Robert Langdon áp chặt điện thoại di động vào tai và bồn chồn đi đi lại lại trong Sảnh Tượng đài.
- Anh là thằng quái nào vậy? Gã đàn ông bình tĩnh trả lời bằng giọng thầm thì mượt như nhung.
- Đừng cuống thế, Giáo sư. Ngài được triệu tới đây vì một lý do.
- Triệu tới ư? - Langdon cảm thấy mình như con thú bị nhốt - Anh định bắt cóc tôi chăng?
- Không hề - Giọng gã kia thản nhiên - Nếu tôi chủ tâm làm hại thì ngài đã chết ngay trong chiếc Town Car rồi - Gã bỏ lửng câu nói một lúc.
- Ý định của tôi hoàn toàn cao quý, tôi khẳng định như vậy. Đây chỉ đơn giản một lời mời.
Thôi xin kiếu!
Sau những trải nghiệm tại châu Âu trong mấy năm vừa qua, sự nổi tiếng không hề mong muốn của Langdon khiến anh trở thành một khối nam châm với những kẻ điên rồ, nhưng gã này đã đi quá giới hạn cho phép.
- Xem nào, tôi không biết chuyện quái gì đang diễn ra ở đây, nhưng tôi sẽ tắt máy…
- Đừng dại dột thế? - gã kia nói - Cơ hội cho ngài cứu rỗi linh hồn Peter Solomon không có nhiều đâu.
Langdon hít một hơi lạnh buốt.
- Anh nói gì?
- Tôi chắc là ngài nghe rõ lời tôi.
Nghe cách gã nọ nhắc đến Peter, Langdon thấy bình tĩnh lại.
- Anh biết gì về Peter nào?
- Tôi biết những bí mật sâu kín nhất của ông ta. Ngài Solomon là khách của tôi, và tôi có thể là một chủ nhà đầy sức thuyết phục.
Không thể như thế được.
- Peter không hề ở chỗ anh.
- Tôi trả lời điện thoại di động riêng của ông ta. Như thế là đủ rồi chứ gì?
- Tôi sẽ gọi cho cảnh sát.
- Không cần đâu, - gã kia đáp - Các nhà chức trách sẽ đến với ngài ngay thôi.
Gã điên này đang nói về chuyện gì không biết
Langdon đanh giọng.
- Nếu Peter ở chỗ anh, hãy để ông ấy nghe máy đi.
- Không được. Ngài Solomon bị kẹt ở một nơi không hay ho lắm - Gã kia ngừng lại - ông ta đang ở Araf 1.
- Ở đâu?- Langdon nhận ra mình đang siết chặt điện thoại đến nỗi tê cứng cả mấy ngón tay.
- Araf? Hamistagan 2? Cái nơi Dante 3 dâng hiến thần khúc ngay sau trường đoạn Hoả ngục huyền thoại của ông ấy.
Những trích dẫn văn học và tôn giáo của gã đàn ông càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Langdon, rõ ràng anh đang phải đương đầu với một tên loạn trí. Thần khúc thứ hai. Langdon biết rất rõ tác phẩm ấy ai học ở Phillips Exeter cũng phải đọc Dante cả.
- Anh bảo rằng Peter Solomon đang… ở trong luyện ngục à?
- Một từ ngữ thô tục mà lũ Thiên Chúa giáo các người sử dụng, nhưng phải, ngài Solomon đang ở quãng giữa.
Lời nói của gã đàn ông ong ong trong tai Langdon.
- Ý anh là Peter đã… chết?
- Không, không hẳn.
- Không hẳn ư?! - Langdon thét lớn, giọng anh dội vang trong đại sảnh. Cả một nhóm du khách trố mắt nhìn anh. Langdon quay đi và hạ giọng:
- Chết là chết, sống là sống chứ!
- Ngài làm tôi ngạc nhiên đấy, thưa Giáo sư. Tôi cứ tưởng ngài hiểu biết sâu sắc hơn về những bí ẩn của sự sống và cái chết cơ. Có một thế giới trung chuyển, một thế giới Peter Solomon đang lang thang vào lúc này. Ông ta có thể quay trở lại thế giới của ngài, mà cũng có thể bước sang thế giới tiếp theo… tuỳ thuộc vào hành động của ngài hiện thời.
Langdon cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đằng sau câu nói ấy.
Vậy anh muốn gì ở tôi?
Rất đơn giản. Ngài đã được tiếp cận với một thứ rất cổ xưa, và tối nay, ngài sẽ chia sẻ nó với tôi.
- Tôi chẳng rõ anh đang nói chuyện gì.
- Không. Ngài giả vờ không hiểu những bí mật cổ xưa đã được gửi gắm cho ngài chăng?
Langdon bỗng thấy lòng trĩu nặng, cố gắng đoán xem câu chuyện định dẫn tới đâu. Những bí mật cổ xưa. Anh chưa hề hé một lời với bất kỳ ai về những trải nghiệm của mình hồi ở Paris, nhưng những kẻ cuồng tín Chén Thánh đã theo sát tin tức truyền thông, một số kẻ đoán già đoán non cho rằng Langdon hiện nắm giữ thông tin bí mật liên quan đến Chén Thánh, thậm chí cả nơi cất giấu nó.
- Xem nào, - Langdon nói - nếu chuyện này liên quan đến Chén Thánh thì tôi dám quả quyết với anh rằng tôi chẳng biết gì hơn…
- Đừng có xúc phạm trí thông minh của tôi, ông Langdon, - gã kia gắt lên - Tôi không quan tâm đến mấy thứ vớ vẩn như Chén Thánh hay cuộc tranh cãi ba lăng nhăng của loài người xem phiên bản lịch sử của ai đúng hơn ai. Tôi cũng không hứng thú với các luận điểm quẩn quanh về ngữ nghĩa của tín điều. Đó là loại câu hỏi chỉ được trả lời thông qua cái chết.
Những lời cay nghiệt ấy khiến Langdon bối rối.
- Thế chuyện quái này là gì vậy?
Gã kia nín lặng vài giây.
- Chắc ông cũng biết, ở Washington có một cánh cổng cổ xưa.
Một cánh cổng cổ xưa?
- Và tối nay, thưa Giáo sư, ông sẽ mở nó ra cho tôi. Ông phải lấy làm vinh hạnh vì tôi đã liên hệ với ông. Đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Chỉ riêng ông được lựa chọn mà thôi.
Mày đúng là thằng mất trí.
- Xin lỗi, nhưng anh chọn nhầm người. - Langdon từ chối - Tôi chẳng mảy may hay biết về bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào cả.
- Ông không hiểu rồi, thưa Giáo sư. Không phải là tôi chọn ông… mà là Peter Solomon.
- Sao cơ? - Langdon đáp, giọng chỉ như một tiếng thì thầm.
- Ngài Solomon chỉ cho tôi cách tìm cánh cổng, và tiết lộ rằng trên đời này chỉ có một người đủ khả năng mở nó ra. Người đó chính là ông.
- Nếu Peter nói vậy thì chắc ông ấy nhầm… hoặc nói dối.
- Tôi không nghĩ thế. Khi thú nhận sự thực, ông ta đang ở trong trạng thái rất yếu ớt, và tôi thiên về hướng tin lời ông ta.
Langdon cảm thấy tức điên lên.
- Tôi cảnh cáo anh, nếu anh làm hại Peter bằng bất kỳ…
- Lời cảnh cáo quá muộn mằn - gã kia đáp bằng giọng thích thú - Tôi đã khai thác được những gì mình cần từ Peter Solomon. Nhưng vì lợi ích của ông ta, tôi khuyên ông nên đưa cho tôi thứ tôi yêu cầu ở ông. Thời gian chẳng còn bao nhiêu đâu… đối với cả hai vị. Tôi khuyên ông hãy tìm cánh cổng và mở nó ra. Peter sẽ chỉ đường.
Peter?
- Nhưng anh vừa nói Peter đang ở "luyện ngục" kia mà.
- Thượng hạ tương liên 4 - gã kia đáp.
Langdon cảm thấy rùng mình. Câu trả lời lạ lùng này là một ngạn ngữ bí ẩn cổ xưa tuyên ngôn cho niềm tin vào sự liên kết vật lý giữa trời và đất. Thượng hạ tương liên. Langdon dõi mắt nhìn khắp căn phòng rộng lớn và tự hỏi làm thế nào mà tối nay mọi việc lại thay đổi đột ngột ngoài tầm kiểm soát như thế này.
- Chà, tôi không biết cách tìm bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào. Tôi sẽ gọi cảnh sát.
- Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à?
- Chưa, - Langdon trả lời.
- Sắp rồi, - gã kia đáp, cười khùng khục - Có khi ngay bây giờ đấy.
Sau đó máy tắt.
Langdon kinh hãi đứng đờ ra một lúc, cố gắng phân tích những gì vừa xảy ra.
Đột nhiên, anh nghe thấy một âm thanh bất ngờ từ xa vọng lại.
Chỗ Nhà tròn.
Ai đó đang gào thét.
--- ------ ------ ------ -------
1 Theo quan điểm Hồi giáo. Araf là vùng ranh giới giữa thiên đàng và địa ngục, dành cho những người không tốt không xấu. Araf cũng là một bức tường cao ngăn giữa thiên đàng và địa ngục. Trên bức tường này là những người thoát khỏi địa ngục nhưng chưa được tiếp nhận lên thiên đàng. Họ rất muốn được vào thiên đàng nhưng tội lỗi và đức hạnh của họ cân bằng nhau - ND.
2 Hamistagan là một khái niệm chỉ địa điểm tương tự như Araf - ND.
3 Dante Alighieri (1265-1321), một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất Italia và thế giới thời Trung cổ, tác giả trường ca Thần chức (La divina commedia). Tác phẩm này được sáng tác bằng tiếng Italia trong thời gian Dante bị trục xuất khỏi quê hương Florence, từ khoảng năm 1308 đến khi ông mất năm 1321, gồm 100 khổ thơ với 14.226 câu thơ, chia làm ba phần, mỗi phần bao gồm 33 khổ thơ: Hoả ngục (Infemo). Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso). Tác phẩm được xếp vào hàng những bản trường ca vĩ đại nhất của nền văn học thế giới. Trường ca kể lại cuộc du hành của Dante qua ba thế giới bên kia, diễn ra tại thời điểm Ba ngày lễ Phục sinh thiêng liêng mùa xuân năm 1300. Nhà thơ La Mã Virgil dẫn ông đi qua Hoả ngục và Luyện ngục; trong khi nàng Beatrice, người phụ nữ mà Dante coi là lý tưởng, dẫn ông qua Thiên đường. Beatrice là người phụ nữ thành Florence, người mà ông biết đến từ thời thơ ấu, và mang lòng ái mộ, theo hình mẫu tình yêu thuần khiết thời thượng truyền thống - ND.
4 Nguyên văn: As above, so below. Cụm từ này được dùng trong giới thần bí và yêu thuật và khởi nguồn từ các văn bản của phái thần bí chủ nghĩa. Khái niệm này được đặt ra đầu tiên trong The Emerald Tablet của Hermes Trismegistus, "That which is Below corresponds to that which is Above, anh that which is Above, corresponds to that which is Below, to accomplish the miracles of the One Thing" (Tạm dịch: Cái gì ở Dưới tương ứng với cái gì ở Trên, và cái gì ở Trên tương ứng với cái gì ở Dưới, để đạt tới những phép nhiệm màu của Nhất thể). Theo các cấp độ khác nhau của thực tại: vật chất, tâm thần và tinh thần, khái niệm này được hiểu rằng những gì xảy ra ở một cấp độ nào đó cũng sẽ xảy ra ở mọi cấp độ khác. Tuy nhiên, khái niệm này thường được dùng với thế giới vi mô và vĩ mô. Thế giới vi mô là cá thể còn thế giới vĩ mô là vũ trụ, cái này nằm trong cái kia, và nhờ hiểu một cái (thường là vi mô) mà ta có thể hiểu cái kia - ND.
- Anh là thằng quái nào vậy? Gã đàn ông bình tĩnh trả lời bằng giọng thầm thì mượt như nhung.
- Đừng cuống thế, Giáo sư. Ngài được triệu tới đây vì một lý do.
- Triệu tới ư? - Langdon cảm thấy mình như con thú bị nhốt - Anh định bắt cóc tôi chăng?
- Không hề - Giọng gã kia thản nhiên - Nếu tôi chủ tâm làm hại thì ngài đã chết ngay trong chiếc Town Car rồi - Gã bỏ lửng câu nói một lúc.
- Ý định của tôi hoàn toàn cao quý, tôi khẳng định như vậy. Đây chỉ đơn giản một lời mời.
Thôi xin kiếu!
Sau những trải nghiệm tại châu Âu trong mấy năm vừa qua, sự nổi tiếng không hề mong muốn của Langdon khiến anh trở thành một khối nam châm với những kẻ điên rồ, nhưng gã này đã đi quá giới hạn cho phép.
- Xem nào, tôi không biết chuyện quái gì đang diễn ra ở đây, nhưng tôi sẽ tắt máy…
- Đừng dại dột thế? - gã kia nói - Cơ hội cho ngài cứu rỗi linh hồn Peter Solomon không có nhiều đâu.
Langdon hít một hơi lạnh buốt.
- Anh nói gì?
- Tôi chắc là ngài nghe rõ lời tôi.
Nghe cách gã nọ nhắc đến Peter, Langdon thấy bình tĩnh lại.
- Anh biết gì về Peter nào?
- Tôi biết những bí mật sâu kín nhất của ông ta. Ngài Solomon là khách của tôi, và tôi có thể là một chủ nhà đầy sức thuyết phục.
Không thể như thế được.
- Peter không hề ở chỗ anh.
- Tôi trả lời điện thoại di động riêng của ông ta. Như thế là đủ rồi chứ gì?
- Tôi sẽ gọi cho cảnh sát.
- Không cần đâu, - gã kia đáp - Các nhà chức trách sẽ đến với ngài ngay thôi.
Gã điên này đang nói về chuyện gì không biết
Langdon đanh giọng.
- Nếu Peter ở chỗ anh, hãy để ông ấy nghe máy đi.
- Không được. Ngài Solomon bị kẹt ở một nơi không hay ho lắm - Gã kia ngừng lại - ông ta đang ở Araf 1.
- Ở đâu?- Langdon nhận ra mình đang siết chặt điện thoại đến nỗi tê cứng cả mấy ngón tay.
- Araf? Hamistagan 2? Cái nơi Dante 3 dâng hiến thần khúc ngay sau trường đoạn Hoả ngục huyền thoại của ông ấy.
Những trích dẫn văn học và tôn giáo của gã đàn ông càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Langdon, rõ ràng anh đang phải đương đầu với một tên loạn trí. Thần khúc thứ hai. Langdon biết rất rõ tác phẩm ấy ai học ở Phillips Exeter cũng phải đọc Dante cả.
- Anh bảo rằng Peter Solomon đang… ở trong luyện ngục à?
- Một từ ngữ thô tục mà lũ Thiên Chúa giáo các người sử dụng, nhưng phải, ngài Solomon đang ở quãng giữa.
Lời nói của gã đàn ông ong ong trong tai Langdon.
- Ý anh là Peter đã… chết?
- Không, không hẳn.
- Không hẳn ư?! - Langdon thét lớn, giọng anh dội vang trong đại sảnh. Cả một nhóm du khách trố mắt nhìn anh. Langdon quay đi và hạ giọng:
- Chết là chết, sống là sống chứ!
- Ngài làm tôi ngạc nhiên đấy, thưa Giáo sư. Tôi cứ tưởng ngài hiểu biết sâu sắc hơn về những bí ẩn của sự sống và cái chết cơ. Có một thế giới trung chuyển, một thế giới Peter Solomon đang lang thang vào lúc này. Ông ta có thể quay trở lại thế giới của ngài, mà cũng có thể bước sang thế giới tiếp theo… tuỳ thuộc vào hành động của ngài hiện thời.
Langdon cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đằng sau câu nói ấy.
Vậy anh muốn gì ở tôi?
Rất đơn giản. Ngài đã được tiếp cận với một thứ rất cổ xưa, và tối nay, ngài sẽ chia sẻ nó với tôi.
- Tôi chẳng rõ anh đang nói chuyện gì.
- Không. Ngài giả vờ không hiểu những bí mật cổ xưa đã được gửi gắm cho ngài chăng?
Langdon bỗng thấy lòng trĩu nặng, cố gắng đoán xem câu chuyện định dẫn tới đâu. Những bí mật cổ xưa. Anh chưa hề hé một lời với bất kỳ ai về những trải nghiệm của mình hồi ở Paris, nhưng những kẻ cuồng tín Chén Thánh đã theo sát tin tức truyền thông, một số kẻ đoán già đoán non cho rằng Langdon hiện nắm giữ thông tin bí mật liên quan đến Chén Thánh, thậm chí cả nơi cất giấu nó.
- Xem nào, - Langdon nói - nếu chuyện này liên quan đến Chén Thánh thì tôi dám quả quyết với anh rằng tôi chẳng biết gì hơn…
- Đừng có xúc phạm trí thông minh của tôi, ông Langdon, - gã kia gắt lên - Tôi không quan tâm đến mấy thứ vớ vẩn như Chén Thánh hay cuộc tranh cãi ba lăng nhăng của loài người xem phiên bản lịch sử của ai đúng hơn ai. Tôi cũng không hứng thú với các luận điểm quẩn quanh về ngữ nghĩa của tín điều. Đó là loại câu hỏi chỉ được trả lời thông qua cái chết.
Những lời cay nghiệt ấy khiến Langdon bối rối.
- Thế chuyện quái này là gì vậy?
Gã kia nín lặng vài giây.
- Chắc ông cũng biết, ở Washington có một cánh cổng cổ xưa.
Một cánh cổng cổ xưa?
- Và tối nay, thưa Giáo sư, ông sẽ mở nó ra cho tôi. Ông phải lấy làm vinh hạnh vì tôi đã liên hệ với ông. Đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Chỉ riêng ông được lựa chọn mà thôi.
Mày đúng là thằng mất trí.
- Xin lỗi, nhưng anh chọn nhầm người. - Langdon từ chối - Tôi chẳng mảy may hay biết về bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào cả.
- Ông không hiểu rồi, thưa Giáo sư. Không phải là tôi chọn ông… mà là Peter Solomon.
- Sao cơ? - Langdon đáp, giọng chỉ như một tiếng thì thầm.
- Ngài Solomon chỉ cho tôi cách tìm cánh cổng, và tiết lộ rằng trên đời này chỉ có một người đủ khả năng mở nó ra. Người đó chính là ông.
- Nếu Peter nói vậy thì chắc ông ấy nhầm… hoặc nói dối.
- Tôi không nghĩ thế. Khi thú nhận sự thực, ông ta đang ở trong trạng thái rất yếu ớt, và tôi thiên về hướng tin lời ông ta.
Langdon cảm thấy tức điên lên.
- Tôi cảnh cáo anh, nếu anh làm hại Peter bằng bất kỳ…
- Lời cảnh cáo quá muộn mằn - gã kia đáp bằng giọng thích thú - Tôi đã khai thác được những gì mình cần từ Peter Solomon. Nhưng vì lợi ích của ông ta, tôi khuyên ông nên đưa cho tôi thứ tôi yêu cầu ở ông. Thời gian chẳng còn bao nhiêu đâu… đối với cả hai vị. Tôi khuyên ông hãy tìm cánh cổng và mở nó ra. Peter sẽ chỉ đường.
Peter?
- Nhưng anh vừa nói Peter đang ở "luyện ngục" kia mà.
- Thượng hạ tương liên 4 - gã kia đáp.
Langdon cảm thấy rùng mình. Câu trả lời lạ lùng này là một ngạn ngữ bí ẩn cổ xưa tuyên ngôn cho niềm tin vào sự liên kết vật lý giữa trời và đất. Thượng hạ tương liên. Langdon dõi mắt nhìn khắp căn phòng rộng lớn và tự hỏi làm thế nào mà tối nay mọi việc lại thay đổi đột ngột ngoài tầm kiểm soát như thế này.
- Chà, tôi không biết cách tìm bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào. Tôi sẽ gọi cảnh sát.
- Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à?
- Chưa, - Langdon trả lời.
- Sắp rồi, - gã kia đáp, cười khùng khục - Có khi ngay bây giờ đấy.
Sau đó máy tắt.
Langdon kinh hãi đứng đờ ra một lúc, cố gắng phân tích những gì vừa xảy ra.
Đột nhiên, anh nghe thấy một âm thanh bất ngờ từ xa vọng lại.
Chỗ Nhà tròn.
Ai đó đang gào thét.
--- ------ ------ ------ -------
1 Theo quan điểm Hồi giáo. Araf là vùng ranh giới giữa thiên đàng và địa ngục, dành cho những người không tốt không xấu. Araf cũng là một bức tường cao ngăn giữa thiên đàng và địa ngục. Trên bức tường này là những người thoát khỏi địa ngục nhưng chưa được tiếp nhận lên thiên đàng. Họ rất muốn được vào thiên đàng nhưng tội lỗi và đức hạnh của họ cân bằng nhau - ND.
2 Hamistagan là một khái niệm chỉ địa điểm tương tự như Araf - ND.
3 Dante Alighieri (1265-1321), một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất Italia và thế giới thời Trung cổ, tác giả trường ca Thần chức (La divina commedia). Tác phẩm này được sáng tác bằng tiếng Italia trong thời gian Dante bị trục xuất khỏi quê hương Florence, từ khoảng năm 1308 đến khi ông mất năm 1321, gồm 100 khổ thơ với 14.226 câu thơ, chia làm ba phần, mỗi phần bao gồm 33 khổ thơ: Hoả ngục (Infemo). Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso). Tác phẩm được xếp vào hàng những bản trường ca vĩ đại nhất của nền văn học thế giới. Trường ca kể lại cuộc du hành của Dante qua ba thế giới bên kia, diễn ra tại thời điểm Ba ngày lễ Phục sinh thiêng liêng mùa xuân năm 1300. Nhà thơ La Mã Virgil dẫn ông đi qua Hoả ngục và Luyện ngục; trong khi nàng Beatrice, người phụ nữ mà Dante coi là lý tưởng, dẫn ông qua Thiên đường. Beatrice là người phụ nữ thành Florence, người mà ông biết đến từ thời thơ ấu, và mang lòng ái mộ, theo hình mẫu tình yêu thuần khiết thời thượng truyền thống - ND.
4 Nguyên văn: As above, so below. Cụm từ này được dùng trong giới thần bí và yêu thuật và khởi nguồn từ các văn bản của phái thần bí chủ nghĩa. Khái niệm này được đặt ra đầu tiên trong The Emerald Tablet của Hermes Trismegistus, "That which is Below corresponds to that which is Above, anh that which is Above, corresponds to that which is Below, to accomplish the miracles of the One Thing" (Tạm dịch: Cái gì ở Dưới tương ứng với cái gì ở Trên, và cái gì ở Trên tương ứng với cái gì ở Dưới, để đạt tới những phép nhiệm màu của Nhất thể). Theo các cấp độ khác nhau của thực tại: vật chất, tâm thần và tinh thần, khái niệm này được hiểu rằng những gì xảy ra ở một cấp độ nào đó cũng sẽ xảy ra ở mọi cấp độ khác. Tuy nhiên, khái niệm này thường được dùng với thế giới vi mô và vĩ mô. Thế giới vi mô là cá thể còn thế giới vĩ mô là vũ trụ, cái này nằm trong cái kia, và nhờ hiểu một cái (thường là vi mô) mà ta có thể hiểu cái kia - ND.
Danh sách chương