Mùa thu năm 1945 ở Huế, đất trời xám xịt, mưa phùn kéo dài. Nước mưa rả rích trên những tấm ngói men trên mái lầu Ngũ phụng ở cửa Ngọ môn. Cả khu vực Đại nội hoang vắng ẩm ướt. Điện Kiến Trung, nơi ở trước đây của vua và Hoàng hậu vẫn cửa đóng then cài.
Không ai cướp phá, mọi thứ y nguyên. Song quang cảnh trống trải trong khu vực bốn kilômét vuông này trước đây cũng đã buồn tẻ hiu hắt. Hàng ngàn con rồng bằng sứ nằm rải rác trên các mái nhà, những rãnh máng, trong những khu vườn như ngẩn ngơ luyến tiếc chủ cũ thời quân chủ. Riêng chỉ còn lại một pháo đài án ngữ cửa bắc của toà thành là còn sống động. Dân địa phương quen gọi pháo đài này là đồn Mang Cá, nơi đóng quân của lực lượng bảo vệ kinh đô Huế trước đây.
Sau ngày đảo chính 9 tháng 3, nơi đây trở thành nơi giam giữ quân nhân Pháp trong những căn buồng chật hẹp hôi hám. Nhật Bản dã đầu hàng. Một triều đại đã kết thúc. Việt Minh đã nắm chính quyền toàn quốc nhưng số phận quân nhân Pháp bị giam giữ không hề hay đổi. Những người lính Pháp khốn khổ thoát chết khỏi những hành động tàn bạo của Nhật lo sợ sẽ phải chịu sự trừng phạt của Việt Minh, những người đã bị hành hạ đoạ đày dưới chế độ thực dân. Không có chuyện họ được trả tự do trước khi người Pháp trở lại xứ này. Quân Nhật dù bại trận nhưng vẫn được Đồng Minh giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh khu vực đóng quân, kể cả việc tiếp tục canh giữ tù binh Pháp. Chính phủ Việt Minh lên tiếng phản đối việc trả tự do cho đám tù binh Pháp này. Trong những ngày tháng 8 năm 1945, Pháp đã không đủ binh lực tiến vào Đông Dương để giải thoát tù binh và ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền, nhưng từ bên ngoài họ ráo riết chuẩn bị tiến hành một công việc phi thường. Dù còn yếu kém, dù người Mỹ công khai phản đối việc lập lại chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương, Pháp sẽ tìm cách đưa quân trở lại ở miền Nam quân Pháp theo chân quân Anh vào giải giáp quân Nhật và sau đó, với sự thoả thuận của Việt Minh, tiến ra Bắc, thay thế quân Trung Hoa làm nhiệm vụ tiếp phòng miền bắc Đông Dương. Một năm (1946) đánh dấu bằng những cuộc chém giết ở miền Nam, khiêu khích, quấy rối ở miền Bắc, những cuộc đình chiến ngắn ngủi, những cố gắng hoà giải để rồi kết thúc bằng một cuộc chiến tranh thực sự giữa toàn bộ binh lực hai bên Việt Nam và Pháp.
Tháng 9 năm 1945, những người lính Pháp đầu tiên núp sau quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn. Người Anh, không giống người Mỹ, tận tình giúp đỡ quân của tướng Leclerc đè bẹp sức kháng cự của Việt Minh, nhanh chóng lập lại nền thống trị trên phần lớn các thành phố, thị trấn và vùng nông thôn miền Nam.
Ban đầu, mọi sự diễn ra thuận lợi tuyệt vời. Ở Sài Gòn, người Anh buộc lực lượng cách mạng phải trả giá đắt. Còn ở nông thôn, chính quân Nhật lại giúp Pháp đánh bại Việt Minh. Với sự ủng hộ “hữu hảo” của quân Anh, tướng Pháp Massu có thể quét sạch các đơn vị Việt Minh, đánh bật họ ra khỏi Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân đội tướng Leclerc phải thay đổi cách đánh không giống những trận đánh bên sông Rhin. Ở đồng bằng Cửu Long du kích Việt Minh không có súng ống phải đánh địch bằng cung tên…
Tháng 11 tình hình bắt đầu gay go. Dân quân du kích bám đất, bám dân ra sức ngăn chặn bước tiến của quân Pháp. Những bộ phận của sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa, thêm một lữ đoàn đến từ Madagascar được tung vào cuộc chiến. Đó là một đội quân chắp vá, nhặt nhạnh gần như lén lút, đúng lúc chiến tranh vừa kết thúc nên không phải dự các trận đánh cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai. Vũ khí của họ táp nham đủ loại từ nhiều nguồn Anh và Mỹ, mua lại ở các kho dự trữ không dùng đến, rải rác khắp châu Á. Đó là những siêu thị quái gở chuyên bán lậu vũ khí, ở đó họ phải mưu mẹo lắm mới mua được, vượt qua các quân lệnh và cấm đoán. Người Mỹ tỏ thái độ ngập ngừng khi phải bán súng đạn dùng vào việc duy trì hoặc lập lại chế độ thuộc địa. Ở Ceylan, công nhân bốc vác báo cho lãnh sự Pháp biết họ sẽ không xếp hàng xuống những tàu đi Sài Gòn nếu đó là những hàng phục vụ cuộc chiến tranh chống người da vàng(1).
Mục tiêu cuối cùng là phải chiếm lại Hà Nội và toàn bộ bờ biển Đông. Như vậy cần có xuồng đổ bộ. Người ta mua được của người Anh ở Singapore. Còn máy bay, chỉ có hai chiếc Dakota thừa của Mỹ, chúng được tháo rời, gửi từng bộ phận theo đường dân sự. Lại còn phải hứa bừa rằng hai chiếc máy bay đó sẽ không dùng để chiến đấu. May mắn là vẫn người Anh, bán lại những chiếc Spitfire, đóng hòm từ London cùng với mười sáu Dakota khác, mười hai Junker cũ và ba thuỷ phi cơ Catalina.
Đầu tháng 3 năm 1946, lợi dụng thời cơ hoà hoãn do hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng Ba ký giữa Sainteny và Hồ Chí Minh, trung tá Crèvecoeur chuẩn bị đưa quân vào Huế. Tưởng như hoà bình sẽ đến gần khi hai bên ký những văn kiện thừa nhận Cộng hoà Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện và tài chính riêng. Ngược lại, quân Pháp được phép tiến ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa, đóng quân ở một số vị trí then chốt bên cạnh lực lượng tiếp phòng Việt Nam. Việc ký kết hiệp định Sainteny-Hồ Chí Minh quả là tạo thuận lợi cho việc Pháp tái chiếm miền Bắc.
Nếu không thế, việc quân Pháp tiến về Huế không thể dễ dàng mau chóng đến thế. Crèvecoeur, không đủ quân số người Âu, phải lấy du kích người thiểu số Mẹo ở Lào bổ sung. Còn một âm mưu thâm độc khác: người Mẹo vốn thâm thù người Việt từ xa xưa. Quân Pháp vượt biên giới Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam ở vùng núi phía tây Trung Bộ, vừa đi vừa đánh. Những cuộc chạm súng dữ dội nhưng ngắn ngủi, với liên quân Lào-Việt. Sau khi chiếm được Tchépone, họ dừng lại ở Lao Bảo, một cái đèo trên đỉnh Trường Sơn.
Một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Gọi các cuộc giao chiến ấy là gì, giữa một bên là quân Pháp từ ngoài vào đánh nhau với những người cách mạng, những người chỉ một mực bảo vệ chính phủ đang nắm quyền ở Hà Nội. Một cuộc chiến tranh không tuyên bố, giấu mặt, đáng xấu hổ.
Còn những người Pháp đang mắc kẹt ở Huế. Trên báo chí chính quốc, không ai nói đến họ. Vài trăm thường dân đang sống trong cảnh sợ hãi lo âu, bị lịch sử bỏ quên.
Trong các trận giao chiến đầu tiên ấy, quân của trung tá Crèvecoeur đã chạm trán với quân của Lê Văn Sửu tư lệnh quân khu 4 gồm tất cả các tỉnh miền trung Trung Bộ đến vĩ tuyến 16.
Ở Tchépone cuộc đụng độ xảy ra ác liệt nhất. Liên quân Lào – Việt gồm ba trăm hai mươi bảy tay súng.
Quân số chênh lệch quá. Sau đó là các trận đánh lẻ tẻ trên đường Khe Sanh, con đường vắng vẻ không người qua lại ngoài vài trạm kiểm soát hay tiếp tế, hơn hai mươi năm sau trở nên nổi tiếng một cách đáng buồn đối với người Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai mà Washington gọi là cuộc chiến tranh của người Mỹ còn Hà Nội gọi là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Việc phá cầu theo dự tính không thực hiện được. Bê tông rắn quá. Những viên đạn lõm, những gói bộc phá đã không làm sập được mố cầu. Thế là quân của Crèvecoeur vượt sông, qua cầu nhanh chóng không gặp một sự kháng cự quan trọng nào. Tuy nhiên trung tá thấy lệnh của Hồ Chí Minh được niêm yết ở khắp vùng quê, dọc đường tiến quân. Quân đội Pháp phát hiện ra bảy xác chết bị chặt đầu, chắc là của lính đào ngũ hoặc các tên tay sai phản động bị Việt Minh trừng trị. Trong một báo cáo tình báo ngày 30 tháng 3 năm 1946, Crèvecoeur viết: “Ảnh hưởng của chính phủ Hà Nội là không thể bàn cãi “(2).
Tại Huế, học sinh trường quân sự Trung Bộ, nữ thanh niên, hướng đạo sinh, thanh niên công giáo gửi thư cho các chiến sĩ ở mặt trận động viên họ giữ vững tinh thần kháng chiến cho đến khi đánh thắng kẻ thù Pháp.
Người chỉ huy mạng lưới tình báo Ban Hành động (Service Action) của người Pháp ở Đông Dương thuộc phái De Gaulle, tự hỏi: “Có thể kết luận như thế nào? Sau khi hiệp định mồng 6 tháng 3 được công bố, nhiều cuộc mít tinh biểu tình được tổ chức đây đó, phản ánh một tâm trạng hài lòng nào đấy, thấy cuộc chiến đấu chấm dứt, nhưng người ta không muốn thú nhận, bộc lộ một ý muốn rất đặc trưng của người Việt là không mất mặt, lại có vẻ chiến thắng, thể hiện trên các khẩu biệu được nhắc lại nhiều lần không mảy may thay đổi: “Độc lập! Đánh đuổi thực dân Pháp” (3)v.v…
Bất kể như thế nào, ngày 29 tháng 3 khi quân Pháp mang cờ tam tài, hoà bình tiến vào cố đô Huế, số thường dân Pháp lâu nay sống quản thúc trong khu biệt cư cảm thấy nhẹ nhõm yên tâm sau một thời gian dài chờ đợi. Tờ báo Paris – Sài Gòn mô tả: “Lúc đó là mười sáu giờ ba mươi ngày 29 tháng ba. Các đơn vị quân Pháp đột nhiên xuất hiện. Trung tá Crèvecoeur đầu đội mũ nồi xanh của đơn vị Commando, đứng thẳng trên xe Jeep, qua cầu Trường Tiền đi đầu đoàn quân tiến vào thành phố. Tiếng hoan hô vang dậy không dứt. Liên tục trong nửa giờ, chỉ trừ mấy phút gián đoạn do có đội lính tuần tra Trung Quốc đi ngang qua, diễu hành trước mặt chỉ huy các xe Dodge, GMC, xe ba bánh lắp liên thanh tự động của đơn vị biệt kích thiết giáp kị, lính quân xa, pháo binh, đầy bụi bặm, màu da rám nắng, nhưng nét mặt tươi tỉnh mãn nguyện tươi rói sung sướng. Paris? Đúng là quang cảnh giải phóng Paris được sống lại, không phải cho ba triệu dân chúng Paris mà ba nghìn người dân Pháp trong thành phố Huế, nhưng cũng là không khí ấy, niềm hân hoan ấy, cũng những thiếu nữ mặc áo mỏng, màu sáng ngồi trên xe Jeep, cũng những cái hôn ấy, những đám đông người lớn và trẻ em túm năm tụm ba, miệng nhai kẹo sôcôla Mỹ vây quanh những anh lính lái xe Jeep. Đoàn xe đã đi qua dòng người vẫn hò hét, hoan hô cười nói, ôm hôn nhau có cả tiếng khóc vì xúc động đến quá bất ngờ. Chỉ tiếc rằng ở Huế không có gì uống, ngoài nước lã.
Đoàn quân Pháp tiến vào Huế có vẻ hãnh diện, rất ấn tượng đối với Bảo Long. Cậu ta chú ý trước hết đến thân hình lực sĩ của các chỉ huy chiến xa, nhô người lên khỏi tháp pháo. Thật là những con người khổng lồ bên cạnh khổ người bé nhỏ của lính Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản.
Tờ Paris – Sài Gòn kết luận với đầu óc sáng suốt hơn: “Cái ngày quan trọng này đối với người Pháp ở Huế đánh dấu một thời đại đã chấm dứt, nó cụ thể hoá sự kết thúc chiển tranh vì từ sự đầu hàng của Nhật, số phận của họ không hề thay đổi, nhưng nó cũng nói lên một cái gì khác đã khép lại. Trong xứ Annam cổ xưa này mà người Pháp cam kết bảo hộ từ 1884, không thể quay về với quá khứ. Trước đây ở Huế người Pháp đã từng được tôn vinh, nhưng Huế bây giờ là thủ phủ của Trung Bộ, là nước Việt Nam tự do liên kết với Cộng hoà Pháp vì hoà bình và tiến bộ. Có thể cho phép tự xả hơi một ngày, nhưng chỉ một ngày thôi vì ngày nay những khó khăn đã bắt đầu xuất hiện, ở phía Pháp hay phía Việt cần có những người điềm tĩnh, thông minh có thiện chí. May thay, ở Pháp và ở Việt Nam vẫn có những con người như thế“.
Trái với không khí lạc quan được miêu tả trong các bài viết, thành phố Huế của người Việt không tham gia vào ngày hội. Không có tiếng hoan hô tiếng reo hò khi các đoàn quân xa tiến thận trọng qua ngoại ô. Đa số dân chúng người Việt ở cố đô không hoan nghênh gì đội quân vừa mới thành lập của nền Đệ tứ cộng hoà Pháp.
Ngay hoàng gia dù dị ứng với cách mạng cũng chẳng hoan nghênh họ đến đây. Các cô, các cậu con bà Nam Phương, những học trò ngoan dưới mái trường của nước Việt Nam độc lập, xem họ là những kẻ thù man rợ.
Sự có mặt của quân đội Pháp càng làm cho tình hình thêm lộn xộn. Từ nay, trong một thành phố có bốn thứ quân của bốn nước khác nhau: Việt Nam, Pháp, Trung Hoa, Nhật Bản đóng bên cạnh nhau. Lực lượng Nhật Bản, dù đã thất trận vẫn đông hơn cả. Sáu mươi ngàn lính Nhật đồn trú ở Trung Bộ và Bắc Bộ hồi đầu 1946.
Ở Huế, nơi sau này người ta gọi là “chảo lửa Việt Nam” tình hình căng thẳng hơn, ghi dấu bằng một số cuộc đụng độ nhất là về ban đêm.
Tình thế kỳ cục này, sự chung đụng của những lực lượng đối địch nhau, kéo dài nhiều tháng, lúc thì yên tĩnh lúc lại căng thẳng.
Người Pháp trong khu phố Tây ở Huế tin rằng họ đã tai qua nạn khỏi. Họ ăn ngon, ngủ yên không còn phải lo nơm nớp cho mạng sống của họ, yên chí chờ đợi sự sắp xếp của Toà Đại diện Cộng hoà Pháp tại Hà Nội để trở về chính quốc hay sang một thuộc địa khác. Nhưng chỉ là thời gian tạm nghỉ. chiến sự sẽ trở lại với mức độ ác liệt hơn. Vài tháng sau, quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng. Cuộc thương lượng hoà bình ở Đà Lạt rồi ở Fontainebleau không đạt kết quả.
Chú thích:
(1) Xem Leclerc et l’Indochine: 1945-1947, – Leclerc và Đông Dương 1945’1947, Quand se noua le destin d’un empire, Khi nào kết thúc vận mệnh của một đế quốc – Nhà xuất bản Albin Michel.
(2) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.
(3) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.
Không ai cướp phá, mọi thứ y nguyên. Song quang cảnh trống trải trong khu vực bốn kilômét vuông này trước đây cũng đã buồn tẻ hiu hắt. Hàng ngàn con rồng bằng sứ nằm rải rác trên các mái nhà, những rãnh máng, trong những khu vườn như ngẩn ngơ luyến tiếc chủ cũ thời quân chủ. Riêng chỉ còn lại một pháo đài án ngữ cửa bắc của toà thành là còn sống động. Dân địa phương quen gọi pháo đài này là đồn Mang Cá, nơi đóng quân của lực lượng bảo vệ kinh đô Huế trước đây.
Sau ngày đảo chính 9 tháng 3, nơi đây trở thành nơi giam giữ quân nhân Pháp trong những căn buồng chật hẹp hôi hám. Nhật Bản dã đầu hàng. Một triều đại đã kết thúc. Việt Minh đã nắm chính quyền toàn quốc nhưng số phận quân nhân Pháp bị giam giữ không hề hay đổi. Những người lính Pháp khốn khổ thoát chết khỏi những hành động tàn bạo của Nhật lo sợ sẽ phải chịu sự trừng phạt của Việt Minh, những người đã bị hành hạ đoạ đày dưới chế độ thực dân. Không có chuyện họ được trả tự do trước khi người Pháp trở lại xứ này. Quân Nhật dù bại trận nhưng vẫn được Đồng Minh giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh khu vực đóng quân, kể cả việc tiếp tục canh giữ tù binh Pháp. Chính phủ Việt Minh lên tiếng phản đối việc trả tự do cho đám tù binh Pháp này. Trong những ngày tháng 8 năm 1945, Pháp đã không đủ binh lực tiến vào Đông Dương để giải thoát tù binh và ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền, nhưng từ bên ngoài họ ráo riết chuẩn bị tiến hành một công việc phi thường. Dù còn yếu kém, dù người Mỹ công khai phản đối việc lập lại chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương, Pháp sẽ tìm cách đưa quân trở lại ở miền Nam quân Pháp theo chân quân Anh vào giải giáp quân Nhật và sau đó, với sự thoả thuận của Việt Minh, tiến ra Bắc, thay thế quân Trung Hoa làm nhiệm vụ tiếp phòng miền bắc Đông Dương. Một năm (1946) đánh dấu bằng những cuộc chém giết ở miền Nam, khiêu khích, quấy rối ở miền Bắc, những cuộc đình chiến ngắn ngủi, những cố gắng hoà giải để rồi kết thúc bằng một cuộc chiến tranh thực sự giữa toàn bộ binh lực hai bên Việt Nam và Pháp.
Tháng 9 năm 1945, những người lính Pháp đầu tiên núp sau quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn. Người Anh, không giống người Mỹ, tận tình giúp đỡ quân của tướng Leclerc đè bẹp sức kháng cự của Việt Minh, nhanh chóng lập lại nền thống trị trên phần lớn các thành phố, thị trấn và vùng nông thôn miền Nam.
Ban đầu, mọi sự diễn ra thuận lợi tuyệt vời. Ở Sài Gòn, người Anh buộc lực lượng cách mạng phải trả giá đắt. Còn ở nông thôn, chính quân Nhật lại giúp Pháp đánh bại Việt Minh. Với sự ủng hộ “hữu hảo” của quân Anh, tướng Pháp Massu có thể quét sạch các đơn vị Việt Minh, đánh bật họ ra khỏi Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân đội tướng Leclerc phải thay đổi cách đánh không giống những trận đánh bên sông Rhin. Ở đồng bằng Cửu Long du kích Việt Minh không có súng ống phải đánh địch bằng cung tên…
Tháng 11 tình hình bắt đầu gay go. Dân quân du kích bám đất, bám dân ra sức ngăn chặn bước tiến của quân Pháp. Những bộ phận của sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa, thêm một lữ đoàn đến từ Madagascar được tung vào cuộc chiến. Đó là một đội quân chắp vá, nhặt nhạnh gần như lén lút, đúng lúc chiến tranh vừa kết thúc nên không phải dự các trận đánh cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai. Vũ khí của họ táp nham đủ loại từ nhiều nguồn Anh và Mỹ, mua lại ở các kho dự trữ không dùng đến, rải rác khắp châu Á. Đó là những siêu thị quái gở chuyên bán lậu vũ khí, ở đó họ phải mưu mẹo lắm mới mua được, vượt qua các quân lệnh và cấm đoán. Người Mỹ tỏ thái độ ngập ngừng khi phải bán súng đạn dùng vào việc duy trì hoặc lập lại chế độ thuộc địa. Ở Ceylan, công nhân bốc vác báo cho lãnh sự Pháp biết họ sẽ không xếp hàng xuống những tàu đi Sài Gòn nếu đó là những hàng phục vụ cuộc chiến tranh chống người da vàng(1).
Mục tiêu cuối cùng là phải chiếm lại Hà Nội và toàn bộ bờ biển Đông. Như vậy cần có xuồng đổ bộ. Người ta mua được của người Anh ở Singapore. Còn máy bay, chỉ có hai chiếc Dakota thừa của Mỹ, chúng được tháo rời, gửi từng bộ phận theo đường dân sự. Lại còn phải hứa bừa rằng hai chiếc máy bay đó sẽ không dùng để chiến đấu. May mắn là vẫn người Anh, bán lại những chiếc Spitfire, đóng hòm từ London cùng với mười sáu Dakota khác, mười hai Junker cũ và ba thuỷ phi cơ Catalina.
Đầu tháng 3 năm 1946, lợi dụng thời cơ hoà hoãn do hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng Ba ký giữa Sainteny và Hồ Chí Minh, trung tá Crèvecoeur chuẩn bị đưa quân vào Huế. Tưởng như hoà bình sẽ đến gần khi hai bên ký những văn kiện thừa nhận Cộng hoà Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện và tài chính riêng. Ngược lại, quân Pháp được phép tiến ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa, đóng quân ở một số vị trí then chốt bên cạnh lực lượng tiếp phòng Việt Nam. Việc ký kết hiệp định Sainteny-Hồ Chí Minh quả là tạo thuận lợi cho việc Pháp tái chiếm miền Bắc.
Nếu không thế, việc quân Pháp tiến về Huế không thể dễ dàng mau chóng đến thế. Crèvecoeur, không đủ quân số người Âu, phải lấy du kích người thiểu số Mẹo ở Lào bổ sung. Còn một âm mưu thâm độc khác: người Mẹo vốn thâm thù người Việt từ xa xưa. Quân Pháp vượt biên giới Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam ở vùng núi phía tây Trung Bộ, vừa đi vừa đánh. Những cuộc chạm súng dữ dội nhưng ngắn ngủi, với liên quân Lào-Việt. Sau khi chiếm được Tchépone, họ dừng lại ở Lao Bảo, một cái đèo trên đỉnh Trường Sơn.
Một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Gọi các cuộc giao chiến ấy là gì, giữa một bên là quân Pháp từ ngoài vào đánh nhau với những người cách mạng, những người chỉ một mực bảo vệ chính phủ đang nắm quyền ở Hà Nội. Một cuộc chiến tranh không tuyên bố, giấu mặt, đáng xấu hổ.
Còn những người Pháp đang mắc kẹt ở Huế. Trên báo chí chính quốc, không ai nói đến họ. Vài trăm thường dân đang sống trong cảnh sợ hãi lo âu, bị lịch sử bỏ quên.
Trong các trận giao chiến đầu tiên ấy, quân của trung tá Crèvecoeur đã chạm trán với quân của Lê Văn Sửu tư lệnh quân khu 4 gồm tất cả các tỉnh miền trung Trung Bộ đến vĩ tuyến 16.
Ở Tchépone cuộc đụng độ xảy ra ác liệt nhất. Liên quân Lào – Việt gồm ba trăm hai mươi bảy tay súng.
Quân số chênh lệch quá. Sau đó là các trận đánh lẻ tẻ trên đường Khe Sanh, con đường vắng vẻ không người qua lại ngoài vài trạm kiểm soát hay tiếp tế, hơn hai mươi năm sau trở nên nổi tiếng một cách đáng buồn đối với người Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai mà Washington gọi là cuộc chiến tranh của người Mỹ còn Hà Nội gọi là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Việc phá cầu theo dự tính không thực hiện được. Bê tông rắn quá. Những viên đạn lõm, những gói bộc phá đã không làm sập được mố cầu. Thế là quân của Crèvecoeur vượt sông, qua cầu nhanh chóng không gặp một sự kháng cự quan trọng nào. Tuy nhiên trung tá thấy lệnh của Hồ Chí Minh được niêm yết ở khắp vùng quê, dọc đường tiến quân. Quân đội Pháp phát hiện ra bảy xác chết bị chặt đầu, chắc là của lính đào ngũ hoặc các tên tay sai phản động bị Việt Minh trừng trị. Trong một báo cáo tình báo ngày 30 tháng 3 năm 1946, Crèvecoeur viết: “Ảnh hưởng của chính phủ Hà Nội là không thể bàn cãi “(2).
Tại Huế, học sinh trường quân sự Trung Bộ, nữ thanh niên, hướng đạo sinh, thanh niên công giáo gửi thư cho các chiến sĩ ở mặt trận động viên họ giữ vững tinh thần kháng chiến cho đến khi đánh thắng kẻ thù Pháp.
Người chỉ huy mạng lưới tình báo Ban Hành động (Service Action) của người Pháp ở Đông Dương thuộc phái De Gaulle, tự hỏi: “Có thể kết luận như thế nào? Sau khi hiệp định mồng 6 tháng 3 được công bố, nhiều cuộc mít tinh biểu tình được tổ chức đây đó, phản ánh một tâm trạng hài lòng nào đấy, thấy cuộc chiến đấu chấm dứt, nhưng người ta không muốn thú nhận, bộc lộ một ý muốn rất đặc trưng của người Việt là không mất mặt, lại có vẻ chiến thắng, thể hiện trên các khẩu biệu được nhắc lại nhiều lần không mảy may thay đổi: “Độc lập! Đánh đuổi thực dân Pháp” (3)v.v…
Bất kể như thế nào, ngày 29 tháng 3 khi quân Pháp mang cờ tam tài, hoà bình tiến vào cố đô Huế, số thường dân Pháp lâu nay sống quản thúc trong khu biệt cư cảm thấy nhẹ nhõm yên tâm sau một thời gian dài chờ đợi. Tờ báo Paris – Sài Gòn mô tả: “Lúc đó là mười sáu giờ ba mươi ngày 29 tháng ba. Các đơn vị quân Pháp đột nhiên xuất hiện. Trung tá Crèvecoeur đầu đội mũ nồi xanh của đơn vị Commando, đứng thẳng trên xe Jeep, qua cầu Trường Tiền đi đầu đoàn quân tiến vào thành phố. Tiếng hoan hô vang dậy không dứt. Liên tục trong nửa giờ, chỉ trừ mấy phút gián đoạn do có đội lính tuần tra Trung Quốc đi ngang qua, diễu hành trước mặt chỉ huy các xe Dodge, GMC, xe ba bánh lắp liên thanh tự động của đơn vị biệt kích thiết giáp kị, lính quân xa, pháo binh, đầy bụi bặm, màu da rám nắng, nhưng nét mặt tươi tỉnh mãn nguyện tươi rói sung sướng. Paris? Đúng là quang cảnh giải phóng Paris được sống lại, không phải cho ba triệu dân chúng Paris mà ba nghìn người dân Pháp trong thành phố Huế, nhưng cũng là không khí ấy, niềm hân hoan ấy, cũng những thiếu nữ mặc áo mỏng, màu sáng ngồi trên xe Jeep, cũng những cái hôn ấy, những đám đông người lớn và trẻ em túm năm tụm ba, miệng nhai kẹo sôcôla Mỹ vây quanh những anh lính lái xe Jeep. Đoàn xe đã đi qua dòng người vẫn hò hét, hoan hô cười nói, ôm hôn nhau có cả tiếng khóc vì xúc động đến quá bất ngờ. Chỉ tiếc rằng ở Huế không có gì uống, ngoài nước lã.
Đoàn quân Pháp tiến vào Huế có vẻ hãnh diện, rất ấn tượng đối với Bảo Long. Cậu ta chú ý trước hết đến thân hình lực sĩ của các chỉ huy chiến xa, nhô người lên khỏi tháp pháo. Thật là những con người khổng lồ bên cạnh khổ người bé nhỏ của lính Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản.
Tờ Paris – Sài Gòn kết luận với đầu óc sáng suốt hơn: “Cái ngày quan trọng này đối với người Pháp ở Huế đánh dấu một thời đại đã chấm dứt, nó cụ thể hoá sự kết thúc chiển tranh vì từ sự đầu hàng của Nhật, số phận của họ không hề thay đổi, nhưng nó cũng nói lên một cái gì khác đã khép lại. Trong xứ Annam cổ xưa này mà người Pháp cam kết bảo hộ từ 1884, không thể quay về với quá khứ. Trước đây ở Huế người Pháp đã từng được tôn vinh, nhưng Huế bây giờ là thủ phủ của Trung Bộ, là nước Việt Nam tự do liên kết với Cộng hoà Pháp vì hoà bình và tiến bộ. Có thể cho phép tự xả hơi một ngày, nhưng chỉ một ngày thôi vì ngày nay những khó khăn đã bắt đầu xuất hiện, ở phía Pháp hay phía Việt cần có những người điềm tĩnh, thông minh có thiện chí. May thay, ở Pháp và ở Việt Nam vẫn có những con người như thế“.
Trái với không khí lạc quan được miêu tả trong các bài viết, thành phố Huế của người Việt không tham gia vào ngày hội. Không có tiếng hoan hô tiếng reo hò khi các đoàn quân xa tiến thận trọng qua ngoại ô. Đa số dân chúng người Việt ở cố đô không hoan nghênh gì đội quân vừa mới thành lập của nền Đệ tứ cộng hoà Pháp.
Ngay hoàng gia dù dị ứng với cách mạng cũng chẳng hoan nghênh họ đến đây. Các cô, các cậu con bà Nam Phương, những học trò ngoan dưới mái trường của nước Việt Nam độc lập, xem họ là những kẻ thù man rợ.
Sự có mặt của quân đội Pháp càng làm cho tình hình thêm lộn xộn. Từ nay, trong một thành phố có bốn thứ quân của bốn nước khác nhau: Việt Nam, Pháp, Trung Hoa, Nhật Bản đóng bên cạnh nhau. Lực lượng Nhật Bản, dù đã thất trận vẫn đông hơn cả. Sáu mươi ngàn lính Nhật đồn trú ở Trung Bộ và Bắc Bộ hồi đầu 1946.
Ở Huế, nơi sau này người ta gọi là “chảo lửa Việt Nam” tình hình căng thẳng hơn, ghi dấu bằng một số cuộc đụng độ nhất là về ban đêm.
Tình thế kỳ cục này, sự chung đụng của những lực lượng đối địch nhau, kéo dài nhiều tháng, lúc thì yên tĩnh lúc lại căng thẳng.
Người Pháp trong khu phố Tây ở Huế tin rằng họ đã tai qua nạn khỏi. Họ ăn ngon, ngủ yên không còn phải lo nơm nớp cho mạng sống của họ, yên chí chờ đợi sự sắp xếp của Toà Đại diện Cộng hoà Pháp tại Hà Nội để trở về chính quốc hay sang một thuộc địa khác. Nhưng chỉ là thời gian tạm nghỉ. chiến sự sẽ trở lại với mức độ ác liệt hơn. Vài tháng sau, quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng. Cuộc thương lượng hoà bình ở Đà Lạt rồi ở Fontainebleau không đạt kết quả.
Chú thích:
(1) Xem Leclerc et l’Indochine: 1945-1947, – Leclerc và Đông Dương 1945’1947, Quand se noua le destin d’un empire, Khi nào kết thúc vận mệnh của một đế quốc – Nhà xuất bản Albin Michel.
(2) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.
(3) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.
Danh sách chương