Thiều Hoa nói với Nghiêm Sơn:
– Lâu ngày quá tôi không cỡi ngựa. Tướng quân có thể cho tôi mượn ngựa cỡi trong chốc lát được không?
Nghiêm Sơn cảm thấy người lâng lâng như bay lên mây:
– Nếu cô nương muốn, thì tôi xin tặng cô nương con ngựa này.
Chàng dắt con ngựa của mình lại bên Thiều Hoa.
Thiều Hoa e dè:
– Ngựa của tướng quân là tuấn mã, nó chỉ nghe lời chủ thôi, xin tướng quân chỉ cho tôi cách điều khiển, thì tôi mới dám cỡi.
Nghiêm Sơn nói:
– Được, cô nương cứ cỡi nó. Tôi sẽ cỡi con ngựa khác chạy theo cô nương, nếu nó dở chứng, tôi bắt nó phải ngoan ngoãn.
Thiều Hoa nháy mắt hai cái. Nghiêm cho rằng nàng có tình ý với mình, muốn hẹn nhau chỗ vắng tình tự. Người chàng như muốn bay lên mây. Thiều Hoa thét lên một tiếng thảnh thoát, uốn mình phi thân lên ngựa, lưng nàng uốn cong coi rất ngoạn mục. Nàng ra roi cho ngựa chạy vào ven rừng. Nghiêm Sơn phi ngựa theo. Đến một khúc quanh, Thiều Hoa đi chậm lại, Nghiêm Sơn cho ngựa đi song song với nàng.
Thiều Hoa hỏi:
– Nghiêm đại ca, tôi hỏi thực đại ca một điều, trong bọn mười người chúng tôi có ai là người của đại ca gài vào làm gian tế không?
Nghiêm Sơn đáp:
– Không, không có một người nào cả. Nếu có thì là của phủ Tế– tác Cửu-chân hoặc Giao-chỉ.
Thiều Hoa nói:
– Nếu vậy thì tốt quá. Tôi muốn nhờ đại ca một việc, không biết đại ca có dám làm không?
Nghiêm Sơn bị khích, máu nóng nổi dậy, nói:
– Trên đời này chỉ có hoàng đế Đại Hán là tôi nhường bước thôi. Còn tôi há sợ gì ai? Cô nương sai bảo gì tôi xin làm hết sức mình.
Thiều Hoa nói:
– Đại ca biết tiểu sư đệ Đào Kỳ của tôi chứ?
– Có, y thực là dễ thương, tôi muốn hỏi cô nương, y đâu rồi?
– Y bị Phong-châu song quái bắt mấy hôm rồi. Song-quái theo bén gót bọn tôi, không hiểu để làm gì?
Nghiêm Sơn nói:
– Muốn có tin tức tiểu sư đệ của cô nương cũng không khó. Tôi sẽ phát lệnh bài đi tất cả các huyện lệnh, huyện uý, Lạc-hhầu, Lạc-tướng trong vùng nhờ họ cho biết hành tung của Song-quái thì tìm ra ngay. Theo như tôi nghĩ, thì Song-quái hiện ở Đào, Đinh trang để chiêu tập dân chúng. Họ mới được phong làm Lạc-hầu thay thế sư phụ và sư thúc cô nương. Song-quái bắt tiểu sư đệ của cô nương mục đích dẫn dụ cho sư phụ, sư mẫu cô nương xuất hiện, để chúng bắt đấy thôi.
Vừa nói, chàng vừa mân mê cành hoa đào Đào Kỳ lấy trên mái tóc Thiều Hoa tặng cho. Thiều Hoa đỏ mặt, cúi đầu, ra roi cho ngựa chạy trở về.
Nàng xuống ngựa nói với Nghiêm Sơn:
– Đa tạ Đại-tướng quân tặng ngựa. Sẽ có ngày báo đáp.
Hai đoàn người chia tay nhau. Phạm Bách dẫn đệ tử đến Cao gia trang.
Cao gia trang nằm dài từ bờ sông đến triền núi, dài gần 20 dậm. Bên ngoài cổng có gia đinh đứng gác.
Phạm Bách đến trước gia đinh nói:
– Phiền đại huynh báo với trang chủ, có Phạm Bách cầu kiến.
Gia đinh dùng ngựa phi vào trang. Lát sau, có tiếng vó ngựa chạy trở ra. Trên lưng ngựa, một trung niên nam tử, thân thể cực kỳ hùng vĩ, đi tới.
Người đó xuống ngựa, chắp tay thành quyền chào Phạm Bách:
– Vị nào là Phạm lạc tướng? Tại hạ là Cao Cảnh Sơn đây.
Phạm Bách chắp tay vái:
– Phạm Bách ở Dương-xá và đệ tử Đào trang ở Cửu– chân xin bái kiến Cao Cảnh hầu.
– Cách đây hơn tháng, chúng tôi nghe Đào, Đinh hai trang bị nạn, đang buồn không biết tình hình ra sao, may gặp Lạc-tướng đây, thì chắc biết được tin tức Cửu-chân song kiệt. Nào, mời quý vị vào tệ trang.
Đoàn người đi một lát tới đại sảnh đường. Đại sảnh đường là một gian nhà lớn, có thể chứa được vài ngàn người. Bên trong trần thiết cực kỳ nghiêm trang: Giữa sảnh một bàn thờ, trên có tượng Cao Nỗ, Cao Tứ cầm cung uy nghiêm. Hai bên có hai tấm da hổ đã lột ra, nhồi vải trong như hổ còn sống. Trang chủ sai lấy nước, hoa quả mời khách. Những chén nhà họ Cao toàn bằng sành màu gan gà rất lớn.
Trang chủ mời khách:
– Trang chúng tôi uống nước muồng, chứ không uống trà. Hạt muồng phơi khô, rang cháy đi, nấu lẫn với vối tươi, vừa thơm, vừa dễ ngủ.
Phạm Bách giới thiệu đệ tử Thiều Hoa, Trịnh Quang với trang chủ, rồi kể hết mọi sự việc Đào, Đinh trang. Ông tỏ ý muốn nhờ Cao trang chủ cho đệ tử Đào gia ở nhờ, trong khi ông cùng Thiều Hoa, Trịnh Quang đi tìm Đào Thế Kiệt và Đinh Đại.
Cao Cảnh Sơn buồn rầu nói:
– Việc của Đào, Đinh hai nhà cũng là việc của chúng tôi, xin quý vị cứ coi đây như Đào gia trang. Có điều, sau Đào, Đinh, không biết bao giờ Thái-thú tính đến Cao trang đây?
Phạm Bách nói:
– Đây thuộc Giao-chỉ chứ không thuộc Cữu-chân. Thái-thú Giao-chỉ là Tích Quang. Tôi thấy Tích Quang bị Hán đế nghi ngờ, y hiện lo giữ thân còn chưa xong, nên chắc không rảnh thì giờ để hại các trang, các động. Lợi dụng cơ hội này, võ lâm đồng đạo Giao-chỉ nên tích cực thống nhất hành động, nhất tề nổi lên. Trước đánh chiếm Giao-chỉ làm căn bản. Giao-chỉ đã thất thủ, thì Cửu-chân, Nhật nam bị cô lập, chỉ hô một tiếng, dân chúng nổi dậy là thành công. Được Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật Nam, chúng ta tiến lên miền Bắc đánh Quế-lâm, Tượng-quận và Nam Hải, lập lại truyền thống Lĩnh Nam nhà ta cũng không khó.
Cao Cảnh Sơn nói:
– Khó một điều là hai tên thái thú Tích Quang, Nhâm Diên giả nhân, giả nghĩa, nêu cao ngọn cờ Hán-Việt bình đẳng, đem lễ nghĩa Khổng, Mạnh dạy dân. Dân mình gần như bị lôi cuốn vào hào quang đó, quên mất mình là giống giòng Tiên Rồng mất rồi.
Ngừng một lát, ông nói tiếp:
– Trước mắt chúng ta là làm sao tìm được cuốn phả vẽ cách chế nỏ thần của tổ tiên tôi ngày xưa. Chế được nỏ thần, chúng ta cho người đi các nơi thuyết phục hào kiệt, chỉ một trận nổi lên thì 65 thành trì, sẽ trở về Âu-lạc ta.
Phạm Bách nói:
– Giữa Cao trang chủ với chúng tôi thì cùng một đường đi, dựng lại Âu-lạc. Nhưng sợ cái nạn chưa có da cọp, đã tranh dành bán da rồi mới khó. Phái Cửu-chân, Long-biên, Hoa-lư muốn lập lại Âu-lạc. Nhưng phái Tản-viên, Sài-sơn lại muốn lập lại Văn-lang. Ngoài ra còn phái Quế-lâm muốn lập lại giòng dõi Triệu Đà.
Cao Cảnh Sơn dành riêng cho đám đệ tử Đào gia một khu trang trại riêng biệt rất rộng với đầy đủ nhà cửa, giường chiếu, đồ dùng, lương thực, lừa ngựa, xe cộ. Trịnh Quang hiện là người lớn nhất, thay quyền sư phụ cai quản các sư huynh, sư đệ. Mấy ngày sau, tất cả đám sư huynh đệ ở nhờ nhà Phạm Bách đã lục tục đến. Đệ tử Đào gia vốn sống thân mật với nhau đã quen, nên dù thay đổi chỗ ở, họ cũng không cảm thấy cô đơn. Hàng ngày Trịnh Quang luyện võ cho họ. Thiều Hoa thì chán nản trong lòng, không thiết ra ngoài, nàng nằm ì ở trong phòng.
Một đêm tối trời, nàng chập chờn ngủ, thì có tiếng gõ nhè nhẹ ba tiếng. Nàng sẽ ngồi dậy, mở cửa, thấy có bóng đen chạy lên sườn đồi. Là người học võ, nàng biết người này muốn nói gì với nàng đây, nên nàng đuổi bước đuổi theo. Tới đỉnh đồi, bóng đen ngừng lại:
– Hoàng cô nương, tôi tới trễ, cô nương có mong lắm không?
Thì ra Nghiêm Sơn. Nàng hồi hộp hỏi:
– Có tin của tiểu sư đệ không?
Đáp:
– Có thì có rồi đây. Đêm nay chúng ta đi cứu y.
Thiều Hoa mừng quýnh lên:
– Đi, chúng ta đi ngay bây giờ. Tiểu sư đệ bị giam ở đâu?
Nghiêm Sơn nói:
– Song-quái giam nó ở hang Địch-lộng, cách đây không xa .
Ghi chú của thuật giả:
Hang Địch-lộng: Từ Phủ-lý đi về hía Nam 80 km tới Kẽm-trống, băng ngang cầu là hang Địch-lộng. Hang ở trên cao, phải trèo 80 bậc mới tới. Ngoài hang là một ngôi chùa. Đường hang đi thông qua quả núi dài 611 m. Trong hang có nhiều thơ, phú, sấm ký của danh nhân các thời. Hồi 1945, thuật giả được sư phụ dắt lên chùa lễ Phật. Trị sự trưởng là một sư bà. Thuật giả được sư bà thương mến, dắt đi viếng chùa, viếng hang, giảng cho không biết bao nhiêu là những bài thơ, phú, kệ, sấm ký ở trong hang. Lâu ngày qua, thuật giả không còn nhớ được pháp danh của vị sư bà khả kính ấy nữa. Chả biết trải qua bao đổi thay, những thơ, phú, kệ, sấm ký có còn không?
Đi một lát tới ven rừng, Nghiêm Sơn chỉ hai con ngựa cột đó:
– Chúng ta phải lên ngựa đi mới được, từ đây lên Địch-lộng hơi xa, nhưng chúng ta dùng ngựa thì cũng không lâu. Tôi đến đó dùng quyền bắt Song-quái giao tiểu sư đệ đưa về Luy-lâu. Nhưng cần nhất cô nương nên cải nam trang để cùng đi với tôi thì tiện hơn.
Thiều Hoa hỏi:
– Trường hợp Song-quái không chịu giao tiểu sư đệ cho đại ca thì sao?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương đừng lo. Song-quái được làm Lạc-hầu hai trang Đào, Đinh, chúng đâu dám trái ý tôi? Chúng còn muốn làm huyện úy nữa, nên tôi nói gì Vũ Hỹ cũng phải tuân theo. Nếu y trái lệnh, thì tôi chiếu quân pháp chặt đầu y ngay.
Thiều Hoa hỏi:
– Tôi sợ Song-quái dấu tiểu sư đệ đi một chỗ, rồi chối rằng chúng không bắt nó, thì mới khổ?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương yên tâm. Trong sào huyệt của Song– quái, tôi cài rất nhiều người nên nhất cử nhất động của chúng, tôi đều biết. Song-quái giam tiểu sư đệ trong một động nhỏ, cho ăn uống tử tế, y không khổ sở đâu. Dường như tiểu sư đệ của cô nương biết sử dụng Phục ngưu thần chưởng, do vậy Song-quái dỗ y khai ra ai đã dạy. Y nhất định không khai. Cô nương, cô là sư tỷ, chắc cô biết chưởng đó.
Thiều Hoa lắc đầu:
– Tôi chỉ nghe qua mà thôi. Chưởng đó không phải của Cửu-chân chúng tôi, mà của phái Tản-viên. Song– quái là đệ tử của Tản-viên, nên muốn tra xét xem tại sao tiểu sư đệ lại biết?
Nghiêm Sơn nói:
– Thần chưởng Phục ngưu lợi hại vô cùng, không biết tiểu sư đệ học được mấy chiêu? Theo tôi biết, chưởng này có 36 chiêu, khi sử dụng biến ra Âm, Dương, thì 36 thành 72. Tuy có 72 chiêu, nhưng mỗi chiêu bao hàm quyền, chưởng, chỉ, trảo, dực, thành ra 360 chiêu. Sư phụ của Song-quái là Nguyễn Thành Công chỉ biết có bảy chiêu. Ông dạy cho Song-quái cả bảy nhưng không dạy biến hoá, nên chúng muốn khảo để tìm đọc cho hết.
Thiều Hoa nói:
– Hôm đó, trong đền thờ Cao Nỗ, tôi thấy tiểu sư đệ sử dụng một chiêu, có đến bốn biến hoá. Tôi không biết võ công gì, sau thấy Song-quái kêu là Phục ngưu thần chưởng thì biết vậy thôi.
Nghiêm Sơn nói:
– Một chiêu biến thành hai, rồi hai biến thành năm lần nữa hoá ra mười chiêu. Dường như hôm đó tiểu sư đệ sử dụng là lần đầu, cho nên không thạo lắm, tuy cũng đánh trúng Vũ Hỷ, nhưng bị nó đá văng ra xa.
Thiều Hoa ủa một tiếng:
– Thì ra hôm đó đại ca cũng nấp ở ngoài nhìn thấy à?
– Đúng, tôi theo Song-quái để biết rõ hành tung của họ. Cô cảm thông cho, vì ở địa vị tôi, cần phải biết rõ y trước khi cho làm huyện úy. Tôi thấy một mặt chúng mơ tưởng quan quyền, một mặt chúng tổ chức rất nhiều sào huyệt cơ sở, nên phải theo để biết. Thì ra Song-quái muốn làm bá chủ võ lâm. Y cũng như sư phụ y và người của phái Tản-viên đua nhau tìm bộ Văn Lang võ kinh, nhưng cho đến nay tất cả chưa ai đạt được. Nếu một trong những người họ đạt được, họ sẽ nắm hết các võ phái thuộc Văn-lang, tức là nắm được phân nửa đất Lĩnh Nam này vậy. Một đàng họ dựa thế của chúng tôi để biết các võ phái thuộc Âu-lạc. Một đàng chúng lo tìm kiếm võ kinh, để làm bá chủ.
Thiều Hoa chua chát:
– Vì vậy, Đào gia chúng tôi mới tan nát như ngày nay.
Nghiêm Sơn thở dài:
– Hoàng cô nương, tôi cần phải nói thực với cô nương một điều. Tôi là người Hán sang đây cai trị người Việt. Người Hán cũng có kẻ ác, người thiện. Như Nhâm Diêm, Tích Quang giả nhân giả nghĩa, làm cho người Việt tin chúng, rồi chúng tỉa dần những người lương thiện. Còn tôi, dầu sao cũng xuất thân nghĩa hiệp, không ham danh lợi. Chỉ vì gặp Kiến Vũ hoàng đế trong cơn nguy khốn, tôi ra tay cứu giúp. Kiến Vũ hoàng đế đối với tôi bằng tình bạn, cử tôi sang kinh lược đất Việt. Tôi mới tới, nghe báo cáo của phủ Tế-tác rằng đất Cửu-chân có chín Lạc-hầu, thì năm là người lương thiện, hai là người chỉ thích văn học, nhàn nhã. Còn hai nhà Đào, Đinh là đầu trộm, đuôi cướp. Tôi tin thực, mang quân vào trợ chiến. Giữa lúc giao chiến thì tôi gặp cô nương và tiểu sư đệ. Trong đêm đánh cảng Bắc, tôi đã cảm thấy mình lầm lẫn. Đào hầu có một người con trai nhỏ tuổi như tiểu sư đệ, văn võ tinh thâm; một nữ đệ tử ôn nhu văn nhã như cô, thì làm sao có thể là trộm cướp được? Tới khi tôi đối chưởng với sư thúc cô, tôi thấy võ công ông rất cao. Tôi đối thoại với sư mẫu cô nương, thì tôi biết mình bị lừa hoàn toàn. Tôi hối hận bao nhiêu, thì giận thái thú Nhâm Diêm bất nhiêu. Bây giờ thì chỉ có cách, tôi tự trở lại với vai trò nghĩa hiệp, trừ Nhâm Diêm, đưa người khác lên thay. Còn Phong-châu song quái, tôi sẽ tìm một chỗ khác cho họ cai trị. Tôi sẽ cùng cô nương đi tìm Đào, Đinh tiên sinh tạ lỗi, rồi mời người trở về trang ấp như cũ... Hà, một đời Nghiêm Sơn nghĩa hiệp, mà nay đi trợ ác đánh người đồng đạo, thì còn gì là “nghĩa” nữa.
Thiều Hoa lắc đầu:
– Liệu Kiến Vũ hoàng đế có chịu như vậy không?
Nghiêm Sơn thở dài:
– Với võ công của tôi, trong đêm tối, tôi giết thái thú Nhâm Diêm bí mật, thì ai mà trách được? Ví dầu Kiến Vũ hoàng đế có biết, người cũng phải chịu.
Hai người đang trò chuyện, có tiếng quát:
– Ai?
Nghiêm Sơn đáp:
– Ta đây!
Trong bóng tối, có sáu người nữa bước ra chấp tay hành lễ:
– Chúng tôi đợi Quốc-công đã lâu.
Nghiêm Sơn chỉ sáu người giới thiệu:
– Hoàng cô nương, tôi giới thiệu với cô sáu vị đây nổi danh là Hợp-phố lục hiệp. Các vị cùng sang Lĩnh-Nam với tôi. Sáu vị đều làm việc tại phủ Lĩnh Nam, nên cùng đi chung.
ThiềuHoa cúi đầu chào:
– Thì ra sáu vị đã nổi tiếng về nhân nghĩa ở đất Hiệp-phố. Các vị cùng là người Lĩnh Nam như tôi cả.
Hiệp-phố nhất hiệp Lưu Nhất Phương nói:
– Chúng tôi cũng bị mắc mưu Nhâm Diêm như Quốc-công. Mong cô nương không trách phạt là may.
Nghiêm Sơn phất tay:
– Chúng ta đi.
Tới một sườn núi cao vời vợi, Nghiêm Sơn nhìn lên rồi phất tay, lập tức một người rút trong bọc ra ba mũi tên, châm lửa bắn lên trời.
Sau mấy khắc, trên sườn núi cũng bắn xuống năm mũi tên lửa. Tiếp theo Phong-châu song quái chạy xuống như bay.
Vũ Hỷ chắp tay:
– Tiểu nhân là Vũ Hỷ xin tham kiến Quốc-công.
Nghiêm Sơn nói:
– Tôi có một việc muốn thương lượng với Vũ lạc hầu.
Vũ Hỷ khúm núm mời:
– Xin mời Quốc-công cùng các vị thượng sơn.
Đoàn người theo các bậc đá leo lên núi. Đúng 80 bậc thì tới cửa một cái hang thiên nhiên. Cửa hang bằng gỗ mở rộng, bên trong đèn đuốc sáng choang, trang trí như một đại sảnh lớn.
Song-quái mời Nghiêm Sơn ngồi rồi nói:
– Chúng tôi tiếp được tin Quốc-công cùng các huynh đệ trong phủ Tế-tác quang lâm, nên đã chuẩn bị tiệc sẵn để kính mời, gọi là lấy thảo.
Vũ Hỷ rót rượu vào chén từng người một:
– Đây là rượu chuối, chuối vùng này có tiếng thơm ngon. Hàng năm chúng tôi để cho chuối chín cây, sau đó mới ướp men làm rượu. Men, chuối ướp trong một thùng bằng gỗ rồi bỏ xuống đáy khe suối. Sau sáu tháng hấp thụ thuỷ khí thiên nhiên, lấy lên uống ngon lắm.
Tiệc đã bày ra, Vũ Hỷ mời Nghiêm Sơn vào ngồi chủ toạ, còn thứ đến Thiều Hoa và những người tuỳ tùng. Còn vợ chồng y thì ngồi vào địa vị chủ nhân để bồi tiếp.
Vũ Hỷ rót rượu cho Nghiêm Sơn:
– Đã có rượu chuối, thì phải có đồ nhắm đặc biệt. Vùng núi này nổi tiếng nhiều ong mật. Trứng ong đẻ vào từng lỗ của tổ, khi lớn lên gần đến ngày mọc cánh thì gỡ ra, những con nhộng này vừa béo, vừa thơm, ăn vào có thể chống được nọc độc của sâu bọ, rắn rết. Chỉ cần bỏ nhộng vào chảo với mấy muỗng mỡ, rang lên cho vàng là ngon tuyệt.
Nhộng ong quả nhiên thơm và ngon. Thiều Hoa không biết uống rượu, nàng phải nhân Song-quái nhìn đi, đổi chén với Nghiêm Sơn. Rượu được vài tuần, Vũ Hỷ hỏi:
– Thưa Quốc-công, các vị huynh đệ có thể tin được không?
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Họ đều là chân tay của tôi cả. Chúng tôi coi nhau như huynh đệ.
Vũ Hỷ hân hoan nói:
– Theo tiểu nhân biết, thì đất Lĩnh Nam này có hai mối lo. Một là các di tộc của đám tướng sĩ bại trận thời Aâu-lạc, đa số tập trung ở vùng Cửu-chân, Lục-hải, Việt-thường. Trong đó đáng lo nhất là “Cửu-chân cửu gia” tức chín trang. Nhờ tài thao lược của Quốc-công thì năm gia trang đã quy phục với Hán, còn hai gia trang tiểu nhân đã dùng kế khích bên này, bên kia, để năm nhà thù hằn hai nhà còn lại. Cuối cùng hai trang Đào, Đinh quan trọng hơn cả, thì một trận chúng ta đã quét sạch. Vùng Long-biên thì phái Long-biên thế lực cực mạnh. Chưởng môn Nguyễn Trát tuy có danh, mà không có thực tài. Lúc nào y cũng sợ sư bá, sư thúc trở lại kiếm chuyện, dành ngôi. Phái Sài-sơn có tám vị Thái-bảo, chỉ có đức mà không có lực thì cũng chẳng làm gì. Phái Tản-viên của chúng tôi thì Đặng Thi Sách chỉ là con đom đóm bên cạnh mặt trời của thái sư thúc Lục trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh. Hoa Lư người đông, thế mạnh, mới thực là điều đáng sợ.
Nghiêm Sơn hỏi:
– Theo ý Vũ tiên sinh thì nên làm gì bây giờ?
– Võ công vùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật Nam vốn có hai giòng: Giòng Văn-lang và giòng Âu-lạc. Thục Phán đánh vua Hùng lập ra Âu-lạc. Bây giờ các phái Sài-sơn, Tản-viên thuộc Văn-lang. Phái Long-biên, Cửu– chân, Hoa-lư thuộc Âu-lạc. Cả hai giòng đều muốn phản Hán phục Việt. Chúng ta không cần làm gì hết, chỉ cần đứng giữa khiêu khích cả hai bên chém giết nhau. Chúng ta làm ngư ông thủ lợi.
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Nhân huynh thực là người đởm lược, mưu kế viễn lự. Dường như nhân huynh có bắt được con út Đào Thế Kiệt phải không? Ta muốn giải nó về Luy-lâu để dụ cho cha mẹ nó đến cứu, và bắt một thể.
Vũ Hỷ là người thông minh tuyệt đỉnh. Trong trận chiến ở cảng Bắc, y thấy Nghiêm Sơn khách sáo với vợ chồng Đào Thế Kiệt, y không rõ nguyên do. Suốt mấy tháng nay, y cố tìm hiểu mà vẫn không ra manh mối. Sau trận cảng Bắc, y đi một đường, Nghiêm Sơn đi một đường nên y không biết vụ chàng gặp Thiều Hoa, và mối tình đã chớm nở. Với đầu óc đa nghi, y cho rằng có thể vợ chồng Đào Thế Kiệt cùng làm việc cho phủ Tế-tác. Nhưng nếu đã là người của phủ Tế-tác, sao thái thú Cửu-chân còn tấn công Đào trang? Vũ Hỷ là người cơ mưu xảo trá, nhưng nghĩ đến nát óc cũng không hiểu nội vụ:
– Xin đại nhân chờ một chút, tôi sẽ giải nó lên.
Y quay lại người hầu cận:
– Giải thằng nhỏ láu cá lên.
Một lát, có tiếng Đào Kỳ chửi bới:
– Chúng mày uổng danh là đệ tử núi Tản-viên, mà tư cách hèn hạ. Ta nghe người chưởng môn đương thời là Đặng Thi Sách, anh hùng hào sảng, mỗi hành vi đều quang minh lỗi lạc. Thế mà trong môn phái lại nảy ra hai đứa chúng bay vô lại đến thế, ỷ lớn hiếp bé, ỷ chúng hiếp cô. Chúng mày còn mặt mũi nào nhìn đời nữa? Chúng bay muốn học võ của tổ tiên chúng bay thì về Mê-linh mà hỏi Đặng Thi Sách, tại sao lại giam ta để tra vấn?
Tới đại sảnh, nó thấy Thiều Hoa mặc giả trai ngồi đó, nó làm bộ không biết, nhưng khi nhìn thấy Nghiêm Sơn nó cười hì hì:
– Nghiêm đại ca, đại ca là Quế-lâm thần kiếm, nổi danh hiệp nghĩa đất Trung-nguyên. Tiểu đệ nghe nói, đại ca vì bảo vệ thái tử Lưu Tú mà đi ba ngày, ba đêm từ Trường-sa đến Côn-dương, đánh 20 trận với võ sĩ Vương Mãng, bị thương 15 lần. Vì vậy Kiến Vũ thiên tử mới kết huynh đệ với đại ca. Tại sao đại ca lại đi ngồi chung với hai con quái này?
Song-quái bị Đào Kỳ chửi bới, lột mặt mạ, xấu hổ quá, y muốn lên tiếng quát tháo, nhưng thấy Đào Kỳ gọi Nghiêm Sơn là đại ca, y càng hoang mang hơn, không biết liên hệ giữa hai người ra sao.
Y vội đứng dậy cởi trói cho Đào Kỳ. Đào Kỳ nhìn Thiều Hoa, hỏi Nghiêm Sơn:
– Đại ca, không biết mấy tháng nay sư tỷ em ở đâu, đại ca có tin tức gì không? Em nhớ chị ấy quá.
Nghiêm Sơn bảo Kỳ:
– Giữa em và Vũ đại huynh đây có chỗ hiểu lầm đấy thôi. Ta đến đón em về Luy-lâu chơi. Thôi chúng ta lên đường. Còn Hoàng sư tỷ của em, ta cũng không biết ở đâu nữa.
Đào Kỳ bảo Song-quái:
– Đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc. Ngươi bắt ta để tìm võ công của môn phái ngươi. Nhưng mấy tháng nay ngươi đã tìm được gì chưa? Tuy ngươi giam ta, nhưng vẫn cho ta ăn uống đầy đủ. Vậy ta cũng có chỗ trả ơn ngươi. Ngươi bắt ta để tra hỏi về Phục ngưu thần chưởng. Ta nói thực: Ta chỉ biết có 18 trong 36 chiêu, cho nên khi giao đấu, chỉ có thể sử dụng từng chiêu một, chứ không thể sử dụng liên miên bất tuyệt từ chiêu này sang chiêu khác. Nguyên tắc võ học Văn-lang là như thế này: Mỗi chiêu gồm ba phần là công, nghinh, thủ; nghĩa là trong chiêu thì có thể tấn công trước, trong cái tấn công phải có phần đỡ đòn đối thủ phản công, và phải có chỗ đề phòng bảo vệ môn hộ cho chắc. Ngươi hiểu chưa?
Phương Anh giật bắn người lên. Khi thị học võ, sư phụ chỉ dạy từng chiêu, mà không giảng khẩu quyết nên y thị sử dụng không đủ uy mãnh, đôi khi còn sơ hở để đối phương phản công. Nay nghe Đào Kỳ giảng, y thị như người mù sáng mắt ra.
Đào Kỳ nói tiếp:
– Ba đoạn công, nghinh, thủ, sử dụng cái nào trước cũng được. Nếu bị người ta ra chiêu trước thì nghinh đi trước và công, thủ đi sau. Còn mình ra tay trước thì công đi trước, còn nghinh, thủ đi sau. Làm sao để từ chiêu này đến chiêu khác liên miên bất tuyệt, đừng để gián đoạn. Muốn đạt tới mức đó phải biết cả 36 chiêu, nhưng ta chỉ biết có 18 chiêu nên mới bị ngươi bắt. Hiểu chưa?
Nó quay lại nói với Nghiêm Sơn:
– Nghiêm đại ca, chúng ta đi thôi.
Nghiêm Sơn đứng dậy dặn Song-quái:
– Bản chức chờ quý vị ở Luy-lâu. Xin quý vị đến càng sớm càng tốt. Chúng ta có nhiều việc để làm.
Đoàn người xuống dưới núi, lên ngựa ra đi. Đào Kỳ không có ngựa, nó nhảy đến vèo một cái lên ngồi phía trước Thiều Hoa:
– Sư tỷ, em nhớ sư tỷ đến chết được.
Chính Thiều Hoa cũng định nói câu đó. Nàng ngẫm ra rằng thường ngày tình yêu cha con, thầy trò, bạn hữu tiết ra đều đặn không có gì để đo được mạnh hay yếu. Chỉ khi người ta xa nhau, mới thấy nhớ nhung, thương tiếc mạnh hơn lên. Dẫu nàng với Đào Kỳ, tình là sư tỷ, sư đệ, nhưng nàng thấy chú bé tiểu sư đệ nàng với nàng tình thâm như biển. Nàng vuốt tóc Kỳ:
– Song-quái bắt em về, chúng có hành hạ em không?
Kỳ cười nắc nẻ:
– Không những không hành hạ mà còn chiều chuộng dỗ dành em, để em khai ra những chiêu thức của Phục ngưu thần quyền.
– Thế em có khai không?
Đào Kỳ cười ha hả:
– Chị thử đoán xem.
Thiều Hoa cốc khẻ vào đầu Kỳ:
– Gì mà chị không hiểu, hồi nãy em chửi Song– quái, thì chị biết em không khai rồi. Thế mà cũng hỏi. Nhưng có điều chị không hiểu là em học Phục ngưu thần chưởng ở đâu? Ai dạy em? Dạy trong trường hợp nào? Hồi nãy chị thấy em giảng yếu quyết võ công cho Song-quái. Yếu quyết đó không phải của nhà ta, vậy thì ở đâu có mà em giảng?
Đào Kỳ cười:
– Song-quái tin rằng em biết Phục ngưu thần chưởng nên em bịa đại ra mà nói cho chúng lầm chơi. Sự thực những bí quyết đó, em nghe bố với cậu nói chuyện về nguyên tắc võ công Văn-lang. Phục ngưu thần chưởng xuất từ Văn-lang, nên em đem ra nói, chúng mới tin là thực.
Đào Kỳ ngưng một lúc tiếp:
– Em có biết Phục ngưu thần chưởng đâu? Em loè Song-quái đấy chứ. Cách đây mấy tháng nhân bố với cậu em bàn luận võ công đều nói rằng Phục ngưu thần chưởng là võ công vô thượng của Văn-lang. Hồi trước An Dương vương thắng được Văn-lang là nhờ có nỏ thần, chứ nếu đấu võ thì thua xa. Chưởng Phục-ngưu hồi đầu do phò mã Sơn Tinh chế ra gồm có 36 chiêu dương cương, uy mãnh cực kỳ mạnh. Sau Vạn-tín hầu đấu với Sơn Tinh, thấy rằng dùng cương đánh với Phục ngưu thần chưởng thì chỉ có thua. Ngài mới nhân mỗi chiêu của dương cương, chế ra một chiêu âm nhu khắc chế, cộng thành 72 chiêu. Tuy gọi là chiêu, song mỗi chiêu rất dài, bao gồm biến hoá quyền, chưởng, chỉ, cước, trảo, dực. Nếu học được 36 chiêu dương hoặc âm thì khi sử dụng chiêu nọ nối chiêu kia, liên miên bất tuyệt. Nếu học được cả dương cương lẫn âm nhu thì khi cương, khi nhu, địch thủ không biết đâu mà lường. Nhưng đến nay phái Tản-viên bị thất truyền hết. Chưởng môn là Thi Sách cũng chỉ biết có bảy chiêu dương cương. Thái sư thúc của ông là Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh thì biết được 12 chiêu. Song-quái cũng học với sư phụ y được bảy chiêu.
Thiều Hoa ngắt lời:
– Thế chiêu em đánh với Vũ Hỷ tại đền thờ của Cao Nỗ chả là Phục ngưu thần chưởng là gì?
Đào Kỳ cười hô hố:
– Chị cũng như Song-quái, thấy chiêu võ quái dị, cho rằng đó là Phục ngưu thần chưởng, chị lầm rồi! Khi em nghe bố với cậu bàn về Phục ngưu thần chưởng, mới nhân đó, kết hợp ba chưởng, chỉ, trảo chế ra một chiêu võ chơi. Không ngờ lúc bí đem sử dụng, Vũ Hỷ tưởng là Phục ngưu thần chưởng.
Khi đến gần Cao gia trang, Nghiêm Sơn nói:
– Thôi Hoàng cô nương, tiểu sư đệ, chúng ta từ biệt ở đây thôi. Cao trang là nơi chống người Hán, tôi không vào được, nếu tôi vào sẽ bất lợi cho cô nương và tiểu sư đệ lắm. Không biết cô nương và tiểu sư đệ có tin tôi không?
Đào Kỳ nói:
– Tin, tôi tin đại ca.
– Cám ơn tiểu sư đệ, nhưng tại sao em tin tôi? Khi tôi là quan người Hán, đối đầu với người Lĩnh Nam, hơn nữa cùng tham dự vào trận đánh phá Đào gia trang.
Đào Kỳ cười:
– Có gì mà không hiểu. Việc đánh phá Đào gia trang là do Nhâm Diêm chủ xướng. Bất quá đại ca và Hợp-phố lục hiệp chỉ đến trợ chiến mà thôi. Từ lúc đại ca gặp chúng tôi thì đại ca đã đổi khác hẳn. Hôm đó có thể bắt chúng tôi mà đại ca để nguyên. Tôi nghe Song-quái nói đại ca có thể bắt gia đình tôi mà không bắt. Tôi biết lý do tại sao đại ca lại hành động như vậy rồi mà tôi không dám nói.
Nghiêm Sơn hỏi:
– Tiểu sư đệ, em thử nói xem có đúng không?
– Nói thì dễ thôi! Nhưng sư tỷ không được đánh người ta.
Thiều Hoa sợ Đào Kỳ nói toẹt tâm sự mình ra thì xấu hổ chết. Nàng dơ tay cốc vào đầu nó một cái, nàng nói để trấn áp mình:
– Không được nói bậy!
Đào Kỳ gật đầu:
– Thì em có nói gì bậy đâu? Em nói đúng mà thôi. Không biết tại sao, khi gặp đại ca trong trận đánh cảng Bắc, em đã đoán ra đại ca không giống như những bọn Hán quan chỉ biết hối lộ, giết người tàn ác. Em hỏi thực đại ca, giả như đại ca khám phá ra âm mưu thâm độc của Nhâm Diêm, liệu đại ca có trợ chiến cho y không? Trường hợp đó, đại ca sẽ hành động thế nào?
Nghiêm Sơn trầm ngâm một lúc rồi trả lởi:
– Ta sẽ mời sư phụ, sư thúc của tiểu sư đệ đến hội kiến. Sau đó ta đích thân đến Đào, Đinh trang chơi. Với con mắt kinh nghiệm của ta, ta biết rằng hai vị không phải là quân trộm cướp. Ta sẽ yêu cầu Nhâm Diêm bãi binh. Trường hợp y không bãi binh, ta đem binh của ta kiềm chế y, chặt đầu y, sau đó dâng biểu về triều. Ta là Bình-nam đại tướng quân, có toàn quyền khắp vùng Lĩnh-nam.
Ngừng một lúc chàng tiếp:
– Từ ngày sang Lĩnh-nam đến giờ, ta đã xử tử không biết bao nhiêu bọn quan liêu người Hán tham ô, hại dân. Ta tuy là Lĩnh-nam công, nhưng lại cầm thanh gươm nghĩa hiệp trong tay, chứ không phải là một thứ quan quyền ác độc như tiểu sư đệ thường thấy.
Đào Kỳ hỏi:
– Bây giờ thì đại ca có truy nã bố, mẹ em nữa không?
– Dĩ nhiên là không, mà phải đi tìm người để tạ lỗi nữa.
Hai người đối đáp mà Thiều Hoa cảm thấy bàng hoàng như đi trên mây.
Đào Kỳ tiếp:
– Em biết đại ca thực lòng với nhà em, vì cả những chuyện quốc gia đại sự, đại ca cũng bàn trước mặt chúng em. Đại ca coi Song-quái như tôi tớ, còn em như ruột thịt, không lẽ đến như vậy mà em không tin đại ca nữa sao? Bây giờ thế này: Sư tỷ về Cao gia trang, còn em thì đi với Nghiêm đại ca để tìm bố mẹ.
Thiều Hoa thấy Kỳ sắp xếp sự việc đâu ra đấy, đồng ý ngay:
– Được! Thì em đi với Nghiêm đại ca. Khi gặp sư phụ, sư mẫu rồi thì em nói với người, và thông tin cho chị biết liền. Chị ở Cao gia trang, trông tin em từng ngày từng giờ đấy.
Đào Kỳ cười hì hì:
– Chị thực là vô tình, hay chị nói có một nửa câu? Em sợ chị trông em từng ngày từng giờ. Còn chị trông tin người khác từng khắc từng giây. Em nhớ Kinh thi có bài hát nói về người con gái và người con trai xa nhau, mỗi ngày không gặp nhau, thấy dài bằng ba mùa thu:
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề.
Đào Kỳ xoáy thẳng vào tâm tư Thiều Hoa, làm nàng đỏ mặt, không nói được câu nào. Nàng tát sẽ lên má nó hai cái:
– Bẻm mép!
Nói rồi nàng ôm đầu nó vào ngực, xoa đầu nó, nhảy xuống ngựa. Thiều Hoa vỗ mông ngựa một cái, con ngựa phi nước đại. Nghiêm Sơn liếc ngang, nhìn nàng, thở dài, rồi phi ngựa theo Đào Kỳ:
– Hoàng cô nương, hẹn ngày tái ngộ.
Đến địa phận núi Tam-thai, Phạm Bách nói:
– Tại đây có đền thờ vua Hùng-vương, trong đền có cái trống đồng bằng ba người ôm. Trống này là lễ vật của Sơn Tinh dâng cho vua để cầu hôn với công chúa Mỵ Nương, nay vẫn còn nguyên. Chúng ta vào đó nghỉ ngơi và lễ tổ.
Ghi chú của thuật giả:
Trống đồng này hồi trước 1950 vẫn còn tại núi Tam-thai, trong vùng núi Lam-sơn, Thanh-hoá. Đi từ thị xã Thanh-hoá về phía Tây Bắc 38 km gặp sông Mã, vượt bến Kiều sang đất Vĩnh-lộc. Gần bến Kiều có núi Xuân-đài, động Hồ-công, trong có nhiều nhũ đá, hang đá, tượng đá rất đẹp. Trong hang có khắc thơ Lê Thánh-tông và các danh sĩ đời xưa. Kế đến là Đan-nê, nằm cạnh núi Tam-thai. Trên núi có miếu Đồng-cổ. Trong miếu còn di tích cái trống đồng. Mặt trống đường kính 1,10 m, cao 0,50 m (Hồi thơ ấu, 8 tuổi, tôi được dẫn qua đây, ước lượng kích thước). Trên mặt trống có chín vòng tròn, giữa trống có rốn, lưng trống có khắc nhiều chữ, nhưng đã mờ, đọc không rõ. Tương truyền trống là di vật của thánh Tản-viên dâng vua Hùng làm sính lễ cầu hôn công chúa Mỵ Nương. Đây là những tài liệu ghi được của trường Viễn-đông Bác-cổ trước 1954. Không biết cho đến nay, biết bao tang thương đã qua, miếu và trống có còn hay không? Đoàn người tiến vào đền. Trịnh Quang đã chập chững đi được. Phạm Bách chỉ tượng vua Hùng ngồi trên ngai nói:
– Đây là tượng Lạc Long quân.
Thiều Hoa nhìn lên, thì thấy một người ngồi uy nghi trên ngai vàng, nhưng đầu hơi giống đầu rồng.
Nàng nghĩ thầm:
– Thì ra Lạc Long quân là loài rồng. Hèn chi người Việt mình cứ tự hào là con rồng, cháu tiên?
Nàng hỏi Phạm Bách:
– Thưa sư bá, còn mấy ngày nữa thì tới Hoa-lư?
– Độ năm ngày thôi.
– Sư bá nói, gửi chúng cháu tại Cao gia trang. Cao gia đây có phải là giòng dõi của đại tướng Cao Nỗ không?
– Đúng, Cao trang chủ hiện nay tên là Cao Cảnh Sơn, cháu bảy đời Cao Nỗ. Họ Cao thế lực rất lớn, có tới bảy trang khắp vùng núi Hoa-lư, Tam-điệp, Dục-thuý, tổng số người trong trang lên đến mấy vạn. Chúng ta vào đó an trí đám sư đệ này rồi ta với Trịnh Quang và cháu đi tìm sư phụ cháu.
Thiều Hoa mắc chiếc võng lên hai cây đào nằm. Nàng cố dỗ mắt mà không sao nhập được giấc ngủ. Hình ảnh Nghiêm Sơn lại hiện lên, với dáng điệu phong lưu tiêu sái. Rồi trong đầu nàng lại lởn vởn những lời giáo huấn của sư phụ sư mẫu về cái gương Mỵ Châu lấy chồng ngoại tộc, vì nhất tâm với chồng, làm mất nước. Trải 184 năm mà chưa khôi phục được.
Có tiếng người đi nhè nhẹ, nàng lắng tai nghe: Tiếng chân bước rất nhẹ nhàng, và mau, rõ ràng là tiếng chân của một cao thủ.
Nàng tự hỏi: Ai đây?
Nếu là tiếng chân của Phạm Bách thì nặng chịch, và lão không có trình độ võ công cao. Với bước chân này chỉ sư huynh đệ của nàng mới có thể đạt tới. Mà ở đây thì Trịnh Quang bị thương nặng, bước đi muốn không nổi, còn ai đâu? Phản ứng thực nhanh, nàng lộn khỏi võng, nằm sát mặt đất, hướng mặt về phía tiếng đi, thì thấy một bóng đen chạy ra đường cái lui húi vạch mấy vạch vào bên đường rồi trở về.
Nàng tự nhủ:
– Thế thì trong đám đệ tử Đào, Phạm gia không quá mười người này có gian tế. Chúng định làm gì đây? Ta phải theo dõi mới được.
Các biến cố từ khi rời Phạm trang đều lần lượt hiện ra trước mắt nàng: Cái chết của Tường Loan đầy bí mật. Cuộc chuẩn bị của Phạm Bách chỉ người nhà mới biết, mà bị Song-quái biết. Bất cứ đoàn người đi ngả nào, Phong-châu song quái cũng theo kịp. Ta phải tìm cho ra ai là gian tế? Hắn làm gian tế cho ai?
Sáng hôm sau, nàng ra chỗ bóng đen vẽ vạch bên đường thì thấy viết chữ Hoa-lư, Tam-điệp, Dục-thuý. Bên cạnh vẽ một chữ Vạn.
Thiều Hoa tỉnh ngộ:
– Thì ra gian tế báo tin cho đồng bọn biết đường đi của bọn mình. Nhưng chúng báo cho ai đây? Cho quân Hán hay cho Phong-châu song quái?
Nàng lấy đất chà hết các dấu hiệu rồi trở vào đền cùng đoàn người tiếp tục lên đường. Trong khi đi đường, nàng chú ý quan sát cử chỉ, hành động từng người, nhưng tuyệt không có gì đáng nghi.
Chợt nhớ ra điều gì nàng hỏi Phạm Bách:
– Sư bá, hôm trước trong lúc tiểu sư đệ giao chiến với Phong-châu song quái, y có dùng một chiêu thức rất kỳ quái, cháu chưa từng thấy qua. Với chiêu thức đó, y làm cho Vũ Hỷ trúng đòn, rồi Vũ Hỷ kêu lên “Phục ngưu thần chưởng”. Thưa sư bá, chưởng đó là chưởng gì, cháu chưa từng nghe sư phụ, sư mẫu nói qua, thì làm sao tiểu sư đệ biết mà sử dụng. Lại nữa, thế quyền đó bao hàm: Quyền, chỉ, trảo, cước biến hoá vô cùng, những biến hoá đó không nằm trong nguyên lý võ thuật Cửu-chân.
Phạm Bách gật đầu:
– Ta nghĩ cũng không ra. Chúng ta học võ Cửu– chân, gốc ở Vạn-tín hầu Lý Thân, sau truyền đến Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung... Dù quyền, cước, chỉ, trảo chăng nữa cũng nằm trên một nguyên lý. Nhưng tiểu sư đệ của cháu sử dụng chiêu thức đó nằm ngoài nguyên tắc Thục gia. Mà chỉ với một chiêu, tiểu sư đệ cháu làm cho Vũ Hỷ kinh hồn, đến nổi bắt mang đi tra hỏi, chắc phải có nguồn gốc ghê gớm lắm. Đợi sau này gặp sư phụ cháu, cháu nên hỏi, may ra biết được.
Ông quay sang Trịnh Quang:
– Cháu có nghe sư phụ, sư mẫu đề cập đến quyền pháp này không?
Trịnh Quang gật đầu:
– Một lần đứng hầu Đinh sư thúc với sư phụ cháu, cháu có nghe lõm về quyền pháp ấy. Đinh sư thúc nói rằng nguồn gốc võ học Lĩnh-nam có hai: Một là Văn– lang, hai là Âu-lạc. Võ công Văn-lang cổ nhất do Phù-đổng Thiên-vương chế ra. Sau khi đánh giặc xong, ngài lên núi Sài-sơn (Sóc-sơn) hưởng nhàn, dạy đệ tử, lập ra phái Sài-sơn còn truyền đến ngày nay. Cuối đời Hồng-bàng, một thiên tài võ học nữa xuất hiện là phò mã Sơn Tinh. Ông sáng chế ra Phục ngưu thần chưởng, gồm 36 chiêu rất cương mãnh. Với chưởng pháp này, ông thắng Thủy Tinh, cưới được Mỵ Nương, rồi lên hưởng hạnh phúc ở núi Tản-viên, lập ra phái Tản-viên còn lưu truyền đến nay. Sư phụ của Phong-châu song quái là người phái Tản-viên.
Chàng ngừng lại, nhăn nhó, tỏ ra còn đau đớn:
– Còn nguồn gốc thứ nhì, phát xuất từ đất Tây-vu, tức quê hương của Thục An Dương vương. Khi An Dương vương dựng nghiệp thì có các võ tướng theo phò tá là Vạn-tín hầu Lý Thân, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung tức ông Nồi. Một văn quan làm quân sư là Phương-chính hầu Trần Tự-Minh. Khi đại nghiệp thành, An Dương vương cùng các tướng trao đổi võ công với nhau thành ra võ Âu-lạc. Võ Âu-lạc chia ra Cửu-chân là giòng dõi Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung. Phái Long-biên giòng dõi của Vạn-tín hầu Lý Thân. Phái Hoa-lư giòng dõi Cao-cảnh hầu Cao Nỗ.
Thiều Hoa hỏi:
– Sư huynh, thế Phục ngưu thần chưởng là võ công của Văn-lang sao?
Trịnh Quang gật đầu:
– Đúng! Phong-châu song quái là người của phái Tản-viên, mà phái Tản-viên là đời sau của Sơn Tinh.
Phạm Bách hiểu ra giải thích:
– Vậy thì ta hiểu rồi. Phục ngưu thần chưởng là võ học trấn sơn của Văn-lang, nhưng nay đã thất lạc. Song-quái chỉ học được có vài chiêu, nên khi Kỳ sử dụng là chúng biết ngay. Có lẽ chúng bắt Kỳ để tìm hiểu xem có liên hệ gì với phái Tản-viên không, hoặc để tra hỏi tìm lại võ học phái họ đã mất. Cháu yên tâm, Đào Kỳ không gặp nguy hiểm đâu. Có điều lạ lùng là tại sao Kỳ lại biết võ công phái Tản-viên. Này Thiều Hoa!
– Dạ, cháu nghe.
– Ngoài sư phụ, sư mẫu ra, Kỳ có học võ với ai nữa không?
Thiều Hoa nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Có! Tiểu sư đệ học văn với Nguyễn Thành Công tiên sinh. Nhưng Trần tiên sinh không biết võ, thì làm sao mà dạy tiểu sư đệ được? Có điều trong tất cả các đệ tử học văn của tiên sinh thì tiểu sư đệ được cưng nhất. Tiên sinh thường dẫn tiểu sư đệ dạo chơi núi Nghi-sơn, Biện-sơn, và nhất là đền thờ An Dương vương với Mỵ Châu. Có lần tiên sinh thấy chiếc áo quàng trên tượng Mỵ Châu cũ quá, tiên sinh về mướn người may một cái áo lông ngỗng mới thay vào, và cất cái áo cũ đi.
Phạm Bách đập tay đánh chát một cái la lớn:
– Có thể là ông ấy!
Thiều Hoa hỏi:
– Bác muốn nói là ai?
– Ta muốn nói chính ông thầy đồ đó đã dạy chiêu Phục ngưu thần chưởng cho tiểu sư đệ cháu.
Trịnh Quang lắc đầu không phục:
– Sư bá dạy sai rồi, nếu Nguyễn Thành Công tiên sinh là cao nhân phái Tản-viên thì sư phụ cháu đã biết mặt, làm sao ông có thể giả làm thầy đồ được?
Thiều Hoa nói:
– Vừa rồi Song-quái bắt tiểu sư đệ đi, chúng mang cả cây trượng của Cao Cảnh hầu đi rồi.
Phạm Bách gật đầu:
– Cây trượng ấy là của vua Hùng, lúc Cao Nỗ đánh chiếm nước Văn-lang thì lấy được. Sau ngày Cao tướng quân tuẫn quốc, gậy vẫn được để thờ ở đền cho đến nay.
Chiều hôm ấy đoàn người đi đến địa phận Hoa-lư. Đang đi thì gặp bảy kỵ mã, họ trang phục theo lối quan binh người Hán. Nghiêm Sơn dẫn đầu đoàn kỵ đó. Từ đằng xa, thấy Thiều Hoa, chàng đã xuống ngựa đứng bên đường chào:
– Quế-lâm Nghiêm Sơn kính chào Phạm tiên sinh và Hoàng cô nương.
Phạm Bách thấy chàng không có ác ý, còn sáu đồng bọn dừng ngựa đứng xa xa. Oâng yên tâm. Ông kinh ngạc tự nghĩ:
– Tên Hán này là bạn thân của vua Quang Vũ nhà Hán, tước phong tới Lĩnh Nam công Bình-nam đại tướng quân. Uy quyền bao trùm sáu quận Lĩnh-nam. Bình thường ta muốn gặp một viên huyện uý, huyện lệnh cũng còn khó hơn bắc thang lên trời. Mà huyện uý, huyện lệnh đối với Lĩnh-nam công thì như hạt vừng, hạt đậu so với trái núi. Bây giờ y lại khách sáo với ta thế này thì thực là kỳ lạ.
Ông chắp tay hành lễ:
– Tên nhà quê Phạm Bách xin kính cẩn ra mắt Bình-nam đại tướng quân.
Nghiêm Sơn liếc nhìn Hoàng Thiều Hoa, thấy nàng nháy mắt hai lần. Chàng đoán ra Thiều Hoa có điều gì muốn nói riêng với chàng. Chàng hướng vào Phạm Bách:
– Phạm tiên sinh! Tiên sinh cho vãn bối đi cùng đường cho vui được chăng?
Phạm Bách nói:
– Chúng tôi là người làm ăn buôn bán, được Quốc-công đi chung, thì còn gì hân hạnh hơn nữa!
Đoàn người của Nghiêm Sơn xuống ngựa, cùng đi bộ theo Phạm Bách. tới một mỏm núi, thì ngồi lại nghỉ mệt.
Thiều Hoa nói với Nghiêm Sơn:
– Lâu ngày quá tôi không cỡi ngựa. Tướng quân có thể cho tôi mượn ngựa cỡi trong chốc lát được không?
Nghiêm Sơn cảm thấy người lâng lâng như bay lên mây:
– Nếu cô nương muốn, thì tôi xin tặng cô nương con ngựa này.
Chàng dắt con ngựa của mình lại bên Thiều Hoa.
Thiều Hoa e dè:
– Ngựa của tướng quân là tuấn mã, nó chỉ nghe lời chủ thôi, xin tướng quân chỉ cho tôi cách điều khiển, thì tôi mới dám cỡi.
Nghiêm Sơn nói:
– Được, cô nương cứ cỡi nó. Tôi sẽ cỡi con ngựa khác chạy theo cô nương, nếu nó dở chứng, tôi bắt nó phải ngoan ngoãn.
Thiều Hoa nháy mắt hai cái. Nghiêm cho rằng nàng có tình ý với mình, muốn hẹn nhau chỗ vắng tình tự. Người chàng như muốn bay lên mây. Thiều Hoa thét lên một tiếng thảnh thoát, uốn mình phi thân lên ngựa, lưng nàng uốn cong coi rất ngoạn mục. Nàng ra roi cho ngựa chạy vào ven rừng. Nghiêm Sơn phi ngựa theo. Đến một khúc quanh, Thiều Hoa đi chậm lại, Nghiêm Sơn cho ngựa đi song song với nàng.
Thiều Hoa hỏi:
– Nghiêm đại ca, tôi hỏi thực đại ca một điều, trong bọn mười người chúng tôi có ai là người của đại ca gài vào làm gian tế không?
Nghiêm Sơn đáp:
– Không, không có một người nào cả. Nếu có thì là của phủ Tế– tác Cửu-chân hoặc Giao-chỉ.
Thiều Hoa nói:
– Nếu vậy thì tốt quá. Tôi muốn nhờ đại ca một việc, không biết đại ca có dám làm không?
Nghiêm Sơn bị khích, máu nóng nổi dậy, nói:
– Trên đời này chỉ có hoàng đế Đại Hán là tôi nhường bước thôi. Còn tôi há sợ gì ai? Cô nương sai bảo gì tôi xin làm hết sức mình.
Thiều Hoa nói:
– Đại ca biết tiểu sư đệ Đào Kỳ của tôi chứ?
– Có, y thực là dễ thương, tôi muốn hỏi cô nương, y đâu rồi?
– Y bị Phong-châu song quái bắt mấy hôm rồi. Song-quái theo bén gót bọn tôi, không hiểu để làm gì?
Nghiêm Sơn nói:
– Muốn có tin tức tiểu sư đệ của cô nương cũng không khó. Tôi sẽ phát lệnh bài đi tất cả các huyện lệnh, huyện uý, Lạc-hhầu, Lạc-tướng trong vùng nhờ họ cho biết hành tung của Song-quái thì tìm ra ngay. Theo như tôi nghĩ, thì Song-quái hiện ở Đào, Đinh trang để chiêu tập dân chúng. Họ mới được phong làm Lạc-hầu thay thế sư phụ và sư thúc cô nương. Song-quái bắt tiểu sư đệ của cô nương mục đích dẫn dụ cho sư phụ, sư mẫu cô nương xuất hiện, để chúng bắt đấy thôi.
Vừa nói, chàng vừa mân mê cành hoa đào Đào Kỳ lấy trên mái tóc Thiều Hoa tặng cho. Thiều Hoa đỏ mặt, cúi đầu, ra roi cho ngựa chạy trở về.
Nàng xuống ngựa nói với Nghiêm Sơn:
– Đa tạ Đại-tướng quân tặng ngựa. Sẽ có ngày báo đáp.
Hai đoàn người chia tay nhau. Phạm Bách dẫn đệ tử đến Cao gia trang.
Cao gia trang nằm dài từ bờ sông đến triền núi, dài gần 20 dậm. Bên ngoài cổng có gia đinh đứng gác.
Phạm Bách đến trước gia đinh nói:
– Phiền đại huynh báo với trang chủ, có Phạm Bách cầu kiến.
Gia đinh dùng ngựa phi vào trang. Lát sau, có tiếng vó ngựa chạy trở ra. Trên lưng ngựa, một trung niên nam tử, thân thể cực kỳ hùng vĩ, đi tới.
Người đó xuống ngựa, chắp tay thành quyền chào Phạm Bách:
– Vị nào là Phạm lạc tướng? Tại hạ là Cao Cảnh Sơn đây.
Phạm Bách chắp tay vái:
– Phạm Bách ở Dương-xá và đệ tử Đào trang ở Cửu– chân xin bái kiến Cao Cảnh hầu.
– Cách đây hơn tháng, chúng tôi nghe Đào, Đinh hai trang bị nạn, đang buồn không biết tình hình ra sao, may gặp Lạc-tướng đây, thì chắc biết được tin tức Cửu-chân song kiệt. Nào, mời quý vị vào tệ trang.
Đoàn người đi một lát tới đại sảnh đường. Đại sảnh đường là một gian nhà lớn, có thể chứa được vài ngàn người. Bên trong trần thiết cực kỳ nghiêm trang: Giữa sảnh một bàn thờ, trên có tượng Cao Nỗ, Cao Tứ cầm cung uy nghiêm. Hai bên có hai tấm da hổ đã lột ra, nhồi vải trong như hổ còn sống. Trang chủ sai lấy nước, hoa quả mời khách. Những chén nhà họ Cao toàn bằng sành màu gan gà rất lớn.
Trang chủ mời khách:
– Trang chúng tôi uống nước muồng, chứ không uống trà. Hạt muồng phơi khô, rang cháy đi, nấu lẫn với vối tươi, vừa thơm, vừa dễ ngủ.
Phạm Bách giới thiệu đệ tử Thiều Hoa, Trịnh Quang với trang chủ, rồi kể hết mọi sự việc Đào, Đinh trang. Ông tỏ ý muốn nhờ Cao trang chủ cho đệ tử Đào gia ở nhờ, trong khi ông cùng Thiều Hoa, Trịnh Quang đi tìm Đào Thế Kiệt và Đinh Đại.
Cao Cảnh Sơn buồn rầu nói:
– Việc của Đào, Đinh hai nhà cũng là việc của chúng tôi, xin quý vị cứ coi đây như Đào gia trang. Có điều, sau Đào, Đinh, không biết bao giờ Thái-thú tính đến Cao trang đây?
Phạm Bách nói:
– Đây thuộc Giao-chỉ chứ không thuộc Cữu-chân. Thái-thú Giao-chỉ là Tích Quang. Tôi thấy Tích Quang bị Hán đế nghi ngờ, y hiện lo giữ thân còn chưa xong, nên chắc không rảnh thì giờ để hại các trang, các động. Lợi dụng cơ hội này, võ lâm đồng đạo Giao-chỉ nên tích cực thống nhất hành động, nhất tề nổi lên. Trước đánh chiếm Giao-chỉ làm căn bản. Giao-chỉ đã thất thủ, thì Cửu-chân, Nhật nam bị cô lập, chỉ hô một tiếng, dân chúng nổi dậy là thành công. Được Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật Nam, chúng ta tiến lên miền Bắc đánh Quế-lâm, Tượng-quận và Nam Hải, lập lại truyền thống Lĩnh Nam nhà ta cũng không khó.
Cao Cảnh Sơn nói:
– Khó một điều là hai tên thái thú Tích Quang, Nhâm Diên giả nhân, giả nghĩa, nêu cao ngọn cờ Hán-Việt bình đẳng, đem lễ nghĩa Khổng, Mạnh dạy dân. Dân mình gần như bị lôi cuốn vào hào quang đó, quên mất mình là giống giòng Tiên Rồng mất rồi.
Ngừng một lát, ông nói tiếp:
– Trước mắt chúng ta là làm sao tìm được cuốn phả vẽ cách chế nỏ thần của tổ tiên tôi ngày xưa. Chế được nỏ thần, chúng ta cho người đi các nơi thuyết phục hào kiệt, chỉ một trận nổi lên thì 65 thành trì, sẽ trở về Âu-lạc ta.
Phạm Bách nói:
– Giữa Cao trang chủ với chúng tôi thì cùng một đường đi, dựng lại Âu-lạc. Nhưng sợ cái nạn chưa có da cọp, đã tranh dành bán da rồi mới khó. Phái Cửu-chân, Long-biên, Hoa-lư muốn lập lại Âu-lạc. Nhưng phái Tản-viên, Sài-sơn lại muốn lập lại Văn-lang. Ngoài ra còn phái Quế-lâm muốn lập lại giòng dõi Triệu Đà.
Cao Cảnh Sơn dành riêng cho đám đệ tử Đào gia một khu trang trại riêng biệt rất rộng với đầy đủ nhà cửa, giường chiếu, đồ dùng, lương thực, lừa ngựa, xe cộ. Trịnh Quang hiện là người lớn nhất, thay quyền sư phụ cai quản các sư huynh, sư đệ. Mấy ngày sau, tất cả đám sư huynh đệ ở nhờ nhà Phạm Bách đã lục tục đến. Đệ tử Đào gia vốn sống thân mật với nhau đã quen, nên dù thay đổi chỗ ở, họ cũng không cảm thấy cô đơn. Hàng ngày Trịnh Quang luyện võ cho họ. Thiều Hoa thì chán nản trong lòng, không thiết ra ngoài, nàng nằm ì ở trong phòng.
Một đêm tối trời, nàng chập chờn ngủ, thì có tiếng gõ nhè nhẹ ba tiếng. Nàng sẽ ngồi dậy, mở cửa, thấy có bóng đen chạy lên sườn đồi. Là người học võ, nàng biết người này muốn nói gì với nàng đây, nên nàng đuổi bước đuổi theo. Tới đỉnh đồi, bóng đen ngừng lại:
– Hoàng cô nương, tôi tới trễ, cô nương có mong lắm không?
Thì ra Nghiêm Sơn. Nàng hồi hộp hỏi:
– Có tin của tiểu sư đệ không?
Đáp:
– Có thì có rồi đây. Đêm nay chúng ta đi cứu y.
Thiều Hoa mừng quýnh lên:
– Đi, chúng ta đi ngay bây giờ. Tiểu sư đệ bị giam ở đâu?
Nghiêm Sơn nói:
– Song-quái giam nó ở hang Địch-lộng, cách đây không xa .
Ghi chú của thuật giả:
Hang Địch-lộng: Từ Phủ-lý đi về hía Nam 80 km tới Kẽm-trống, băng ngang cầu là hang Địch-lộng. Hang ở trên cao, phải trèo 80 bậc mới tới. Ngoài hang là một ngôi chùa. Đường hang đi thông qua quả núi dài 611 m. Trong hang có nhiều thơ, phú, sấm ký của danh nhân các thời. Hồi 1945, thuật giả được sư phụ dắt lên chùa lễ Phật. Trị sự trưởng là một sư bà. Thuật giả được sư bà thương mến, dắt đi viếng chùa, viếng hang, giảng cho không biết bao nhiêu là những bài thơ, phú, kệ, sấm ký ở trong hang. Lâu ngày qua, thuật giả không còn nhớ được pháp danh của vị sư bà khả kính ấy nữa. Chả biết trải qua bao đổi thay, những thơ, phú, kệ, sấm ký có còn không?
Đi một lát tới ven rừng, Nghiêm Sơn chỉ hai con ngựa cột đó:
– Chúng ta phải lên ngựa đi mới được, từ đây lên Địch-lộng hơi xa, nhưng chúng ta dùng ngựa thì cũng không lâu. Tôi đến đó dùng quyền bắt Song-quái giao tiểu sư đệ đưa về Luy-lâu. Nhưng cần nhất cô nương nên cải nam trang để cùng đi với tôi thì tiện hơn.
Thiều Hoa hỏi:
– Trường hợp Song-quái không chịu giao tiểu sư đệ cho đại ca thì sao?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương đừng lo. Song-quái được làm Lạc-hầu hai trang Đào, Đinh, chúng đâu dám trái ý tôi? Chúng còn muốn làm huyện úy nữa, nên tôi nói gì Vũ Hỹ cũng phải tuân theo. Nếu y trái lệnh, thì tôi chiếu quân pháp chặt đầu y ngay.
Thiều Hoa hỏi:
– Tôi sợ Song-quái dấu tiểu sư đệ đi một chỗ, rồi chối rằng chúng không bắt nó, thì mới khổ?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương yên tâm. Trong sào huyệt của Song– quái, tôi cài rất nhiều người nên nhất cử nhất động của chúng, tôi đều biết. Song-quái giam tiểu sư đệ trong một động nhỏ, cho ăn uống tử tế, y không khổ sở đâu. Dường như tiểu sư đệ của cô nương biết sử dụng Phục ngưu thần chưởng, do vậy Song-quái dỗ y khai ra ai đã dạy. Y nhất định không khai. Cô nương, cô là sư tỷ, chắc cô biết chưởng đó.
Thiều Hoa lắc đầu:
– Tôi chỉ nghe qua mà thôi. Chưởng đó không phải của Cửu-chân chúng tôi, mà của phái Tản-viên. Song– quái là đệ tử của Tản-viên, nên muốn tra xét xem tại sao tiểu sư đệ lại biết?
Nghiêm Sơn nói:
– Thần chưởng Phục ngưu lợi hại vô cùng, không biết tiểu sư đệ học được mấy chiêu? Theo tôi biết, chưởng này có 36 chiêu, khi sử dụng biến ra Âm, Dương, thì 36 thành 72. Tuy có 72 chiêu, nhưng mỗi chiêu bao hàm quyền, chưởng, chỉ, trảo, dực, thành ra 360 chiêu. Sư phụ của Song-quái là Nguyễn Thành Công chỉ biết có bảy chiêu. Ông dạy cho Song-quái cả bảy nhưng không dạy biến hoá, nên chúng muốn khảo để tìm đọc cho hết.
Thiều Hoa nói:
– Hôm đó, trong đền thờ Cao Nỗ, tôi thấy tiểu sư đệ sử dụng một chiêu, có đến bốn biến hoá. Tôi không biết võ công gì, sau thấy Song-quái kêu là Phục ngưu thần chưởng thì biết vậy thôi.
Nghiêm Sơn nói:
– Một chiêu biến thành hai, rồi hai biến thành năm lần nữa hoá ra mười chiêu. Dường như hôm đó tiểu sư đệ sử dụng là lần đầu, cho nên không thạo lắm, tuy cũng đánh trúng Vũ Hỷ, nhưng bị nó đá văng ra xa.
Thiều Hoa ủa một tiếng:
– Thì ra hôm đó đại ca cũng nấp ở ngoài nhìn thấy à?
– Đúng, tôi theo Song-quái để biết rõ hành tung của họ. Cô cảm thông cho, vì ở địa vị tôi, cần phải biết rõ y trước khi cho làm huyện úy. Tôi thấy một mặt chúng mơ tưởng quan quyền, một mặt chúng tổ chức rất nhiều sào huyệt cơ sở, nên phải theo để biết. Thì ra Song-quái muốn làm bá chủ võ lâm. Y cũng như sư phụ y và người của phái Tản-viên đua nhau tìm bộ Văn Lang võ kinh, nhưng cho đến nay tất cả chưa ai đạt được. Nếu một trong những người họ đạt được, họ sẽ nắm hết các võ phái thuộc Văn-lang, tức là nắm được phân nửa đất Lĩnh Nam này vậy. Một đàng họ dựa thế của chúng tôi để biết các võ phái thuộc Âu-lạc. Một đàng chúng lo tìm kiếm võ kinh, để làm bá chủ.
Thiều Hoa chua chát:
– Vì vậy, Đào gia chúng tôi mới tan nát như ngày nay.
Nghiêm Sơn thở dài:
– Hoàng cô nương, tôi cần phải nói thực với cô nương một điều. Tôi là người Hán sang đây cai trị người Việt. Người Hán cũng có kẻ ác, người thiện. Như Nhâm Diêm, Tích Quang giả nhân giả nghĩa, làm cho người Việt tin chúng, rồi chúng tỉa dần những người lương thiện. Còn tôi, dầu sao cũng xuất thân nghĩa hiệp, không ham danh lợi. Chỉ vì gặp Kiến Vũ hoàng đế trong cơn nguy khốn, tôi ra tay cứu giúp. Kiến Vũ hoàng đế đối với tôi bằng tình bạn, cử tôi sang kinh lược đất Việt. Tôi mới tới, nghe báo cáo của phủ Tế-tác rằng đất Cửu-chân có chín Lạc-hầu, thì năm là người lương thiện, hai là người chỉ thích văn học, nhàn nhã. Còn hai nhà Đào, Đinh là đầu trộm, đuôi cướp. Tôi tin thực, mang quân vào trợ chiến. Giữa lúc giao chiến thì tôi gặp cô nương và tiểu sư đệ. Trong đêm đánh cảng Bắc, tôi đã cảm thấy mình lầm lẫn. Đào hầu có một người con trai nhỏ tuổi như tiểu sư đệ, văn võ tinh thâm; một nữ đệ tử ôn nhu văn nhã như cô, thì làm sao có thể là trộm cướp được? Tới khi tôi đối chưởng với sư thúc cô, tôi thấy võ công ông rất cao. Tôi đối thoại với sư mẫu cô nương, thì tôi biết mình bị lừa hoàn toàn. Tôi hối hận bao nhiêu, thì giận thái thú Nhâm Diêm bất nhiêu. Bây giờ thì chỉ có cách, tôi tự trở lại với vai trò nghĩa hiệp, trừ Nhâm Diêm, đưa người khác lên thay. Còn Phong-châu song quái, tôi sẽ tìm một chỗ khác cho họ cai trị. Tôi sẽ cùng cô nương đi tìm Đào, Đinh tiên sinh tạ lỗi, rồi mời người trở về trang ấp như cũ... Hà, một đời Nghiêm Sơn nghĩa hiệp, mà nay đi trợ ác đánh người đồng đạo, thì còn gì là “nghĩa” nữa.
Thiều Hoa lắc đầu:
– Liệu Kiến Vũ hoàng đế có chịu như vậy không?
Nghiêm Sơn thở dài:
– Với võ công của tôi, trong đêm tối, tôi giết thái thú Nhâm Diêm bí mật, thì ai mà trách được? Ví dầu Kiến Vũ hoàng đế có biết, người cũng phải chịu.
Hai người đang trò chuyện, có tiếng quát:
– Ai?
Nghiêm Sơn đáp:
– Ta đây!
Trong bóng tối, có sáu người nữa bước ra chấp tay hành lễ:
– Chúng tôi đợi Quốc-công đã lâu.
Nghiêm Sơn chỉ sáu người giới thiệu:
– Hoàng cô nương, tôi giới thiệu với cô sáu vị đây nổi danh là Hợp-phố lục hiệp. Các vị cùng sang Lĩnh-Nam với tôi. Sáu vị đều làm việc tại phủ Lĩnh Nam, nên cùng đi chung.
ThiềuHoa cúi đầu chào:
– Thì ra sáu vị đã nổi tiếng về nhân nghĩa ở đất Hiệp-phố. Các vị cùng là người Lĩnh Nam như tôi cả.
Hiệp-phố nhất hiệp Lưu Nhất Phương nói:
– Chúng tôi cũng bị mắc mưu Nhâm Diêm như Quốc-công. Mong cô nương không trách phạt là may.
Nghiêm Sơn phất tay:
– Chúng ta đi.
Tới một sườn núi cao vời vợi, Nghiêm Sơn nhìn lên rồi phất tay, lập tức một người rút trong bọc ra ba mũi tên, châm lửa bắn lên trời.
Sau mấy khắc, trên sườn núi cũng bắn xuống năm mũi tên lửa. Tiếp theo Phong-châu song quái chạy xuống như bay.
Vũ Hỷ chắp tay:
– Tiểu nhân là Vũ Hỷ xin tham kiến Quốc-công.
Nghiêm Sơn nói:
– Tôi có một việc muốn thương lượng với Vũ lạc hầu.
Vũ Hỷ khúm núm mời:
– Xin mời Quốc-công cùng các vị thượng sơn.
Đoàn người theo các bậc đá leo lên núi. Đúng 80 bậc thì tới cửa một cái hang thiên nhiên. Cửa hang bằng gỗ mở rộng, bên trong đèn đuốc sáng choang, trang trí như một đại sảnh lớn.
Song-quái mời Nghiêm Sơn ngồi rồi nói:
– Chúng tôi tiếp được tin Quốc-công cùng các huynh đệ trong phủ Tế-tác quang lâm, nên đã chuẩn bị tiệc sẵn để kính mời, gọi là lấy thảo.
Vũ Hỷ rót rượu vào chén từng người một:
– Đây là rượu chuối, chuối vùng này có tiếng thơm ngon. Hàng năm chúng tôi để cho chuối chín cây, sau đó mới ướp men làm rượu. Men, chuối ướp trong một thùng bằng gỗ rồi bỏ xuống đáy khe suối. Sau sáu tháng hấp thụ thuỷ khí thiên nhiên, lấy lên uống ngon lắm.
Tiệc đã bày ra, Vũ Hỷ mời Nghiêm Sơn vào ngồi chủ toạ, còn thứ đến Thiều Hoa và những người tuỳ tùng. Còn vợ chồng y thì ngồi vào địa vị chủ nhân để bồi tiếp.
Vũ Hỷ rót rượu cho Nghiêm Sơn:
– Đã có rượu chuối, thì phải có đồ nhắm đặc biệt. Vùng núi này nổi tiếng nhiều ong mật. Trứng ong đẻ vào từng lỗ của tổ, khi lớn lên gần đến ngày mọc cánh thì gỡ ra, những con nhộng này vừa béo, vừa thơm, ăn vào có thể chống được nọc độc của sâu bọ, rắn rết. Chỉ cần bỏ nhộng vào chảo với mấy muỗng mỡ, rang lên cho vàng là ngon tuyệt.
Nhộng ong quả nhiên thơm và ngon. Thiều Hoa không biết uống rượu, nàng phải nhân Song-quái nhìn đi, đổi chén với Nghiêm Sơn. Rượu được vài tuần, Vũ Hỷ hỏi:
– Thưa Quốc-công, các vị huynh đệ có thể tin được không?
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Họ đều là chân tay của tôi cả. Chúng tôi coi nhau như huynh đệ.
Vũ Hỷ hân hoan nói:
– Theo tiểu nhân biết, thì đất Lĩnh Nam này có hai mối lo. Một là các di tộc của đám tướng sĩ bại trận thời Aâu-lạc, đa số tập trung ở vùng Cửu-chân, Lục-hải, Việt-thường. Trong đó đáng lo nhất là “Cửu-chân cửu gia” tức chín trang. Nhờ tài thao lược của Quốc-công thì năm gia trang đã quy phục với Hán, còn hai gia trang tiểu nhân đã dùng kế khích bên này, bên kia, để năm nhà thù hằn hai nhà còn lại. Cuối cùng hai trang Đào, Đinh quan trọng hơn cả, thì một trận chúng ta đã quét sạch. Vùng Long-biên thì phái Long-biên thế lực cực mạnh. Chưởng môn Nguyễn Trát tuy có danh, mà không có thực tài. Lúc nào y cũng sợ sư bá, sư thúc trở lại kiếm chuyện, dành ngôi. Phái Sài-sơn có tám vị Thái-bảo, chỉ có đức mà không có lực thì cũng chẳng làm gì. Phái Tản-viên của chúng tôi thì Đặng Thi Sách chỉ là con đom đóm bên cạnh mặt trời của thái sư thúc Lục trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh. Hoa Lư người đông, thế mạnh, mới thực là điều đáng sợ.
Nghiêm Sơn hỏi:
– Theo ý Vũ tiên sinh thì nên làm gì bây giờ?
– Võ công vùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật Nam vốn có hai giòng: Giòng Văn-lang và giòng Âu-lạc. Thục Phán đánh vua Hùng lập ra Âu-lạc. Bây giờ các phái Sài-sơn, Tản-viên thuộc Văn-lang. Phái Long-biên, Cửu– chân, Hoa-lư thuộc Âu-lạc. Cả hai giòng đều muốn phản Hán phục Việt. Chúng ta không cần làm gì hết, chỉ cần đứng giữa khiêu khích cả hai bên chém giết nhau. Chúng ta làm ngư ông thủ lợi.
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Nhân huynh thực là người đởm lược, mưu kế viễn lự. Dường như nhân huynh có bắt được con út Đào Thế Kiệt phải không? Ta muốn giải nó về Luy-lâu để dụ cho cha mẹ nó đến cứu, và bắt một thể.
Vũ Hỷ là người thông minh tuyệt đỉnh. Trong trận chiến ở cảng Bắc, y thấy Nghiêm Sơn khách sáo với vợ chồng Đào Thế Kiệt, y không rõ nguyên do. Suốt mấy tháng nay, y cố tìm hiểu mà vẫn không ra manh mối. Sau trận cảng Bắc, y đi một đường, Nghiêm Sơn đi một đường nên y không biết vụ chàng gặp Thiều Hoa, và mối tình đã chớm nở. Với đầu óc đa nghi, y cho rằng có thể vợ chồng Đào Thế Kiệt cùng làm việc cho phủ Tế-tác. Nhưng nếu đã là người của phủ Tế-tác, sao thái thú Cửu-chân còn tấn công Đào trang? Vũ Hỷ là người cơ mưu xảo trá, nhưng nghĩ đến nát óc cũng không hiểu nội vụ:
– Xin đại nhân chờ một chút, tôi sẽ giải nó lên.
Y quay lại người hầu cận:
– Giải thằng nhỏ láu cá lên.
Một lát, có tiếng Đào Kỳ chửi bới:
– Chúng mày uổng danh là đệ tử núi Tản-viên, mà tư cách hèn hạ. Ta nghe người chưởng môn đương thời là Đặng Thi Sách, anh hùng hào sảng, mỗi hành vi đều quang minh lỗi lạc. Thế mà trong môn phái lại nảy ra hai đứa chúng bay vô lại đến thế, ỷ lớn hiếp bé, ỷ chúng hiếp cô. Chúng mày còn mặt mũi nào nhìn đời nữa? Chúng bay muốn học võ của tổ tiên chúng bay thì về Mê-linh mà hỏi Đặng Thi Sách, tại sao lại giam ta để tra vấn?
Tới đại sảnh, nó thấy Thiều Hoa mặc giả trai ngồi đó, nó làm bộ không biết, nhưng khi nhìn thấy Nghiêm Sơn nó cười hì hì:
– Nghiêm đại ca, đại ca là Quế-lâm thần kiếm, nổi danh hiệp nghĩa đất Trung-nguyên. Tiểu đệ nghe nói, đại ca vì bảo vệ thái tử Lưu Tú mà đi ba ngày, ba đêm từ Trường-sa đến Côn-dương, đánh 20 trận với võ sĩ Vương Mãng, bị thương 15 lần. Vì vậy Kiến Vũ thiên tử mới kết huynh đệ với đại ca. Tại sao đại ca lại đi ngồi chung với hai con quái này?
Song-quái bị Đào Kỳ chửi bới, lột mặt mạ, xấu hổ quá, y muốn lên tiếng quát tháo, nhưng thấy Đào Kỳ gọi Nghiêm Sơn là đại ca, y càng hoang mang hơn, không biết liên hệ giữa hai người ra sao.
Y vội đứng dậy cởi trói cho Đào Kỳ. Đào Kỳ nhìn Thiều Hoa, hỏi Nghiêm Sơn:
– Đại ca, không biết mấy tháng nay sư tỷ em ở đâu, đại ca có tin tức gì không? Em nhớ chị ấy quá.
Nghiêm Sơn bảo Kỳ:
– Giữa em và Vũ đại huynh đây có chỗ hiểu lầm đấy thôi. Ta đến đón em về Luy-lâu chơi. Thôi chúng ta lên đường. Còn Hoàng sư tỷ của em, ta cũng không biết ở đâu nữa.
Đào Kỳ bảo Song-quái:
– Đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc. Ngươi bắt ta để tìm võ công của môn phái ngươi. Nhưng mấy tháng nay ngươi đã tìm được gì chưa? Tuy ngươi giam ta, nhưng vẫn cho ta ăn uống đầy đủ. Vậy ta cũng có chỗ trả ơn ngươi. Ngươi bắt ta để tra hỏi về Phục ngưu thần chưởng. Ta nói thực: Ta chỉ biết có 18 trong 36 chiêu, cho nên khi giao đấu, chỉ có thể sử dụng từng chiêu một, chứ không thể sử dụng liên miên bất tuyệt từ chiêu này sang chiêu khác. Nguyên tắc võ học Văn-lang là như thế này: Mỗi chiêu gồm ba phần là công, nghinh, thủ; nghĩa là trong chiêu thì có thể tấn công trước, trong cái tấn công phải có phần đỡ đòn đối thủ phản công, và phải có chỗ đề phòng bảo vệ môn hộ cho chắc. Ngươi hiểu chưa?
Phương Anh giật bắn người lên. Khi thị học võ, sư phụ chỉ dạy từng chiêu, mà không giảng khẩu quyết nên y thị sử dụng không đủ uy mãnh, đôi khi còn sơ hở để đối phương phản công. Nay nghe Đào Kỳ giảng, y thị như người mù sáng mắt ra.
Đào Kỳ nói tiếp:
– Ba đoạn công, nghinh, thủ, sử dụng cái nào trước cũng được. Nếu bị người ta ra chiêu trước thì nghinh đi trước và công, thủ đi sau. Còn mình ra tay trước thì công đi trước, còn nghinh, thủ đi sau. Làm sao để từ chiêu này đến chiêu khác liên miên bất tuyệt, đừng để gián đoạn. Muốn đạt tới mức đó phải biết cả 36 chiêu, nhưng ta chỉ biết có 18 chiêu nên mới bị ngươi bắt. Hiểu chưa?
Nó quay lại nói với Nghiêm Sơn:
– Nghiêm đại ca, chúng ta đi thôi.
Nghiêm Sơn đứng dậy dặn Song-quái:
– Bản chức chờ quý vị ở Luy-lâu. Xin quý vị đến càng sớm càng tốt. Chúng ta có nhiều việc để làm.
Đoàn người xuống dưới núi, lên ngựa ra đi. Đào Kỳ không có ngựa, nó nhảy đến vèo một cái lên ngồi phía trước Thiều Hoa:
– Sư tỷ, em nhớ sư tỷ đến chết được.
Chính Thiều Hoa cũng định nói câu đó. Nàng ngẫm ra rằng thường ngày tình yêu cha con, thầy trò, bạn hữu tiết ra đều đặn không có gì để đo được mạnh hay yếu. Chỉ khi người ta xa nhau, mới thấy nhớ nhung, thương tiếc mạnh hơn lên. Dẫu nàng với Đào Kỳ, tình là sư tỷ, sư đệ, nhưng nàng thấy chú bé tiểu sư đệ nàng với nàng tình thâm như biển. Nàng vuốt tóc Kỳ:
– Song-quái bắt em về, chúng có hành hạ em không?
Kỳ cười nắc nẻ:
– Không những không hành hạ mà còn chiều chuộng dỗ dành em, để em khai ra những chiêu thức của Phục ngưu thần quyền.
– Thế em có khai không?
Đào Kỳ cười ha hả:
– Chị thử đoán xem.
Thiều Hoa cốc khẻ vào đầu Kỳ:
– Gì mà chị không hiểu, hồi nãy em chửi Song– quái, thì chị biết em không khai rồi. Thế mà cũng hỏi. Nhưng có điều chị không hiểu là em học Phục ngưu thần chưởng ở đâu? Ai dạy em? Dạy trong trường hợp nào? Hồi nãy chị thấy em giảng yếu quyết võ công cho Song-quái. Yếu quyết đó không phải của nhà ta, vậy thì ở đâu có mà em giảng?
Đào Kỳ cười:
– Song-quái tin rằng em biết Phục ngưu thần chưởng nên em bịa đại ra mà nói cho chúng lầm chơi. Sự thực những bí quyết đó, em nghe bố với cậu nói chuyện về nguyên tắc võ công Văn-lang. Phục ngưu thần chưởng xuất từ Văn-lang, nên em đem ra nói, chúng mới tin là thực.
Đào Kỳ ngưng một lúc tiếp:
– Em có biết Phục ngưu thần chưởng đâu? Em loè Song-quái đấy chứ. Cách đây mấy tháng nhân bố với cậu em bàn luận võ công đều nói rằng Phục ngưu thần chưởng là võ công vô thượng của Văn-lang. Hồi trước An Dương vương thắng được Văn-lang là nhờ có nỏ thần, chứ nếu đấu võ thì thua xa. Chưởng Phục-ngưu hồi đầu do phò mã Sơn Tinh chế ra gồm có 36 chiêu dương cương, uy mãnh cực kỳ mạnh. Sau Vạn-tín hầu đấu với Sơn Tinh, thấy rằng dùng cương đánh với Phục ngưu thần chưởng thì chỉ có thua. Ngài mới nhân mỗi chiêu của dương cương, chế ra một chiêu âm nhu khắc chế, cộng thành 72 chiêu. Tuy gọi là chiêu, song mỗi chiêu rất dài, bao gồm biến hoá quyền, chưởng, chỉ, cước, trảo, dực. Nếu học được 36 chiêu dương hoặc âm thì khi sử dụng chiêu nọ nối chiêu kia, liên miên bất tuyệt. Nếu học được cả dương cương lẫn âm nhu thì khi cương, khi nhu, địch thủ không biết đâu mà lường. Nhưng đến nay phái Tản-viên bị thất truyền hết. Chưởng môn là Thi Sách cũng chỉ biết có bảy chiêu dương cương. Thái sư thúc của ông là Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh thì biết được 12 chiêu. Song-quái cũng học với sư phụ y được bảy chiêu.
Thiều Hoa ngắt lời:
– Thế chiêu em đánh với Vũ Hỷ tại đền thờ của Cao Nỗ chả là Phục ngưu thần chưởng là gì?
Đào Kỳ cười hô hố:
– Chị cũng như Song-quái, thấy chiêu võ quái dị, cho rằng đó là Phục ngưu thần chưởng, chị lầm rồi! Khi em nghe bố với cậu bàn về Phục ngưu thần chưởng, mới nhân đó, kết hợp ba chưởng, chỉ, trảo chế ra một chiêu võ chơi. Không ngờ lúc bí đem sử dụng, Vũ Hỷ tưởng là Phục ngưu thần chưởng.
Khi đến gần Cao gia trang, Nghiêm Sơn nói:
– Thôi Hoàng cô nương, tiểu sư đệ, chúng ta từ biệt ở đây thôi. Cao trang là nơi chống người Hán, tôi không vào được, nếu tôi vào sẽ bất lợi cho cô nương và tiểu sư đệ lắm. Không biết cô nương và tiểu sư đệ có tin tôi không?
Đào Kỳ nói:
– Tin, tôi tin đại ca.
– Cám ơn tiểu sư đệ, nhưng tại sao em tin tôi? Khi tôi là quan người Hán, đối đầu với người Lĩnh Nam, hơn nữa cùng tham dự vào trận đánh phá Đào gia trang.
Đào Kỳ cười:
– Có gì mà không hiểu. Việc đánh phá Đào gia trang là do Nhâm Diêm chủ xướng. Bất quá đại ca và Hợp-phố lục hiệp chỉ đến trợ chiến mà thôi. Từ lúc đại ca gặp chúng tôi thì đại ca đã đổi khác hẳn. Hôm đó có thể bắt chúng tôi mà đại ca để nguyên. Tôi nghe Song-quái nói đại ca có thể bắt gia đình tôi mà không bắt. Tôi biết lý do tại sao đại ca lại hành động như vậy rồi mà tôi không dám nói.
Nghiêm Sơn hỏi:
– Tiểu sư đệ, em thử nói xem có đúng không?
– Nói thì dễ thôi! Nhưng sư tỷ không được đánh người ta.
Thiều Hoa sợ Đào Kỳ nói toẹt tâm sự mình ra thì xấu hổ chết. Nàng dơ tay cốc vào đầu nó một cái, nàng nói để trấn áp mình:
– Không được nói bậy!
Đào Kỳ gật đầu:
– Thì em có nói gì bậy đâu? Em nói đúng mà thôi. Không biết tại sao, khi gặp đại ca trong trận đánh cảng Bắc, em đã đoán ra đại ca không giống như những bọn Hán quan chỉ biết hối lộ, giết người tàn ác. Em hỏi thực đại ca, giả như đại ca khám phá ra âm mưu thâm độc của Nhâm Diêm, liệu đại ca có trợ chiến cho y không? Trường hợp đó, đại ca sẽ hành động thế nào?
Nghiêm Sơn trầm ngâm một lúc rồi trả lởi:
– Ta sẽ mời sư phụ, sư thúc của tiểu sư đệ đến hội kiến. Sau đó ta đích thân đến Đào, Đinh trang chơi. Với con mắt kinh nghiệm của ta, ta biết rằng hai vị không phải là quân trộm cướp. Ta sẽ yêu cầu Nhâm Diêm bãi binh. Trường hợp y không bãi binh, ta đem binh của ta kiềm chế y, chặt đầu y, sau đó dâng biểu về triều. Ta là Bình-nam đại tướng quân, có toàn quyền khắp vùng Lĩnh-nam.
Ngừng một lúc chàng tiếp:
– Từ ngày sang Lĩnh-nam đến giờ, ta đã xử tử không biết bao nhiêu bọn quan liêu người Hán tham ô, hại dân. Ta tuy là Lĩnh-nam công, nhưng lại cầm thanh gươm nghĩa hiệp trong tay, chứ không phải là một thứ quan quyền ác độc như tiểu sư đệ thường thấy.
Đào Kỳ hỏi:
– Bây giờ thì đại ca có truy nã bố, mẹ em nữa không?
– Dĩ nhiên là không, mà phải đi tìm người để tạ lỗi nữa.
Hai người đối đáp mà Thiều Hoa cảm thấy bàng hoàng như đi trên mây.
Đào Kỳ tiếp:
– Em biết đại ca thực lòng với nhà em, vì cả những chuyện quốc gia đại sự, đại ca cũng bàn trước mặt chúng em. Đại ca coi Song-quái như tôi tớ, còn em như ruột thịt, không lẽ đến như vậy mà em không tin đại ca nữa sao? Bây giờ thế này: Sư tỷ về Cao gia trang, còn em thì đi với Nghiêm đại ca để tìm bố mẹ.
Thiều Hoa thấy Kỳ sắp xếp sự việc đâu ra đấy, đồng ý ngay:
– Được! Thì em đi với Nghiêm đại ca. Khi gặp sư phụ, sư mẫu rồi thì em nói với người, và thông tin cho chị biết liền. Chị ở Cao gia trang, trông tin em từng ngày từng giờ đấy.
Đào Kỳ cười hì hì:
– Chị thực là vô tình, hay chị nói có một nửa câu? Em sợ chị trông em từng ngày từng giờ. Còn chị trông tin người khác từng khắc từng giây. Em nhớ Kinh thi có bài hát nói về người con gái và người con trai xa nhau, mỗi ngày không gặp nhau, thấy dài bằng ba mùa thu:
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề.
Đào Kỳ xoáy thẳng vào tâm tư Thiều Hoa, làm nàng đỏ mặt, không nói được câu nào. Nàng tát sẽ lên má nó hai cái:
– Bẻm mép!
Nói rồi nàng ôm đầu nó vào ngực, xoa đầu nó, nhảy xuống ngựa. Thiều Hoa vỗ mông ngựa một cái, con ngựa phi nước đại. Nghiêm Sơn liếc ngang, nhìn nàng, thở dài, rồi phi ngựa theo Đào Kỳ:
– Hoàng cô nương, hẹn ngày tái ngộ.
Danh sách chương