“Không lừa ta đấy chứ?”
“Không lừa ngươi.”
Beta: Chuối
(๑✧∀✧๑)(๑✧∀✧๑)(๑✧∀✧๑)
Thoáng chốc đã qua sáu bảy ngày, quãng thời gian chạy trốn khỏi phàm trần dường như không có hồi kết.
Nhưng cũng chỉ là dường như mà thôi.
Thật ra Thẩm Độc biết chứ, nên mỗi giây mỗi phút trôi qua y đều vô cùng trân trọng, luôn cố gắng hết sức ghi nhớ kỹ càng tỉ mỉ khắc sâu vào đầu, tốt nhất là qua cầu Nại Hà, uống hết chén canh Mạnh Bà, đến tận kiếp sau vẫn không quên.
Hôm nay hai người xuôi theo dòng sông đi xuống, tới một thị trấn dưới hạ du, giữa đường gặp một ông già quẳng một khúc gỗ đi, Thẩm Độc nhìn thế nào cũng chỉ thấy là một khúc gỗ sứt sẹo, không để ý lắm. Nhưng Thiện Tai đi cạnh y thấy vậy bỗng dừng bước, thế mà nhặt mẩu gỗ mục lên.
Thẩm Độc nhướng mi: “Ngươi nhặt nó làm gì thế?”
Ngón tay thon dài của Thiện Tai phủi sạch bùn đất dính trên khúc gỗ mục, cười với y đáp: “Đây là một khúc gỗ tốt, có thể làm đàn.”
Làm đàn?
Bằng một khúc gỗ mục?
Thẩm Độc chắp tay sau mông đứng trên đường nhìn hắn, trong lòng cảm thấy vớ vẩn vãi nho, nhưng vì bản lĩnh chẳng hề tầm thường của hòa thượng nên y không dám quả quyết phản bác ngay, thế là tỏ vẻ “Chống mắt lên nhìn”, nói: “Xin hãy mở mang tầm mắt cho ta với.”
Thiện Tai không biện giải gì nhiều.
Người dân ở thị trấn nơi đây giản dị chất phác, không có nhân sĩ giang hồ, thấy hòa thường và một quý công tử đi qua cũng không để ý, nhiều lắm là cảm thấy bề ngoài của hai người này thật đẹp, không hề tầm thường, nhìn vừa mắt mà thôi.
Cho nên hai người có thể yên ổn hòa vào dòng người.
Trấn này tên là trấn Phương Phỉ, nằm cạnh một địa điểm có chút danh tiếng.
Ngoài trấn có một ngọn núi, trong núi có một ngôi chùa cổ, từ xưa gọi là “Chùa Tiểu Minh”, về sau bị bỏ hoang, mãi đến mấy năm gần đây mới có hòa thượng ngao du bốn phương đặt chân tới đây, dần dần có chút hương khói, tiếp đãi vài khách hành hương và du khách đi chơi tiết thanh minh.
Còn chưa tới trước núi Thẩm Độc đã nhìn thấy hoa đào nở rộ trên núi.
“Thơ viết, “Tháng tư hoa đã hết mùa, Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay” (1). Cho nên trấn này mới gọi là “Trấn Phương Phỉ”(2), nghe hơi ẻo lá tí nhưng nghĩ kĩ thì thấy hợp lý phết.”
(1) 2 câu đầu trong bài “Đại Lâm tự đào hoa”, bản dịch của Tản Đà.
(2) Phương Phỉ: Mùi thơm hoa cỏ.
Y nói một câu, không biết sao bỗng dưng nghĩ tới thiền viện Thiên Cơ.
“Mà nói chứ, hai lần ta đến thiền viên Thiên Cơ của các người toàn tới vội vàng đi vội vã, còn chẳng đúng mùa nữa, không thấy trên núi dưới núi có cái hoa cái cỏ nào sất. Chả nhẽ chỉ có mỗi bồ đề với trúc thôi à?”
“Không phải.”
Thiện Tai theo y đi lên núi, nhìn thấy xung quanh lác đác vài du khách, chỉ lắc lắc đầu.
“Bất Không sơn có hoa Vô Ưu, mọc khắp thiền viện.”
“Hoa Vô Ưu?”
Tên lạ như thế, Thẩm Độc chưa từng nghe thấy bao giờ, có hơi tò mò.
“Thánh hoa của Phật môn, điển cố nổi tiếng xuất phát từ kinh Phật.”
Thiện Tai ôm khúc gỗ mục, đưa mắt nhìn Thẩm Độc, cất giấu biết bao điều trong đáy đôi mắt thấu tỏ nhân sinh ấy, rồi chỉ niệm một đoạn phật kệ cho khúc “gỗ mục” đó của hắn.
“Nhất thiết ân ái hội, vô thường nan đắc cửa
Sinh thế đa úy cụ, mệnh nguy vu thần lộ
Do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh phố
Nhược li vu ác giả, vô ưu diệc vô phố…..”
(*) Dịch nghĩa: (Bản dịch tham khảo trong truyện “Người đàn ông bước ra từ ngọn lửa”)
Mọi ân ái đời này, đều vô thường chóng phai.
Cõi thế nhiều khổ não, đời người như sương mai.
Do ái sinh sợ hãi, do ái sinh ưu phiền.
Kẻ nào lìa chữ ái, tâm mới được an nhiên.
[Kim cương kinh]
Do ái sinh sợ hãi, do ái sinh ưu phiền.
Kẻ nào lìa chữ ái, tâm mới được an nhiên.
Đây được xem như quyển kinh Phật lưu truyền khá rộng rãi ở bên ngoài, mà Thẩm Độc đã từng nghe thấy đoạn này rồi, nhưng ngày xưa nghe chẳng khác gì gió thoảng qua tai không để lại chút ấn tượng gì, còn hôm nay nghe bỗng chạm tới trái tim, vừa muốn khóc vừa muốn cười.
Y im lặng, người phía trước đã đi một lúc lâu.
Mãi tới khi dừng chân trước cửa chùa, nhìn lư hương ngoài đại điện, mới giật mình dừng bước, cúi đầu hỏi: “Thiện Tai, nếu trên đời có kiếp nạn, thì yêu ta là kiếp nạn của ngươi ư?”
“Phật nói, yêu người đời. Nhưng không yêu được đến 1 người thì làm sao yêu được người đời?” Thiện Tai đứng sau lưng y, đi theo y suốt một đường lên đến đây, khi nói ra những lời ấy nét mặt thản nhiên, chẳng có cảm giác gì. “Người sống trên đời, đều là khổ hạnh. Sống một ngày là có kiếp nạn một ngày, là tu hành một ngày. Ta sinh ra là kẻ mang tội lỗi, nửa cuộc đời toàn đối địch với chính bản thân, trước kia đã vậy, mai này cũng thế. Nhưng ngươi thì không phải thế.”
“Ta không phải thế?”
Thẩm Độc nghe hắn nói nửa cuộc đời toàn đối địch với chính bản thân, bỗng chốc không thể miêu tả cảm giác trong lòng, rồi lại nghĩ tới chính mình, cuối cùng không dám hỏi đối địch là sao, nên chỉ hỏi một câu vừa rồi.
Thiện Tai bèn đáp lời y: “Ngươi là điều duy nhất ta nghe theo tiếng gọi con tim mình.”
Thẩm Độc lại im lặng, hồi lâu mới nói: “Ngươi đã rời khỏi thiền viện, phản bội Phật Tổ ư?”
“Trên đời không có Phật, chỉ có một chữ “Thiện” mà thôi.” Thiện Tai nở nụ cười, cất bước vào đại điện, tăng bào trắng muốt sạch sẽ như tuyết đọng vườn đào giữa cảnh chùa trên núi, Thẩm Độc nghe thấy giọng nói bình thản của hắn. “Tâm này là Phật, tâm ta là tâm Phật.”
…..
Đứng ngay trước mặt Phật tổ nói trên đời không có Phật.
Đứng ngay trước mặt Phật tổ nói tâm ta là tâm Phật.
Thẩm Độc bỗng không thể miêu tả nổi cảm giác trong lòng mình lúc này, chỉ cảm thấy bóng dáng trắng muốt đã khắc sâu vào tim, có lẽ đến kiếp sau y cũng không tài nào quên nổi.
Y xòe tay ra, mạch máu mờ mờ trong lòng bàn tay đã dần biến thành màu tím đen. Trong cuống họng dâng lên mùi máu tanh ngọt, bị y vận lực Lục Hợp Thần Quyết đè xuống, đứng ngoài điện một lát, thấy mọi giác quan quay về cơ thể rồi mới chậm rãi cất bước theo hòa thượng vào điện.
Họ khấn Phật, dạo chơi quanh chùa, ngắm nghía hoa đào, rồi ngồi nghỉ trong một cái đình ở sườn núi, Thẩm Độc dựa lan can nhìn xa xăm, ngắm non sông gấm vóc bốn bề, Thiện Tai thì mượn một con dao cong của hòa thượng trong chùa, bắt đầu tạc thanh gỗ mục làm đàn.
Đến lúc xế chiều thế mà tạc ra dáng phết.
Lột từng lớp từng lớp dác gỗ bị mục ra, bên trong cất giấu lõi gỗ thượng hạng, gõ vào vang lên tiếng kêu lanh lảnh, nét đẽo cứng cỏi mà ra dáng, dây đàn căng trên trục, tuy rằng thô sơ nhưng cũng là một cây đàn hàng thật giá thật.
Nếu để người khác nhìn thấy, biết hết quá trình chế tác, sợ rằng phải khen Thiện Tai một câu “Mắt sáng như đuốc, nhìn thấu bản chất”, có thể phát hiện ra bên trong một thanh gỗ mục ẩn giấu gỗ tốt làm được thành đàn.
Nhưng Thẩm Độc nhìn, chỉ nhìn thật lâu.
Nhìn cây đàn thô sơ, nhìn ngón tay Thiện Tai điều chỉnh dây đàn, không hiểu sao bật cười, hỏi: “Gỗ mục làm đàn, nhưng bản chất vốn kém, đánh ra thánh âm kiểu gì?”
Thiện Tai quay đầu nhìn y, lúc này mặt trời đã ngả về Tây, ánh hoàng hôn phủ lên người Thẩm Độc và cả sau lưng y, khiến gương mặt y lờ mờ nhạt nhòa nhìn không rõ lắm.
Nhưng cần gì phải dùng mắt thường để nhìn? Hắn thu hồi tầm mắt, ngón tay thon dài đặt trên cây huyền cầm, lấy tiếng đàn ngân nga thay cho câu trả lời.
Âm sắc thực sự không phải đỉnh nhất.
Nhưng làn điệu khoan thai cất lên, dần dần từ một hai hợp âm đơn điệu kết nối với nhau, mang đến cho người ta cảm giác mới mẻ.
Rõ ràng rất đơn giản, mộc mạc, nhưng rất mực động lòng.
Thẩm Đọc lắng nghe, chậm rãi ngồi xuống bên cạnh dựa vào hòa thượng, ngửa đầu nhìn bầu trời vô tận và núi rừng thấp thoáng bóng chim.
Y là ma đầu, nghe không hiểu tiếng đàn của thánh nhân.
Thế là nhớ ra một điển cố mình từng đọc, nói đùa: “Thiện Tai, nga nga hề nhược Thái Sơn; Thiện Tai, dương dương hề nhược giang hà. Thiện Tai, Thiện Tai….”
(*) Bá Nha có tài gảy đàn, Tử Kỳ có tài thưởng thức. Khi Bá Nha gảy đến đoạn miêu tả núi cao, nước chảy thì Tử Kỳ thốt lên: ‘Tuyệt! Tuyệt! nga nga hề nhược Thái Sơn, dương dương hề nhược giang hà (Vời vợi như Thái Sơn, mênh mông như sông chảy)
Thiện Tai biết y đang nói đến Cao Sơn Lưu Thủy, biết y lấy hai chữ “Thiện Tai” trong câu thơ ra làm trò đùa, nhưng không phản ứng gì nhiều chỉ cười đánh đàn, mặc kệ y ngả vào người mình như không xương.
(*) Thiện Tai (善哉) = Tuyệt (善哉)
Thẩm Độc chớp chớp mắt, thấy hơi buồn ngủ.
Nhưng y vẫn nói tiếp: “Hòa thượng, không phải gỗ mục có thể tạc ra đàn, mà nhờ đôi bàn tay tuyệt diệu của ngươi mới có thể hóa mục nát thành thần kì, ngay đến gỗ mục cũng thành thánh âm.”
Thiện Tai đánh đàn không nói gì, Thẩm Độc thì nổi hứng tán dóc.
Y ngửa đầu nhìn bầu trời, lảm nhảm, còn bắt hòa thượng phải đáp lời.
“Cây đàn này đặt tên là Thẩm Độc nhé?”
“Ừ.”
“Mấy ngày nay ta luôn suy nghĩ, ta là một kẻ độc ác, làm rất nhiều chuyện sai trái. Nếu ta gặp ngươi sớm hơn thật nhiều năm, ta sẽ ra sao, sẽ làm những gì. Nhưng tưởng tượng rồi chợt nhận ra mình tham lam quá. Gặp được nhau đã là may mắn, huống gì ngươi cũng thích ta đúng không?”
“Thích.”
“Hòa thượng, trước khi ta chết, ngươi đừng đi, được không?”
“….Được”
“Không lừa ta đấy chứ?”
“Không lừa ngươi.”
Ánh nắng chiều đỏ mọng, lặng lẽ nấp sau dãy núi.
Ngôi chùa trên núi vang tiếng chuông chiều.
Tiếng đàn du dương hòa vào dư âm vang dội của tiếng chuông, có lúc nghe đơn sơ và thản nhiên, có lúc nghe như tiếng thở dài quẩn quanh giữa núi rừng bát ngát bao la.
“Không lừa ngươi.”
Beta: Chuối
(๑✧∀✧๑)(๑✧∀✧๑)(๑✧∀✧๑)
Thoáng chốc đã qua sáu bảy ngày, quãng thời gian chạy trốn khỏi phàm trần dường như không có hồi kết.
Nhưng cũng chỉ là dường như mà thôi.
Thật ra Thẩm Độc biết chứ, nên mỗi giây mỗi phút trôi qua y đều vô cùng trân trọng, luôn cố gắng hết sức ghi nhớ kỹ càng tỉ mỉ khắc sâu vào đầu, tốt nhất là qua cầu Nại Hà, uống hết chén canh Mạnh Bà, đến tận kiếp sau vẫn không quên.
Hôm nay hai người xuôi theo dòng sông đi xuống, tới một thị trấn dưới hạ du, giữa đường gặp một ông già quẳng một khúc gỗ đi, Thẩm Độc nhìn thế nào cũng chỉ thấy là một khúc gỗ sứt sẹo, không để ý lắm. Nhưng Thiện Tai đi cạnh y thấy vậy bỗng dừng bước, thế mà nhặt mẩu gỗ mục lên.
Thẩm Độc nhướng mi: “Ngươi nhặt nó làm gì thế?”
Ngón tay thon dài của Thiện Tai phủi sạch bùn đất dính trên khúc gỗ mục, cười với y đáp: “Đây là một khúc gỗ tốt, có thể làm đàn.”
Làm đàn?
Bằng một khúc gỗ mục?
Thẩm Độc chắp tay sau mông đứng trên đường nhìn hắn, trong lòng cảm thấy vớ vẩn vãi nho, nhưng vì bản lĩnh chẳng hề tầm thường của hòa thượng nên y không dám quả quyết phản bác ngay, thế là tỏ vẻ “Chống mắt lên nhìn”, nói: “Xin hãy mở mang tầm mắt cho ta với.”
Thiện Tai không biện giải gì nhiều.
Người dân ở thị trấn nơi đây giản dị chất phác, không có nhân sĩ giang hồ, thấy hòa thường và một quý công tử đi qua cũng không để ý, nhiều lắm là cảm thấy bề ngoài của hai người này thật đẹp, không hề tầm thường, nhìn vừa mắt mà thôi.
Cho nên hai người có thể yên ổn hòa vào dòng người.
Trấn này tên là trấn Phương Phỉ, nằm cạnh một địa điểm có chút danh tiếng.
Ngoài trấn có một ngọn núi, trong núi có một ngôi chùa cổ, từ xưa gọi là “Chùa Tiểu Minh”, về sau bị bỏ hoang, mãi đến mấy năm gần đây mới có hòa thượng ngao du bốn phương đặt chân tới đây, dần dần có chút hương khói, tiếp đãi vài khách hành hương và du khách đi chơi tiết thanh minh.
Còn chưa tới trước núi Thẩm Độc đã nhìn thấy hoa đào nở rộ trên núi.
“Thơ viết, “Tháng tư hoa đã hết mùa, Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay” (1). Cho nên trấn này mới gọi là “Trấn Phương Phỉ”(2), nghe hơi ẻo lá tí nhưng nghĩ kĩ thì thấy hợp lý phết.”
(1) 2 câu đầu trong bài “Đại Lâm tự đào hoa”, bản dịch của Tản Đà.
(2) Phương Phỉ: Mùi thơm hoa cỏ.
Y nói một câu, không biết sao bỗng dưng nghĩ tới thiền viện Thiên Cơ.
“Mà nói chứ, hai lần ta đến thiền viên Thiên Cơ của các người toàn tới vội vàng đi vội vã, còn chẳng đúng mùa nữa, không thấy trên núi dưới núi có cái hoa cái cỏ nào sất. Chả nhẽ chỉ có mỗi bồ đề với trúc thôi à?”
“Không phải.”
Thiện Tai theo y đi lên núi, nhìn thấy xung quanh lác đác vài du khách, chỉ lắc lắc đầu.
“Bất Không sơn có hoa Vô Ưu, mọc khắp thiền viện.”
“Hoa Vô Ưu?”
Tên lạ như thế, Thẩm Độc chưa từng nghe thấy bao giờ, có hơi tò mò.
“Thánh hoa của Phật môn, điển cố nổi tiếng xuất phát từ kinh Phật.”
Thiện Tai ôm khúc gỗ mục, đưa mắt nhìn Thẩm Độc, cất giấu biết bao điều trong đáy đôi mắt thấu tỏ nhân sinh ấy, rồi chỉ niệm một đoạn phật kệ cho khúc “gỗ mục” đó của hắn.
“Nhất thiết ân ái hội, vô thường nan đắc cửa
Sinh thế đa úy cụ, mệnh nguy vu thần lộ
Do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh phố
Nhược li vu ác giả, vô ưu diệc vô phố…..”
(*) Dịch nghĩa: (Bản dịch tham khảo trong truyện “Người đàn ông bước ra từ ngọn lửa”)
Mọi ân ái đời này, đều vô thường chóng phai.
Cõi thế nhiều khổ não, đời người như sương mai.
Do ái sinh sợ hãi, do ái sinh ưu phiền.
Kẻ nào lìa chữ ái, tâm mới được an nhiên.
[Kim cương kinh]
Do ái sinh sợ hãi, do ái sinh ưu phiền.
Kẻ nào lìa chữ ái, tâm mới được an nhiên.
Đây được xem như quyển kinh Phật lưu truyền khá rộng rãi ở bên ngoài, mà Thẩm Độc đã từng nghe thấy đoạn này rồi, nhưng ngày xưa nghe chẳng khác gì gió thoảng qua tai không để lại chút ấn tượng gì, còn hôm nay nghe bỗng chạm tới trái tim, vừa muốn khóc vừa muốn cười.
Y im lặng, người phía trước đã đi một lúc lâu.
Mãi tới khi dừng chân trước cửa chùa, nhìn lư hương ngoài đại điện, mới giật mình dừng bước, cúi đầu hỏi: “Thiện Tai, nếu trên đời có kiếp nạn, thì yêu ta là kiếp nạn của ngươi ư?”
“Phật nói, yêu người đời. Nhưng không yêu được đến 1 người thì làm sao yêu được người đời?” Thiện Tai đứng sau lưng y, đi theo y suốt một đường lên đến đây, khi nói ra những lời ấy nét mặt thản nhiên, chẳng có cảm giác gì. “Người sống trên đời, đều là khổ hạnh. Sống một ngày là có kiếp nạn một ngày, là tu hành một ngày. Ta sinh ra là kẻ mang tội lỗi, nửa cuộc đời toàn đối địch với chính bản thân, trước kia đã vậy, mai này cũng thế. Nhưng ngươi thì không phải thế.”
“Ta không phải thế?”
Thẩm Độc nghe hắn nói nửa cuộc đời toàn đối địch với chính bản thân, bỗng chốc không thể miêu tả cảm giác trong lòng, rồi lại nghĩ tới chính mình, cuối cùng không dám hỏi đối địch là sao, nên chỉ hỏi một câu vừa rồi.
Thiện Tai bèn đáp lời y: “Ngươi là điều duy nhất ta nghe theo tiếng gọi con tim mình.”
Thẩm Độc lại im lặng, hồi lâu mới nói: “Ngươi đã rời khỏi thiền viện, phản bội Phật Tổ ư?”
“Trên đời không có Phật, chỉ có một chữ “Thiện” mà thôi.” Thiện Tai nở nụ cười, cất bước vào đại điện, tăng bào trắng muốt sạch sẽ như tuyết đọng vườn đào giữa cảnh chùa trên núi, Thẩm Độc nghe thấy giọng nói bình thản của hắn. “Tâm này là Phật, tâm ta là tâm Phật.”
…..
Đứng ngay trước mặt Phật tổ nói trên đời không có Phật.
Đứng ngay trước mặt Phật tổ nói tâm ta là tâm Phật.
Thẩm Độc bỗng không thể miêu tả nổi cảm giác trong lòng mình lúc này, chỉ cảm thấy bóng dáng trắng muốt đã khắc sâu vào tim, có lẽ đến kiếp sau y cũng không tài nào quên nổi.
Y xòe tay ra, mạch máu mờ mờ trong lòng bàn tay đã dần biến thành màu tím đen. Trong cuống họng dâng lên mùi máu tanh ngọt, bị y vận lực Lục Hợp Thần Quyết đè xuống, đứng ngoài điện một lát, thấy mọi giác quan quay về cơ thể rồi mới chậm rãi cất bước theo hòa thượng vào điện.
Họ khấn Phật, dạo chơi quanh chùa, ngắm nghía hoa đào, rồi ngồi nghỉ trong một cái đình ở sườn núi, Thẩm Độc dựa lan can nhìn xa xăm, ngắm non sông gấm vóc bốn bề, Thiện Tai thì mượn một con dao cong của hòa thượng trong chùa, bắt đầu tạc thanh gỗ mục làm đàn.
Đến lúc xế chiều thế mà tạc ra dáng phết.
Lột từng lớp từng lớp dác gỗ bị mục ra, bên trong cất giấu lõi gỗ thượng hạng, gõ vào vang lên tiếng kêu lanh lảnh, nét đẽo cứng cỏi mà ra dáng, dây đàn căng trên trục, tuy rằng thô sơ nhưng cũng là một cây đàn hàng thật giá thật.
Nếu để người khác nhìn thấy, biết hết quá trình chế tác, sợ rằng phải khen Thiện Tai một câu “Mắt sáng như đuốc, nhìn thấu bản chất”, có thể phát hiện ra bên trong một thanh gỗ mục ẩn giấu gỗ tốt làm được thành đàn.
Nhưng Thẩm Độc nhìn, chỉ nhìn thật lâu.
Nhìn cây đàn thô sơ, nhìn ngón tay Thiện Tai điều chỉnh dây đàn, không hiểu sao bật cười, hỏi: “Gỗ mục làm đàn, nhưng bản chất vốn kém, đánh ra thánh âm kiểu gì?”
Thiện Tai quay đầu nhìn y, lúc này mặt trời đã ngả về Tây, ánh hoàng hôn phủ lên người Thẩm Độc và cả sau lưng y, khiến gương mặt y lờ mờ nhạt nhòa nhìn không rõ lắm.
Nhưng cần gì phải dùng mắt thường để nhìn? Hắn thu hồi tầm mắt, ngón tay thon dài đặt trên cây huyền cầm, lấy tiếng đàn ngân nga thay cho câu trả lời.
Âm sắc thực sự không phải đỉnh nhất.
Nhưng làn điệu khoan thai cất lên, dần dần từ một hai hợp âm đơn điệu kết nối với nhau, mang đến cho người ta cảm giác mới mẻ.
Rõ ràng rất đơn giản, mộc mạc, nhưng rất mực động lòng.
Thẩm Đọc lắng nghe, chậm rãi ngồi xuống bên cạnh dựa vào hòa thượng, ngửa đầu nhìn bầu trời vô tận và núi rừng thấp thoáng bóng chim.
Y là ma đầu, nghe không hiểu tiếng đàn của thánh nhân.
Thế là nhớ ra một điển cố mình từng đọc, nói đùa: “Thiện Tai, nga nga hề nhược Thái Sơn; Thiện Tai, dương dương hề nhược giang hà. Thiện Tai, Thiện Tai….”
(*) Bá Nha có tài gảy đàn, Tử Kỳ có tài thưởng thức. Khi Bá Nha gảy đến đoạn miêu tả núi cao, nước chảy thì Tử Kỳ thốt lên: ‘Tuyệt! Tuyệt! nga nga hề nhược Thái Sơn, dương dương hề nhược giang hà (Vời vợi như Thái Sơn, mênh mông như sông chảy)
Thiện Tai biết y đang nói đến Cao Sơn Lưu Thủy, biết y lấy hai chữ “Thiện Tai” trong câu thơ ra làm trò đùa, nhưng không phản ứng gì nhiều chỉ cười đánh đàn, mặc kệ y ngả vào người mình như không xương.
(*) Thiện Tai (善哉) = Tuyệt (善哉)
Thẩm Độc chớp chớp mắt, thấy hơi buồn ngủ.
Nhưng y vẫn nói tiếp: “Hòa thượng, không phải gỗ mục có thể tạc ra đàn, mà nhờ đôi bàn tay tuyệt diệu của ngươi mới có thể hóa mục nát thành thần kì, ngay đến gỗ mục cũng thành thánh âm.”
Thiện Tai đánh đàn không nói gì, Thẩm Độc thì nổi hứng tán dóc.
Y ngửa đầu nhìn bầu trời, lảm nhảm, còn bắt hòa thượng phải đáp lời.
“Cây đàn này đặt tên là Thẩm Độc nhé?”
“Ừ.”
“Mấy ngày nay ta luôn suy nghĩ, ta là một kẻ độc ác, làm rất nhiều chuyện sai trái. Nếu ta gặp ngươi sớm hơn thật nhiều năm, ta sẽ ra sao, sẽ làm những gì. Nhưng tưởng tượng rồi chợt nhận ra mình tham lam quá. Gặp được nhau đã là may mắn, huống gì ngươi cũng thích ta đúng không?”
“Thích.”
“Hòa thượng, trước khi ta chết, ngươi đừng đi, được không?”
“….Được”
“Không lừa ta đấy chứ?”
“Không lừa ngươi.”
Ánh nắng chiều đỏ mọng, lặng lẽ nấp sau dãy núi.
Ngôi chùa trên núi vang tiếng chuông chiều.
Tiếng đàn du dương hòa vào dư âm vang dội của tiếng chuông, có lúc nghe đơn sơ và thản nhiên, có lúc nghe như tiếng thở dài quẩn quanh giữa núi rừng bát ngát bao la.
Danh sách chương