Khi biết rằng mình là một tù nhân, tôi như hóa điên hóa dại. Tôi cuống cuồng lên xuống các cầu thang, thử mọi cánh cửa và xăm xoi mọi cửa sổ mà tôi tìm thấy được. Tuy nhiên một lúc sau, trong người tôi chỉ còn một cảm giác bất lực bao trùm. Sau vài giờ vẫy vùng bất lực, tôi đã bình tâm lại, và thấy rằng đóng vai một con chuột đang vật lộn trong cái bẫy như nãy giờ thì thật là điên khùng. Đến khi biết rõ rằng mình hòan tòan bất lực thì tôi ngồi lặng xuống thật bình tĩnh. Chưa bao giờ trong đời tôi lại bình tĩnh hơn thế, và tôi bắt đầu suy xét xem phải làm gì. Tôi nghĩ rằng, mọi sự chưa phải đã hòan tòan kết thúc. Chỉ có một điều tôi chắc chắn phải làm. Đó là đừng để cho bá tước biết tôi đã nắm được sự tình. Ông ta biết rõ là tôi đang bị giam lỏng. Không nghi ngờ gì nữa, chính ông ta là kẻ chủ mưu vụ này, và hẳn là phải có nguyên do. Và phải đánh lừa ông ta bằng cách giả vờ tin tất cả những gì ông ta nói. Tôi nhận thức rõ rằng mình chỉ có một kế hoạch duy nhất là giữ kín trong lòng nỗi sợ hãi cùng những gì đã khám phá được, và ngược lại, phải mở to mắt ra. Trong trường hợp này, hoặc là tôi sẽ bị đánh lừa như một đứa trẻ, hoặc là tôi phải dốc hết sức vào một cuộc mạo hiểm nhằm thóat khỏi tình thế. Muốn làm được điều sau này thì tôi cần phải tập trung tất cả những cái gì có trong đầu mình.
Trong khi tôi đang dần đến quyết định cuối cùng này, thình *** h tôi nghe thấy tiếng cánh cửa lớn phía dưới đóng lại, báo hiệu rằng bá tước đã trở về. Ông ta không đi vào thư viện ngay, và tôi rón rén trở về phòng mình. Tôi thấy ông ta đang dọn giường cho tôi. Điều này thật là lạ lùng, nhưng nó xác nhận điều tôi nghĩ. Ngòai ông ta ra, tôi hòan tòan đơn độc trong lâu đài, không có một người hầu nào khác. Khi tôi thấy ông ta luồn qua bản lề cửa để vào trải bàn cho bàn ăn thì tôi hòan tòan chắc chắn. Do ông ta tự mình làm hết tất cả các công việc của người hầu, chứng tỏ là chẳng còn ai khác trong lâu đài, và chính bá tước là người đánh xe cho tôi trong cái đêm tôi mới đến. Đó là một ý nghĩ làm tôi tôi kinh hòang. Ông ta là người như thế nào mà có thể điều khiển bầy sói, có thể giữ chúng im lặng bằng những dấu hiệu? Những người ở Bistriz và trong xe ngựa lo sợ điều khủng khiếp gì cho tôi? Họ tặng cho tôi cây thánh giá, tỏi, hoa hồng dại và tần bì núi để làm gì? Xin Chúa hãy phù hộ người đàn bà tốt bụng, thật là tốt bụng đã đeo cây thánh giá quanh cổ tôi. Bây giờ, khi chạm vào nó, tôi cảm thấy lấy lại niềm tin và sức mạnh. Cái vật kỳ lạ mà ban đầu tôi đã không muốn nhận, và giờ đây nó mang lại một sự trợ giúp đầy linh thiêng trong những lúc cô đơn và bối rối. Đó phải chăng là bản chất thật sự của nó, hay nó là một phương tiện giúp đỡ hữu hình, để chuyên chở những nỗi lòng cảm thông và an ủi? Tôi sẽ cố kiểm tra lại vấn đề này khi nào có thể để giúp mình có được sự xác nhận chính xác. Trong khi chờ đợi thì tôi sẽ tìm hiểu về bá tước Dracula, và điều này giúp tôi có thể hiểu thêm nhiều vấn đề khác. Tối nay thì may ra ông ta sẽ nói về chính mình, nếu tôi chuyển hướng đối thoại một cách khéo léo. Tất nhiên là phải cẩn thận đừng để ông ấy đâm ra nghi ngờ.
Nữa đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với bá tước. Tôi hỏi ông ta những câu hỏi về lịch sử Transylvania, và ông ta rất sôi nổi với chủ đề thú vị này. Ông ta nói về những sự kiện và những con người, đặc biệt là những trận đánh, ông ta kể lại như thể chính ông ta có mặt tại các thời khắc đó. Lúc sau ông giải thích rằng niềm kiêu hãnh đã lưu danh tại ngôi nhà của ông ta, và tên tuổi của người Boyar chính là niềm kiêu hãnh của ông ta, vinh quang của họ là vinh quang của ông ta, và định mệnh của họ cũng chính là định mệnh của ông ta. Bất cứ lúc nào nói về ngôi nhà của mình, ông ta đều dùng từ "chúng tôi" và chia các động từ ở số nhiều, cứ như ông là một vì vua đang kể về đế chế của mình. Ước gì tôi có thể ghi lại hòan tòan chính xác những gì ông ấy kể, chúng quá hấp dẩn. Nó gần như dựng lại tòan bộ lịch sử của đất nước này. Khi kể chuyện, ông ta thật là khích động. Ông ta đi vòng quanh phòng, vuốt hàm ria trắng của mình, tóm lấy bất cứ cái gì trong vòng tay như thể sắp bẻ phăng chúng bằng sức mạnh của mình. Trong lúc ông ta nói thì tôi ngồi sát lại, cố nắm bắt lại câu chuyện được kể một cách sôi nổi của ông.
"Những người Szekelys chúng tôi đã có lý do chính đáng để tự hào, khi mà trong huyết mạch chúng tôi tuôn chảy dòng máu của những chiến binh dũng cảm đã chiến đấu với trái tim sư tử để giành lấy và bảo vệ vùng đất này. Ở đây, trong vòng xóay của những những cuộc trường chinh của châu Âu, những dòng giống người Ugric đã đến từ Iceland để tiến hành một cuộc chiến thần thánh do Thor và Wodin dẩn đầu. Những người này đã khiến mọi người phải tưởng họ là những con ma sói khi không biết bao lần những cơn thịnh nộ của họ đã tạo nên sự kinh hòang ở khắp bờ biển châu Âu, đến tận châu Phi và châu Á. Đến đây, họ gặp những người Hun, những kẻ làm nên những cuộc chinh phạt đã đốt sạch mặt đất như những ngọn lửa sống, đến nỗi những người chết nghĩ rằng trong mạch máu họ là những dòng máu của những phù thủy già bị trục xuất khỏi Scythia đã kết bạn cùng quỷ sứ ở sa mạc. Những kẻ ngu ngốc, ngu ngốc! Quỷ sứ hay phù thủy nào có thể sánh với Attila, với những dòng máu anh hùng như vậy?" Ông ta vung tay lên. "Chúng tôi đã chiến thắng tất cả, chúng tôi tự hào rằng, những người Magyar, người Lombard, người Avard, người Bulgar, người Thổ đã phơi xác hàng loạt trên biên giới chúng tôi, chúng tôi đã đánh lui tất cả, điều đó là là kỳ diệu, phải không? Khi Arpad và binh đòan của hắn quét qua đất nước Hungarian, hắn đã gặp chúng tôi tại biên giới và cuộc trường chinh Honfoglalas của hắn chấm dứt, kỳ lạ quá phải không? Rồi khi người Hungarian tạo thành cơn lũ quét về phía đông, người Szekelys đã cùng chia xẻ vinh quang bởi chiến thắng của người Magyars. Chúng tôi đã qua hàng thế kỷ bảo vệ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Và những công việc nơi biên giới thì không bao giờ chấm dứt, giống như người Thổ đã nói ‘nước sông thì ngủ, nhưng kẻ thù thì chẳng hề ngủ bao giờ.’ Ai có thể tự hào hơn chúng tôi, những người trong cuộc chiến Bốn Dân Tộc đã nhận được ‘thanh gươm máu’, hoặc chính tại cuộc chiến này lời kêu gọi tập hợp dân chúng của chúng tôi còn có hiệu lực hơn chính lời hiệu triệu của vua? Đâu là lúc rửa nhục cho mối hờn dân tộc của chúng tôi, nỗi nhục nhã của Cassova, khi mà cờ chiến của người Wallach và người Magyar ngã xuống dưới Crescent? Ai là người trong dòng giống chúng tôi, giống như Voivode băng ngang sông Danube và khuất phục người Thổ ngay trên đất của họ? Đó chính là Dracula. Chỉ đau buồn rằng đó là một người anh em đáng khinh bỉ, khi hắn bại trận, hắn đã bán rẻ dòng tộc mình cho người Thổ và chấp nhận nỗi nhục nhã làm nô lệ cho họ. Đó không phải là dòng giống Dracula này, nòi giống đã được truyền lại để rồi không biết bao nhiêu lần mang theo sức mạnh của mình theo dòng sông lớn cuồn cuộn đổ vào đất Thổ, kẻ mà khi bị đánh bại, lại tiếp tục vùng lên, kẻ lang thang cô độc giữa cánh đồng máu, nơi mà các chiến binh của anh ta đã bị tàn sát, vững tin rằng dù chỉ còn lại một mình, anh ta cũng nhất định sẽ giành lấy thắng lợi sau cùng! Người ta nói rằng anh ta chỉ nghỉ đến mình. Bah! Những người nông dân mà không có lãnh đạo thì sẽ như thế nào? Làm sao chiến thắng được cuộc chiến tranh nếu thiếu đi khối óc và con tim để chỉ đạo nó? Một lần nữa, sau cuộc chiến với người Mohacs, chúng tôi lật đổ ách thống trị của người Hungarian, chúng tôi, những người mang trong mình dòng máu Dracula đã chống lại những kẻ cầm đầu họ, bởi vì truyền thống của chúng tôi không bao giờ chấp nhận chúng tôi là những kẻ mất tự do. Ah, thưa ngài trẻ tuổi, người Szekelys, mà dòng giống Dracula là máu trong tim họ, là khối óc của họ, là thanh gươm của họ, là một dân tộc kiêu hùng mà những bọn người Hapsburgs, người Romanoff mọc lúc nhúc như nấm kia không thể nào sánh nổi. Ngày nay chiến tranh đã chấm dứt. Máu đã trở thành một thứ quý giá trong những ngày tháng hòa bình đầy hổ thẹn này, và những vinh quang của những trận chiến oai hùng ngày xưa chỉ còn lại trong những truyền thuyết được kể lại cùng năm tháng mà thôi."
Lúc này đã gần sáng, và chúng tôi đi ngủ. (Có lẻ quyển nhật ký này đã trở thành một thứ gì đó kỳ lạ như câu chuyện về "Những đêm Ả rập", khi mà mọi chuyện sẽ kết thúc cùng với tiếng gà gáy sáng, hoặc giống như hồn ma của cha Hamlet.)
Ngày 12 tháng 5:
Hãy để tôi bắt đầu những sự kiện, những sự kiện đơn giản và rõ ràng, được kiểm chứng bằng sách vở và hình ảnh. Tôi sẽ không phải xáo trộn nó lên bởi những điều tôi quan sát hoặc nhớ về chúng. Vào buổi tối cuối cùng khi bá tước đến từ phòng ông ta, ông ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi về các vấn đề luật pháp và tiến hành các công việc kinh doanh. Tôi đã trải qua những ngày mệt mõi giữa các trang sách, giải quyết một số vấn đề mà tôi đã kiểm chứng trong cuốn Nhà trọ Lincoln. Đó cũng là những yêu cầu của bá tước, và tôi đã ghi chép lại một cách tuần tự. Những kiến thức này đôi khi cũng hữu ích cho tôi một cách nào đó.
Trước tiên, ông ta hỏi tôi là tại nước Anh người ta có thể có hai luật sư riêng không. Tôi trả lời là nếu thích người ta có thuể thuê đến hàng tá, tuy nhiên một người khôn ngoan sẽ không thuê quá một luật sư cho một chuyện làm ăn. Khi có hai người trở lên thì thay vì đưa ra một ý kiến cho một công chuyện, họ sẽ quay ra bảo vệ những ý kiến khác nhau và điều đó chỉ có hại mà thôi. Ông ta xem ra rất hiểu, rồi ông ta hỏi tiếp về việc thuê một người để phục vụ, giao thiệp, mua bán, nói cách khác là một người chăm sóc về mọi mặt khi ở trên một chiếc tàu, thì liệu có khó khăn gì không. Tôi muốn ông ấy giải thích thật rõ, để tránh việc tôi hiểu sai ý ông ta, và ông ta nói.
" Tôi sẽ minh họa nhé. Bạn của ngài và của tôi, ngài Peter Hawkins, người đang ẩn mình dưới bóng tòa thánh đường xinh đẹp của ngài ở Exeter, ở chốn London xa xôi, đã mua cho tôi dưới sự giúp đỡ của ngài một nơi ở tại London. Tốt! Nào, bây giờ thì tôi nói thật nhé, ngài đừng lấy làm lạ là tôi sẽ không tìm cho mình một người hầu trong số những cư dân tại thành phố London xa lắc đó, bởi vì đối với tôi, không ai có thể phục vụ được những ý muốn của tôi tốt hơn một người ở quê tôi, trong khi một người địa phương có thể phục vụ theo một cách gì đó không đơn thuần theo ý muốn của tôi, mà cho anh ta hay bạn bè của hắn chẳng hạn. Do vậy tôi sẽ tìm người hầu của mình trên những cánh đồng tại nơi đây, những người chỉ lao động vì ý thích của tôi. Bây giờ, giả sử là tôi đang cần làm ăn với những chuyến tàu chở hàng, giả dụ như từ Newcastle, Durham, Harwich hoặc Dover, thì liệu việc tôi ủy quyền cho một người khác làm việc tại những bến cảng như vậy có dễ dàng không?"
Tôi trả lời rằng sẽ không có gì dễ dàng hơn chuyện đó. Nhưng những luật sư chúng tôi thì có một hệ thống chi nhánh từ nơi này sang nơi khác, do đó những công việc tại các địa phương có thể hòan tòan làm việc dưới sự chỉ dẩn của bất cứ luật sư nào tại địa phương đó. Khách hàng chỉ cần đơn giản ủy quyền cho một người bất kỳ nào đó những ý muốn của mình, công việc sẽ tiến hành mà chẳng có rắc rối gì.
"Nhưng," ông ta nói, "tôi có thể làm việc đó trực tiếp, đúng không?"
"Tất nhiên," tôi trả lời, "vẩn có những chuyện thường xảy ra như vậy, một số người có những công chuyện kinh doanh riêng và không muốn một người nào khác biết về công chuyện của mình."
"Tốt!" ông ta nói, và tiếp tục bàn về việc thiết lập ủy quyền của những các dạng giấy tờ cần thiết, cẩn thận xem xét sao cho chẳng có sơ xuất nào. Tôi giải thích tất cả với ông ta bằng tất cả khả năng của mình, và rõ ràng là ông ta từ giã tôi với một ấn tượng là mình đang làm việc với một luật sư cự phách, do đó ông ta chẳng hề nghi ngờ điều gì cả. Trong khi ông ta còn đang đắm chìm trong sự tự thỏa mãn, còn tôi thì kiểm tra mọi thứ qua sách vở, thì chợt ông ta dừng lại và nói, "Hình như ngài có viết thêm những thứ gì đó sau khi ngài viết bức thư đầu cho người bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, thì phải?"
Với một chút giật mình trong tim , tôi trả lời là không, cũng vì tôi không thấy có gì cần phải gửi thư cho ai cả.
"Vậy thì ngài hãy viết đi, người bạn trẻ của tôi," ông ta nói, đặt tay lên vai tôi, "viết cho bạn của chúng ta và những người nào ngài cần thông báo rằng ngài sẽ ở đây với tôi thêm một tháng nữa, nếu điều đó không làm phiền ngài."
"Ngài muốn tôi ở lại với ngài lâu đến thế sao?" tôi hỏi, cảm thấy tim mình trở nên lạnh ngắt trong một thóang.
"Tôi rất muốn điều đó, và tôi không muốn nghe về sự từ chối. Khi chủ của ngài, giao cho một người nào đó thay mặt cho ông ta, với mục đích rõ ràng là phục vụ cho việc thỉnh thị ý kiến của tôi, hẳn là người đó sẽ làm hết mình chứ, có phải không ạ?"
Tôi có thể làm gì ngòai việc cúi chào tán thành. Đây là quyền lợi của ngài Hawkins, chứ không phải tôi, và tôi nên nghĩ đến ông ta chứ không chỉ nghĩ đến mình. Ngòai ra, qua ánh mắt và cử chỉ của bá tước Dracula khiến tôi nhớ ra rằng mình là một tù nhân, và tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Khi bá tước thấy rõ sự thắng lợi của mình qua cái cúi chào của tôi, thấy được quyền lực của mình qua sự bối rối trên mặt tôi, ông liền bắt đầu sử dụng chúng một cách khéo léo không sao cản lại:
"Tôi mong rằng ngài, người bạn trẻ tuổi thân mến của tôi, rằng ngài sẽ không nói thêm gì trong những bức thư ấy ngòai công việc làm ăn của chúng ta. Nó sẽ làm các bạn của ngài an tâm rằng ngài đang rất khỏe mạnh, và sẽ về nhà sau khi xong công việc. Ngài có bằng lòng không ạ?" trong khi ông ta nói, ông ta trao cho tôi ba xấp giấy viết thư và ba chiếc phong bì, tất cả đều là những thứ giấy tờ bưu kiện thuộc loại mỏng nhất ở nước ngòai. Rồi ông ta, với nụ cười lặng lẽ, đưa ra đôi hàm răng chó sắc nhọn bên trong đôi môi đỏ rực, như thể nói rằng tôi nên cẩn thận với những gì viết trong thư, vì ông ta có thể đọc được chúng. Vì vậy tôi quyết định rằng bây giờ hãy tạm viết thư một cách bình thường theo ý ông ta, rồi hãy bí mật kể lại mọi chuyện cho ông Hawkin, và sẽ viết cho Mina qua một số ký hiệu viết tắt, điều sẽ làm cho bá tước Dracula lâm vào một bài tóan đố chữ đủ làm ông ta nhăn nhó nếu ông tìm cách đọc nó. Sau khi tôi viết hai lá thư trên xong, tôi ngồi yên và đọc sách, trong khi bá tước viết rất nhiều, tham khảo một số sách trên bàn. Sau đó ông ta lấy hai lá thư của tôi, đặt vào giữa những mớ giấy tờ ông ta vừa viết, rồi ông ta đi ra ngay tức khắc và đóng cửa lại. Tôi chồm qua bàn và đọc những lá thư vẩn còn nằm trên bàn. Tôi chẳng hề ân hận vì hành động của mình, bởi vì trong hòan cảnh này tôi phải tự bảo vệ mình bằng tất cả mọi cách có thể được.
Một trong những lá thư được gửi đến Samuel F.Billington, số 7, Crescent, Whitby, và một bức khác gửi cho Herr Leutner, Varna. Bức thứ ba gửi cho Coutts & Công ty, London, bức thứ tư gửi cho Herren Klopstock & Billreuth, giám đốc ngân hàng, Buda Pesh. Bức thứ hai và thứ tư chưa được dán lại. Tôi vừa định đọc nó thì kịp thấy tay nắm cửa động đậy. Tôi ngồi trở lại chỗ của mình, quay lại đọc tiếp cuốn sách của mình trước khi bá tước quay trở về phòng, trong tay là một bức thư khác. Ông ta thu nhặt những bức thư trên bàn, dán tem lại cẩn thận và quay lại về phía tôi, cất tiếng,
" Tôi tin là ngài sẽ bỏ qua cho tôi, vì tôi có một số việc riêng phải giải quyết trong chiều tối nay. Hy vọng là ngài sẽ có một đêm như ý." Đi ra đến cửa, ông ta quay lại, ngập ngừng một chút rồi nói, " Tôi sẽ cho ngài một lời khuyên, người bạn trẻ của tôi. Nói cho đúng hơn, đây là một lời khuyến cáo rất nghiêm túc. Ngòai căn phòng của ngài ra, thì chẳng có nơi nào trong lâu đài này ngài có thể qua đêm được. Đây là một tòa lâu đài cổ, mang trong nó nhiều câu chuyện của quá khứ, và nó mang lại cho những kẻ dại dột nhiều cơn ác mộng khó quên. Hãy cẩn thận! Ngài hãy ngủ lại đây. Còn nếu có điều gì xảy ra cho ngài tại những nơi khác, hãy nhanh chóng quay trở về phòng riêng của mình hoặc những căn phòng chung quanh, đó là nơi ngài sẽ ngủ an giấc. Nếu như ngài không lưu ý vào những điều cảnh báo này, thì," Ông ta kết thúc bài nói của mình một cách đầy đe dọa, tay ông vung vẫy thành những cử động như đang quét sạch những cái gì. Tôi hiểu ra. Tôi chỉ nghi ngờ là liệu có một cơn ác mộng nào có thể ghê gớm hơn cái lưới khủng khiếp và siêu nhiên của những điều bí ẩn ma quái đang siết dần lại chung quanh tôi hay không.
Đêm khuya.—Tôi đã ghi lại tất cả những điều ông ta nói, nhưng không thêm vào đó sự nghi ngờ của mình. Tôi không sợ ngủ lại ở bất kỳ nơi nào trong lâu đài nếu ông ta không có trong đó. Tôi sẽ đặt cây thánh giá của mình lên đầu giường ngủ, và tôi tin rằng điều đó sẽ làm giấc ngủ của tôi sẽ được giải phóng khỏi những cơn ác mộng.
Khi ông ta đi khỏi tôi đi vào phòng của mình. Một lúc sau, không còn nghe tiếng động nào nữa, tôi đi ra và leo lên một cái cầu thang đá, đứng ở đây tôi có thể trông về phía Nam. Một dãi đất rộng mênh mang trải dài trước mắt tôi, khiến sự khao khát tự do của tôi càng cháy bỏng khi tôi so sánh nó với khỏang sân tối tăm chật hẹp của lâu đài. Nhìn thấy nó, tôi càng nhận thức rõ tôi là một tù nhân thật sự, và tôi càng thèm muốn được hít thở bầu không khí trong lành của tự do, dù cho bây giờ đang là đêm đen. Tôi bắt đầu cảm thấy thấy rõ sự hiện hữu của đêm tối bên trong tôi, nó hủy hoại đi ý chí của tôi. Tôi đang bắt đầu tự làm cho mình u mê với những nỗi tưởng tượng kinh khủng. Chúa biết rõ rằng nguồn gốc của những nỗi sợ hãi kinh khủng trong tôi chính là vùng đất đáng nguyền rủa này! Tôi nhìn ra vùng đất rộng mênh mông xinh đẹp đang tắm mình trong ánh trăng đêm sáng rực như thể đang ở giữa ban ngày. Trong cái thứ ánh sáng huyền dịu đó, những ngọn đồi cao ngất như bị tan ra trong bóng đêm mượt mà của những thung lũng và kẽ núi. Vẻ đẹp này đã khiến tôi bị cuốn hút vô cùng. Mỗi hơi thở tôi hít vào mang theo sự êm ả và cảm giác an ủi. Khi tôi trườn người ra từ cửa sổ, tôi chợt thấy có cái gì đang chuyển động ở tầng dưới tôi, nằm ở phía bên trái, nơi tôi nghĩ rằng theo sự bố trí các phòng của lâu đài, thì đó là nơi cửa sổ phòng bá tước trông ra. Cái cửa sổ tôi đang đứng là một cái cửa sổ rộng và cao, bao bằng những đá, xem ra hòan tòan bền vững với mọi thời tiết. Nhưng rõ ràng là có cái gì đó đang diễn ra ở đằng kia. Tôi thu người lại sau bệ đá, và chăm chú quan sát.
Tôi thấy cái đầu của bá tước thò ra từ cửa sổ. Tôi không thấy rõ mặt, nhưng tôi biết đó là một con người bởi cái cổ và sự chuyển động của lưng và cánh tay. Tôi không thể nhầm lẫn những cánh tay mà tôi đã nhiều lần nếm thử sức mạnh của nó. Tôi cảm thấy thích thú và ở chừng mực nào đó là sự buồn cười, bởi vì bất kỳ một chuyện nhỏ nào cũng sẽ làm cho người ta thích thú và buồn cười khi anh ta là một tù nhân. Nhưng tôi nhanh chóng chuyển sang kinh hòang và sợ hãi khi thấy tòan bộ thân người của bá tước nhô ra cửa sổ và bắt đầu trườn xuống. Bao quanh lâu đài là những vực thẳm chết chóc, và khi bá tước tuột xuống, cái áo chòang xám của ông ta bay phấp phới như những cái cánh khổng lồ. Thoạt tiên tôi không tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là sự đánh lừa của bóng đêm, nhưng khi tiếp tục quan sát, tôi biết rằng mình không hề lầm. Tôi thấy những ngón tay và mũi giày bám vào những góc cạnh vào những hòn đá trên bức tường mà lớp vôi vữa đã bị bào mòn bởi thời gian, tận dụng từng góc cạnh lồi lõm để tuột xuống với một tốc độ ghê hồn, như là một con thằn lằn đang bò trên tường.
Đây là loại người gì, hay đúng hơn là loại sinh vật gì, mà có thể làm được những chuyện như thế? Tôi sợ chết khiếp cái vùng đất ma quái đang chế ngự tôi. Tôi sợ hãi, sợ hãi đến rụng rời, và hầu như tôi không thể trốn thóat khỏi nơi đây được nữa.Tôi bị bao bọc bởi những điều kinh khủng mà tôi thậm chí không dám nghĩ đến.
Ngày 15 tháng 5:
Một lần nữa tôi thấy bá tước đi ra ngòai bằng kỹ năng của thằn lằn. Ông ta trườn xuống theo một con đường nghiêng về bên trái dài tới hàng trăm food. Khi cái đầu của ông ta đã khuất, tôi trường người ra để cố nhìn thêm nhưng vô hiệu. Khỏang cách đã quá xa và góc nhìn đã hòan tòan bị che khuất. Tôi biết rằng lúc này ông ta đã rời khỏi lâu đài, và đây là lúc tôi nên lợi dụng cơ hội này để thám hiểu thêm về lâu đài, một điều mà tôi chưa từng dám làm. Tôi trở về phòng, lấy một cái đèn, và thử tất cả các cửa. Như tôi dự đóan, chúng được khóa sạch, và những cái khóa vẩn còn mới. Nhưng khi tôi đi xuống cầu thang đá để đi vào đại sảnh, nơi tôi đã vào lúc mới đến, tôi có thấy rằng tôi có thể đẩy được then cửa cũng như tháo sợi dây xích lớn dễ dàng, nhưng cánh cửa thì đã bị khóa, và chìa khóa đã bị lấy mất. Chiếc chìa khóa này chắc hẳn ở trong phòng của bá tước. May ra thì cửa phòng ông ta không khóa, tôi có thể lấy chìa khóa và trốn thóat. Tôi cẩn thận kiểm tra mọi lối đi và cầu thang, thử mở tất cả mọi cánh cửa. Một hoặc hai cánh cửa nhỏ gần đại sảnh không khóa, nhưng bên trong trong nó không có gì đáng để ý, ngoài những vật dụng cũ kỹ đầy bụi bởi thời gian và mối gặm. Tuy nhiên, tôi tìm thấy một cánh cửa trên đỉnh cầu thang, mặc dù cũng bị khóa, nhưng khi tôi thử đẩy thì nó nhúch nhích. Tôi thử mạnh hơn, và thấy rằng cánh cửa thật ra không bị khóa, nó bị kẹt bởi bản lề long ra và cánh cửa nặng nề giống như đang được dựa vào sàn nhà. Đây là một cơ hội có một không hai, tôi cố sức đẩy cho cánh cửa dịch chuyển được một khỏang tôi có thể len vào. Bây giờ thì tôi đang ở vào một tầng bên của lâu đài, có lẽ là nằm ở tầng dưới và ở phía bên phải căn phòng tôi đã biết. Từ cửa sổ tôi có thể nhìn thấy một dãy phòng nằm dọc theo phía nam lâu đài, cửa sổ của cái cuối cùng trông ra phía tây và phía nam. Cả hai phía đều là những vách đá dựng đứng. Lâu đài được xây dựng trên một mỏm đá cao, trong đó có đến ba phía là không thể vượt qua được, với những cánh cửa sổ cao ngất mà không một cây ná, cánh cung hay một cánh chim câu nào có thể vươn tới. Phía tây là một thung lũng rộng, và vươn ra phía xa là những rặng núi nhấp nhô, các đỉnh nối tiếp nhau. Giữa những vách đá thẳng đứng là những cây tần bì núi và bụi gai có gốc bám cứng vào những vết và kẽ nứt trên đá. Chắc là phần này của lâu đài vào những ngày xa xưa được sử dụng bởi những người phụ nữ, vì những đồ vật trong phòng trong có vẻ tiện nghi hơn những phòng khác.
Cửa sổ ở đây được trải màn, và ánh trăng vàng lấp lánh tràn ngập qua những tấm cửa sổ lóng lánh, làm mọi vật trở nên rực rỡ hơn, mặc dù chúng chìm ngập trong bụi, trông như chúng đang cố cải trang khỏi sự tàn phá của thời gian và mối. Ngọn đèn của tôi góp thêm phần vào ánh trăng huyền dịu này. Nhưng tôi rất cần có nó bên mình, nếu không thì sự cô độc khủng khiếp ở nơi này sẽ làm con tim tôi lạnh giá và thần kinh của tôi run lên trong sợ hãi. Dù sao, ở nơi đây vẩn tốt hơn là cô độc trong những căn phòng mà sự hiện diện thường xuyên của bá tước đã làm cho tôi chán ghét, và sau những cố gắng để tìm lại sự cân bằng cho thần kinh, tôi đã tìm thấy nơi đây một cảm giác bình thản an lành. Và tôi đang ngồi đây, trước một cái bàn nhỏ bằng gỗ thông, nơi mà ngày xưa có lẽ là một tiểu thư đã từng ngồi, mơ mộng và thẹn thùng, viết những lá tình thư của cô ta, tôi lại viết tốc ký tiếp tục vào sổ nhật ký của tôi tất cả những gì xảy ra cho tôi từ lần tôi gấp lại gần đây nhất. Bây giờ đã gần cuối thế kỷ mười chín, nhưng nếu như cảm giác không lừa dối tôi, thì những thế kỷ trước vẩn tồn tại trong nó những năng lực mà sự "hiện đại" không thể tiêu diệt được.
Đêm khuya. Buổi sáng của ngày 16 tháng 5:
Chúa hãy phù hộ cho lý trí của tôi, đó là điều tôi cần. An tòan và những bảo đảm cho sự an tòan đã thuộc về quá khứ. Trong khi tôi sống tại nơi đây, tôi chỉ hy vọng vào một điều là tôi sẽ không hóa điên, nếu như tôi vẩn còn chưa điên. Nếu như tôi còn tỉnh, thì rõ ràng tôi sẽ hóa điên nếu nghĩ đến những việc khủng khiếp đã diễn ra ở cái nơi ở đáng ghét này của bá tước, đó là việc tệ hại nhất cho tôi. Nếu chỉ có một mình bá tước, thì tôi sẽ còn được an tòan, mặc dầu điều đó chỉ là vì tôi đang còn có ích cho ông ta. Chúa cao cả, Chúa từ bi, hãy để cho tôi được bình tĩnh, tránh xa được những chuyện giả dối điên khùng đang diễn ra. Tôi đã tìm thấy được những tia sáng mới giữa những mớ hỗn độn đang đánh đố tôi. Đến bây giờ tôi mới hiểu Shakespeare muốn nói gì khi ông ta cho Hamlet nói " Những tấm thẻ ghi của tôi! Nhanh, những thẻ ghi của tôi! Tôi sẽ viết ngay khi có nó,!" v.v., Đến nay, những lúc nào tôi cảm thấy đầu óc mình không còn cân bằng được nữa, hoặc những cú sốc đã gần đánh quỵ được tôi, tôi lại tìm sự cân bằng nơi quyển nhật ký của mình. Sở thích này thật sự đã làm tôi dịu đi.
Những điều cảnh cáo bí ẩn của bá tước đã làm tôi kinh hỏang trong một lúc. Nó không còn làm tôi hoảng sợ nữa khi tôi nghĩ về nó, bởi vì trong tương lai ông ta sẽ còn tiếp tục cầm giữ tôi một cách đầy ghê sợ. Và tôi sẽ sợ để hiểu những điều ông ta có thể nói!
Khi tôi viết xong cuốn nhật ký, may mắn là tôi đã kịp cất cuốn nhật ký và viết vào túi khi tôi bắt đầu buồn ngủ. Những lời cảnh cáo của bá tước lỡn vỡn trong tâm trí tôi, nhưng tôi sẽ rất vui lòng không tuân lệnh ông ta. Cảm giác buồn ngủ tràn ngập tâm trí tôi, và cùng với nó là sự bướng bĩnh khiến giấc ngủ càng trở nên quyến rủ. Ánh trăng đêm êm dịu, và khỏang không bao la dù không mang lại sự tự do đã làm tôi phục hồi. Tôi quyết định đêm nay sẽ không trở về căn phòng ma quái u ám của tôi nữa, mà sẽ ngủ lại đây, nơi mà ngày xưa những tiểu thư đã ngồi bên song cửa, cất cao tiếng hát, đã sống những cuộc sống êm ả trong khi tâm tưởng họ tràn ngập những nỗi buồn về những người đàn ông đã ra đi vì những cuộc chiến tranh tàn nhẫn. Tôi thấy một cái tràng kỷ lớn nằm gần góc phòng, và khi tôi nằm đấy, tôi có thể thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ ở phía đông và phía nam. Chẳng thèm nghĩ ngợi hay quan tâm gì đến bụi bặm, tôi có thể dỗ được giấc ngủ của mình. Tôi nghĩ rằng tôi đang ở trong một giấc mộng. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi sợ rằng những gì xảy ra tiếp theo cho tôi là sự thật, rất thật, diễn ra trong ánh sáng ban ngày rực rỡ, và tôi không thể tin rằng đó là một giấc mơ.
Tôi không ở một mình. Căn phòng vẩn như vậy, không hề thay đổi so với lúc tôi bước vào. Tôi có thể nhìn thấy dưới ánh trăng rực rỡ, những dấu chân của tôi trên sàn khi tôi làm xáo trộn những lớp bụi dày được tích lũy nơi đây. Đứng đối diện với tôi dưới ánh trăng là ba phụ nữ trẻ, ba tiểu thư qua cách ăn mặc và dáng vẻ của họ. Khi nhìn thấy họ, tôi nghĩ rằng tôi đang nằm mơ, bởi vì trên sàn nhà không hề có bóng của họ. Họ tiến lại gần tôi, quan sát tôi một lát rồi bắt đầu quay qua rì rầm với nhau. Hai người trong số họ ngăm ngăm, có những chiếc mũi chim ưng cao như bá tước, với những đôi mắt đen, trũng sâu, có vẻ như đỏ rực lên tương phản với ánh trăng vàng nhạt. Người phụ nữ còn lại xinh đẹp, đẹp tuyệt vời, tóc vàng và mắt lóng lánh như ngọc bích. Hình như tôi có biết khuôn mặt xinh đẹp này, nó nằm đâu đó trong những cơn ác mộng của tôi, nhưng lúc này tôi chưa thể xác định được là tôi đã gặp nó ở đâu và như thế nào. Cả ba đều có những hàm răng tuyệt vời, sáng trắng trên những đôi môi đầy quyến rủ màu hồng ngọc. Họ có một cái gì đó làm tôi không thể bình tâm được, nữa thèm muốn và một nữa là chết khiếp. Tôi cảm thấy trong tim mình một nỗi khao khát cháy bỏng, không thể cưỡng lại được là được họ hôn với những cặp môi đỏ rực kia. Có lẽ ghi lại những điều này là không hay, bởi một ngày nào đó có thể nó sẽ đập vào mắt Mina và làm cô ấy đau khổ, nhưng đó lại là sự thật. Họ thì thầm với nhau, rồi cả ba phá lên cười, những tiếng cười trong trẻo như tiếng bạc va vào nhau, nhưng cũng có cái gì đó rờn rợn trong những tiếng cười này. Những âm thanh này không thể phát ra từ những đôi môi mềm dịu của con người. Nó mang một âm điệu thô kệch, chói tai giống như những kẻ vụng về chơi đàn. Người con gái xinh đẹp lắc đầu một cách đỏm dáng, và hai cô kia tranh cãi với cô ta.
Một người nói, "Nào! Bạn làm trước đi, và chúng tôi sẽ tiếp tục. Bạn bắt đầu là đúng rồi."
Người kia thêm vào, "Anh ta trẻ và khỏe mạnh. Cả ba chúng ta sẽ hôn anh ấy."
Tôi nằm yên trên giường, liếc nhìn dưới mi mắt cái niềm hạnh phúc đang sắp sửa diễn ra. Người con gái xinh đẹp bước lên và cuối sát xuống tôi đến nỗi tôi có thể cảm thấy ngực cô ta sát phía trên tôi. Cô ta phát ra những âm thanh dịu dàng, âu yếm cùng với một sự khát khao nồng cháy, kích động, nhưng kèm theo đó là một cái gì đó kinh khiếp dưới sự ngọt ngào, một cảm giác tấn công kinh khủng, giống như một kẻ ngửi thấy mùi máu.
Tôi không dám nhướng mi lên, nhưng có thể nhìn thấy được rất rõ qua khe mắt. Cô gái quỳ xuống trên đầu gối, cúi sát vào tôi với vẻ thèm muốn tột độ. Đó là một sự thèm muốn có cân nhắc, bao gồm sự xúc động và sự kinh tởm. Cô ta uốn éo cổ và liếm môi như một con thú. Tôi có thể thấy rõ dưới ánh trăng hơi nước lóng lánh trên đôi môi đỏ rực của cô ta, và cái lưỡi hồng đang liếm trên hàng răng trắng sắc nhọn. Đầu cô ta càng lúc càng cúi thấp, đôi môi cô ta lướt xuống dưới môi và cằm tôi và tiến nhanh về phía cổ họng của tôi. Khi cô ta ngừng lại, tôi có thể nghe thấy tiếng lưỡi cô ta vờn quanh môi và răng, tôi có thể cảm thấy hơi thở nóng hổi của cô trên cổ mình. Rồi làn da nhạy cảm nơi cổ họng của tôi ngứa lên như cảm giác bị ai đó cù vào, càng lúc càng gần, gần hơn nữa. Tôi cảm thấy đôi môi mềm mại và run rẩy của cô ta ở chỗ nơi da thịt nhạy cảm nhất trên cổ họng tôi, hàm răng lởm chởm cứng rắn chạm vào và ngừng lại. Tôi nhắm chặt mắt trong một cảm giác u mê không lý trí, chờ đợi với nhịp tìm thình thịch trong lồng ngực.
Nhưng trong một thóang, một cảm giác khác lướt ngang qua tôi nhanh như ánh sáng. Tôi cảm thấy hình như bá tước đã có mặt, đang giận dữ điên cuồng. Tôi mở mắt không tự chủ được và thấy cánh tay ghê gớm của ông đang chộp lấy cái cổ họng mảnh khảnh của cô gái xinh đẹp, bẻ ngược nó về sau với một sức mạnh kinh hồn, đôi mắt xanh chuyển sang sắc màu giận dữ, đôi hàm răng trăng nghiến ken két đầy cuồng nộ, đôi má cao đỏ rực lên điên cuồng. Nhưng mà, bá tước! Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng thấy một sự giận dữ và phẫn nộ đến như vậy, dù là ở ma quỷ đi nữa. Mắt ông ta rực lên. Màu đỏ trong mắt ông ta thật kinh khủng, cứ như rằng những ngọn lửa địa ngục đang cháy sáng phía sau chúng. Mặt ông ta trắng bệch ra một cách chết chóc, và những đường gân nổi lên như những sợi dây kẽm. Đôi lông mày dày gần như chạm đến mũi, nhìn giống như một thanh kim loại trắng nóng nặng nề. Với một cử động giận dữ, ông ta ném mạnh cô gái đi và bước đến những cô còn lại như thể sắp ăn thịt họ.Dáng điệu của ông ta giống với những dáng điệu hống hách mà tôi đã từng thấy ông ta làm với những con sói. Bằng một giọng nói, dù nhỏ nhẹ như những lời thì thầm, nhưng chúng xé tung bầu không khí trong phòng như những tiếng chuông, ông ta cất tiếng,
"Ai cho phép bọn mày động đến nó, tất cả bọn mày? Ai cho phép bọn mày xuất hiện trước nó dù ta đã cấm? Cút đi, cả lũ bọn mày! Con người này thuộc về ta! Nếu còn dám động vào nó, hãy coi chừng ta."
Cô gái xinh đẹp, phá lên cười một cách đỏm dáng và vô lễ, quay lại và trả lời ông ta.
"Ông đã không bao giờ biết yêu. Ông chẳng bao giờ biết yêu cả!" Và những cô gái khác cũng hòa vào với những tiếng cười buồn bã, nặng nề, không hề có sức sống, chúng vang dội khắp phòng làm tôi gần như lợm giọng khi nghe chúng. Nó giống như sự khao khát đầy kinh tởm của ma quỷ.
Bá tước quay lại, sau khi quan sát khuôn mặt tôi một cách kỹ lưỡng, ông ta nhẹ nhàng thì thầm, "Phải, ta cũng có thể yêu vậy. Chúng mày đã tự biết điều đó trong quá khứ . Phải thế không? Tốt, ta hứa với tụi bây là khi ta xong việc với nó thì tụi bây sẽ được hôn nó nếu tụi mày muốn. Còn bây giờ thì cút! Cút! Ta phải đánh thức nó, có một số chuyện phải giải quyết đây."
"Như vậy là bọn tôi chẳng được gì tối nay ư?" một người trong bọn họ hỏi, với một giọng cười trầm buồn, cô ta chỉ về một cái túi mà ông ta đã vứt trên sàn nhà, đang chuyển động như thể có một vật gì sống bên trong. Ông ta gật đầu để trả lời. Một trong số những người phụ nữ nhảy đến và mở nó ra. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi thì bên trong nó là một tiếng khóc khẽ hổn hển của một nữa đứa bé đang thò ra. Người con gái tiến vòng quanh cái túi, còn tôi kinh hãi đến tột độ. Nhưng khi tôi nhìn lại, họ đã biến mất với cái túi khủng khiếp kia. Không có cánh cửa nào ở gần họ, và họ không thể đi khỏi mà tôi không nhìn thấy. Họ chỉ đơn giản là biến vào ánh trăng và đi xuyên qua cửa sổ, và tôi còn có thể thấy bên ngòai hình bóng họ mập mờ, thấp thóang trong chốc lát cho đến khi họ hòan tòan biến mất.
Sự khủng khiếp đã chiến thắng tôi, và tôi nằm gục đi, bất tỉnh nhân sự.
Khi tỉnh giấc, tôi thấy mình đang nằm trên giường của mình. Nếu như không phải là tôi vừa trải qua một giấc mơ thì chắc là bá tước đã mang tôi trở về phòng. Tôi cố trấn an rằng mình vừa nằm mơ, nhưng điều đó không thể giải thích được những gì đang diễn ra bên tôi. Một ví dụ nhỏ để chắc chắn về việc này là quần áo tôi đã được thay ra và gấp lại, nhưng tôi không bao giờ gấp quần áo theo kiểu như thế. Đồng hồ của tôi được tháo ra, nhưng tôi luôn luôn đeo đồng hồ trong khi ngủ, và có rất nhiều những chi tiết đại loại như thế. Nhưng những gì đã xảy ra cho tôi khó tin đến nỗi, có thể giải thích là đầu óc tôi đang có vấn đề, là thần kinh tôi đang rối loạn. Tôi cần phải xem lại điều này. Chỉ có một điều khiến tôi vui mừng. Đó là việc nếu thật sự bá tước mang tôi về phòng và thay quần áo cho tôi, thì hẳn là ông ta làm việc đó hết sức vội vã, và chẳng kịp dòm ngó gì vào túi tôi. Và hiển nhiên là ông ta chưa biết về những gì tôi viết trong nhật ký, nếu không thì ông ta hẳn đã lấy hoặc hủy nó đi. Và bây giờ căn phòng của tôi, tôi đã nhìn nó với cảm giác như đây là nơi trú ẩn của mình. Dù nó vẩn tràn đầy những cảm giác đáng sợ, nhưng không có gì đáng khiếp hãi hơn những người phụ nữ kinh khiếp kia, những kẻ đang thèm khát máu của tôi.
Ngày 18 tháng 5:
Khi tôi trở xuống căn phòng nọ vào ban ngày để tìm hiểu sự thật. Cửa căn phòng nằm ở đỉnh cầu thang đã được đóng kín. Nó đã được chắn ngang bằng một thang gỗ để ngăn chặn những nỗ lực đẩy nó. Tôi thấy khóa cửa không được gài, nhưng nó đã được buộc chặt từ bên trong. Như vậy đó không phải là giấc mộng, đúng như tôi đã lo sợ, và cần phải hành động trên cơ sở của sự suy đóan này.
Ngày 19 tháng 5:
Tôi chắc chắn sắp phải vất vả đây. Tối hôm qua bá tước yêu cầu tôi viết ba bức thư với giọng điệu đầy đe dọa. Bức đầu tiên nói rằng tôi sắp xong công việc và sắp trở về nhà, bức thứ hai nói rằng tôi đã lên đường vào buổi sáng viết thư, và bức thứ ba nói rằng tôi đã rời lâu đài và đang ở Bistriz. Tôi muốn cưỡng lại, nhưng thấy rằng trong tình hình hiện nay, khi mà tôi hòan tòan nằm trong quyền lực của bá tước thì không có gì điên khùng hơn là tranh cãi công khai với ông ta. Và sự từ chối sẽ làm kích động mối nghi ngờ trong lòng ông ta và khiến ông nỗi giận. Ông ta hẳn đã biết là tôi biết quá nhiều, và để tôi sống là sẽ khiến ông gặp nguy hiểm. Cơ hội duy nhất của tôi là kéo dài các cơ hội. Có thể một sự kiện nào đó sẽ xảy ra và cho tôi cơ hội thóat hiểm. Tôi đã từng thấy sự giận dữ bùng lên trong mắt ông ta khi ông ném tung người phụ nữ xinh đẹp nọ. Ông ta giải thích với tôi là bưu điện ở đây hoạt động rất thất thường, và những bức thư của tôi nên viết từ bây giờ để khiến bạn bè đừng lo lắng. Ông ta còn bảo đảm với tôi một cách đầy tin tưởng rằng những bức thư trên sẽ được giữ tại Bistriz trong khi tôi còn ở lại đây, và sẽ được gửi đi vào những lúc thích hợp. Tranh cãi chỉ khiến ông ta có thêm những mối nghi ngờ mới, tôi giả vờ là đồng ý với những ý kiến của ông ta, và hỏi ông ta rằng tôi nên đề ngày tháng như thế nào trong thư.
Ông ta tính tóan trong một phút, rồi trả lời, "Bức đầu nên đề ngày 12 tháng 6, Bức thứ hai ngày 19 tháng 6 và bức thứ ba ngày 29 tháng 6."
Tôi biết rằng đó là quãng đời còn lại của tôi. Chúa hãy giúp tôi!
Ngày 28 tháng 5:
Có một cơ hội để trốn thóat, hay ít ra để gửi đôi chút tin tức về nhà. Một đoàn dân du mục Szgany vừa đến và cắm trại trong khuôn viên lâu đài. Đó là dân gipsy. Tôi đã từng viết về họ. Mặc dù vẩn liên kết với với các chủng tốc gipsy bình khác ở khắp nơi trên thế giới, thì ở nơi này, họ rất đặc biệt. Họ có hàng ngàn người ở Hungary và Transylvania, và luôn luôn sống ngòai vòng pháp luật. Họ có những luật lệ riêng, những quy định riêng về sự quý phái, và gọi nhau bằng những tên riêng. Họ chẳng sợ cái gì cả, chẳng có tín ngưỡng dù vẩn mê tín, và họ chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng digan riêng của mình.
Tôi sẽ viết về nhà vài lá thư và nhờ họ chuyển. Tôi đã thử làm quen với họ bằng cách nói chuyện qua cửa sổ. Họ giở nón, cúi rạp người chào tôi và làm nhiều dấu hiệu khác, tuy nhiên tôi hiểu về những điều này chẳng khác gì tôi hiểu về ngôn ngữ của họ, nghĩa là gần như chẳng hiểu gì…
Tôi đã viết xong những lá thư. Tôi viết cho Mina bằng những ký hiệu viết tắt và nhờ ông Hawkin chuyển giùm. Tôi giải thích cho Mina tình thế của tôi hiện nay, nhưng không nhắc đến những chuyện kinh dị mà tôi chỉ mới phỏng đóan. Nó sẽ làm nàng sốc và khiếp hãi đến chết nếu tôi nói hết với nàng. Như vậy, nếu những bức thư không được chuyển đi, thì bá tước cũng chẳng thể biết những bí mật của tôi cùng những gì tôi đã khám phá được…
Tôi đã gửi những lá thư. Tôi ném nó ra từ chấn song cửa sổ cùng với vài đồng vàng, và ra dấu là tôi muốn nhờ họ chuyển giùm. Người đàn ông nhặt được lá thư này đã đưa nó lên ngực, cúi chào rồi nhét nó vào chiếc mũ lưỡi trai. Tôi không thể làm gì hơn. Tôi quay về thư viện và bắt đầu viết. Khi bá tước không có mặt thì tôi vào đây để viết…
Bá tước đến. Ông ta ngồi cạnh tôi, và với một giọng nói hòa nhã nhất, ông ta lấy ra hai lá thư, "Những người Szgany vừa đưa cho tôi những thứ này, và dù tôi chẳng biết vì sao họ có, tất nhiên là tôi vẩn nhận. Đây!" – ông ta chắc là đã đọc chúng rồi – "Một bức từ ngài gửi cho ông bạn Peter Hawkins của chúng ta. Còn bức kia" – khi ông ta mở phong bì và nhìn thấy những ký hiệu lạ trong bức thư, mặt ông ta tối sầm lại, còn mắt ánh lên vẻ giận dữ man dại, - "bức thư kia là một vật ghê tởm, nó là tổn thương tình bạn và tinh thần hiếu khách của chúng ta! Nó không được ký tên. Tốt thôi! Nó sẽ chẳng gây nên vấn đề gì giữa chúng ta." Và ông ta bình thản đưa bức thư và phong bì vào lửa cho đến khi chúng hòan tòan được thiêu trụi.
Và ông ta tiếp tục, "Còn về bức thư gửi cho ngài Hawkins, hẳn nhiên là tôi sẽ gửi nó, vì nó là của ngài. Thư từ của ngài là bất khả xâm phạm đối với tôi. Xin ngài thứ lỗi vì tôi đã vô tình bóc nó ra. Mong ngài dán nó lại một lần nữa, có được không ạ?" Ông ta đưa bức thư cho tôi, và với một cái cúi chào nhã nhặn đưa cho tôi một phong bì trống.
Tôi chỉ có thể làm theo với sự im lặng. Khi ông ta rời khỏi phòng tôi nghe tiếng chìa khóa xoay nhẹ. Vài phút sau tôi tiến lại và xoay thử. Cửa đã bị khóa.
Một hoặc hai giờ sau, bá tước lặng lẽ đi vào phòng. Sự xuất hiện của ông ta đánh thức tôi, vì tôi ngủ trên ghế sofa. Ông ta rất nhã nhặn và vui vẻ, và do thấy tôi đang ngủ, ông nói, "Ồ, bạn tôi, ngài mệt ư? Hãy lên giường. Đấy là nơi tốt nhất để ngủ. Tôi không thể nói chuyện với ngài tối nay, do còn nhiều chuyện để làm, nhưng mong ngài hãy ngủ ngon giấc."
Tôi đi vào phòng và leo lên giường, và thật lạ lùng, ngủ ngon lành chẳng mộng mị gì. Sự tuyệt vọng đã mang lại sự bình thản cùng với nó.
Ngày 31 tháng 5:
Sáng nay khi thức dậy, tôi định lục trong túi của mình tìm một số giấy và phong bì cho vào túi, để khi có cơ hội thì lại viết, nhưng một lần nữa tôi được dành cho một sự ngạc nhiên và một cú sốc.
Tất cả những giấy tờ của tôi đã biến mất, tất cả những tài liệu của tôi, những giấy tờ vong lục liên quan đến xe lửa và du lịch, những tờ chi phiếu, nói tóm lại tất cả những gì cần thiết cho tôi khi tôi ra khỏi lâu đài đã bị mất sạch. Tôi ngồi suy nghĩ một lát, rồi một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi vội kiểm tra lại valy quần áo trong tủ quần áo nơi tôi treo quần áo.
Tất cả những quần áo cần thiết để đi ra ngòai, bao gồm áo bành tô và chăn nệm, đã được lấy đi sạch. Thật là một kế hoạch đê hèn…
Ngày 17 tháng 6:
Sáng nay, khi tôi đang ngồi bên giường và cố trấn tĩnh lại đầu óc, thì tôi nghe thấy tiếng chân ngựa đi trên mỏm đá mà chẳng có tiếng roi, tiếng quất hay tiếng cãi cọ nào cả. Tôi vui mừng lao vội ra phía cửa sổ, thấy hai cỗ xe lớn, mỗi cỗ xe thắng tám con ngựa khỏe mạnh đang đi vào bãi rào. Điều khiển mỗi cổ xe là một người Slovak. với chiếc nón rộng, thắt lưng cài khuya to bản, mặc những bộ đồ da cừu dơ bẩn, và đôi giày cao. Họ cũng cầm trên tay mình những cây gậy. Tôi chạy vội về phía cửa, định lao xuống đại sảnh và nhập bọn với họ. Tôi cứ nghĩ rằng cửa sẽ mở ra đón họ. Nhưng một lần nữa tôi nhận một cú sốc. Cánh cửa phòng tôi đã được khóa từ bên ngòai.
Tôi liền chạy ngược về phía cửa sổ, la lớn về phía họ. Họ liếc nhìn tôi lạ lẫm và chỉ trỏ. Nhưng cái gã "hetman" của người Szgany tiến ra, thấy họ đang chỉ trỏ về phía tôi, hắn bèn nói điều gì đó và cười phá lên.
Do đó, những nỗ lực của tôi, những tiếng kêu gào thảm thương, những lời khẩn nài tuyệt vọng, chẳng có tác dụng gì. Họ cương quyết quay đi. Những cỗ xe ngựa chở nặng những cái hộp vuông, được buộc bằng những sợi dây thừng dày. Rõ ràng chúng rỗng bởi vì những người Slovak cầm chúng dễ dàng và qua những tiếng vang khi họ cẩu thả lôi chúng đi.
Khi lấy hàng xuống hết và chất thành một khối lớn trên một góc lớn trên bãi rào, những người Slovak nhận tiền từ những người Szgany, nhổ nước bọt lên nó để cầu may mắn, chậm chạp quay đầu ngựa. Chỉ một lúc sau, tôi nghe tiếng roi ngựa của họ chìm dần và xa khuất.
Ngày 24 tháng 6:
Tối qua bá tước từ giã tôi sớm, và tự khóa cửa nhốt mình trong căn phòng của ông ta. Liền đó, tôi bạo dạn chạy ra cầu thang lượn và nhìn ra cửa sổ trông ra hướng Nam. Tôi nghĩ dù sao cũng nên trông chừng bá tước về những gì sắp xảy ra. Những người Szgany đang tụ tập trong lâu đài và làm một số công việc gì đó. Tôi đóan ra được, vì thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng động cố che giấu của cuốc và thuổng. Dù nó là cái gì đi nữa, thì đó cũng đang đi tới tận cùng của một kế họach đê hèn tàn nhẫn.
Tôi đứng tần ngần ở cửa sổ khỏang nữa giờ thì chợt thấy cái gì đó thò ra ở cửa sổ của bá tước. Tôi nép người lại và quan sát chăm chú, thì thấy tòan bộ một thân người thò ra. Lại một cú sốc mới cho tôi khi tôi thấy ông ta đang mặc bộ quần áo mà tôi đã mặc khi tới đây, và quàng qua vai ông là cái túi kinh khiếp mà tôi thấy những người phụ nữ kia mang đi. Tôi không còn nghi ngờ gì về mục đích của ông ta khi mặc quần áo của tôi! Đây là một kế hoạch độc ác mới của bá tước. Ông ta sẽ để cho mọi người nghĩ là họ đã thấy tôi, tạo ra một bằng chứng hiển nhiên là tôi đang ở trong thị trấn và dân làng đang chuyển thư cho chính tôi, và rồi bất kỳ những gì độc ác ông ta sắp làm sẽ được dân địa phương quy tội cho tôi.
Điều làm tôi phát điên lên là mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi phải đứng câm nín tại chỗ, làm một tù nhân thật sự, mà thậm chí còn không được bảo vệ hay an ủi bằng bất bất cứ luật pháp nào, thậm chí cả luật pháp dành cho kẻ phạm tội.
Tôi nghĩ rằng mình nên đợi đến khi bá tước quay về, và tôi kiên trì đứng bên cửa sổ một lúc lâu. Chợt tôi bắt đầu nhận ra rằng trong những tia sáng mặt trăng xuất hiện những đốm nhỏ li ti. Chúng giống như những hạt bụi cực bé, và chúng đang gom dần lại thành một đám mây lờ mờ. Tôi nhìn chúng với một cảm giác dễ chịu, và cảm thấy cõi lòng mình đang thanh thản trở lại. Tôi trườn người ra phía lỗ châu mai, tạo cho
mình một tư thế thoải mái để tận hưởng trò chơi của không khí này.
Chợt một tiếng sói tru trầm và thảm thiết vang lên phía xa trong thung lũng, vượt khỏi tầm nhìn của tôi, làm tôi bật dậy. Nó vang lên càng lúc càng lớn trong tai tôi, và đám mây bụi kia chuyển sang những hình dạng khác như thể chúng đang nhảy múa dưới ánh trăng. Tôi cảm thấy tôi phải đấu tranh dữ dội để chống lại bản năng của chính mình. Tâm hồn xáo trộn, và một nữa tri giác của tôi đang lồng lộn đòi đáp lại lời kêu gọi của tiếng sói tru kia. Tôi đang bắt đầu bị thôi miên!
Đám bụi kia nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn. Ánh trăng rung lên như muốn đẩy tôi vào cái khối mờ ảo u ám đó. Càng lúc chúng càng tụ lại và định hình dần thành hình dạng lờ mờ của các bóng ma. Tôi chợt chòang tỉnh, phục hồi các giác quan của mình và gào lên một tiếng lớn làm rung động cả vùng đất.
Những bóng ma đang định hình dần từ những tia sáng trăng kia, chính là những phụ nữ ma quái mà tôi đã từng chịu đày đọa.
Tôi chạy cuống cuồng về phòng mình. Tôi cảm thấy đó là một nơi an tòan vào lúc này, nơi không có những ánh trăng mà chỉ có ngọn đèn để phát ra ánh sáng.
Vài giờ sau, tôi nghe những tiếng động từ phía phòng bá tước, giống như những tiếng than van rền rĩ bị chặn lại. Rồi tiếp sau đó là một khỏang yên lặng sâu lắng, rờn rợn làm tôi ớn lạnh. Với nhịp tim đập thình thịch, tôi thử mở cửa, nhưng nó đã khóa chặt tù nhân của mình. Không thể làm gì được nữa, tôi chỉ đơn giản ngồi xuống và gào lên.
Khi ngồi xuống tôi không nghe thấy những tiếng động nào trong vùng đất, ngoại trừ tiếng rền rĩ than van của một người phụ nữ. Tôi lao vội về phía cửa sổ, kéo màn lên, nhìn qua các chấn song.
Thật sự là có một người phụ nữ, đầu tóc rối bù, hai tay giữ chặt tim trong tình trạng mệt lử vì cố chạy. Bà ta với lên một góc của cửa chính. Khi nhìn thấy mặt tôi, bà ta ném người tới trước, gào lên với một giọng chất đầy sự đe dọa, "Quát vật, trả lại con cho tao!"
Bà ta quỵ người trên đầu gối, đưa tay lên, gào lại câu nói một lần nữa với một âm sắc như bóp nghẹt trái tim của tôi. Rồi bà ta xé tóc, đấm ngực, buông mình vào những hành vi của sự đau khổ tột cùng. Cuối cùng, bà ta lại phóng người tới. Tôi không còn thấy bà ta, như có thể nghe thấy những cánh tay trần của bà đang đấm thình thịch vào cửa.
Rồi từ phía trên cao, có thể là trên đỉnh tháp, vang lên những tiếng thì thầm khô khan, cộc cằn của bá tước. Có lẽ tiếng gọi của ông ta được trả lời bởi những tiếng tru dài và rộng của bầy sói. Vài phút sau, một đám đông sói xuất hiện, như một lũ quỷ địa ngục được dìm lại và bung ra, lao ào ào vào lối đi lớn đi vào bờ rào.
Không hề có tiếng kêu thét của người phụ nữ, chỉ còn những tiếng tru ngắn của lũ sói. Một lúc sau, chúng tản đi và liếm mép.
Tôi không thương hại người đàn bà. Tôi biết với những gì xảy ra cho con bà, bà thà chết còn hơn.
Tôi sẽ làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm sao tôi trốn thóat được những điều khủng khiếp của đêm đen, của những điều đen tối và kinh sợ này.
Ngày 25 tháng 6:
Nào ai biết được khi con người phải chịu những điều đau khổ từ đêm đen thì buổi sáng mang lại cho trái tim và mắt anh ta những cảm xúc ngọt ngào và thân mến như thế nào. Khi mặt trời lên cao vào buổi sáng, đập vào đỉnh của cái cổng chính lớn đối diện với tôi, một đốm sáng từ nó chạm vào tôi như một sứ giả mang lại những ánh sáng tốt lành. Những nỗi sợ hải của tôi tan đi thành những lớp vỏ hư ảo của những tia nắng ấm áp.
Tôi phải hành động dưới sự khuyến khích của ánh sáng ban ngày đang rọi trên mình. Tối hôm qua một trong những lá thư đề ngày tháng sẵn của tôi đã được gửi, bắt đầu cho những kế hoạch đẫm máu sẽ xóa sạch mọi dấu vết về sự tồn tại của tôi trên trái đất.
Đừng nghĩ về nó nữa.Hành động thôi!
Tôi luôn luôn bị quấy rầy bởi những sự đe dọa nguy hiểm và kinh sợ vào ban đêm. Tôi chưa hề gặp bá tước vào ban ngày. Phải chăng ông ta ngủ trong khi những người khác thức và thức trong khi những người khác ngủ? Nếu tôi có thể vào được phòng ông ta nhỉ! Nhưng không thể được. Cửa luôn khóa chặt, vô phương.
Thật ra, vẩn còn một cách, nếu như tôi dám làm. Cái nơi mà hắn đi ra được thì liệu người khác cũng có thể làm được hay không? Tôi đã thấy hắn trườn ra từ cửa sổ. Vậy thì sao không bắt chước mà chui vào cửa sổ của hắn? Cách này liều thật, nhưng tôi sẽ còn phải liều hơn nữa. Tôi sẽ đánh cuộc với nó. Điều tệ nhất sẽ là cái chết, nhưng cái chết của con người không giống như cái chết của con bê. May ra tôi sẽ còn sống lại vào kiếp sau. Chúa sẽ giúp cho kế hoạch của tôi! Tạm biệt, Mina, nếu như tôi thất bại. Tạm biệt, những người bạn trung thực và người cha thứ hai của tôi. Tạm biệt tất cả, và sau tất cả là Mina!
Đêm khuya, cùng ngày. – Tôi đã cố hết sức, và Chúa đã giúp tôi trở về phòng mình an tòan. Tôi phải ghi lại thật chi tiết theo đúng thứ tự. Tôi lấy hết can đảm của mình tiến ra cửa sổ, và bắt đầu leo ra ngòai. Những tảng đá to lớn và lởm chởm, vôi vữa đã gần như trôi sạch dưới sự bào mòn của thời gian. Tôi tháo giày, và bắt đầu cuộc mạo hiểm của mình. Tôi liếc nhìn xuống một lần, và biết chắc rằng một cái nhìn bất chợt thoáng qua nữa sẽ khiến cái vực sâu ghê gớm này chiến thắng tôi, và tôi tránh không nhìn nó. Tôi xác định được phương hướng và khỏang cách đến chỗ cửa sổ của bá tước khá tốt, và dồn hết mọi sức lực của mình, tận dụng mọi cơ hội có thể có. Tôi gần như quá kích động đến nỗi chẳng còn cảm thấy hoa mắt chóng mặt gì nữa, và hình như chỉ một lúc sau là tôi đã đứng trên ngưỡng cửa sổ của phòng bá tước và cố với lấy khung cửa. Tuy nhiên, tôi cảm thấy vô cùng xúc động , khi tôi cúi xuống và trượt người vào trong cửa sổ. Sau đó tôi nhìn quanh phòng tìm bá tước, và bắt đầu cuộc khai phá với sự ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Căn phòng trống rỗng! Trong phòng là một số vật dụng nghèo nàn, lạ lẫm và có vẻ chưa bao giờ được dùng đến.
Đồ vật trong phòng ở cùng tình trạng như ở trong căn phòng phía Nam, nghĩa là phủ đầy bụi. Tôi tìm chìa khóa, nó không cắm trong ổ khóa, và cũng chẳng thấy nó ở đâu cả. Vật duy nhất tôi tìm thấy là một khối vàng khổng lồ chất ở một góc, đủ các loại tiền vàng, Ý, Anh, Áo, Hungarian, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, bao phủ bởi một lớp bụi, hình như đã nằm ở đây lâu lắm rồi. Không có loại nào ít hơn ba trăm năm cả. Cũng có các loại tiền đồng, đồ trang sức và nữ trang, nhưng chúng đã cũ kỹ và phai màu cả.
Tại một góc phòng ở một cái cửa lớn, và tôi thử tiếp. Cái mà tôi muốn tìm, là chìa khóa phòng hoặc chìa khóa cửa ngòai đều chưa tìm được, và tôi phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc những cố gắng của tôi xem như bỏ đi. Cửa mở, và dẩn vào một lối đi bằng đá qua một cầu thang uốn khúc đi dần xuống.
Tôi đi xuống, cẩn thận từng chút một. Tôi đi trên một cầu thang tăm tối, chỉ soi sáng lờ mờ. Cuối cầu thnag là một lối đi hình ống tối tăm, tỏa ra một thứ mùi chết chóc, bệnh hoạn, một thứ mùi của những thế giới cổ xưa đang quay về. Khi tôi đi qua lối đi này, cái mùi trên càng nặng nề và rõ hơn. Cuối cùng tôi đẩy một cánh cửa nặng nề đã hé mở, và đi vào một nhà thờ cổ hoang tàn, mà bây giờ đã được dùng làm bãi tha ma. Trần nhà bị vỡ, hai mảnh rơi xuống trên hầm mộ, nhưng nền nhà thì vừa mới được đào bới mới đây thôi. Giữa lòng đất là những cái hộp lớn bằng gỗ rõ ràng vừa được mang đến bởi những người Slovak.
Không có ai ở đây, và tôi cẩn thận dò xét từng inch một, sao cho không bỏ sót thứ gì. Tôi thậm chí còn cả gan lần xuống hầm mộ, dù ở đây ánh sáng chỉ lờ mờ run rẩy. Tôi vừa kiểm tra vừa run rẩy đến chết khiếp cả người. Ở hai cái mộ đầu tiên tôi chẳng tìm thấy gì đặc biệt, ngòai hai mảnh áo quan vỡ vụn và hàng đống bụi. Tuy nhiên ở cái thứ ba thì có lẽ tôi tìm thấy những thứ gì đó.
Ở đây, trong một cái hộp lớn, ở đây có đến mười lăm cái tất cả, nằm trong một vũng đất mới đào, là bá tước Dracula đang nằm! Hắn có vẻ chết hoặc đang ngủ. Tôi không thể khẳng định được, vì mắt hắn vẩn mở trừng trừng và bất động, nhưng không có cái vẻ lạnh giá của cái chết, đôi má thì ấm nóng dù xanh xao. Môi vẩn dỏ rực như thường lệ. Nhưng chẳng hề có sự chuyển động nào, không mạch, không hơi thở, không nhịp đập của tim.
Tôi cúi xuống hắn, thử tìm một dấu hiệu nào đó của sự sống, nhưng vô hiệu. Hắn không thể nằm đây lâu được, do dấu đất cho thấy là nó mới được đào lên vài giờ trước. Phía mặt kia của cái hộp được đục thủng vài lỗ đây đó. Tôi nghĩ là hắn giữ chìa khóa trên người, nhưng khi tôi vừa thử lục tìm, thì những con mắt chết ấy chợt trở nên căm tức, làm cho tôi gần như bất tỉnh. Tôi chạy vội ra khỏi nơi đó, rời khỏi phòng bá tước bằng cửa sổ, trườn trở lại trên những bờ tường của lâu đài. Trở về phòng mình, tôi buông mình xuống giường và suy nghĩ.
Ngày 29 tháng 6:
Hôm nay là ngày đề trên bức thư cuối cùng của tôi, và bá tước bắt đầu chứng minh sự xác thực của nó. Một lần nữa tôi thấy hắn dùng kỹ năng của lòai thằn lằn để leo tường xuống phía dưới, cũng từ cái cửa sổ đó, với bộ quần áo của tôi. Tôi muốn có trong tay một cây súng hay một loại vũ khí gì đó để tiêu diệt hắn, nhưng tôi sợ rằng không vũ khí nào của lòai người có thể làm gì được hắn. Tôi không dám đợi hắn trở về, vì sợ gặp những người phụ nữ gớm ghiếc kia. Do đó tôi trở về thư viện, và đọc sách đến khi ngủ thiếp đi.
Tôi được đánh thức bởi bá tước, hắn nhìn tôi với một vẻ cương quyết mà một con người có thể tạo ra được, và nói. "Tối mai, bạn thân mến, chúng ta phải chia tay rồi. Ngài trở về nước Anh xinh đẹp của ngài, tôi còn một số công việc phải giải quyết và có thể là chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau. Lá thư của ngài đã được gửi đi. Ngài mai tôi không có mặt ở đây, nhưng mọi thứ đã chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc hành trình của ngài. Ngày mai những người Szgany sẽ đến đây, họ có một số chuyện phải làm, và sau đó cũng sẽ có một số người Slovak đến. Khi họ đi, xe ngựa của tôi sẽ đưa ngài đi đến BorPo Pass, ở đó có chuyến xe lửa từ Bukovina đi Bistriz. Nhưng tôi luôn hy vọng là sẽ còn có dịp đón tiếp ngài tại lâu đài Dracula."
Tôi nghi ngờ hắn, và quyết định kiểm tra sự thành thật của hắn. Sự thành thật! Điều này sẽ làm xúc phạm trái đất này nếu gắn nó cho một loại quái vật như hắn, và tôi hỏi với vẻ trống rỗng, "Vì sao tôi không đi ngay tối nay?"
"Bởi vì, thưa ngài, cỗ xe và ngựa của tôi đang có chuyện khác phải làm."
" Tôi sẽ đi bộ, không có vấn đề gì. Tôi muốn đi ngay tức khắc."
Hắn ta mỉm cười, với nụ cười dịu dàng, mềm mại ma quái của hắn, và tôi biết rằng luôn có cạm bẫy ẩn náu sau vẻ dịu dàng của hắn. Hắn bảo, "Còn hành lý của ngài?"
"Tôi không cần. Nó sẽ được gửi đến cho tôi sau."
Bá tước đứng lên, và với vẻ thành thực ngọt ngào đạt đến nỗi tôi dụi cả mắt mình"Câu nói của ngài, một người Anh, đã đi vào tim tôi, và tinh thần của truyền thống hiếu khách của chúng tôi luôn là ‘Chào mừng những người khách đến, đẩy mau những phút phân ly.’ Hãy đi với tôi, người bạn trẻ thân mến. Chưa đầy một giờ nữa ngài sẽ sẳn sàng ra đi từ nhà tôi như ước nguyện của ngài, dù tôi rất buồn về ý muốn đột ngột của ngài. Chúng ta đi!" Với một uy nghiêm bệ vệ, hắn cầm lấy cây đèn, dẩn tôi xuống thang và đi ngang đại sảnh. Chợt hắn ngừng lại. "Hark!"
Vọng lại là những tiếng tru của những con sói. Có vẻ như những âm thanh này lên xuống trầm bỗng theo nhịp tay của hắn, giống như dàn nhạc dưới gậy chỉ huy của nhạc trưởng. Sau một thóang im lặng, hắn bước đến cửa, với một vẻ trịnh trọng, đẩy cái then cài nặng nề, tháo sợi xích, và bắt đầu mở cửa.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, cánh cửa đã được mở khóa. Đầy nghi ngờ, tôi liếc nhìn quanh, nhưng chưa hiểu được điều gì.
Khi cánh cửa bắt đầu mở, những tiếng kêu của bầy sói càng trở nên lớn và hung dữ hơn. Quai hàm của chúng đỏ rực, răng nghiến trèo trẹo, và những cái chân đầy móng vuốt của chúng chồm tới, hướng về phía cánh cửa đã mở ra. Đến lúc này tôi biết rằng không thể chống lại bá tước. Với những kẻ thừa hành dưới quyền hắn như vậy, tôi không thể làm gì được.
Nhưng cánh cửa vẩn tiếp tục mở ra, và chỉ còn thân người bá tước đứng trên kẻ hỡ. Bất thình *** h tôi chợt nhận ra tình thế kinh hòang của mình. Tôi sẽ được đem dâng hiến cho lũ sói, và đó xuất phát từ sự thúc giục của chính tôi. Lại thêm một ý tưởng ác độc ma quái của bá tước, và tôi kêu gào lên với hy vọng cuối cùng, "Đóng cửa lại! Tôi sẽ đợi đến sáng mai." Và tôi lấy tay che mặt, để giấu những dòng nước mắt cay đắng của mình.
Bá tước đóng mạnh cánh cửa lại. Tiếng cái then cài vang rền cả tiền sảnh khi nó được cài trở lại.
Không nói thêm một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, và sau một hoặc hai phút tôi trở về phòng mình. Phút cuối tôi thấy bá tước Dracula gửi cho tôi một cái hôn từ tay hắn, mắt hắn đỏ rực lên ánh sáng của chiến thắng, và với một nụ cười làm cho Judas dưới địa ngục cũng phải tự hào.
Khi tôi trở về phòng và nằm xuống, tôi cảm thấy hình như có tiếng thì thầm ngòai cửa. Tôi rón rén bước đến và lắng nghe. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi, thì tôi nghe thấy tiếng bá tước.
"Trở lại! Trở về chỗ của chúng mày! Thời điểm của tụi mày chưa đến. Hãy đợi đã! Phải kiên nhẫn chứ! Tối nay nó là của tao. Tối mai sẽ là của mày!"
Có những chuỗi cười nhẹ, gờn gợn vang lên, và trong cơn giận dữ, tôi mở tung cửa lao ra. Tôi thấy ba người phụ nữ kinh khiếp kia đang liếm mép. Thấy tôi, chúng cùng phá lên cười một cách kinh dị và chạy đi.
Tôi trở về phòng mình, quỳ xuống trên đầu gối. Chẳng lẽ đã đến lúc kết cục ư? Ngày mai! Ngày mai! Thiên chúa, xin hãy cứu tôi, và bây giờ tôi chỉ còn ngài thôi!
Ngày 30 tháng 6:
Đây có thể là những dòng cuối cùng tôi viết vào nhật ký. Tôi ngủ cho đến lúc gần rạng đông, và khi chòang tỉnh, tôi lại quỳ trên đầu gối. Tôi muốn làm sao khi Thần Chết tới, hắn thấy tôi đã sẳn sàng.
Cuối cùng tôi cảm thấy không khí có cái gì đó thay đổi, và biết rằng trời đã sáng trở lại. Tiếng gà gáy vui vẻ vang lên, và tôi biết mình đã an tòan. Hết sức vui vẻ, tôi mở cửa và chạy xuống tiền sảnh. Tôi thấy cửa không khóa, và lúc này cơ hội trốn thóat đã trải rộng trước mặt tôi. Với những cánh tay run rẩy và háo hức, tôi tháo xích và đẩy mạnh cái then cài khổng lồ.
Nhưng cánh cửa chẳng hề nhúc nhích. Sự tuyệt vọng bao phủ tôi.Tôi đẩy và đẩy cánh cửa, lắc nó cho đến khi nào hai cánh cửa chịu trượt ra, bất chấp sự nặng nề kinh khiếp của nó. Tôi có thể thấy cái móc nơi then cài cửa. Nó đã được khóa lại sau khi tôi rời khỏi bá tước.
Một ham muốn điên dại xui khiến tôi phải lấy được chìa khóa bởi bất kỳ giá nào, và tôi quyết định sẽ bò qua bức tường lần nữa, quay về chỗ phòng bá tước. Hắn có thể giết tôi, nhưng với ma quỷ, cái chết có lẽ một sự lựa chọn tốt đẹp nhất. Không một phút ngần ngừ tôi lao về phía cửa sổ phía Đông, leo tường xuống phòng bá tước giống như lần trước. Trong phòng không có ai. Đó là điều tôi đang chờ đợi. Tôi không thể tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đống vàng thì vẫn như cũ. Tôi đi qua cánh cửa ở góc phòng và leo xuống cầu thang, đi qua cái lối đi tăm tối đến ngôi nhà thờ cổ. Tôi biết rõ đó là nơi có thể tìm ra con quái vật này.
Cái hộp vẩn ở chỗ cũ, gần bức tường, nhưng đã được đậy nắp. Chưa đóng lại, nhưng đinh đã cài sẳn, chỉ còn chờ quai búa.
Tôi biết tôi phải tìm chìa khóa trên cơ thể bá tước, vì vậy tôi nâng cái nắp lên và ném nó về phía tường. Và những cái tôi thấy được làm tôi dựng tóc gáy vì kinh hãi. Bá tước đang nằm đó, nhưng xem ra hắn đã trẻ lại phân nữa. Mái tóc và bộ râu bạc trắng của hắn bây giờ đã lốm đốm muối tiêu. Đôi má đầy đặn hơn, và làn da trắng lại ửng màu hồng ngọc. Miệng hắn đỏ hơn bao giờ hết, môi hắn lấm tấm máu tươi, chảy ra từ một khóe môi lan xuống cằm và cổ hắn. Thậm chí đôi mắt sâu, rực lửa của hắn bây giờ cũng phồng lên, khóe mắt nọng xuống. Có vẻ như tòan bộ cái sinh vật ghê tởm này chỉ được chứa bằng máu. Hắn nằm đó như một con đĩa no nê, giải quyết cơn đói bằng một sự phè phỡn.
Tôi rùng mình khi tôi cúi xuống và chạm vào hắn, và mọi giác quan của tôi như đứt tung với sự động chạm này, nhưng tôi vẩn phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc tôi sẽ thất bại. Khi đêm đến cơ thể tôi sẽ là buổi tiệc lớn sau cuộc chiến với ba sinh vật kinh khiếp kia. Tôi lục tìm khắp cơ thể bá tước, nhưng không thể tìm thấy chìa khóa. Một nụ cười chế nhạo hiện ra trên khuôn mặt căng phồng kia làm tôi như phát điên lên. Điều này nghĩa là tôi sẽ được gửi về Luân Đôn, và có thể là hàng thế kỷ sau hắn sẽ đến, giữa lúc nhúc hàng triệu sinh vật giúp hắn thỏa mãn sự thèm khát máu tươi, và tiếp tục mãi mãi cái chu kỳ tạo ra những kẻ nữa quái vật sống bất lực lang thang.
Ý nghĩ này làm tôi như điên như dại. Một ham muốn tột độ xâm chiếm tôi là quét sạch cái loại ma quỷ này ra khỏi mặt đất. Không có vũ khí trong tay, tôi tóm lấy một cây cuốc mà những người làm dùng để đào đất, nâng cao nó lên, rồi đập mạnh chiều lưỡi vào cái khuôn mặt đáng ghét kia. Nhưng khi tôi quay đầu lại, ánh mắt của bá tước chiếu lên tôi, mắt hắn ánh lên vẻ man dại của lòai rắn. Cái nhìn của hắn làm tôi như tê liệt, cái cuốc rung lên trong tay tôi và chỉ chạm qua mặt hắn, tạo một vết trầy sâu trên trán. Cái cuốc rời khỏi tay tôi, rơi cắt ngang cái hộp. Khi tôi kéo nó ra thì lưỡi cuốc kéo luôn nắp hộp rơi xuống phủ lại lên hộp, che tôi khỏi cái tia nhìn kinh khủng đó. Cái nhìn cuối cùng tôi nhìn thấy trên khuôn mặt căng phồng, đầy máu và nhăn nhúm với vẻ gớm ghiếc đáng ra nên giữ chính nó ở tầng địa ngục thấp nhất. Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo, nhưng đầu óc tôi như bốc lửa, và tôi chờ đợi với sự tuyệt vọng hòan tòan. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe thấy từ xa bài hát của dân gipsy với những tiếng chúc tụng càng lúc càng đến gần. Và cùng với bài hát của họ là tiếng bánh xe nặng nề quay và tiếng roi quất. Người Szgany và người Slovak mà bá tước nói đang đến. Nhìn một lần cuối về phía cái hộp đang chứa cái thân người ma quái kia, tôi chạy ra khỏi chỗ đó và trở về phòng bá tước, quyết định sẽ chạy ra ào ra ngay khi cánh cửa vừa được mở. Với đôi tai căng thẳng, tôi nghe thấy tiếng chìa khóa quay cót két ở phía dưới, và một cánh cửa lớn kéo sập xuống. Hẳn là còn một lối đi nữa ở phía dưới và có ai đó còn có chìa khóa.
Khi những tiếng chân nặng nề và chết chóc xa dần, để lại những tiếng động vang rền trên đường, tôi quay xuống trở lại khu hầm mộ, nơi mà tôi có thể tìm thấy con đường thóat mới, nhưng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng gió mạnh thổi qua, và cánh cửa dẩn đến cầu thang cuốn đóng sầm lại khiến đám bụi trên rầm đỡ bay tung lên. Khi tôi chạy đến để đẩy nó ra, thì niềm hy vọng của tôi nhanh chóng tan biến đi. Một lần nữa tôi lại là tù nhân, và cái lưới kinh khủng bao quanh tôi mỗi lúc lại mỗi gần.
Khi tôi viết những dòng này, ở đường đi bên dưới tôi nghe thấy nhiều tiếng chân nặng nề, những tiếng va đập mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì nữa, những chiếc hộp được chở đi với đất bên trong. Rồi có tiếng búa đóng. Những chiếc hộp đã được đóng đanh lại. Bây giờ thì tôi có thể nghe thấy những tiếng chân nặng nề đi dọc theo đại sảnh, trong khi có những bước chân thảnh thơi đi sau họ.
Cổng được đóng lại, dây xích căng lên. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa rút ra, những cánh cửa khác mở ra và đóng lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa và cài then.
Tôi bây giờ chỉ còn đơn độc trong lâu đài với những người phụ nữ kinh hãi kia. Faugh! Mina cũng là phụ nữ vậy, nhưng giữa họ chẳng có điểm giống nhau nào. Bọn chúng là quỷ sứ từ trong hố chui lên!
Tôi sẽ không ở đây một mình với chúng. Tôi sẽ thử leo qua lâu đài xa hơn những lần tôi đã từng thử trước đây. Tôi sẽ mang theo một ít vàng, tôi sẽ cần chúng về sau. May ra thì tôi có thể tìm thấy con đường ra khỏi nơi kinh khiếp này.
Nào, bây giờ thì lên đường về nhà! Hãy đến với chuyến xe lửa nhanh nhất và gần nhất! Tránh xa ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa, vùng đất đáng nguyền rủa này, nơi mà quỷ sứ cùng con cái của nó vẩn dạo chơi bằng những bước chân không chấm đất!
Và cuối cùng thì lòng thương của Chúa sẽ vẩn hơn những con quái vật này, còn vách núi thì sâu và thẳng đứng. Nhưng đó là nơi con người có thể ngủ như một con người. Tạm biệt tất cả. Mina ơi!
Trong khi tôi đang dần đến quyết định cuối cùng này, thình *** h tôi nghe thấy tiếng cánh cửa lớn phía dưới đóng lại, báo hiệu rằng bá tước đã trở về. Ông ta không đi vào thư viện ngay, và tôi rón rén trở về phòng mình. Tôi thấy ông ta đang dọn giường cho tôi. Điều này thật là lạ lùng, nhưng nó xác nhận điều tôi nghĩ. Ngòai ông ta ra, tôi hòan tòan đơn độc trong lâu đài, không có một người hầu nào khác. Khi tôi thấy ông ta luồn qua bản lề cửa để vào trải bàn cho bàn ăn thì tôi hòan tòan chắc chắn. Do ông ta tự mình làm hết tất cả các công việc của người hầu, chứng tỏ là chẳng còn ai khác trong lâu đài, và chính bá tước là người đánh xe cho tôi trong cái đêm tôi mới đến. Đó là một ý nghĩ làm tôi tôi kinh hòang. Ông ta là người như thế nào mà có thể điều khiển bầy sói, có thể giữ chúng im lặng bằng những dấu hiệu? Những người ở Bistriz và trong xe ngựa lo sợ điều khủng khiếp gì cho tôi? Họ tặng cho tôi cây thánh giá, tỏi, hoa hồng dại và tần bì núi để làm gì? Xin Chúa hãy phù hộ người đàn bà tốt bụng, thật là tốt bụng đã đeo cây thánh giá quanh cổ tôi. Bây giờ, khi chạm vào nó, tôi cảm thấy lấy lại niềm tin và sức mạnh. Cái vật kỳ lạ mà ban đầu tôi đã không muốn nhận, và giờ đây nó mang lại một sự trợ giúp đầy linh thiêng trong những lúc cô đơn và bối rối. Đó phải chăng là bản chất thật sự của nó, hay nó là một phương tiện giúp đỡ hữu hình, để chuyên chở những nỗi lòng cảm thông và an ủi? Tôi sẽ cố kiểm tra lại vấn đề này khi nào có thể để giúp mình có được sự xác nhận chính xác. Trong khi chờ đợi thì tôi sẽ tìm hiểu về bá tước Dracula, và điều này giúp tôi có thể hiểu thêm nhiều vấn đề khác. Tối nay thì may ra ông ta sẽ nói về chính mình, nếu tôi chuyển hướng đối thoại một cách khéo léo. Tất nhiên là phải cẩn thận đừng để ông ấy đâm ra nghi ngờ.
Nữa đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với bá tước. Tôi hỏi ông ta những câu hỏi về lịch sử Transylvania, và ông ta rất sôi nổi với chủ đề thú vị này. Ông ta nói về những sự kiện và những con người, đặc biệt là những trận đánh, ông ta kể lại như thể chính ông ta có mặt tại các thời khắc đó. Lúc sau ông giải thích rằng niềm kiêu hãnh đã lưu danh tại ngôi nhà của ông ta, và tên tuổi của người Boyar chính là niềm kiêu hãnh của ông ta, vinh quang của họ là vinh quang của ông ta, và định mệnh của họ cũng chính là định mệnh của ông ta. Bất cứ lúc nào nói về ngôi nhà của mình, ông ta đều dùng từ "chúng tôi" và chia các động từ ở số nhiều, cứ như ông là một vì vua đang kể về đế chế của mình. Ước gì tôi có thể ghi lại hòan tòan chính xác những gì ông ấy kể, chúng quá hấp dẩn. Nó gần như dựng lại tòan bộ lịch sử của đất nước này. Khi kể chuyện, ông ta thật là khích động. Ông ta đi vòng quanh phòng, vuốt hàm ria trắng của mình, tóm lấy bất cứ cái gì trong vòng tay như thể sắp bẻ phăng chúng bằng sức mạnh của mình. Trong lúc ông ta nói thì tôi ngồi sát lại, cố nắm bắt lại câu chuyện được kể một cách sôi nổi của ông.
"Những người Szekelys chúng tôi đã có lý do chính đáng để tự hào, khi mà trong huyết mạch chúng tôi tuôn chảy dòng máu của những chiến binh dũng cảm đã chiến đấu với trái tim sư tử để giành lấy và bảo vệ vùng đất này. Ở đây, trong vòng xóay của những những cuộc trường chinh của châu Âu, những dòng giống người Ugric đã đến từ Iceland để tiến hành một cuộc chiến thần thánh do Thor và Wodin dẩn đầu. Những người này đã khiến mọi người phải tưởng họ là những con ma sói khi không biết bao lần những cơn thịnh nộ của họ đã tạo nên sự kinh hòang ở khắp bờ biển châu Âu, đến tận châu Phi và châu Á. Đến đây, họ gặp những người Hun, những kẻ làm nên những cuộc chinh phạt đã đốt sạch mặt đất như những ngọn lửa sống, đến nỗi những người chết nghĩ rằng trong mạch máu họ là những dòng máu của những phù thủy già bị trục xuất khỏi Scythia đã kết bạn cùng quỷ sứ ở sa mạc. Những kẻ ngu ngốc, ngu ngốc! Quỷ sứ hay phù thủy nào có thể sánh với Attila, với những dòng máu anh hùng như vậy?" Ông ta vung tay lên. "Chúng tôi đã chiến thắng tất cả, chúng tôi tự hào rằng, những người Magyar, người Lombard, người Avard, người Bulgar, người Thổ đã phơi xác hàng loạt trên biên giới chúng tôi, chúng tôi đã đánh lui tất cả, điều đó là là kỳ diệu, phải không? Khi Arpad và binh đòan của hắn quét qua đất nước Hungarian, hắn đã gặp chúng tôi tại biên giới và cuộc trường chinh Honfoglalas của hắn chấm dứt, kỳ lạ quá phải không? Rồi khi người Hungarian tạo thành cơn lũ quét về phía đông, người Szekelys đã cùng chia xẻ vinh quang bởi chiến thắng của người Magyars. Chúng tôi đã qua hàng thế kỷ bảo vệ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Và những công việc nơi biên giới thì không bao giờ chấm dứt, giống như người Thổ đã nói ‘nước sông thì ngủ, nhưng kẻ thù thì chẳng hề ngủ bao giờ.’ Ai có thể tự hào hơn chúng tôi, những người trong cuộc chiến Bốn Dân Tộc đã nhận được ‘thanh gươm máu’, hoặc chính tại cuộc chiến này lời kêu gọi tập hợp dân chúng của chúng tôi còn có hiệu lực hơn chính lời hiệu triệu của vua? Đâu là lúc rửa nhục cho mối hờn dân tộc của chúng tôi, nỗi nhục nhã của Cassova, khi mà cờ chiến của người Wallach và người Magyar ngã xuống dưới Crescent? Ai là người trong dòng giống chúng tôi, giống như Voivode băng ngang sông Danube và khuất phục người Thổ ngay trên đất của họ? Đó chính là Dracula. Chỉ đau buồn rằng đó là một người anh em đáng khinh bỉ, khi hắn bại trận, hắn đã bán rẻ dòng tộc mình cho người Thổ và chấp nhận nỗi nhục nhã làm nô lệ cho họ. Đó không phải là dòng giống Dracula này, nòi giống đã được truyền lại để rồi không biết bao nhiêu lần mang theo sức mạnh của mình theo dòng sông lớn cuồn cuộn đổ vào đất Thổ, kẻ mà khi bị đánh bại, lại tiếp tục vùng lên, kẻ lang thang cô độc giữa cánh đồng máu, nơi mà các chiến binh của anh ta đã bị tàn sát, vững tin rằng dù chỉ còn lại một mình, anh ta cũng nhất định sẽ giành lấy thắng lợi sau cùng! Người ta nói rằng anh ta chỉ nghỉ đến mình. Bah! Những người nông dân mà không có lãnh đạo thì sẽ như thế nào? Làm sao chiến thắng được cuộc chiến tranh nếu thiếu đi khối óc và con tim để chỉ đạo nó? Một lần nữa, sau cuộc chiến với người Mohacs, chúng tôi lật đổ ách thống trị của người Hungarian, chúng tôi, những người mang trong mình dòng máu Dracula đã chống lại những kẻ cầm đầu họ, bởi vì truyền thống của chúng tôi không bao giờ chấp nhận chúng tôi là những kẻ mất tự do. Ah, thưa ngài trẻ tuổi, người Szekelys, mà dòng giống Dracula là máu trong tim họ, là khối óc của họ, là thanh gươm của họ, là một dân tộc kiêu hùng mà những bọn người Hapsburgs, người Romanoff mọc lúc nhúc như nấm kia không thể nào sánh nổi. Ngày nay chiến tranh đã chấm dứt. Máu đã trở thành một thứ quý giá trong những ngày tháng hòa bình đầy hổ thẹn này, và những vinh quang của những trận chiến oai hùng ngày xưa chỉ còn lại trong những truyền thuyết được kể lại cùng năm tháng mà thôi."
Lúc này đã gần sáng, và chúng tôi đi ngủ. (Có lẻ quyển nhật ký này đã trở thành một thứ gì đó kỳ lạ như câu chuyện về "Những đêm Ả rập", khi mà mọi chuyện sẽ kết thúc cùng với tiếng gà gáy sáng, hoặc giống như hồn ma của cha Hamlet.)
Ngày 12 tháng 5:
Hãy để tôi bắt đầu những sự kiện, những sự kiện đơn giản và rõ ràng, được kiểm chứng bằng sách vở và hình ảnh. Tôi sẽ không phải xáo trộn nó lên bởi những điều tôi quan sát hoặc nhớ về chúng. Vào buổi tối cuối cùng khi bá tước đến từ phòng ông ta, ông ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi về các vấn đề luật pháp và tiến hành các công việc kinh doanh. Tôi đã trải qua những ngày mệt mõi giữa các trang sách, giải quyết một số vấn đề mà tôi đã kiểm chứng trong cuốn Nhà trọ Lincoln. Đó cũng là những yêu cầu của bá tước, và tôi đã ghi chép lại một cách tuần tự. Những kiến thức này đôi khi cũng hữu ích cho tôi một cách nào đó.
Trước tiên, ông ta hỏi tôi là tại nước Anh người ta có thể có hai luật sư riêng không. Tôi trả lời là nếu thích người ta có thuể thuê đến hàng tá, tuy nhiên một người khôn ngoan sẽ không thuê quá một luật sư cho một chuyện làm ăn. Khi có hai người trở lên thì thay vì đưa ra một ý kiến cho một công chuyện, họ sẽ quay ra bảo vệ những ý kiến khác nhau và điều đó chỉ có hại mà thôi. Ông ta xem ra rất hiểu, rồi ông ta hỏi tiếp về việc thuê một người để phục vụ, giao thiệp, mua bán, nói cách khác là một người chăm sóc về mọi mặt khi ở trên một chiếc tàu, thì liệu có khó khăn gì không. Tôi muốn ông ấy giải thích thật rõ, để tránh việc tôi hiểu sai ý ông ta, và ông ta nói.
" Tôi sẽ minh họa nhé. Bạn của ngài và của tôi, ngài Peter Hawkins, người đang ẩn mình dưới bóng tòa thánh đường xinh đẹp của ngài ở Exeter, ở chốn London xa xôi, đã mua cho tôi dưới sự giúp đỡ của ngài một nơi ở tại London. Tốt! Nào, bây giờ thì tôi nói thật nhé, ngài đừng lấy làm lạ là tôi sẽ không tìm cho mình một người hầu trong số những cư dân tại thành phố London xa lắc đó, bởi vì đối với tôi, không ai có thể phục vụ được những ý muốn của tôi tốt hơn một người ở quê tôi, trong khi một người địa phương có thể phục vụ theo một cách gì đó không đơn thuần theo ý muốn của tôi, mà cho anh ta hay bạn bè của hắn chẳng hạn. Do vậy tôi sẽ tìm người hầu của mình trên những cánh đồng tại nơi đây, những người chỉ lao động vì ý thích của tôi. Bây giờ, giả sử là tôi đang cần làm ăn với những chuyến tàu chở hàng, giả dụ như từ Newcastle, Durham, Harwich hoặc Dover, thì liệu việc tôi ủy quyền cho một người khác làm việc tại những bến cảng như vậy có dễ dàng không?"
Tôi trả lời rằng sẽ không có gì dễ dàng hơn chuyện đó. Nhưng những luật sư chúng tôi thì có một hệ thống chi nhánh từ nơi này sang nơi khác, do đó những công việc tại các địa phương có thể hòan tòan làm việc dưới sự chỉ dẩn của bất cứ luật sư nào tại địa phương đó. Khách hàng chỉ cần đơn giản ủy quyền cho một người bất kỳ nào đó những ý muốn của mình, công việc sẽ tiến hành mà chẳng có rắc rối gì.
"Nhưng," ông ta nói, "tôi có thể làm việc đó trực tiếp, đúng không?"
"Tất nhiên," tôi trả lời, "vẩn có những chuyện thường xảy ra như vậy, một số người có những công chuyện kinh doanh riêng và không muốn một người nào khác biết về công chuyện của mình."
"Tốt!" ông ta nói, và tiếp tục bàn về việc thiết lập ủy quyền của những các dạng giấy tờ cần thiết, cẩn thận xem xét sao cho chẳng có sơ xuất nào. Tôi giải thích tất cả với ông ta bằng tất cả khả năng của mình, và rõ ràng là ông ta từ giã tôi với một ấn tượng là mình đang làm việc với một luật sư cự phách, do đó ông ta chẳng hề nghi ngờ điều gì cả. Trong khi ông ta còn đang đắm chìm trong sự tự thỏa mãn, còn tôi thì kiểm tra mọi thứ qua sách vở, thì chợt ông ta dừng lại và nói, "Hình như ngài có viết thêm những thứ gì đó sau khi ngài viết bức thư đầu cho người bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, thì phải?"
Với một chút giật mình trong tim , tôi trả lời là không, cũng vì tôi không thấy có gì cần phải gửi thư cho ai cả.
"Vậy thì ngài hãy viết đi, người bạn trẻ của tôi," ông ta nói, đặt tay lên vai tôi, "viết cho bạn của chúng ta và những người nào ngài cần thông báo rằng ngài sẽ ở đây với tôi thêm một tháng nữa, nếu điều đó không làm phiền ngài."
"Ngài muốn tôi ở lại với ngài lâu đến thế sao?" tôi hỏi, cảm thấy tim mình trở nên lạnh ngắt trong một thóang.
"Tôi rất muốn điều đó, và tôi không muốn nghe về sự từ chối. Khi chủ của ngài, giao cho một người nào đó thay mặt cho ông ta, với mục đích rõ ràng là phục vụ cho việc thỉnh thị ý kiến của tôi, hẳn là người đó sẽ làm hết mình chứ, có phải không ạ?"
Tôi có thể làm gì ngòai việc cúi chào tán thành. Đây là quyền lợi của ngài Hawkins, chứ không phải tôi, và tôi nên nghĩ đến ông ta chứ không chỉ nghĩ đến mình. Ngòai ra, qua ánh mắt và cử chỉ của bá tước Dracula khiến tôi nhớ ra rằng mình là một tù nhân, và tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Khi bá tước thấy rõ sự thắng lợi của mình qua cái cúi chào của tôi, thấy được quyền lực của mình qua sự bối rối trên mặt tôi, ông liền bắt đầu sử dụng chúng một cách khéo léo không sao cản lại:
"Tôi mong rằng ngài, người bạn trẻ tuổi thân mến của tôi, rằng ngài sẽ không nói thêm gì trong những bức thư ấy ngòai công việc làm ăn của chúng ta. Nó sẽ làm các bạn của ngài an tâm rằng ngài đang rất khỏe mạnh, và sẽ về nhà sau khi xong công việc. Ngài có bằng lòng không ạ?" trong khi ông ta nói, ông ta trao cho tôi ba xấp giấy viết thư và ba chiếc phong bì, tất cả đều là những thứ giấy tờ bưu kiện thuộc loại mỏng nhất ở nước ngòai. Rồi ông ta, với nụ cười lặng lẽ, đưa ra đôi hàm răng chó sắc nhọn bên trong đôi môi đỏ rực, như thể nói rằng tôi nên cẩn thận với những gì viết trong thư, vì ông ta có thể đọc được chúng. Vì vậy tôi quyết định rằng bây giờ hãy tạm viết thư một cách bình thường theo ý ông ta, rồi hãy bí mật kể lại mọi chuyện cho ông Hawkin, và sẽ viết cho Mina qua một số ký hiệu viết tắt, điều sẽ làm cho bá tước Dracula lâm vào một bài tóan đố chữ đủ làm ông ta nhăn nhó nếu ông tìm cách đọc nó. Sau khi tôi viết hai lá thư trên xong, tôi ngồi yên và đọc sách, trong khi bá tước viết rất nhiều, tham khảo một số sách trên bàn. Sau đó ông ta lấy hai lá thư của tôi, đặt vào giữa những mớ giấy tờ ông ta vừa viết, rồi ông ta đi ra ngay tức khắc và đóng cửa lại. Tôi chồm qua bàn và đọc những lá thư vẩn còn nằm trên bàn. Tôi chẳng hề ân hận vì hành động của mình, bởi vì trong hòan cảnh này tôi phải tự bảo vệ mình bằng tất cả mọi cách có thể được.
Một trong những lá thư được gửi đến Samuel F.Billington, số 7, Crescent, Whitby, và một bức khác gửi cho Herr Leutner, Varna. Bức thứ ba gửi cho Coutts & Công ty, London, bức thứ tư gửi cho Herren Klopstock & Billreuth, giám đốc ngân hàng, Buda Pesh. Bức thứ hai và thứ tư chưa được dán lại. Tôi vừa định đọc nó thì kịp thấy tay nắm cửa động đậy. Tôi ngồi trở lại chỗ của mình, quay lại đọc tiếp cuốn sách của mình trước khi bá tước quay trở về phòng, trong tay là một bức thư khác. Ông ta thu nhặt những bức thư trên bàn, dán tem lại cẩn thận và quay lại về phía tôi, cất tiếng,
" Tôi tin là ngài sẽ bỏ qua cho tôi, vì tôi có một số việc riêng phải giải quyết trong chiều tối nay. Hy vọng là ngài sẽ có một đêm như ý." Đi ra đến cửa, ông ta quay lại, ngập ngừng một chút rồi nói, " Tôi sẽ cho ngài một lời khuyên, người bạn trẻ của tôi. Nói cho đúng hơn, đây là một lời khuyến cáo rất nghiêm túc. Ngòai căn phòng của ngài ra, thì chẳng có nơi nào trong lâu đài này ngài có thể qua đêm được. Đây là một tòa lâu đài cổ, mang trong nó nhiều câu chuyện của quá khứ, và nó mang lại cho những kẻ dại dột nhiều cơn ác mộng khó quên. Hãy cẩn thận! Ngài hãy ngủ lại đây. Còn nếu có điều gì xảy ra cho ngài tại những nơi khác, hãy nhanh chóng quay trở về phòng riêng của mình hoặc những căn phòng chung quanh, đó là nơi ngài sẽ ngủ an giấc. Nếu như ngài không lưu ý vào những điều cảnh báo này, thì," Ông ta kết thúc bài nói của mình một cách đầy đe dọa, tay ông vung vẫy thành những cử động như đang quét sạch những cái gì. Tôi hiểu ra. Tôi chỉ nghi ngờ là liệu có một cơn ác mộng nào có thể ghê gớm hơn cái lưới khủng khiếp và siêu nhiên của những điều bí ẩn ma quái đang siết dần lại chung quanh tôi hay không.
Đêm khuya.—Tôi đã ghi lại tất cả những điều ông ta nói, nhưng không thêm vào đó sự nghi ngờ của mình. Tôi không sợ ngủ lại ở bất kỳ nơi nào trong lâu đài nếu ông ta không có trong đó. Tôi sẽ đặt cây thánh giá của mình lên đầu giường ngủ, và tôi tin rằng điều đó sẽ làm giấc ngủ của tôi sẽ được giải phóng khỏi những cơn ác mộng.
Khi ông ta đi khỏi tôi đi vào phòng của mình. Một lúc sau, không còn nghe tiếng động nào nữa, tôi đi ra và leo lên một cái cầu thang đá, đứng ở đây tôi có thể trông về phía Nam. Một dãi đất rộng mênh mang trải dài trước mắt tôi, khiến sự khao khát tự do của tôi càng cháy bỏng khi tôi so sánh nó với khỏang sân tối tăm chật hẹp của lâu đài. Nhìn thấy nó, tôi càng nhận thức rõ tôi là một tù nhân thật sự, và tôi càng thèm muốn được hít thở bầu không khí trong lành của tự do, dù cho bây giờ đang là đêm đen. Tôi bắt đầu cảm thấy thấy rõ sự hiện hữu của đêm tối bên trong tôi, nó hủy hoại đi ý chí của tôi. Tôi đang bắt đầu tự làm cho mình u mê với những nỗi tưởng tượng kinh khủng. Chúa biết rõ rằng nguồn gốc của những nỗi sợ hãi kinh khủng trong tôi chính là vùng đất đáng nguyền rủa này! Tôi nhìn ra vùng đất rộng mênh mông xinh đẹp đang tắm mình trong ánh trăng đêm sáng rực như thể đang ở giữa ban ngày. Trong cái thứ ánh sáng huyền dịu đó, những ngọn đồi cao ngất như bị tan ra trong bóng đêm mượt mà của những thung lũng và kẽ núi. Vẻ đẹp này đã khiến tôi bị cuốn hút vô cùng. Mỗi hơi thở tôi hít vào mang theo sự êm ả và cảm giác an ủi. Khi tôi trườn người ra từ cửa sổ, tôi chợt thấy có cái gì đang chuyển động ở tầng dưới tôi, nằm ở phía bên trái, nơi tôi nghĩ rằng theo sự bố trí các phòng của lâu đài, thì đó là nơi cửa sổ phòng bá tước trông ra. Cái cửa sổ tôi đang đứng là một cái cửa sổ rộng và cao, bao bằng những đá, xem ra hòan tòan bền vững với mọi thời tiết. Nhưng rõ ràng là có cái gì đó đang diễn ra ở đằng kia. Tôi thu người lại sau bệ đá, và chăm chú quan sát.
Tôi thấy cái đầu của bá tước thò ra từ cửa sổ. Tôi không thấy rõ mặt, nhưng tôi biết đó là một con người bởi cái cổ và sự chuyển động của lưng và cánh tay. Tôi không thể nhầm lẫn những cánh tay mà tôi đã nhiều lần nếm thử sức mạnh của nó. Tôi cảm thấy thích thú và ở chừng mực nào đó là sự buồn cười, bởi vì bất kỳ một chuyện nhỏ nào cũng sẽ làm cho người ta thích thú và buồn cười khi anh ta là một tù nhân. Nhưng tôi nhanh chóng chuyển sang kinh hòang và sợ hãi khi thấy tòan bộ thân người của bá tước nhô ra cửa sổ và bắt đầu trườn xuống. Bao quanh lâu đài là những vực thẳm chết chóc, và khi bá tước tuột xuống, cái áo chòang xám của ông ta bay phấp phới như những cái cánh khổng lồ. Thoạt tiên tôi không tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là sự đánh lừa của bóng đêm, nhưng khi tiếp tục quan sát, tôi biết rằng mình không hề lầm. Tôi thấy những ngón tay và mũi giày bám vào những góc cạnh vào những hòn đá trên bức tường mà lớp vôi vữa đã bị bào mòn bởi thời gian, tận dụng từng góc cạnh lồi lõm để tuột xuống với một tốc độ ghê hồn, như là một con thằn lằn đang bò trên tường.
Đây là loại người gì, hay đúng hơn là loại sinh vật gì, mà có thể làm được những chuyện như thế? Tôi sợ chết khiếp cái vùng đất ma quái đang chế ngự tôi. Tôi sợ hãi, sợ hãi đến rụng rời, và hầu như tôi không thể trốn thóat khỏi nơi đây được nữa.Tôi bị bao bọc bởi những điều kinh khủng mà tôi thậm chí không dám nghĩ đến.
Ngày 15 tháng 5:
Một lần nữa tôi thấy bá tước đi ra ngòai bằng kỹ năng của thằn lằn. Ông ta trườn xuống theo một con đường nghiêng về bên trái dài tới hàng trăm food. Khi cái đầu của ông ta đã khuất, tôi trường người ra để cố nhìn thêm nhưng vô hiệu. Khỏang cách đã quá xa và góc nhìn đã hòan tòan bị che khuất. Tôi biết rằng lúc này ông ta đã rời khỏi lâu đài, và đây là lúc tôi nên lợi dụng cơ hội này để thám hiểu thêm về lâu đài, một điều mà tôi chưa từng dám làm. Tôi trở về phòng, lấy một cái đèn, và thử tất cả các cửa. Như tôi dự đóan, chúng được khóa sạch, và những cái khóa vẩn còn mới. Nhưng khi tôi đi xuống cầu thang đá để đi vào đại sảnh, nơi tôi đã vào lúc mới đến, tôi có thấy rằng tôi có thể đẩy được then cửa cũng như tháo sợi dây xích lớn dễ dàng, nhưng cánh cửa thì đã bị khóa, và chìa khóa đã bị lấy mất. Chiếc chìa khóa này chắc hẳn ở trong phòng của bá tước. May ra thì cửa phòng ông ta không khóa, tôi có thể lấy chìa khóa và trốn thóat. Tôi cẩn thận kiểm tra mọi lối đi và cầu thang, thử mở tất cả mọi cánh cửa. Một hoặc hai cánh cửa nhỏ gần đại sảnh không khóa, nhưng bên trong trong nó không có gì đáng để ý, ngoài những vật dụng cũ kỹ đầy bụi bởi thời gian và mối gặm. Tuy nhiên, tôi tìm thấy một cánh cửa trên đỉnh cầu thang, mặc dù cũng bị khóa, nhưng khi tôi thử đẩy thì nó nhúch nhích. Tôi thử mạnh hơn, và thấy rằng cánh cửa thật ra không bị khóa, nó bị kẹt bởi bản lề long ra và cánh cửa nặng nề giống như đang được dựa vào sàn nhà. Đây là một cơ hội có một không hai, tôi cố sức đẩy cho cánh cửa dịch chuyển được một khỏang tôi có thể len vào. Bây giờ thì tôi đang ở vào một tầng bên của lâu đài, có lẽ là nằm ở tầng dưới và ở phía bên phải căn phòng tôi đã biết. Từ cửa sổ tôi có thể nhìn thấy một dãy phòng nằm dọc theo phía nam lâu đài, cửa sổ của cái cuối cùng trông ra phía tây và phía nam. Cả hai phía đều là những vách đá dựng đứng. Lâu đài được xây dựng trên một mỏm đá cao, trong đó có đến ba phía là không thể vượt qua được, với những cánh cửa sổ cao ngất mà không một cây ná, cánh cung hay một cánh chim câu nào có thể vươn tới. Phía tây là một thung lũng rộng, và vươn ra phía xa là những rặng núi nhấp nhô, các đỉnh nối tiếp nhau. Giữa những vách đá thẳng đứng là những cây tần bì núi và bụi gai có gốc bám cứng vào những vết và kẽ nứt trên đá. Chắc là phần này của lâu đài vào những ngày xa xưa được sử dụng bởi những người phụ nữ, vì những đồ vật trong phòng trong có vẻ tiện nghi hơn những phòng khác.
Cửa sổ ở đây được trải màn, và ánh trăng vàng lấp lánh tràn ngập qua những tấm cửa sổ lóng lánh, làm mọi vật trở nên rực rỡ hơn, mặc dù chúng chìm ngập trong bụi, trông như chúng đang cố cải trang khỏi sự tàn phá của thời gian và mối. Ngọn đèn của tôi góp thêm phần vào ánh trăng huyền dịu này. Nhưng tôi rất cần có nó bên mình, nếu không thì sự cô độc khủng khiếp ở nơi này sẽ làm con tim tôi lạnh giá và thần kinh của tôi run lên trong sợ hãi. Dù sao, ở nơi đây vẩn tốt hơn là cô độc trong những căn phòng mà sự hiện diện thường xuyên của bá tước đã làm cho tôi chán ghét, và sau những cố gắng để tìm lại sự cân bằng cho thần kinh, tôi đã tìm thấy nơi đây một cảm giác bình thản an lành. Và tôi đang ngồi đây, trước một cái bàn nhỏ bằng gỗ thông, nơi mà ngày xưa có lẽ là một tiểu thư đã từng ngồi, mơ mộng và thẹn thùng, viết những lá tình thư của cô ta, tôi lại viết tốc ký tiếp tục vào sổ nhật ký của tôi tất cả những gì xảy ra cho tôi từ lần tôi gấp lại gần đây nhất. Bây giờ đã gần cuối thế kỷ mười chín, nhưng nếu như cảm giác không lừa dối tôi, thì những thế kỷ trước vẩn tồn tại trong nó những năng lực mà sự "hiện đại" không thể tiêu diệt được.
Đêm khuya. Buổi sáng của ngày 16 tháng 5:
Chúa hãy phù hộ cho lý trí của tôi, đó là điều tôi cần. An tòan và những bảo đảm cho sự an tòan đã thuộc về quá khứ. Trong khi tôi sống tại nơi đây, tôi chỉ hy vọng vào một điều là tôi sẽ không hóa điên, nếu như tôi vẩn còn chưa điên. Nếu như tôi còn tỉnh, thì rõ ràng tôi sẽ hóa điên nếu nghĩ đến những việc khủng khiếp đã diễn ra ở cái nơi ở đáng ghét này của bá tước, đó là việc tệ hại nhất cho tôi. Nếu chỉ có một mình bá tước, thì tôi sẽ còn được an tòan, mặc dầu điều đó chỉ là vì tôi đang còn có ích cho ông ta. Chúa cao cả, Chúa từ bi, hãy để cho tôi được bình tĩnh, tránh xa được những chuyện giả dối điên khùng đang diễn ra. Tôi đã tìm thấy được những tia sáng mới giữa những mớ hỗn độn đang đánh đố tôi. Đến bây giờ tôi mới hiểu Shakespeare muốn nói gì khi ông ta cho Hamlet nói " Những tấm thẻ ghi của tôi! Nhanh, những thẻ ghi của tôi! Tôi sẽ viết ngay khi có nó,!" v.v., Đến nay, những lúc nào tôi cảm thấy đầu óc mình không còn cân bằng được nữa, hoặc những cú sốc đã gần đánh quỵ được tôi, tôi lại tìm sự cân bằng nơi quyển nhật ký của mình. Sở thích này thật sự đã làm tôi dịu đi.
Những điều cảnh cáo bí ẩn của bá tước đã làm tôi kinh hỏang trong một lúc. Nó không còn làm tôi hoảng sợ nữa khi tôi nghĩ về nó, bởi vì trong tương lai ông ta sẽ còn tiếp tục cầm giữ tôi một cách đầy ghê sợ. Và tôi sẽ sợ để hiểu những điều ông ta có thể nói!
Khi tôi viết xong cuốn nhật ký, may mắn là tôi đã kịp cất cuốn nhật ký và viết vào túi khi tôi bắt đầu buồn ngủ. Những lời cảnh cáo của bá tước lỡn vỡn trong tâm trí tôi, nhưng tôi sẽ rất vui lòng không tuân lệnh ông ta. Cảm giác buồn ngủ tràn ngập tâm trí tôi, và cùng với nó là sự bướng bĩnh khiến giấc ngủ càng trở nên quyến rủ. Ánh trăng đêm êm dịu, và khỏang không bao la dù không mang lại sự tự do đã làm tôi phục hồi. Tôi quyết định đêm nay sẽ không trở về căn phòng ma quái u ám của tôi nữa, mà sẽ ngủ lại đây, nơi mà ngày xưa những tiểu thư đã ngồi bên song cửa, cất cao tiếng hát, đã sống những cuộc sống êm ả trong khi tâm tưởng họ tràn ngập những nỗi buồn về những người đàn ông đã ra đi vì những cuộc chiến tranh tàn nhẫn. Tôi thấy một cái tràng kỷ lớn nằm gần góc phòng, và khi tôi nằm đấy, tôi có thể thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ ở phía đông và phía nam. Chẳng thèm nghĩ ngợi hay quan tâm gì đến bụi bặm, tôi có thể dỗ được giấc ngủ của mình. Tôi nghĩ rằng tôi đang ở trong một giấc mộng. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi sợ rằng những gì xảy ra tiếp theo cho tôi là sự thật, rất thật, diễn ra trong ánh sáng ban ngày rực rỡ, và tôi không thể tin rằng đó là một giấc mơ.
Tôi không ở một mình. Căn phòng vẩn như vậy, không hề thay đổi so với lúc tôi bước vào. Tôi có thể nhìn thấy dưới ánh trăng rực rỡ, những dấu chân của tôi trên sàn khi tôi làm xáo trộn những lớp bụi dày được tích lũy nơi đây. Đứng đối diện với tôi dưới ánh trăng là ba phụ nữ trẻ, ba tiểu thư qua cách ăn mặc và dáng vẻ của họ. Khi nhìn thấy họ, tôi nghĩ rằng tôi đang nằm mơ, bởi vì trên sàn nhà không hề có bóng của họ. Họ tiến lại gần tôi, quan sát tôi một lát rồi bắt đầu quay qua rì rầm với nhau. Hai người trong số họ ngăm ngăm, có những chiếc mũi chim ưng cao như bá tước, với những đôi mắt đen, trũng sâu, có vẻ như đỏ rực lên tương phản với ánh trăng vàng nhạt. Người phụ nữ còn lại xinh đẹp, đẹp tuyệt vời, tóc vàng và mắt lóng lánh như ngọc bích. Hình như tôi có biết khuôn mặt xinh đẹp này, nó nằm đâu đó trong những cơn ác mộng của tôi, nhưng lúc này tôi chưa thể xác định được là tôi đã gặp nó ở đâu và như thế nào. Cả ba đều có những hàm răng tuyệt vời, sáng trắng trên những đôi môi đầy quyến rủ màu hồng ngọc. Họ có một cái gì đó làm tôi không thể bình tâm được, nữa thèm muốn và một nữa là chết khiếp. Tôi cảm thấy trong tim mình một nỗi khao khát cháy bỏng, không thể cưỡng lại được là được họ hôn với những cặp môi đỏ rực kia. Có lẽ ghi lại những điều này là không hay, bởi một ngày nào đó có thể nó sẽ đập vào mắt Mina và làm cô ấy đau khổ, nhưng đó lại là sự thật. Họ thì thầm với nhau, rồi cả ba phá lên cười, những tiếng cười trong trẻo như tiếng bạc va vào nhau, nhưng cũng có cái gì đó rờn rợn trong những tiếng cười này. Những âm thanh này không thể phát ra từ những đôi môi mềm dịu của con người. Nó mang một âm điệu thô kệch, chói tai giống như những kẻ vụng về chơi đàn. Người con gái xinh đẹp lắc đầu một cách đỏm dáng, và hai cô kia tranh cãi với cô ta.
Một người nói, "Nào! Bạn làm trước đi, và chúng tôi sẽ tiếp tục. Bạn bắt đầu là đúng rồi."
Người kia thêm vào, "Anh ta trẻ và khỏe mạnh. Cả ba chúng ta sẽ hôn anh ấy."
Tôi nằm yên trên giường, liếc nhìn dưới mi mắt cái niềm hạnh phúc đang sắp sửa diễn ra. Người con gái xinh đẹp bước lên và cuối sát xuống tôi đến nỗi tôi có thể cảm thấy ngực cô ta sát phía trên tôi. Cô ta phát ra những âm thanh dịu dàng, âu yếm cùng với một sự khát khao nồng cháy, kích động, nhưng kèm theo đó là một cái gì đó kinh khiếp dưới sự ngọt ngào, một cảm giác tấn công kinh khủng, giống như một kẻ ngửi thấy mùi máu.
Tôi không dám nhướng mi lên, nhưng có thể nhìn thấy được rất rõ qua khe mắt. Cô gái quỳ xuống trên đầu gối, cúi sát vào tôi với vẻ thèm muốn tột độ. Đó là một sự thèm muốn có cân nhắc, bao gồm sự xúc động và sự kinh tởm. Cô ta uốn éo cổ và liếm môi như một con thú. Tôi có thể thấy rõ dưới ánh trăng hơi nước lóng lánh trên đôi môi đỏ rực của cô ta, và cái lưỡi hồng đang liếm trên hàng răng trắng sắc nhọn. Đầu cô ta càng lúc càng cúi thấp, đôi môi cô ta lướt xuống dưới môi và cằm tôi và tiến nhanh về phía cổ họng của tôi. Khi cô ta ngừng lại, tôi có thể nghe thấy tiếng lưỡi cô ta vờn quanh môi và răng, tôi có thể cảm thấy hơi thở nóng hổi của cô trên cổ mình. Rồi làn da nhạy cảm nơi cổ họng của tôi ngứa lên như cảm giác bị ai đó cù vào, càng lúc càng gần, gần hơn nữa. Tôi cảm thấy đôi môi mềm mại và run rẩy của cô ta ở chỗ nơi da thịt nhạy cảm nhất trên cổ họng tôi, hàm răng lởm chởm cứng rắn chạm vào và ngừng lại. Tôi nhắm chặt mắt trong một cảm giác u mê không lý trí, chờ đợi với nhịp tìm thình thịch trong lồng ngực.
Nhưng trong một thóang, một cảm giác khác lướt ngang qua tôi nhanh như ánh sáng. Tôi cảm thấy hình như bá tước đã có mặt, đang giận dữ điên cuồng. Tôi mở mắt không tự chủ được và thấy cánh tay ghê gớm của ông đang chộp lấy cái cổ họng mảnh khảnh của cô gái xinh đẹp, bẻ ngược nó về sau với một sức mạnh kinh hồn, đôi mắt xanh chuyển sang sắc màu giận dữ, đôi hàm răng trăng nghiến ken két đầy cuồng nộ, đôi má cao đỏ rực lên điên cuồng. Nhưng mà, bá tước! Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng thấy một sự giận dữ và phẫn nộ đến như vậy, dù là ở ma quỷ đi nữa. Mắt ông ta rực lên. Màu đỏ trong mắt ông ta thật kinh khủng, cứ như rằng những ngọn lửa địa ngục đang cháy sáng phía sau chúng. Mặt ông ta trắng bệch ra một cách chết chóc, và những đường gân nổi lên như những sợi dây kẽm. Đôi lông mày dày gần như chạm đến mũi, nhìn giống như một thanh kim loại trắng nóng nặng nề. Với một cử động giận dữ, ông ta ném mạnh cô gái đi và bước đến những cô còn lại như thể sắp ăn thịt họ.Dáng điệu của ông ta giống với những dáng điệu hống hách mà tôi đã từng thấy ông ta làm với những con sói. Bằng một giọng nói, dù nhỏ nhẹ như những lời thì thầm, nhưng chúng xé tung bầu không khí trong phòng như những tiếng chuông, ông ta cất tiếng,
"Ai cho phép bọn mày động đến nó, tất cả bọn mày? Ai cho phép bọn mày xuất hiện trước nó dù ta đã cấm? Cút đi, cả lũ bọn mày! Con người này thuộc về ta! Nếu còn dám động vào nó, hãy coi chừng ta."
Cô gái xinh đẹp, phá lên cười một cách đỏm dáng và vô lễ, quay lại và trả lời ông ta.
"Ông đã không bao giờ biết yêu. Ông chẳng bao giờ biết yêu cả!" Và những cô gái khác cũng hòa vào với những tiếng cười buồn bã, nặng nề, không hề có sức sống, chúng vang dội khắp phòng làm tôi gần như lợm giọng khi nghe chúng. Nó giống như sự khao khát đầy kinh tởm của ma quỷ.
Bá tước quay lại, sau khi quan sát khuôn mặt tôi một cách kỹ lưỡng, ông ta nhẹ nhàng thì thầm, "Phải, ta cũng có thể yêu vậy. Chúng mày đã tự biết điều đó trong quá khứ . Phải thế không? Tốt, ta hứa với tụi bây là khi ta xong việc với nó thì tụi bây sẽ được hôn nó nếu tụi mày muốn. Còn bây giờ thì cút! Cút! Ta phải đánh thức nó, có một số chuyện phải giải quyết đây."
"Như vậy là bọn tôi chẳng được gì tối nay ư?" một người trong bọn họ hỏi, với một giọng cười trầm buồn, cô ta chỉ về một cái túi mà ông ta đã vứt trên sàn nhà, đang chuyển động như thể có một vật gì sống bên trong. Ông ta gật đầu để trả lời. Một trong số những người phụ nữ nhảy đến và mở nó ra. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi thì bên trong nó là một tiếng khóc khẽ hổn hển của một nữa đứa bé đang thò ra. Người con gái tiến vòng quanh cái túi, còn tôi kinh hãi đến tột độ. Nhưng khi tôi nhìn lại, họ đã biến mất với cái túi khủng khiếp kia. Không có cánh cửa nào ở gần họ, và họ không thể đi khỏi mà tôi không nhìn thấy. Họ chỉ đơn giản là biến vào ánh trăng và đi xuyên qua cửa sổ, và tôi còn có thể thấy bên ngòai hình bóng họ mập mờ, thấp thóang trong chốc lát cho đến khi họ hòan tòan biến mất.
Sự khủng khiếp đã chiến thắng tôi, và tôi nằm gục đi, bất tỉnh nhân sự.
Khi tỉnh giấc, tôi thấy mình đang nằm trên giường của mình. Nếu như không phải là tôi vừa trải qua một giấc mơ thì chắc là bá tước đã mang tôi trở về phòng. Tôi cố trấn an rằng mình vừa nằm mơ, nhưng điều đó không thể giải thích được những gì đang diễn ra bên tôi. Một ví dụ nhỏ để chắc chắn về việc này là quần áo tôi đã được thay ra và gấp lại, nhưng tôi không bao giờ gấp quần áo theo kiểu như thế. Đồng hồ của tôi được tháo ra, nhưng tôi luôn luôn đeo đồng hồ trong khi ngủ, và có rất nhiều những chi tiết đại loại như thế. Nhưng những gì đã xảy ra cho tôi khó tin đến nỗi, có thể giải thích là đầu óc tôi đang có vấn đề, là thần kinh tôi đang rối loạn. Tôi cần phải xem lại điều này. Chỉ có một điều khiến tôi vui mừng. Đó là việc nếu thật sự bá tước mang tôi về phòng và thay quần áo cho tôi, thì hẳn là ông ta làm việc đó hết sức vội vã, và chẳng kịp dòm ngó gì vào túi tôi. Và hiển nhiên là ông ta chưa biết về những gì tôi viết trong nhật ký, nếu không thì ông ta hẳn đã lấy hoặc hủy nó đi. Và bây giờ căn phòng của tôi, tôi đã nhìn nó với cảm giác như đây là nơi trú ẩn của mình. Dù nó vẩn tràn đầy những cảm giác đáng sợ, nhưng không có gì đáng khiếp hãi hơn những người phụ nữ kinh khiếp kia, những kẻ đang thèm khát máu của tôi.
Ngày 18 tháng 5:
Khi tôi trở xuống căn phòng nọ vào ban ngày để tìm hiểu sự thật. Cửa căn phòng nằm ở đỉnh cầu thang đã được đóng kín. Nó đã được chắn ngang bằng một thang gỗ để ngăn chặn những nỗ lực đẩy nó. Tôi thấy khóa cửa không được gài, nhưng nó đã được buộc chặt từ bên trong. Như vậy đó không phải là giấc mộng, đúng như tôi đã lo sợ, và cần phải hành động trên cơ sở của sự suy đóan này.
Ngày 19 tháng 5:
Tôi chắc chắn sắp phải vất vả đây. Tối hôm qua bá tước yêu cầu tôi viết ba bức thư với giọng điệu đầy đe dọa. Bức đầu tiên nói rằng tôi sắp xong công việc và sắp trở về nhà, bức thứ hai nói rằng tôi đã lên đường vào buổi sáng viết thư, và bức thứ ba nói rằng tôi đã rời lâu đài và đang ở Bistriz. Tôi muốn cưỡng lại, nhưng thấy rằng trong tình hình hiện nay, khi mà tôi hòan tòan nằm trong quyền lực của bá tước thì không có gì điên khùng hơn là tranh cãi công khai với ông ta. Và sự từ chối sẽ làm kích động mối nghi ngờ trong lòng ông ta và khiến ông nỗi giận. Ông ta hẳn đã biết là tôi biết quá nhiều, và để tôi sống là sẽ khiến ông gặp nguy hiểm. Cơ hội duy nhất của tôi là kéo dài các cơ hội. Có thể một sự kiện nào đó sẽ xảy ra và cho tôi cơ hội thóat hiểm. Tôi đã từng thấy sự giận dữ bùng lên trong mắt ông ta khi ông ném tung người phụ nữ xinh đẹp nọ. Ông ta giải thích với tôi là bưu điện ở đây hoạt động rất thất thường, và những bức thư của tôi nên viết từ bây giờ để khiến bạn bè đừng lo lắng. Ông ta còn bảo đảm với tôi một cách đầy tin tưởng rằng những bức thư trên sẽ được giữ tại Bistriz trong khi tôi còn ở lại đây, và sẽ được gửi đi vào những lúc thích hợp. Tranh cãi chỉ khiến ông ta có thêm những mối nghi ngờ mới, tôi giả vờ là đồng ý với những ý kiến của ông ta, và hỏi ông ta rằng tôi nên đề ngày tháng như thế nào trong thư.
Ông ta tính tóan trong một phút, rồi trả lời, "Bức đầu nên đề ngày 12 tháng 6, Bức thứ hai ngày 19 tháng 6 và bức thứ ba ngày 29 tháng 6."
Tôi biết rằng đó là quãng đời còn lại của tôi. Chúa hãy giúp tôi!
Ngày 28 tháng 5:
Có một cơ hội để trốn thóat, hay ít ra để gửi đôi chút tin tức về nhà. Một đoàn dân du mục Szgany vừa đến và cắm trại trong khuôn viên lâu đài. Đó là dân gipsy. Tôi đã từng viết về họ. Mặc dù vẩn liên kết với với các chủng tốc gipsy bình khác ở khắp nơi trên thế giới, thì ở nơi này, họ rất đặc biệt. Họ có hàng ngàn người ở Hungary và Transylvania, và luôn luôn sống ngòai vòng pháp luật. Họ có những luật lệ riêng, những quy định riêng về sự quý phái, và gọi nhau bằng những tên riêng. Họ chẳng sợ cái gì cả, chẳng có tín ngưỡng dù vẩn mê tín, và họ chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng digan riêng của mình.
Tôi sẽ viết về nhà vài lá thư và nhờ họ chuyển. Tôi đã thử làm quen với họ bằng cách nói chuyện qua cửa sổ. Họ giở nón, cúi rạp người chào tôi và làm nhiều dấu hiệu khác, tuy nhiên tôi hiểu về những điều này chẳng khác gì tôi hiểu về ngôn ngữ của họ, nghĩa là gần như chẳng hiểu gì…
Tôi đã viết xong những lá thư. Tôi viết cho Mina bằng những ký hiệu viết tắt và nhờ ông Hawkin chuyển giùm. Tôi giải thích cho Mina tình thế của tôi hiện nay, nhưng không nhắc đến những chuyện kinh dị mà tôi chỉ mới phỏng đóan. Nó sẽ làm nàng sốc và khiếp hãi đến chết nếu tôi nói hết với nàng. Như vậy, nếu những bức thư không được chuyển đi, thì bá tước cũng chẳng thể biết những bí mật của tôi cùng những gì tôi đã khám phá được…
Tôi đã gửi những lá thư. Tôi ném nó ra từ chấn song cửa sổ cùng với vài đồng vàng, và ra dấu là tôi muốn nhờ họ chuyển giùm. Người đàn ông nhặt được lá thư này đã đưa nó lên ngực, cúi chào rồi nhét nó vào chiếc mũ lưỡi trai. Tôi không thể làm gì hơn. Tôi quay về thư viện và bắt đầu viết. Khi bá tước không có mặt thì tôi vào đây để viết…
Bá tước đến. Ông ta ngồi cạnh tôi, và với một giọng nói hòa nhã nhất, ông ta lấy ra hai lá thư, "Những người Szgany vừa đưa cho tôi những thứ này, và dù tôi chẳng biết vì sao họ có, tất nhiên là tôi vẩn nhận. Đây!" – ông ta chắc là đã đọc chúng rồi – "Một bức từ ngài gửi cho ông bạn Peter Hawkins của chúng ta. Còn bức kia" – khi ông ta mở phong bì và nhìn thấy những ký hiệu lạ trong bức thư, mặt ông ta tối sầm lại, còn mắt ánh lên vẻ giận dữ man dại, - "bức thư kia là một vật ghê tởm, nó là tổn thương tình bạn và tinh thần hiếu khách của chúng ta! Nó không được ký tên. Tốt thôi! Nó sẽ chẳng gây nên vấn đề gì giữa chúng ta." Và ông ta bình thản đưa bức thư và phong bì vào lửa cho đến khi chúng hòan tòan được thiêu trụi.
Và ông ta tiếp tục, "Còn về bức thư gửi cho ngài Hawkins, hẳn nhiên là tôi sẽ gửi nó, vì nó là của ngài. Thư từ của ngài là bất khả xâm phạm đối với tôi. Xin ngài thứ lỗi vì tôi đã vô tình bóc nó ra. Mong ngài dán nó lại một lần nữa, có được không ạ?" Ông ta đưa bức thư cho tôi, và với một cái cúi chào nhã nhặn đưa cho tôi một phong bì trống.
Tôi chỉ có thể làm theo với sự im lặng. Khi ông ta rời khỏi phòng tôi nghe tiếng chìa khóa xoay nhẹ. Vài phút sau tôi tiến lại và xoay thử. Cửa đã bị khóa.
Một hoặc hai giờ sau, bá tước lặng lẽ đi vào phòng. Sự xuất hiện của ông ta đánh thức tôi, vì tôi ngủ trên ghế sofa. Ông ta rất nhã nhặn và vui vẻ, và do thấy tôi đang ngủ, ông nói, "Ồ, bạn tôi, ngài mệt ư? Hãy lên giường. Đấy là nơi tốt nhất để ngủ. Tôi không thể nói chuyện với ngài tối nay, do còn nhiều chuyện để làm, nhưng mong ngài hãy ngủ ngon giấc."
Tôi đi vào phòng và leo lên giường, và thật lạ lùng, ngủ ngon lành chẳng mộng mị gì. Sự tuyệt vọng đã mang lại sự bình thản cùng với nó.
Ngày 31 tháng 5:
Sáng nay khi thức dậy, tôi định lục trong túi của mình tìm một số giấy và phong bì cho vào túi, để khi có cơ hội thì lại viết, nhưng một lần nữa tôi được dành cho một sự ngạc nhiên và một cú sốc.
Tất cả những giấy tờ của tôi đã biến mất, tất cả những tài liệu của tôi, những giấy tờ vong lục liên quan đến xe lửa và du lịch, những tờ chi phiếu, nói tóm lại tất cả những gì cần thiết cho tôi khi tôi ra khỏi lâu đài đã bị mất sạch. Tôi ngồi suy nghĩ một lát, rồi một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi vội kiểm tra lại valy quần áo trong tủ quần áo nơi tôi treo quần áo.
Tất cả những quần áo cần thiết để đi ra ngòai, bao gồm áo bành tô và chăn nệm, đã được lấy đi sạch. Thật là một kế hoạch đê hèn…
Ngày 17 tháng 6:
Sáng nay, khi tôi đang ngồi bên giường và cố trấn tĩnh lại đầu óc, thì tôi nghe thấy tiếng chân ngựa đi trên mỏm đá mà chẳng có tiếng roi, tiếng quất hay tiếng cãi cọ nào cả. Tôi vui mừng lao vội ra phía cửa sổ, thấy hai cỗ xe lớn, mỗi cỗ xe thắng tám con ngựa khỏe mạnh đang đi vào bãi rào. Điều khiển mỗi cổ xe là một người Slovak. với chiếc nón rộng, thắt lưng cài khuya to bản, mặc những bộ đồ da cừu dơ bẩn, và đôi giày cao. Họ cũng cầm trên tay mình những cây gậy. Tôi chạy vội về phía cửa, định lao xuống đại sảnh và nhập bọn với họ. Tôi cứ nghĩ rằng cửa sẽ mở ra đón họ. Nhưng một lần nữa tôi nhận một cú sốc. Cánh cửa phòng tôi đã được khóa từ bên ngòai.
Tôi liền chạy ngược về phía cửa sổ, la lớn về phía họ. Họ liếc nhìn tôi lạ lẫm và chỉ trỏ. Nhưng cái gã "hetman" của người Szgany tiến ra, thấy họ đang chỉ trỏ về phía tôi, hắn bèn nói điều gì đó và cười phá lên.
Do đó, những nỗ lực của tôi, những tiếng kêu gào thảm thương, những lời khẩn nài tuyệt vọng, chẳng có tác dụng gì. Họ cương quyết quay đi. Những cỗ xe ngựa chở nặng những cái hộp vuông, được buộc bằng những sợi dây thừng dày. Rõ ràng chúng rỗng bởi vì những người Slovak cầm chúng dễ dàng và qua những tiếng vang khi họ cẩu thả lôi chúng đi.
Khi lấy hàng xuống hết và chất thành một khối lớn trên một góc lớn trên bãi rào, những người Slovak nhận tiền từ những người Szgany, nhổ nước bọt lên nó để cầu may mắn, chậm chạp quay đầu ngựa. Chỉ một lúc sau, tôi nghe tiếng roi ngựa của họ chìm dần và xa khuất.
Ngày 24 tháng 6:
Tối qua bá tước từ giã tôi sớm, và tự khóa cửa nhốt mình trong căn phòng của ông ta. Liền đó, tôi bạo dạn chạy ra cầu thang lượn và nhìn ra cửa sổ trông ra hướng Nam. Tôi nghĩ dù sao cũng nên trông chừng bá tước về những gì sắp xảy ra. Những người Szgany đang tụ tập trong lâu đài và làm một số công việc gì đó. Tôi đóan ra được, vì thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng động cố che giấu của cuốc và thuổng. Dù nó là cái gì đi nữa, thì đó cũng đang đi tới tận cùng của một kế họach đê hèn tàn nhẫn.
Tôi đứng tần ngần ở cửa sổ khỏang nữa giờ thì chợt thấy cái gì đó thò ra ở cửa sổ của bá tước. Tôi nép người lại và quan sát chăm chú, thì thấy tòan bộ một thân người thò ra. Lại một cú sốc mới cho tôi khi tôi thấy ông ta đang mặc bộ quần áo mà tôi đã mặc khi tới đây, và quàng qua vai ông là cái túi kinh khiếp mà tôi thấy những người phụ nữ kia mang đi. Tôi không còn nghi ngờ gì về mục đích của ông ta khi mặc quần áo của tôi! Đây là một kế hoạch độc ác mới của bá tước. Ông ta sẽ để cho mọi người nghĩ là họ đã thấy tôi, tạo ra một bằng chứng hiển nhiên là tôi đang ở trong thị trấn và dân làng đang chuyển thư cho chính tôi, và rồi bất kỳ những gì độc ác ông ta sắp làm sẽ được dân địa phương quy tội cho tôi.
Điều làm tôi phát điên lên là mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi phải đứng câm nín tại chỗ, làm một tù nhân thật sự, mà thậm chí còn không được bảo vệ hay an ủi bằng bất bất cứ luật pháp nào, thậm chí cả luật pháp dành cho kẻ phạm tội.
Tôi nghĩ rằng mình nên đợi đến khi bá tước quay về, và tôi kiên trì đứng bên cửa sổ một lúc lâu. Chợt tôi bắt đầu nhận ra rằng trong những tia sáng mặt trăng xuất hiện những đốm nhỏ li ti. Chúng giống như những hạt bụi cực bé, và chúng đang gom dần lại thành một đám mây lờ mờ. Tôi nhìn chúng với một cảm giác dễ chịu, và cảm thấy cõi lòng mình đang thanh thản trở lại. Tôi trườn người ra phía lỗ châu mai, tạo cho
mình một tư thế thoải mái để tận hưởng trò chơi của không khí này.
Chợt một tiếng sói tru trầm và thảm thiết vang lên phía xa trong thung lũng, vượt khỏi tầm nhìn của tôi, làm tôi bật dậy. Nó vang lên càng lúc càng lớn trong tai tôi, và đám mây bụi kia chuyển sang những hình dạng khác như thể chúng đang nhảy múa dưới ánh trăng. Tôi cảm thấy tôi phải đấu tranh dữ dội để chống lại bản năng của chính mình. Tâm hồn xáo trộn, và một nữa tri giác của tôi đang lồng lộn đòi đáp lại lời kêu gọi của tiếng sói tru kia. Tôi đang bắt đầu bị thôi miên!
Đám bụi kia nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn. Ánh trăng rung lên như muốn đẩy tôi vào cái khối mờ ảo u ám đó. Càng lúc chúng càng tụ lại và định hình dần thành hình dạng lờ mờ của các bóng ma. Tôi chợt chòang tỉnh, phục hồi các giác quan của mình và gào lên một tiếng lớn làm rung động cả vùng đất.
Những bóng ma đang định hình dần từ những tia sáng trăng kia, chính là những phụ nữ ma quái mà tôi đã từng chịu đày đọa.
Tôi chạy cuống cuồng về phòng mình. Tôi cảm thấy đó là một nơi an tòan vào lúc này, nơi không có những ánh trăng mà chỉ có ngọn đèn để phát ra ánh sáng.
Vài giờ sau, tôi nghe những tiếng động từ phía phòng bá tước, giống như những tiếng than van rền rĩ bị chặn lại. Rồi tiếp sau đó là một khỏang yên lặng sâu lắng, rờn rợn làm tôi ớn lạnh. Với nhịp tim đập thình thịch, tôi thử mở cửa, nhưng nó đã khóa chặt tù nhân của mình. Không thể làm gì được nữa, tôi chỉ đơn giản ngồi xuống và gào lên.
Khi ngồi xuống tôi không nghe thấy những tiếng động nào trong vùng đất, ngoại trừ tiếng rền rĩ than van của một người phụ nữ. Tôi lao vội về phía cửa sổ, kéo màn lên, nhìn qua các chấn song.
Thật sự là có một người phụ nữ, đầu tóc rối bù, hai tay giữ chặt tim trong tình trạng mệt lử vì cố chạy. Bà ta với lên một góc của cửa chính. Khi nhìn thấy mặt tôi, bà ta ném người tới trước, gào lên với một giọng chất đầy sự đe dọa, "Quát vật, trả lại con cho tao!"
Bà ta quỵ người trên đầu gối, đưa tay lên, gào lại câu nói một lần nữa với một âm sắc như bóp nghẹt trái tim của tôi. Rồi bà ta xé tóc, đấm ngực, buông mình vào những hành vi của sự đau khổ tột cùng. Cuối cùng, bà ta lại phóng người tới. Tôi không còn thấy bà ta, như có thể nghe thấy những cánh tay trần của bà đang đấm thình thịch vào cửa.
Rồi từ phía trên cao, có thể là trên đỉnh tháp, vang lên những tiếng thì thầm khô khan, cộc cằn của bá tước. Có lẽ tiếng gọi của ông ta được trả lời bởi những tiếng tru dài và rộng của bầy sói. Vài phút sau, một đám đông sói xuất hiện, như một lũ quỷ địa ngục được dìm lại và bung ra, lao ào ào vào lối đi lớn đi vào bờ rào.
Không hề có tiếng kêu thét của người phụ nữ, chỉ còn những tiếng tru ngắn của lũ sói. Một lúc sau, chúng tản đi và liếm mép.
Tôi không thương hại người đàn bà. Tôi biết với những gì xảy ra cho con bà, bà thà chết còn hơn.
Tôi sẽ làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm sao tôi trốn thóat được những điều khủng khiếp của đêm đen, của những điều đen tối và kinh sợ này.
Ngày 25 tháng 6:
Nào ai biết được khi con người phải chịu những điều đau khổ từ đêm đen thì buổi sáng mang lại cho trái tim và mắt anh ta những cảm xúc ngọt ngào và thân mến như thế nào. Khi mặt trời lên cao vào buổi sáng, đập vào đỉnh của cái cổng chính lớn đối diện với tôi, một đốm sáng từ nó chạm vào tôi như một sứ giả mang lại những ánh sáng tốt lành. Những nỗi sợ hải của tôi tan đi thành những lớp vỏ hư ảo của những tia nắng ấm áp.
Tôi phải hành động dưới sự khuyến khích của ánh sáng ban ngày đang rọi trên mình. Tối hôm qua một trong những lá thư đề ngày tháng sẵn của tôi đã được gửi, bắt đầu cho những kế hoạch đẫm máu sẽ xóa sạch mọi dấu vết về sự tồn tại của tôi trên trái đất.
Đừng nghĩ về nó nữa.Hành động thôi!
Tôi luôn luôn bị quấy rầy bởi những sự đe dọa nguy hiểm và kinh sợ vào ban đêm. Tôi chưa hề gặp bá tước vào ban ngày. Phải chăng ông ta ngủ trong khi những người khác thức và thức trong khi những người khác ngủ? Nếu tôi có thể vào được phòng ông ta nhỉ! Nhưng không thể được. Cửa luôn khóa chặt, vô phương.
Thật ra, vẩn còn một cách, nếu như tôi dám làm. Cái nơi mà hắn đi ra được thì liệu người khác cũng có thể làm được hay không? Tôi đã thấy hắn trườn ra từ cửa sổ. Vậy thì sao không bắt chước mà chui vào cửa sổ của hắn? Cách này liều thật, nhưng tôi sẽ còn phải liều hơn nữa. Tôi sẽ đánh cuộc với nó. Điều tệ nhất sẽ là cái chết, nhưng cái chết của con người không giống như cái chết của con bê. May ra tôi sẽ còn sống lại vào kiếp sau. Chúa sẽ giúp cho kế hoạch của tôi! Tạm biệt, Mina, nếu như tôi thất bại. Tạm biệt, những người bạn trung thực và người cha thứ hai của tôi. Tạm biệt tất cả, và sau tất cả là Mina!
Đêm khuya, cùng ngày. – Tôi đã cố hết sức, và Chúa đã giúp tôi trở về phòng mình an tòan. Tôi phải ghi lại thật chi tiết theo đúng thứ tự. Tôi lấy hết can đảm của mình tiến ra cửa sổ, và bắt đầu leo ra ngòai. Những tảng đá to lớn và lởm chởm, vôi vữa đã gần như trôi sạch dưới sự bào mòn của thời gian. Tôi tháo giày, và bắt đầu cuộc mạo hiểm của mình. Tôi liếc nhìn xuống một lần, và biết chắc rằng một cái nhìn bất chợt thoáng qua nữa sẽ khiến cái vực sâu ghê gớm này chiến thắng tôi, và tôi tránh không nhìn nó. Tôi xác định được phương hướng và khỏang cách đến chỗ cửa sổ của bá tước khá tốt, và dồn hết mọi sức lực của mình, tận dụng mọi cơ hội có thể có. Tôi gần như quá kích động đến nỗi chẳng còn cảm thấy hoa mắt chóng mặt gì nữa, và hình như chỉ một lúc sau là tôi đã đứng trên ngưỡng cửa sổ của phòng bá tước và cố với lấy khung cửa. Tuy nhiên, tôi cảm thấy vô cùng xúc động , khi tôi cúi xuống và trượt người vào trong cửa sổ. Sau đó tôi nhìn quanh phòng tìm bá tước, và bắt đầu cuộc khai phá với sự ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Căn phòng trống rỗng! Trong phòng là một số vật dụng nghèo nàn, lạ lẫm và có vẻ chưa bao giờ được dùng đến.
Đồ vật trong phòng ở cùng tình trạng như ở trong căn phòng phía Nam, nghĩa là phủ đầy bụi. Tôi tìm chìa khóa, nó không cắm trong ổ khóa, và cũng chẳng thấy nó ở đâu cả. Vật duy nhất tôi tìm thấy là một khối vàng khổng lồ chất ở một góc, đủ các loại tiền vàng, Ý, Anh, Áo, Hungarian, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, bao phủ bởi một lớp bụi, hình như đã nằm ở đây lâu lắm rồi. Không có loại nào ít hơn ba trăm năm cả. Cũng có các loại tiền đồng, đồ trang sức và nữ trang, nhưng chúng đã cũ kỹ và phai màu cả.
Tại một góc phòng ở một cái cửa lớn, và tôi thử tiếp. Cái mà tôi muốn tìm, là chìa khóa phòng hoặc chìa khóa cửa ngòai đều chưa tìm được, và tôi phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc những cố gắng của tôi xem như bỏ đi. Cửa mở, và dẩn vào một lối đi bằng đá qua một cầu thang uốn khúc đi dần xuống.
Tôi đi xuống, cẩn thận từng chút một. Tôi đi trên một cầu thang tăm tối, chỉ soi sáng lờ mờ. Cuối cầu thnag là một lối đi hình ống tối tăm, tỏa ra một thứ mùi chết chóc, bệnh hoạn, một thứ mùi của những thế giới cổ xưa đang quay về. Khi tôi đi qua lối đi này, cái mùi trên càng nặng nề và rõ hơn. Cuối cùng tôi đẩy một cánh cửa nặng nề đã hé mở, và đi vào một nhà thờ cổ hoang tàn, mà bây giờ đã được dùng làm bãi tha ma. Trần nhà bị vỡ, hai mảnh rơi xuống trên hầm mộ, nhưng nền nhà thì vừa mới được đào bới mới đây thôi. Giữa lòng đất là những cái hộp lớn bằng gỗ rõ ràng vừa được mang đến bởi những người Slovak.
Không có ai ở đây, và tôi cẩn thận dò xét từng inch một, sao cho không bỏ sót thứ gì. Tôi thậm chí còn cả gan lần xuống hầm mộ, dù ở đây ánh sáng chỉ lờ mờ run rẩy. Tôi vừa kiểm tra vừa run rẩy đến chết khiếp cả người. Ở hai cái mộ đầu tiên tôi chẳng tìm thấy gì đặc biệt, ngòai hai mảnh áo quan vỡ vụn và hàng đống bụi. Tuy nhiên ở cái thứ ba thì có lẽ tôi tìm thấy những thứ gì đó.
Ở đây, trong một cái hộp lớn, ở đây có đến mười lăm cái tất cả, nằm trong một vũng đất mới đào, là bá tước Dracula đang nằm! Hắn có vẻ chết hoặc đang ngủ. Tôi không thể khẳng định được, vì mắt hắn vẩn mở trừng trừng và bất động, nhưng không có cái vẻ lạnh giá của cái chết, đôi má thì ấm nóng dù xanh xao. Môi vẩn dỏ rực như thường lệ. Nhưng chẳng hề có sự chuyển động nào, không mạch, không hơi thở, không nhịp đập của tim.
Tôi cúi xuống hắn, thử tìm một dấu hiệu nào đó của sự sống, nhưng vô hiệu. Hắn không thể nằm đây lâu được, do dấu đất cho thấy là nó mới được đào lên vài giờ trước. Phía mặt kia của cái hộp được đục thủng vài lỗ đây đó. Tôi nghĩ là hắn giữ chìa khóa trên người, nhưng khi tôi vừa thử lục tìm, thì những con mắt chết ấy chợt trở nên căm tức, làm cho tôi gần như bất tỉnh. Tôi chạy vội ra khỏi nơi đó, rời khỏi phòng bá tước bằng cửa sổ, trườn trở lại trên những bờ tường của lâu đài. Trở về phòng mình, tôi buông mình xuống giường và suy nghĩ.
Ngày 29 tháng 6:
Hôm nay là ngày đề trên bức thư cuối cùng của tôi, và bá tước bắt đầu chứng minh sự xác thực của nó. Một lần nữa tôi thấy hắn dùng kỹ năng của lòai thằn lằn để leo tường xuống phía dưới, cũng từ cái cửa sổ đó, với bộ quần áo của tôi. Tôi muốn có trong tay một cây súng hay một loại vũ khí gì đó để tiêu diệt hắn, nhưng tôi sợ rằng không vũ khí nào của lòai người có thể làm gì được hắn. Tôi không dám đợi hắn trở về, vì sợ gặp những người phụ nữ gớm ghiếc kia. Do đó tôi trở về thư viện, và đọc sách đến khi ngủ thiếp đi.
Tôi được đánh thức bởi bá tước, hắn nhìn tôi với một vẻ cương quyết mà một con người có thể tạo ra được, và nói. "Tối mai, bạn thân mến, chúng ta phải chia tay rồi. Ngài trở về nước Anh xinh đẹp của ngài, tôi còn một số công việc phải giải quyết và có thể là chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau. Lá thư của ngài đã được gửi đi. Ngài mai tôi không có mặt ở đây, nhưng mọi thứ đã chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc hành trình của ngài. Ngày mai những người Szgany sẽ đến đây, họ có một số chuyện phải làm, và sau đó cũng sẽ có một số người Slovak đến. Khi họ đi, xe ngựa của tôi sẽ đưa ngài đi đến BorPo Pass, ở đó có chuyến xe lửa từ Bukovina đi Bistriz. Nhưng tôi luôn hy vọng là sẽ còn có dịp đón tiếp ngài tại lâu đài Dracula."
Tôi nghi ngờ hắn, và quyết định kiểm tra sự thành thật của hắn. Sự thành thật! Điều này sẽ làm xúc phạm trái đất này nếu gắn nó cho một loại quái vật như hắn, và tôi hỏi với vẻ trống rỗng, "Vì sao tôi không đi ngay tối nay?"
"Bởi vì, thưa ngài, cỗ xe và ngựa của tôi đang có chuyện khác phải làm."
" Tôi sẽ đi bộ, không có vấn đề gì. Tôi muốn đi ngay tức khắc."
Hắn ta mỉm cười, với nụ cười dịu dàng, mềm mại ma quái của hắn, và tôi biết rằng luôn có cạm bẫy ẩn náu sau vẻ dịu dàng của hắn. Hắn bảo, "Còn hành lý của ngài?"
"Tôi không cần. Nó sẽ được gửi đến cho tôi sau."
Bá tước đứng lên, và với vẻ thành thực ngọt ngào đạt đến nỗi tôi dụi cả mắt mình"Câu nói của ngài, một người Anh, đã đi vào tim tôi, và tinh thần của truyền thống hiếu khách của chúng tôi luôn là ‘Chào mừng những người khách đến, đẩy mau những phút phân ly.’ Hãy đi với tôi, người bạn trẻ thân mến. Chưa đầy một giờ nữa ngài sẽ sẳn sàng ra đi từ nhà tôi như ước nguyện của ngài, dù tôi rất buồn về ý muốn đột ngột của ngài. Chúng ta đi!" Với một uy nghiêm bệ vệ, hắn cầm lấy cây đèn, dẩn tôi xuống thang và đi ngang đại sảnh. Chợt hắn ngừng lại. "Hark!"
Vọng lại là những tiếng tru của những con sói. Có vẻ như những âm thanh này lên xuống trầm bỗng theo nhịp tay của hắn, giống như dàn nhạc dưới gậy chỉ huy của nhạc trưởng. Sau một thóang im lặng, hắn bước đến cửa, với một vẻ trịnh trọng, đẩy cái then cài nặng nề, tháo sợi xích, và bắt đầu mở cửa.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, cánh cửa đã được mở khóa. Đầy nghi ngờ, tôi liếc nhìn quanh, nhưng chưa hiểu được điều gì.
Khi cánh cửa bắt đầu mở, những tiếng kêu của bầy sói càng trở nên lớn và hung dữ hơn. Quai hàm của chúng đỏ rực, răng nghiến trèo trẹo, và những cái chân đầy móng vuốt của chúng chồm tới, hướng về phía cánh cửa đã mở ra. Đến lúc này tôi biết rằng không thể chống lại bá tước. Với những kẻ thừa hành dưới quyền hắn như vậy, tôi không thể làm gì được.
Nhưng cánh cửa vẩn tiếp tục mở ra, và chỉ còn thân người bá tước đứng trên kẻ hỡ. Bất thình *** h tôi chợt nhận ra tình thế kinh hòang của mình. Tôi sẽ được đem dâng hiến cho lũ sói, và đó xuất phát từ sự thúc giục của chính tôi. Lại thêm một ý tưởng ác độc ma quái của bá tước, và tôi kêu gào lên với hy vọng cuối cùng, "Đóng cửa lại! Tôi sẽ đợi đến sáng mai." Và tôi lấy tay che mặt, để giấu những dòng nước mắt cay đắng của mình.
Bá tước đóng mạnh cánh cửa lại. Tiếng cái then cài vang rền cả tiền sảnh khi nó được cài trở lại.
Không nói thêm một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, và sau một hoặc hai phút tôi trở về phòng mình. Phút cuối tôi thấy bá tước Dracula gửi cho tôi một cái hôn từ tay hắn, mắt hắn đỏ rực lên ánh sáng của chiến thắng, và với một nụ cười làm cho Judas dưới địa ngục cũng phải tự hào.
Khi tôi trở về phòng và nằm xuống, tôi cảm thấy hình như có tiếng thì thầm ngòai cửa. Tôi rón rén bước đến và lắng nghe. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi, thì tôi nghe thấy tiếng bá tước.
"Trở lại! Trở về chỗ của chúng mày! Thời điểm của tụi mày chưa đến. Hãy đợi đã! Phải kiên nhẫn chứ! Tối nay nó là của tao. Tối mai sẽ là của mày!"
Có những chuỗi cười nhẹ, gờn gợn vang lên, và trong cơn giận dữ, tôi mở tung cửa lao ra. Tôi thấy ba người phụ nữ kinh khiếp kia đang liếm mép. Thấy tôi, chúng cùng phá lên cười một cách kinh dị và chạy đi.
Tôi trở về phòng mình, quỳ xuống trên đầu gối. Chẳng lẽ đã đến lúc kết cục ư? Ngày mai! Ngày mai! Thiên chúa, xin hãy cứu tôi, và bây giờ tôi chỉ còn ngài thôi!
Ngày 30 tháng 6:
Đây có thể là những dòng cuối cùng tôi viết vào nhật ký. Tôi ngủ cho đến lúc gần rạng đông, và khi chòang tỉnh, tôi lại quỳ trên đầu gối. Tôi muốn làm sao khi Thần Chết tới, hắn thấy tôi đã sẳn sàng.
Cuối cùng tôi cảm thấy không khí có cái gì đó thay đổi, và biết rằng trời đã sáng trở lại. Tiếng gà gáy vui vẻ vang lên, và tôi biết mình đã an tòan. Hết sức vui vẻ, tôi mở cửa và chạy xuống tiền sảnh. Tôi thấy cửa không khóa, và lúc này cơ hội trốn thóat đã trải rộng trước mặt tôi. Với những cánh tay run rẩy và háo hức, tôi tháo xích và đẩy mạnh cái then cài khổng lồ.
Nhưng cánh cửa chẳng hề nhúc nhích. Sự tuyệt vọng bao phủ tôi.Tôi đẩy và đẩy cánh cửa, lắc nó cho đến khi nào hai cánh cửa chịu trượt ra, bất chấp sự nặng nề kinh khiếp của nó. Tôi có thể thấy cái móc nơi then cài cửa. Nó đã được khóa lại sau khi tôi rời khỏi bá tước.
Một ham muốn điên dại xui khiến tôi phải lấy được chìa khóa bởi bất kỳ giá nào, và tôi quyết định sẽ bò qua bức tường lần nữa, quay về chỗ phòng bá tước. Hắn có thể giết tôi, nhưng với ma quỷ, cái chết có lẽ một sự lựa chọn tốt đẹp nhất. Không một phút ngần ngừ tôi lao về phía cửa sổ phía Đông, leo tường xuống phòng bá tước giống như lần trước. Trong phòng không có ai. Đó là điều tôi đang chờ đợi. Tôi không thể tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đống vàng thì vẫn như cũ. Tôi đi qua cánh cửa ở góc phòng và leo xuống cầu thang, đi qua cái lối đi tăm tối đến ngôi nhà thờ cổ. Tôi biết rõ đó là nơi có thể tìm ra con quái vật này.
Cái hộp vẩn ở chỗ cũ, gần bức tường, nhưng đã được đậy nắp. Chưa đóng lại, nhưng đinh đã cài sẳn, chỉ còn chờ quai búa.
Tôi biết tôi phải tìm chìa khóa trên cơ thể bá tước, vì vậy tôi nâng cái nắp lên và ném nó về phía tường. Và những cái tôi thấy được làm tôi dựng tóc gáy vì kinh hãi. Bá tước đang nằm đó, nhưng xem ra hắn đã trẻ lại phân nữa. Mái tóc và bộ râu bạc trắng của hắn bây giờ đã lốm đốm muối tiêu. Đôi má đầy đặn hơn, và làn da trắng lại ửng màu hồng ngọc. Miệng hắn đỏ hơn bao giờ hết, môi hắn lấm tấm máu tươi, chảy ra từ một khóe môi lan xuống cằm và cổ hắn. Thậm chí đôi mắt sâu, rực lửa của hắn bây giờ cũng phồng lên, khóe mắt nọng xuống. Có vẻ như tòan bộ cái sinh vật ghê tởm này chỉ được chứa bằng máu. Hắn nằm đó như một con đĩa no nê, giải quyết cơn đói bằng một sự phè phỡn.
Tôi rùng mình khi tôi cúi xuống và chạm vào hắn, và mọi giác quan của tôi như đứt tung với sự động chạm này, nhưng tôi vẩn phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc tôi sẽ thất bại. Khi đêm đến cơ thể tôi sẽ là buổi tiệc lớn sau cuộc chiến với ba sinh vật kinh khiếp kia. Tôi lục tìm khắp cơ thể bá tước, nhưng không thể tìm thấy chìa khóa. Một nụ cười chế nhạo hiện ra trên khuôn mặt căng phồng kia làm tôi như phát điên lên. Điều này nghĩa là tôi sẽ được gửi về Luân Đôn, và có thể là hàng thế kỷ sau hắn sẽ đến, giữa lúc nhúc hàng triệu sinh vật giúp hắn thỏa mãn sự thèm khát máu tươi, và tiếp tục mãi mãi cái chu kỳ tạo ra những kẻ nữa quái vật sống bất lực lang thang.
Ý nghĩ này làm tôi như điên như dại. Một ham muốn tột độ xâm chiếm tôi là quét sạch cái loại ma quỷ này ra khỏi mặt đất. Không có vũ khí trong tay, tôi tóm lấy một cây cuốc mà những người làm dùng để đào đất, nâng cao nó lên, rồi đập mạnh chiều lưỡi vào cái khuôn mặt đáng ghét kia. Nhưng khi tôi quay đầu lại, ánh mắt của bá tước chiếu lên tôi, mắt hắn ánh lên vẻ man dại của lòai rắn. Cái nhìn của hắn làm tôi như tê liệt, cái cuốc rung lên trong tay tôi và chỉ chạm qua mặt hắn, tạo một vết trầy sâu trên trán. Cái cuốc rời khỏi tay tôi, rơi cắt ngang cái hộp. Khi tôi kéo nó ra thì lưỡi cuốc kéo luôn nắp hộp rơi xuống phủ lại lên hộp, che tôi khỏi cái tia nhìn kinh khủng đó. Cái nhìn cuối cùng tôi nhìn thấy trên khuôn mặt căng phồng, đầy máu và nhăn nhúm với vẻ gớm ghiếc đáng ra nên giữ chính nó ở tầng địa ngục thấp nhất. Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo, nhưng đầu óc tôi như bốc lửa, và tôi chờ đợi với sự tuyệt vọng hòan tòan. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe thấy từ xa bài hát của dân gipsy với những tiếng chúc tụng càng lúc càng đến gần. Và cùng với bài hát của họ là tiếng bánh xe nặng nề quay và tiếng roi quất. Người Szgany và người Slovak mà bá tước nói đang đến. Nhìn một lần cuối về phía cái hộp đang chứa cái thân người ma quái kia, tôi chạy ra khỏi chỗ đó và trở về phòng bá tước, quyết định sẽ chạy ra ào ra ngay khi cánh cửa vừa được mở. Với đôi tai căng thẳng, tôi nghe thấy tiếng chìa khóa quay cót két ở phía dưới, và một cánh cửa lớn kéo sập xuống. Hẳn là còn một lối đi nữa ở phía dưới và có ai đó còn có chìa khóa.
Khi những tiếng chân nặng nề và chết chóc xa dần, để lại những tiếng động vang rền trên đường, tôi quay xuống trở lại khu hầm mộ, nơi mà tôi có thể tìm thấy con đường thóat mới, nhưng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng gió mạnh thổi qua, và cánh cửa dẩn đến cầu thang cuốn đóng sầm lại khiến đám bụi trên rầm đỡ bay tung lên. Khi tôi chạy đến để đẩy nó ra, thì niềm hy vọng của tôi nhanh chóng tan biến đi. Một lần nữa tôi lại là tù nhân, và cái lưới kinh khủng bao quanh tôi mỗi lúc lại mỗi gần.
Khi tôi viết những dòng này, ở đường đi bên dưới tôi nghe thấy nhiều tiếng chân nặng nề, những tiếng va đập mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì nữa, những chiếc hộp được chở đi với đất bên trong. Rồi có tiếng búa đóng. Những chiếc hộp đã được đóng đanh lại. Bây giờ thì tôi có thể nghe thấy những tiếng chân nặng nề đi dọc theo đại sảnh, trong khi có những bước chân thảnh thơi đi sau họ.
Cổng được đóng lại, dây xích căng lên. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa rút ra, những cánh cửa khác mở ra và đóng lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa và cài then.
Tôi bây giờ chỉ còn đơn độc trong lâu đài với những người phụ nữ kinh hãi kia. Faugh! Mina cũng là phụ nữ vậy, nhưng giữa họ chẳng có điểm giống nhau nào. Bọn chúng là quỷ sứ từ trong hố chui lên!
Tôi sẽ không ở đây một mình với chúng. Tôi sẽ thử leo qua lâu đài xa hơn những lần tôi đã từng thử trước đây. Tôi sẽ mang theo một ít vàng, tôi sẽ cần chúng về sau. May ra thì tôi có thể tìm thấy con đường ra khỏi nơi kinh khiếp này.
Nào, bây giờ thì lên đường về nhà! Hãy đến với chuyến xe lửa nhanh nhất và gần nhất! Tránh xa ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa, vùng đất đáng nguyền rủa này, nơi mà quỷ sứ cùng con cái của nó vẩn dạo chơi bằng những bước chân không chấm đất!
Và cuối cùng thì lòng thương của Chúa sẽ vẩn hơn những con quái vật này, còn vách núi thì sâu và thẳng đứng. Nhưng đó là nơi con người có thể ngủ như một con người. Tạm biệt tất cả. Mina ơi!
Danh sách chương