Tôi cần nói chuyện với Henry. Niềm hy vọng mở cánh cửa lồng giam căng tràn trong lồng ngực khiến tôi không thể nào chần chừ thêm nữa. Tôi phải gặp anh ngay. Gặp và xin anh ban cho mình ân huệ ấy, xin anh giúp tôi được giải thoát. Nhưng khi tìm thấy anh trong bữa điểm tâm ở phòng ăn, tôi đã chẳng thể thốt nổi một lời. Làm sao tôi có thể mở lời bảo anh cầu hôn mình giữa hàng đống đôi tai dỏng lên lắng nghe chứ? Có ít nhất nửa số khách mời đang tập trung tại phòng ăn khiến cả căn phòng vọng lên tiếng trò chuyện rì rầm và tiếng đồ dùng bằng bạc va nhau lách cách. Tôi đứng ở cửa, đánh mắt một vòng, cân nhắc xem nên ngồi xuống chỗ nào.
Henry lia cho tôi một ánh nhìn quan tâm. Chợt nhớ lại cảnh bị anh bắt gặp khi đang chìm trong nỗi tuyệt vọng tột cùng tối qua, tôi lập tức mỉm cười ý bảo mình đã ổn. Anh hài lòng rồi quay đi trước khi tôi kịp ra hiệu thêm rằng dẫu đã không còn ngấp nghé bên vực đau khổ, tôi có chuyện rất gấp cần nói riêng với anh.
Thất thểu chọn món cho bữa sáng, tôi dõi theo cuộc trò chuyện giữa Henry và cô Herr Spohr với lòng nhẫn nại cạn dần. Sylvia đi vào, chạm mắt vào tôi khi ngồi xuống phía đối diện.
Ký ức về cuộc cãi vã đêm qua khiến hai má lại tôi nóng ran lên. Ánh mắt Sylvia chỉ liếc nhanh tôi một cái, nom đắn đo do dự lắm. Tôi không biết mình nên phản ứng ra sao nữa. Sau khi thẳng thừng thốt ra những lời cay độc nhường ấy, tôi thấy khá ngạc nhiên là bạn ấy đã không đến xin lỗi mình trước bữa điểm tâm này. St. Clare ngồi xuống cạnh Sylvia và nhoài qua Herr Spohr để chào Henry. Anh lập tức nở nụ cười đáp lại.
Thấy chướng mắt, tôi bèn quay đi.
Ngay sau đó, Brandon cũng đến phòng ăn. Ánh mắt anh ta chiếu thẳng vào tôi. Phải can đảm lắm, tôi mới dám liếc chào anh ta một cái rồi cụp mắt xuống luôn. Lòng chắc mẩm anh ta sẽ tấn công mình bằng những lời nhục mạ mà phu nhân Delafield đã đầu độc sáng nay. Nhưng khi ngước lên, bước chân sải rộng thư thái của anh ta lập tức khiến tôi liên tưởng đến dáng vẻ dạo bước trên đồi cỏ. Anh ta dừng lại, chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi:
- Tôi ngồi đây được chứ, cô Worthington?
Tôi đứng lên, kinh ngạc nhìn anh ta:
- Tất nhiên là được rồi.
Anh ta ngồi xuống, dịch chiếc ghế của mình sát lại tôi, rồi xoay sang tôi, lờ hẳn những người khác trong phòng.
- Cô đã bới tóc lên, - Anh ta nói, giọng khẽ như đang thầm thì. Tôi sờ tay lên cổ, ngượng ngùng nhớ lại bộ dạng nhếch nhác của mình ban sáng. Anh ta chậm rãi dạo mắt trên mặt tôi, tiếp tục mở lời, khẽ khàng như không, - Trông đẹp lắm, nhưng không đẹp bằng lúc cô ở đồi hoang sáng này.
Thẹn chín mặt, tôi bèn lia mắt sang đằng đối diện, chợt thấy Henry và cả Sylvia nữa, đang đăm đăm nhìn mình.
Ho khẽ một tiếng, tôi quay lại với đôi mắt xanh biếc của Brandon:
- Anh tước mất khả năng ngôn ngữ của tôi rồi, anh Brandon.
- Nếu thật vậy thì tôi rất lấy làm hổ thẹn. – Anh ta đá cho tôi một nụ cười tươi tắn, đoạn chuyển sự chú ý sang phía đối diện, - Chào cô Delafield, anh Delafield, và cô St. Clare.”
Đáp lại là những khóe môi mấp máp cùng những ánh mắt sửng sốt vô ngần.
- Nhớ không nhầm thì hôm qua mọi người đã đồng ý đến dạo chỗ tu viện bỏ hoang rồi phải không nhỉ? Thời tiết hôm nay có vẻ đẹp đấy. – Ánh mắt Brandon dời sang tôi, sáng bừng phấn khích. – Chúng ta đi chứ?
Vậy là, bất kể những gì phu nhân Delafield đã mớm vào đầu, Brandon vẫn không giành cho tôi sự khinh ghét mà tôi những tưởng. Khóe môi nhoẻn cười, làn mi cụp xuống bối rối che giấu niềm hạnh phúc trước lời mời của anh ta..
- Tôi nghĩ trời sẽ mưa, - Henry đột ngột chen ngang.
Tôi ngoái nhìn cửa sổ, thấy bên ngoài nắng đọng sương tan, bầu trời quang đãng, bèn xoay lại, cau mày nhìn anh không tán đồng.
- Thật ư?
Anh cũng cau mày lườm tôi một cái, đoạn cúi mắt xuống đĩa của mình, xiên nĩa vào miếng thịt hông khói rồi dùng dao cắt nhỏ nó ra.
- Dã ngoại nghe cũng thú vị đấy. – St. Clare nói, mỉm cười với Henry và cố nghiêng mặt ra để anh nhìn thấy. Nhưng lúc này anh đang bận sừng sộ với đĩa thức ăn của mình nên chẳng hề để tâm đến cô ta.
- Cha anh có cùng đi không? – Sylvia hỏi.
- Có chứ! Càng đông càng vui mà. – Chừng như sự hào hứng của Brandon với kế hoạch này là bất tận. – Thế nào, Henry? Có thể nhờ những đầu bếp cừ khôi nhà anh giúp chúng tôi chuẩn bị một bữa ăn dã ngoại không?
Henry đẩy đĩa ăn ra, đáp:
- Tất nhiên. – Đoạn anh lia mắt sang tôi, đôi đồng tử nom hệt như mặt đá granite li ti hạt xám, hằn vẻ lên án chỉ trích. – Nếu tất cả mọi người đều háo hức tham gia.
Tôi nhướng mày.
- Sao lại không chứ? Rất thú vị mà.
Anh ơ hờ nhún vai, đoạn đẩy ghế đứng lên.
- Vậy hẹn gặp mọi người lúc giữa trưa tại phòng nghỉ. – Rồi khẽ gật đầu một cái, anh bỏ đi một mạch mà chẳng nói thêm lời nào.
Nhìn anh bỏ đi, tôi thắc mắc nguyên cớ gì khiến anh có ác cảm với kế hoạch của Brandon nhường ấy. Thử ngẫm lại Henry đã từng đề cập đến tu viện bỏ hoang ấy lần nào chưa, tôi mới giật mình phát hiện ra rằng, dầu anh từng kể cho tôi rất nhiều điều liên quan đế Blackmoore, thậm chí còn vô cùng nhẫn nại giải đáp mọi thắc mắc của tôi về nơi này, song, anh tuyệt nhiên chưa bao giờ nhắc tới một tu viện bỏ hoang nào cả. Tôi tự hỏi vì sao lại vậy.
…………………….
Chúng tôi dạo bước băng qua đồi cỏ trong bầu không khí ngượng ngập e dè. Sylvia vẫn không nói với tôi lời nào từ sau buổi tối hôm qua. Bạn ấy đi tách riêng khỏi đoàn, sóng đôi cùng ngài Brandon. St. Clare chiếm một chỗ cố định bên cạnh Henry và không có vẻ gì sẽ buông cánh tay anh ra. Henry không cười, kể cả là cười mỉm, nom anh chẳng có dáng vẻ thong thả dạo chơi gì cả, anh cũng không nói chuyện với tôi nốt. Thành ra, người duy nhất sẵn lòng nói chuyện với tôi lúc này lại chính là Brandon, người lúc nào cũng tràn trề nhiệt huyết, huyên thuyên đủ mọi thứ về chuyến đi, thời tiết, cuộc tản bộ, món ăn, bầu trời, đại dương và bất cứ thứ gì thu hút sự chú ý của anh ta.
Tôi đi giữa đoàn, với Henry và St. Clare phía trước, Sylvia và ngài Brandon nối sau. Cuối cùng là mấy người hầu dắt theo hai con ngựa thồ những vật dụng dã ngoại mà chúng tôi cần.
Tia nắng mặt trời rọi thẳng xuống đầu chúng tôi mà chẳng có lấy một gợn mây che chắn. Gió thổi mạnh thốc qua những chiếc mũ bonnet, mũ phớt và làn váy của chúng tôi. Chúng tôi men theo con đường gập ghềnh xuyên qua những bụi thạch nam và dương xỉ. Đột nhiên, tôi bỗng thấy lòng mình như bị đánh bộp một cú đau điếng: hai người bạn thân nhất của tôi đang lạnh lùng né tránh tôi.
Đây không phải là điều tôi mong đợi. Nhẽ ra ba chúng tôi phải quây quần bên nhau, lần cuối, trên mảnh đất Blackmoore này; nhẽ ra chúng tôi phải tạo ra những thời khắc tuyệt vời, chứ không phải sự im lặng bao trùm và xa cách ngột ngạt hiện nay. Giận dỗi và mất mát dâng lên trong lòng tôi rồi biến thành căm ghét. Tôi căm ghét bóng lưng Henry, căm ghét cánh tay đang lồng vào tay anh của St. Clare, và căm ghét cả sự im lặng của Sylvia.
Chúng tôi dừng lại trên sườn dốc, tu viện bỏ hoang trải dài ngay dưới chân. Tôi nín thở, chầm chậm tiến bước rồi dừng hẳn khi toàn bộ quang cảnh thu vào tầm mắt. Những tòa tháp lác đác đó đây, những bức tường đá đổ nát xiêu vẹo, những khung cửa mái vòm đen tuyền mở ra những khóm hoa hồng giữa vườn cỏ biếc xanh. Nó quá đẹp, đẹp theo kiểu điêu tàn và hoang dại.
Khi thu lại tầm mắt, tôi nhận ra Henry đang quan sát mình với một tia mong đợi.
- Kia rồi! – Brandon reo lớn. – Tu viện bỏ hoang kìa! Cô Worthington, chúng ta hãy là những người đầu tiên đến nơi đó nào! – Nói đoạn, anh ta kéo tay tôi chạy nhanh xuống dưới, vừa chạy vừa ngoái cười toe toét. Bàn tay anh ta mạnh mẽ ấm áp ôm trọn tay tôi. Giây phút ấy tôi chẳng còn bận tâm đến điều gì nữa.
Lũ quạ đen mòng mòng lượn trên những ngọn tháp tựa đang tuyên bố chủ quyền. Tiếng kêu của chúng vừa ran rát khô khan lại như mỏng manh yếu đuối, màu lông đen trũi đem đến cho tôi dự cảm chẳng lành. Quá tráng lệ. Không chỉ riêng tòa tháp, nét tráng lệ còn ẩn chứa cả trong sự đổ nát điêu tàn. Tôi bị kéo đến ngắm nghía một tảng đá sứt sẹo, một bức tường tróc mái và một khung cửa trống không đen sì.
Sau khi tham quan chừng nửa giờ, chúng tôi ngồi tránh vào bóng râm của một tòa tháp nghỉ ngơi. Bữa ăn dã ngoại được bày ra thảm. Mặt trời chợt khuất sau một rặng mây, gió vùng đồi phà hơi buốt giá. Không hẳn chỉ vì cơn gió khiến cho chuyến tản bộ đượm hương lạnh lẽo. Mà còn vì sự im lặng và ánh mắt gay gắt của Henry mỗi khi tôi vô tình chạm phải.
Lòng tôi trào lên cơn xúc động muốn kéo phức anh sang bên để hỏi cho ra nhẽ xem rốt cuộc tôi đã làm gì khiến anh mặt nặng mày nhẹ như vậy. Và rồi tôi muốn anh trả lại mình người bạn Henry thân thiết bấy lâu đặng còn nhờ người bạn ấy thành toàn cho giấc mộng Ấn Độ của tôi.
Tôi cắn miếng sandwich dưa chuột, lơ đãng nghe Brandon hết lời tán tụng vẻ huy hoàng của tàn tích này. Suốt buổi dã ngoại, anh ta chưa từng rời tôi nửa bước. Cô St. Clare nọ cũng làm y hệt với Henry. Lúc này, cô ta đang ngồi cạnh anh, thái độ cực kỳ ân cần chu đáo. Tôi thấy cô ta để ý đến đĩa ăn của anh, lấy thêm dâu và rót nước chanh trước khi người hầu có cơ hội chen tay vào. Tôi thấy ánh mắt cô ta trìu mến nhìn anh mỗi khi anh cất tiếng. Nhìn từng cử chỉ quý phái tao nhã, nghe mỗi tiếng cười réo rắt du dương của cô ta, tôi trộm nghĩ, đến cả bùn đất cũng không đang tâm vấy bẩn vào chiếc áo choàng trắng muốt cô ta đang mặc.
Một cô gái quá tốt. Tốt đến độ căm ghét cô ta cũng sẽ khiến cho cán cân tội lỗi lệch hẳn về phía tôi.
Không muốn nhìn hai người họ thêm nữa, tôi bèn phủi tay, ngồi xuống, mở lời:
- Henry, kể cho bọn em nghe về những tay buôn lậu đi.
Anh nhìn tôi.
- Kể gì cơ?
- À há! Em tóm được rồi nhé! Anh thừa nhận những tay buôn lậu là có thật rồi nhé!
Anh mỉm cười. Đó là lần đầu tiên anh cười với tôi trong cả ngày hôm nay, sức mạnh của nó khiến tôi như ngừng thở.
- Em suy đoán nhiều quá rồi đấy. – Anh nói.
- Thật là có những tay buôn lậu à? – Brandon hỏi.
Nét mặt Henry lập tức sa sầm cáu bẳn, nụ cười trên môi anh thoắt cái biến mất tăm. Lúc nom chừng anh sắp sửa buông lời cộc cằn khiếm nhã, Sylvia đã kịp thời lên tiếng chen ngang.
- Vẫn luôn có những lời đồn thổi về bọn buôn lậu, đặc biệt là ở vịnh Robin Hood. Nhưng các vị cứ yên tâm. Mẹ tôi sẽ không để bất cứ điều tiếng nào xảy ra trên đất Blackmoore cả.
- Nhất định vậy rồi. – St. Clare nói, đôi mắt xanh biếc vốn đã to tròn của cô ta còn mở lớn hơn cả lúc bình thường.
Ngài Brandon cũng gật đầu tán đồng, đoạn đưa cho Sylvia một miếng sandwich nữa, bạn ấy cười bẽn lẽn nhận lấy. Henry không nói gì. Anh tiếp tục bắn cho Brandon những cái nhìn khó chịu khi anh ta hỏi tôi có muốn dạo tiếp không.
Liếc nhìn Henry qua khóe mắt, tôi thấy anh mặt mày đanh cứng, sưng sỉa ngó đăm đăm lũ quạ lượn trên đầu. Lòng thầm hỏi vào một ngày đẹp trời như hôm nay, anh ấy ăn nhằm phải thứ gì mà ôm đầy một bụng hỏa như vậy. Đoạn đứng lên, phủi mấy cọng cỏ dính trên váy, tôi đáp:
- Rất vui lòng.
Nhưng đó chỉ là một lời nói dối. Điều tôi thực sự mong muốn lúc này là mọi người hè nhau đi hết, để tôi được ở riêng với Henry cùng đống tàn tích và lũ chim là được.
Tính cả hai lượt đi và về, cộng với thời gian tham quan, ăn nhẹ đã ngốn hết của chúng tôi phần lớn buổi chiều. Trong suốt thời gian ấy, tôi chỉ mong sao sự đồng hành của Henry và Sylvia cũng được dễ chịu thư thái như Brandon mang lại. Song hôm nay cả hai đều có thái độ bất thường: một người giận dỗi, một người lạnh nhạt. Tôi muốn hai người bạn thân nhất đời trở lại. Chuyện gì đã xảy ra với chúng tôi? Trong chỉ mới vài ngày ngắn ngủi? Còn việc nói chuyện riêng với Henry nữa. Tôi phải nhanh chóng nhờ anh cầu hôn mình để có thể nắm chắc chiến thắng trong tay.
Việc xảy ra hôm nay, cũng như đêm qua, càng khiến tôi tin rằng quyết định ra đi của mình là đúng đắn. Nơi này không có hạnh phúc dành cho tôi. Sylvia sẽ đi lấy chồng. Henry sẽ cưới St. Clare và đưa cô ta về Blackmoore sinh sống, có lẽ sau đó tôi sẽ chẳng còn được nhìn thấy anh nữa. Khi ấy, sẽ chỉ còn mình tôi cô độc, không tương lai, không tự do. Không. Chỉ có thể là Ấn Độ hoặc lồng giam mà thôi.
Nhưng quả tình tôi chẳng kiếm đâu ra cơ hội nói chuyện với Henry được. Cứ hễ sắp tranh thủ thầm thì vài câu với anh thì St. Clare bên cạnh lại tìm đủ lý do để chạm tay hoặc cười, hoặc như vô tình phô ra mái tóc màu đồng lấp lánh dưới giọt nắng tình cờ đậu xuống. Cô ta quá xinh đẹp, và tệ hơn nữa, dường như cô ta luôn ý thức được điều đó.
Về đến nơi, cũng là lúc chúng tôi phải sửa sang cho bữa tối. Bữa tối là một bữa ăn lớn trong căn phòng khổng lồ phục vụ cho bốn mươi vị khách. Tôi được xếp ngồi cạnh Herr Spohr, cách khá xa Henry và Sylvia. Dù vậy, tôi cũng chẳng mấy bận tâm đến điều đó, vì vừa hay tôi cũng có điều cần nói với Herr Spohr.
- Ông Herr Spohr này, việc tối qua ông lấy bản nhạc của tôi ấy, tôi nghĩ là có chút hiểu lầm.
Nói đoạn, tôi ngừng lại nhìn ông ấy đưa một miếng vịt nướng lên miệng. Ông ấy nhai trong - ừm một lúc khá lâu, kiên nhẫn đợi chờ. Có lẽ tôi đã hiểu nhầm ý của ông ấy tối qua. Một quý ông lịch sự không đời nào lòng vòng đây đó để tịch thu thứ thuộc về một quý cô cả. Ông ấy hành động kỳ quặc như vậy, chắc hẳn phải có lý do gì đó.
Cuối cùng tôi cũng đợi được ông ấy nuốt xong, liếc nhìn tôi một cái rồi lắc đầu đáp.
- Không phải hiểu lầm. Mozart không tốt cho cô.
- Nhưng nó là của tôi mà. Ông không thể lấy đồ của tôi được.
Ông ấy lại xiên thêm một miếng thịt nữa.
- Tôi chỉ muốn tốt cho cô thôi, meine kleine Vogel*. Tin tôi đi.
* meine kleine Vogel: chú chim bé nhỏ của tôi
Tôi bối rối lắc đầu nguầy nguậy, và hẳn sẽ cảm thấy vô cùng bực bội trước thái độ độc đoán ấy nếu không vì sự kết hợp quyến rũ của mái tóc, chất giọng Đức, và cụm từ ông ấy dùng để gọi tôi. Chú chim bé nhỏ. Tôi thấy nhiều hơn lòng kính sợ dành cho ông – một nhà soạn nhạc thực thụ. Một nhạc công tài ba. Mặc cho hành vi không hợp lễ hòng chia cắt cô gái yêu âm nhạc với người nhạc sĩ thiên tài của ông, tôi vẫn vô cùng kính trọng ông.
- Cô có biết Faust không, Worthington?
Tôi ngồi thẳng dậy.
- Gì cơ ạ?
- Faust. - Ông nhìn tôi bằng ánh mắt kiên định, đôi mắt xanh thẫm.
Trái tim khẽ run lên trong lồng ngực. Vô thức lia mắt đến đầu bàn nơi Henry đang ngồi ăn, phía bên phải là tiểu thư St. Clare. Anh hơi cúi mắt, mái tóc đen nhánh ánh lên dưới ngọn nến vàng, anh ngồi đó trên chiếc ghế chủ tọa với dáng vẻ ung dung không phải cứ luyện tập là có được. Tôi lập tức xoay đi, cố bắt mình không nghĩ cái ngày lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Faust. Đoạn gật đầu đáp:
- Có, tôi có biết một chút.
- Cô biết những gì? – Herr Spohr đặt nĩa xuống, đăm đăm nhìn tôi hệt như một thầy giáo đang nhìn đứa học trò của mình.
- Faust là một người cực kỳ tài giỏi nhưng lại luôn muốn được nhiều hơn nữa. Chàng ta đã ký một giao kèo với con quỷ tên là Mephistopheles, dùng linh hồn mình cược lấy tri thức không giới hạn, đặc ân to lớn và thành tựu vĩ đại.
- Cuối cùng thì sao? – Herr Spohr thúc giục.
Tôi nuốt nước bọt.
- Cuối cùng, chàng thua mất cả linh hồn.
Herr Spohr hài lòng gật đầu, mái tóc lắc lư theo từng cử động.
- Đúng vậy, cô gái ạ. Cô đã nắm hết những thứ trọng yếu rồi đấy. Hoài bão. Trăn trở. Hám danh. Tranh đấu không ngừng. – Ông đưa tay lên vò đầu. – Tôi cũng viết một vở opera về ông ấy. Về Faust ấy. – Đoạn cầm nĩa lên xiên một miếng thịt khác. Tôi nhìn, đợi ông ta nói tiếp, trong khi anh ta từ tốn nhai chậm, nhấc cốc nước lên rồi nuốt xuống.
- Nhưng Faust thì liên quan gì đến Mozart chứ? – Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, tôi đành lên tiếng.
Ông ta lắc đầu phụ họa.
- Không, không. Faust chẳng liên quan gì đến Mozart cả.
Ánh mắt ông ghim chặt vào tôi, khắc đầy vẻ nghiêm túc.
- Cũng như cô chẳng có gì liên quan đến Mozart vậy
Nói đoạn, ông ta quay lại với bữa tối của mình, nom rõ ràng là không muốn tán chuyện thêm nữa. Bỏ lại tôi trong tình trạng bối rối đờ đẫn.
Phòng ăn cực kỳ ồn ào ầm ĩ. Tôi đồ rằng mình sẽ chẳng có lấy một cơ hội ở riêng với Henry giữa cả hàng đống khách khứa quây quanh thế này. Sau bữa tối, mọi người cùng vào phòng nghỉ thưởng thức Herr và Frau Spohr song tấu vĩ cầm – hạc cầm, một sáng tác độc đáo của Herr Spohr. Sau khi họ diễn xong, Brandon đến mời tôi cùng anh chơi bài Uýt với Sylvia và cha anh. Song tâm trí tôi lại chẳng đặt vào những quân bài. Mà một lòng nguyện ước cao chạy xa bay, mong mỏi được nói chuyện với Henry và não nề thất vọng mỗi khi đưa mắt tìm kiếm thì thấy anh đang bận rộn với hết người này đến người khác. Quá nửa thời gian tiểu thư St. Clare duyên dáng xuất hiện cạnh anh. Hơn một lần phu nhân Delafield lườm tôi bằng ánh mắt cảnh cáo. Cứ như tôi lặp lại sai lầm của mình hôm qua: cố ý đưa tình tán tỉnh vậy. Thấy bị xoi mói như vậy, tôi thoái chí, không cố nhìn Henry nữa. Kế hoạch dựa vào sự giúp đỡ của anh đã thất bại trước khi kịp bắt đầu. Tôi cảm thấy mình không thể ngồi trong căn phòng này thêm một giây nào nữa.
Sự chán chường vẫn đeo bám lấy tôi trên những bậc thang khi mọi người giải tán về phòng. Tôi đã dùng cả ngày hôm nay chỉ để cố làm một điều đơn giản – tìm một cơ hội để nói chuyện riêng với Henry. Lại một ngày nữa trôi qua mà hy vọng thắng lợi vẫn mịt mù xa tít.
Alice vẫn đợi tôi trong phòng, nhưng lúc này tôi vẫn chưa muốn đi ngủ. Hôm nay vẫn còn việc phải hoàn thành. Tôi hỏi cô ấy.
- Phải làm thế nào nếu muốn ra ngoài vào ban đêm mà không bị ai phát hiện?
Cô ấy giật mình thảng thốt.
- Không phải cô muốn đi ra ngoài chứ ạ? Không được đâu cô.
Giọng điệu giống khẳng định hơn là nghi vấng.
- Có lẽ tôi đang vậy đó. Sao lại không nhỉ?
Đôi mắt cô vụt qua một tia sợ hãi.
- Ối, không được đâu thưa cô, cô không được làm vậy. Không ai dám đi lang thang bên ngoài vào ban đêm cả. Mọi người đều sợ hồn ma của Linger. – Cô ấy sít sao nhìn tôi. – Hẳn cô đã nghe nói đến hồn ma của Linger rồi, phải không ạ?
Tôi lắc đầu, không mấy tin vào chuyện ma quỷ và thầm nghĩ có lẽ câu chuyện của Alice cũng chỉ là bịa đặt mà thôi.
- Ông ấy thường cưỡi ngựa đi lại trên đồi cỏ vào ban đêm, nhất là những đêm trăng tròn. Nếu tình cờ nhìn thấy ông ấy, cô phải lập tức trốn đi hoặc nếu đang ở nơi không có chỗ nào để trốn… - Cô ấy lắc đầu, ôm tay lên ngực, rồi siết vào như thể cố bóp chết ý nghĩ sẽ đụng phải một thế lực siêu nhiên trên đồi cỏ vào ban đêm.
Cơn rùng mình chạy dọc thân, tôi giật lùi một bước, cứng miệng nói:
- Tôi không tin ma quỷ.
Alice khẽ lắc một ngón tay, thấp giọng đáp:
- Cô không cần phải tin vào một sự thật, tiểu thư ạ.
Chúng tôi giương mắt gườm nhau, không ai nhường ai. Lát sau, tôi thở dài cất tiếng:
- Tôi chỉ muốn đi dạo một lát trên bờ biển thôi. Vì đã hứa với em trai sẽ mang về cho nó một vỏ sò được nhặt dưới ánh trăng. Tôi không định lên đồi cỏ đâu.
Alice càng trợn to hai mắt:
- Bờ biển? Vào ban đêm này ư? – Giọng thốt cao vỡ òa. Cô ấy bặm chặt môi và lắc đầu nguầy nguậy. – Không. Thật quá điên rồ. Tiểu thư, cô không được đi. Tuyệt đối không được dạo bờ biển vào ban đêm.
Tôi run run siết chặt nắm tay, cảm giác thất bại sắp sửa bùng nổ thành lửa giận.
- Nhưng tôi muốn đến bờ biển để nhặt một vỏ óc em trai. Hình như đó không phải yêu cầu gì quá đáng.
- Xin thứ lỗi, tôi không thể giúp gì cho cô được. – Alice cúi đầu, hết mực cung kính nhún nhường khiến tôi chẳng thể nào phát cáu được.
Cảm giác bị đánh bại, tôi thở dài ngồi xuống giường.
- Em đi được rồi, Alice.
- Cô có cần tôi giúp thay đồ ra không?
Tôi lắc đầu.
- Không cần đâu. Cảm ơn em.
Cô ấy mở cửa và nhanh chóng ra ngoài trước khi tôi nói thêm lời nào nữa. Đưa mắt từ cánh cửa lớn khép kín đến ô cửa sổ đóng chặt, cơn bức bối mỗi lúc một dâng lên trong lòng. Phải rời khỏi phòng. Tôi đưa tay lên ngực, cảm giác như có thứ gì đó nghèn nghẹn thít chặt lấy mình.
Henry lia cho tôi một ánh nhìn quan tâm. Chợt nhớ lại cảnh bị anh bắt gặp khi đang chìm trong nỗi tuyệt vọng tột cùng tối qua, tôi lập tức mỉm cười ý bảo mình đã ổn. Anh hài lòng rồi quay đi trước khi tôi kịp ra hiệu thêm rằng dẫu đã không còn ngấp nghé bên vực đau khổ, tôi có chuyện rất gấp cần nói riêng với anh.
Thất thểu chọn món cho bữa sáng, tôi dõi theo cuộc trò chuyện giữa Henry và cô Herr Spohr với lòng nhẫn nại cạn dần. Sylvia đi vào, chạm mắt vào tôi khi ngồi xuống phía đối diện.
Ký ức về cuộc cãi vã đêm qua khiến hai má lại tôi nóng ran lên. Ánh mắt Sylvia chỉ liếc nhanh tôi một cái, nom đắn đo do dự lắm. Tôi không biết mình nên phản ứng ra sao nữa. Sau khi thẳng thừng thốt ra những lời cay độc nhường ấy, tôi thấy khá ngạc nhiên là bạn ấy đã không đến xin lỗi mình trước bữa điểm tâm này. St. Clare ngồi xuống cạnh Sylvia và nhoài qua Herr Spohr để chào Henry. Anh lập tức nở nụ cười đáp lại.
Thấy chướng mắt, tôi bèn quay đi.
Ngay sau đó, Brandon cũng đến phòng ăn. Ánh mắt anh ta chiếu thẳng vào tôi. Phải can đảm lắm, tôi mới dám liếc chào anh ta một cái rồi cụp mắt xuống luôn. Lòng chắc mẩm anh ta sẽ tấn công mình bằng những lời nhục mạ mà phu nhân Delafield đã đầu độc sáng nay. Nhưng khi ngước lên, bước chân sải rộng thư thái của anh ta lập tức khiến tôi liên tưởng đến dáng vẻ dạo bước trên đồi cỏ. Anh ta dừng lại, chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi:
- Tôi ngồi đây được chứ, cô Worthington?
Tôi đứng lên, kinh ngạc nhìn anh ta:
- Tất nhiên là được rồi.
Anh ta ngồi xuống, dịch chiếc ghế của mình sát lại tôi, rồi xoay sang tôi, lờ hẳn những người khác trong phòng.
- Cô đã bới tóc lên, - Anh ta nói, giọng khẽ như đang thầm thì. Tôi sờ tay lên cổ, ngượng ngùng nhớ lại bộ dạng nhếch nhác của mình ban sáng. Anh ta chậm rãi dạo mắt trên mặt tôi, tiếp tục mở lời, khẽ khàng như không, - Trông đẹp lắm, nhưng không đẹp bằng lúc cô ở đồi hoang sáng này.
Thẹn chín mặt, tôi bèn lia mắt sang đằng đối diện, chợt thấy Henry và cả Sylvia nữa, đang đăm đăm nhìn mình.
Ho khẽ một tiếng, tôi quay lại với đôi mắt xanh biếc của Brandon:
- Anh tước mất khả năng ngôn ngữ của tôi rồi, anh Brandon.
- Nếu thật vậy thì tôi rất lấy làm hổ thẹn. – Anh ta đá cho tôi một nụ cười tươi tắn, đoạn chuyển sự chú ý sang phía đối diện, - Chào cô Delafield, anh Delafield, và cô St. Clare.”
Đáp lại là những khóe môi mấp máp cùng những ánh mắt sửng sốt vô ngần.
- Nhớ không nhầm thì hôm qua mọi người đã đồng ý đến dạo chỗ tu viện bỏ hoang rồi phải không nhỉ? Thời tiết hôm nay có vẻ đẹp đấy. – Ánh mắt Brandon dời sang tôi, sáng bừng phấn khích. – Chúng ta đi chứ?
Vậy là, bất kể những gì phu nhân Delafield đã mớm vào đầu, Brandon vẫn không giành cho tôi sự khinh ghét mà tôi những tưởng. Khóe môi nhoẻn cười, làn mi cụp xuống bối rối che giấu niềm hạnh phúc trước lời mời của anh ta..
- Tôi nghĩ trời sẽ mưa, - Henry đột ngột chen ngang.
Tôi ngoái nhìn cửa sổ, thấy bên ngoài nắng đọng sương tan, bầu trời quang đãng, bèn xoay lại, cau mày nhìn anh không tán đồng.
- Thật ư?
Anh cũng cau mày lườm tôi một cái, đoạn cúi mắt xuống đĩa của mình, xiên nĩa vào miếng thịt hông khói rồi dùng dao cắt nhỏ nó ra.
- Dã ngoại nghe cũng thú vị đấy. – St. Clare nói, mỉm cười với Henry và cố nghiêng mặt ra để anh nhìn thấy. Nhưng lúc này anh đang bận sừng sộ với đĩa thức ăn của mình nên chẳng hề để tâm đến cô ta.
- Cha anh có cùng đi không? – Sylvia hỏi.
- Có chứ! Càng đông càng vui mà. – Chừng như sự hào hứng của Brandon với kế hoạch này là bất tận. – Thế nào, Henry? Có thể nhờ những đầu bếp cừ khôi nhà anh giúp chúng tôi chuẩn bị một bữa ăn dã ngoại không?
Henry đẩy đĩa ăn ra, đáp:
- Tất nhiên. – Đoạn anh lia mắt sang tôi, đôi đồng tử nom hệt như mặt đá granite li ti hạt xám, hằn vẻ lên án chỉ trích. – Nếu tất cả mọi người đều háo hức tham gia.
Tôi nhướng mày.
- Sao lại không chứ? Rất thú vị mà.
Anh ơ hờ nhún vai, đoạn đẩy ghế đứng lên.
- Vậy hẹn gặp mọi người lúc giữa trưa tại phòng nghỉ. – Rồi khẽ gật đầu một cái, anh bỏ đi một mạch mà chẳng nói thêm lời nào.
Nhìn anh bỏ đi, tôi thắc mắc nguyên cớ gì khiến anh có ác cảm với kế hoạch của Brandon nhường ấy. Thử ngẫm lại Henry đã từng đề cập đến tu viện bỏ hoang ấy lần nào chưa, tôi mới giật mình phát hiện ra rằng, dầu anh từng kể cho tôi rất nhiều điều liên quan đế Blackmoore, thậm chí còn vô cùng nhẫn nại giải đáp mọi thắc mắc của tôi về nơi này, song, anh tuyệt nhiên chưa bao giờ nhắc tới một tu viện bỏ hoang nào cả. Tôi tự hỏi vì sao lại vậy.
…………………….
Chúng tôi dạo bước băng qua đồi cỏ trong bầu không khí ngượng ngập e dè. Sylvia vẫn không nói với tôi lời nào từ sau buổi tối hôm qua. Bạn ấy đi tách riêng khỏi đoàn, sóng đôi cùng ngài Brandon. St. Clare chiếm một chỗ cố định bên cạnh Henry và không có vẻ gì sẽ buông cánh tay anh ra. Henry không cười, kể cả là cười mỉm, nom anh chẳng có dáng vẻ thong thả dạo chơi gì cả, anh cũng không nói chuyện với tôi nốt. Thành ra, người duy nhất sẵn lòng nói chuyện với tôi lúc này lại chính là Brandon, người lúc nào cũng tràn trề nhiệt huyết, huyên thuyên đủ mọi thứ về chuyến đi, thời tiết, cuộc tản bộ, món ăn, bầu trời, đại dương và bất cứ thứ gì thu hút sự chú ý của anh ta.
Tôi đi giữa đoàn, với Henry và St. Clare phía trước, Sylvia và ngài Brandon nối sau. Cuối cùng là mấy người hầu dắt theo hai con ngựa thồ những vật dụng dã ngoại mà chúng tôi cần.
Tia nắng mặt trời rọi thẳng xuống đầu chúng tôi mà chẳng có lấy một gợn mây che chắn. Gió thổi mạnh thốc qua những chiếc mũ bonnet, mũ phớt và làn váy của chúng tôi. Chúng tôi men theo con đường gập ghềnh xuyên qua những bụi thạch nam và dương xỉ. Đột nhiên, tôi bỗng thấy lòng mình như bị đánh bộp một cú đau điếng: hai người bạn thân nhất của tôi đang lạnh lùng né tránh tôi.
Đây không phải là điều tôi mong đợi. Nhẽ ra ba chúng tôi phải quây quần bên nhau, lần cuối, trên mảnh đất Blackmoore này; nhẽ ra chúng tôi phải tạo ra những thời khắc tuyệt vời, chứ không phải sự im lặng bao trùm và xa cách ngột ngạt hiện nay. Giận dỗi và mất mát dâng lên trong lòng tôi rồi biến thành căm ghét. Tôi căm ghét bóng lưng Henry, căm ghét cánh tay đang lồng vào tay anh của St. Clare, và căm ghét cả sự im lặng của Sylvia.
Chúng tôi dừng lại trên sườn dốc, tu viện bỏ hoang trải dài ngay dưới chân. Tôi nín thở, chầm chậm tiến bước rồi dừng hẳn khi toàn bộ quang cảnh thu vào tầm mắt. Những tòa tháp lác đác đó đây, những bức tường đá đổ nát xiêu vẹo, những khung cửa mái vòm đen tuyền mở ra những khóm hoa hồng giữa vườn cỏ biếc xanh. Nó quá đẹp, đẹp theo kiểu điêu tàn và hoang dại.
Khi thu lại tầm mắt, tôi nhận ra Henry đang quan sát mình với một tia mong đợi.
- Kia rồi! – Brandon reo lớn. – Tu viện bỏ hoang kìa! Cô Worthington, chúng ta hãy là những người đầu tiên đến nơi đó nào! – Nói đoạn, anh ta kéo tay tôi chạy nhanh xuống dưới, vừa chạy vừa ngoái cười toe toét. Bàn tay anh ta mạnh mẽ ấm áp ôm trọn tay tôi. Giây phút ấy tôi chẳng còn bận tâm đến điều gì nữa.
Lũ quạ đen mòng mòng lượn trên những ngọn tháp tựa đang tuyên bố chủ quyền. Tiếng kêu của chúng vừa ran rát khô khan lại như mỏng manh yếu đuối, màu lông đen trũi đem đến cho tôi dự cảm chẳng lành. Quá tráng lệ. Không chỉ riêng tòa tháp, nét tráng lệ còn ẩn chứa cả trong sự đổ nát điêu tàn. Tôi bị kéo đến ngắm nghía một tảng đá sứt sẹo, một bức tường tróc mái và một khung cửa trống không đen sì.
Sau khi tham quan chừng nửa giờ, chúng tôi ngồi tránh vào bóng râm của một tòa tháp nghỉ ngơi. Bữa ăn dã ngoại được bày ra thảm. Mặt trời chợt khuất sau một rặng mây, gió vùng đồi phà hơi buốt giá. Không hẳn chỉ vì cơn gió khiến cho chuyến tản bộ đượm hương lạnh lẽo. Mà còn vì sự im lặng và ánh mắt gay gắt của Henry mỗi khi tôi vô tình chạm phải.
Lòng tôi trào lên cơn xúc động muốn kéo phức anh sang bên để hỏi cho ra nhẽ xem rốt cuộc tôi đã làm gì khiến anh mặt nặng mày nhẹ như vậy. Và rồi tôi muốn anh trả lại mình người bạn Henry thân thiết bấy lâu đặng còn nhờ người bạn ấy thành toàn cho giấc mộng Ấn Độ của tôi.
Tôi cắn miếng sandwich dưa chuột, lơ đãng nghe Brandon hết lời tán tụng vẻ huy hoàng của tàn tích này. Suốt buổi dã ngoại, anh ta chưa từng rời tôi nửa bước. Cô St. Clare nọ cũng làm y hệt với Henry. Lúc này, cô ta đang ngồi cạnh anh, thái độ cực kỳ ân cần chu đáo. Tôi thấy cô ta để ý đến đĩa ăn của anh, lấy thêm dâu và rót nước chanh trước khi người hầu có cơ hội chen tay vào. Tôi thấy ánh mắt cô ta trìu mến nhìn anh mỗi khi anh cất tiếng. Nhìn từng cử chỉ quý phái tao nhã, nghe mỗi tiếng cười réo rắt du dương của cô ta, tôi trộm nghĩ, đến cả bùn đất cũng không đang tâm vấy bẩn vào chiếc áo choàng trắng muốt cô ta đang mặc.
Một cô gái quá tốt. Tốt đến độ căm ghét cô ta cũng sẽ khiến cho cán cân tội lỗi lệch hẳn về phía tôi.
Không muốn nhìn hai người họ thêm nữa, tôi bèn phủi tay, ngồi xuống, mở lời:
- Henry, kể cho bọn em nghe về những tay buôn lậu đi.
Anh nhìn tôi.
- Kể gì cơ?
- À há! Em tóm được rồi nhé! Anh thừa nhận những tay buôn lậu là có thật rồi nhé!
Anh mỉm cười. Đó là lần đầu tiên anh cười với tôi trong cả ngày hôm nay, sức mạnh của nó khiến tôi như ngừng thở.
- Em suy đoán nhiều quá rồi đấy. – Anh nói.
- Thật là có những tay buôn lậu à? – Brandon hỏi.
Nét mặt Henry lập tức sa sầm cáu bẳn, nụ cười trên môi anh thoắt cái biến mất tăm. Lúc nom chừng anh sắp sửa buông lời cộc cằn khiếm nhã, Sylvia đã kịp thời lên tiếng chen ngang.
- Vẫn luôn có những lời đồn thổi về bọn buôn lậu, đặc biệt là ở vịnh Robin Hood. Nhưng các vị cứ yên tâm. Mẹ tôi sẽ không để bất cứ điều tiếng nào xảy ra trên đất Blackmoore cả.
- Nhất định vậy rồi. – St. Clare nói, đôi mắt xanh biếc vốn đã to tròn của cô ta còn mở lớn hơn cả lúc bình thường.
Ngài Brandon cũng gật đầu tán đồng, đoạn đưa cho Sylvia một miếng sandwich nữa, bạn ấy cười bẽn lẽn nhận lấy. Henry không nói gì. Anh tiếp tục bắn cho Brandon những cái nhìn khó chịu khi anh ta hỏi tôi có muốn dạo tiếp không.
Liếc nhìn Henry qua khóe mắt, tôi thấy anh mặt mày đanh cứng, sưng sỉa ngó đăm đăm lũ quạ lượn trên đầu. Lòng thầm hỏi vào một ngày đẹp trời như hôm nay, anh ấy ăn nhằm phải thứ gì mà ôm đầy một bụng hỏa như vậy. Đoạn đứng lên, phủi mấy cọng cỏ dính trên váy, tôi đáp:
- Rất vui lòng.
Nhưng đó chỉ là một lời nói dối. Điều tôi thực sự mong muốn lúc này là mọi người hè nhau đi hết, để tôi được ở riêng với Henry cùng đống tàn tích và lũ chim là được.
Tính cả hai lượt đi và về, cộng với thời gian tham quan, ăn nhẹ đã ngốn hết của chúng tôi phần lớn buổi chiều. Trong suốt thời gian ấy, tôi chỉ mong sao sự đồng hành của Henry và Sylvia cũng được dễ chịu thư thái như Brandon mang lại. Song hôm nay cả hai đều có thái độ bất thường: một người giận dỗi, một người lạnh nhạt. Tôi muốn hai người bạn thân nhất đời trở lại. Chuyện gì đã xảy ra với chúng tôi? Trong chỉ mới vài ngày ngắn ngủi? Còn việc nói chuyện riêng với Henry nữa. Tôi phải nhanh chóng nhờ anh cầu hôn mình để có thể nắm chắc chiến thắng trong tay.
Việc xảy ra hôm nay, cũng như đêm qua, càng khiến tôi tin rằng quyết định ra đi của mình là đúng đắn. Nơi này không có hạnh phúc dành cho tôi. Sylvia sẽ đi lấy chồng. Henry sẽ cưới St. Clare và đưa cô ta về Blackmoore sinh sống, có lẽ sau đó tôi sẽ chẳng còn được nhìn thấy anh nữa. Khi ấy, sẽ chỉ còn mình tôi cô độc, không tương lai, không tự do. Không. Chỉ có thể là Ấn Độ hoặc lồng giam mà thôi.
Nhưng quả tình tôi chẳng kiếm đâu ra cơ hội nói chuyện với Henry được. Cứ hễ sắp tranh thủ thầm thì vài câu với anh thì St. Clare bên cạnh lại tìm đủ lý do để chạm tay hoặc cười, hoặc như vô tình phô ra mái tóc màu đồng lấp lánh dưới giọt nắng tình cờ đậu xuống. Cô ta quá xinh đẹp, và tệ hơn nữa, dường như cô ta luôn ý thức được điều đó.
Về đến nơi, cũng là lúc chúng tôi phải sửa sang cho bữa tối. Bữa tối là một bữa ăn lớn trong căn phòng khổng lồ phục vụ cho bốn mươi vị khách. Tôi được xếp ngồi cạnh Herr Spohr, cách khá xa Henry và Sylvia. Dù vậy, tôi cũng chẳng mấy bận tâm đến điều đó, vì vừa hay tôi cũng có điều cần nói với Herr Spohr.
- Ông Herr Spohr này, việc tối qua ông lấy bản nhạc của tôi ấy, tôi nghĩ là có chút hiểu lầm.
Nói đoạn, tôi ngừng lại nhìn ông ấy đưa một miếng vịt nướng lên miệng. Ông ấy nhai trong - ừm một lúc khá lâu, kiên nhẫn đợi chờ. Có lẽ tôi đã hiểu nhầm ý của ông ấy tối qua. Một quý ông lịch sự không đời nào lòng vòng đây đó để tịch thu thứ thuộc về một quý cô cả. Ông ấy hành động kỳ quặc như vậy, chắc hẳn phải có lý do gì đó.
Cuối cùng tôi cũng đợi được ông ấy nuốt xong, liếc nhìn tôi một cái rồi lắc đầu đáp.
- Không phải hiểu lầm. Mozart không tốt cho cô.
- Nhưng nó là của tôi mà. Ông không thể lấy đồ của tôi được.
Ông ấy lại xiên thêm một miếng thịt nữa.
- Tôi chỉ muốn tốt cho cô thôi, meine kleine Vogel*. Tin tôi đi.
* meine kleine Vogel: chú chim bé nhỏ của tôi
Tôi bối rối lắc đầu nguầy nguậy, và hẳn sẽ cảm thấy vô cùng bực bội trước thái độ độc đoán ấy nếu không vì sự kết hợp quyến rũ của mái tóc, chất giọng Đức, và cụm từ ông ấy dùng để gọi tôi. Chú chim bé nhỏ. Tôi thấy nhiều hơn lòng kính sợ dành cho ông – một nhà soạn nhạc thực thụ. Một nhạc công tài ba. Mặc cho hành vi không hợp lễ hòng chia cắt cô gái yêu âm nhạc với người nhạc sĩ thiên tài của ông, tôi vẫn vô cùng kính trọng ông.
- Cô có biết Faust không, Worthington?
Tôi ngồi thẳng dậy.
- Gì cơ ạ?
- Faust. - Ông nhìn tôi bằng ánh mắt kiên định, đôi mắt xanh thẫm.
Trái tim khẽ run lên trong lồng ngực. Vô thức lia mắt đến đầu bàn nơi Henry đang ngồi ăn, phía bên phải là tiểu thư St. Clare. Anh hơi cúi mắt, mái tóc đen nhánh ánh lên dưới ngọn nến vàng, anh ngồi đó trên chiếc ghế chủ tọa với dáng vẻ ung dung không phải cứ luyện tập là có được. Tôi lập tức xoay đi, cố bắt mình không nghĩ cái ngày lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Faust. Đoạn gật đầu đáp:
- Có, tôi có biết một chút.
- Cô biết những gì? – Herr Spohr đặt nĩa xuống, đăm đăm nhìn tôi hệt như một thầy giáo đang nhìn đứa học trò của mình.
- Faust là một người cực kỳ tài giỏi nhưng lại luôn muốn được nhiều hơn nữa. Chàng ta đã ký một giao kèo với con quỷ tên là Mephistopheles, dùng linh hồn mình cược lấy tri thức không giới hạn, đặc ân to lớn và thành tựu vĩ đại.
- Cuối cùng thì sao? – Herr Spohr thúc giục.
Tôi nuốt nước bọt.
- Cuối cùng, chàng thua mất cả linh hồn.
Herr Spohr hài lòng gật đầu, mái tóc lắc lư theo từng cử động.
- Đúng vậy, cô gái ạ. Cô đã nắm hết những thứ trọng yếu rồi đấy. Hoài bão. Trăn trở. Hám danh. Tranh đấu không ngừng. – Ông đưa tay lên vò đầu. – Tôi cũng viết một vở opera về ông ấy. Về Faust ấy. – Đoạn cầm nĩa lên xiên một miếng thịt khác. Tôi nhìn, đợi ông ta nói tiếp, trong khi anh ta từ tốn nhai chậm, nhấc cốc nước lên rồi nuốt xuống.
- Nhưng Faust thì liên quan gì đến Mozart chứ? – Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, tôi đành lên tiếng.
Ông ta lắc đầu phụ họa.
- Không, không. Faust chẳng liên quan gì đến Mozart cả.
Ánh mắt ông ghim chặt vào tôi, khắc đầy vẻ nghiêm túc.
- Cũng như cô chẳng có gì liên quan đến Mozart vậy
Nói đoạn, ông ta quay lại với bữa tối của mình, nom rõ ràng là không muốn tán chuyện thêm nữa. Bỏ lại tôi trong tình trạng bối rối đờ đẫn.
Phòng ăn cực kỳ ồn ào ầm ĩ. Tôi đồ rằng mình sẽ chẳng có lấy một cơ hội ở riêng với Henry giữa cả hàng đống khách khứa quây quanh thế này. Sau bữa tối, mọi người cùng vào phòng nghỉ thưởng thức Herr và Frau Spohr song tấu vĩ cầm – hạc cầm, một sáng tác độc đáo của Herr Spohr. Sau khi họ diễn xong, Brandon đến mời tôi cùng anh chơi bài Uýt với Sylvia và cha anh. Song tâm trí tôi lại chẳng đặt vào những quân bài. Mà một lòng nguyện ước cao chạy xa bay, mong mỏi được nói chuyện với Henry và não nề thất vọng mỗi khi đưa mắt tìm kiếm thì thấy anh đang bận rộn với hết người này đến người khác. Quá nửa thời gian tiểu thư St. Clare duyên dáng xuất hiện cạnh anh. Hơn một lần phu nhân Delafield lườm tôi bằng ánh mắt cảnh cáo. Cứ như tôi lặp lại sai lầm của mình hôm qua: cố ý đưa tình tán tỉnh vậy. Thấy bị xoi mói như vậy, tôi thoái chí, không cố nhìn Henry nữa. Kế hoạch dựa vào sự giúp đỡ của anh đã thất bại trước khi kịp bắt đầu. Tôi cảm thấy mình không thể ngồi trong căn phòng này thêm một giây nào nữa.
Sự chán chường vẫn đeo bám lấy tôi trên những bậc thang khi mọi người giải tán về phòng. Tôi đã dùng cả ngày hôm nay chỉ để cố làm một điều đơn giản – tìm một cơ hội để nói chuyện riêng với Henry. Lại một ngày nữa trôi qua mà hy vọng thắng lợi vẫn mịt mù xa tít.
Alice vẫn đợi tôi trong phòng, nhưng lúc này tôi vẫn chưa muốn đi ngủ. Hôm nay vẫn còn việc phải hoàn thành. Tôi hỏi cô ấy.
- Phải làm thế nào nếu muốn ra ngoài vào ban đêm mà không bị ai phát hiện?
Cô ấy giật mình thảng thốt.
- Không phải cô muốn đi ra ngoài chứ ạ? Không được đâu cô.
Giọng điệu giống khẳng định hơn là nghi vấng.
- Có lẽ tôi đang vậy đó. Sao lại không nhỉ?
Đôi mắt cô vụt qua một tia sợ hãi.
- Ối, không được đâu thưa cô, cô không được làm vậy. Không ai dám đi lang thang bên ngoài vào ban đêm cả. Mọi người đều sợ hồn ma của Linger. – Cô ấy sít sao nhìn tôi. – Hẳn cô đã nghe nói đến hồn ma của Linger rồi, phải không ạ?
Tôi lắc đầu, không mấy tin vào chuyện ma quỷ và thầm nghĩ có lẽ câu chuyện của Alice cũng chỉ là bịa đặt mà thôi.
- Ông ấy thường cưỡi ngựa đi lại trên đồi cỏ vào ban đêm, nhất là những đêm trăng tròn. Nếu tình cờ nhìn thấy ông ấy, cô phải lập tức trốn đi hoặc nếu đang ở nơi không có chỗ nào để trốn… - Cô ấy lắc đầu, ôm tay lên ngực, rồi siết vào như thể cố bóp chết ý nghĩ sẽ đụng phải một thế lực siêu nhiên trên đồi cỏ vào ban đêm.
Cơn rùng mình chạy dọc thân, tôi giật lùi một bước, cứng miệng nói:
- Tôi không tin ma quỷ.
Alice khẽ lắc một ngón tay, thấp giọng đáp:
- Cô không cần phải tin vào một sự thật, tiểu thư ạ.
Chúng tôi giương mắt gườm nhau, không ai nhường ai. Lát sau, tôi thở dài cất tiếng:
- Tôi chỉ muốn đi dạo một lát trên bờ biển thôi. Vì đã hứa với em trai sẽ mang về cho nó một vỏ sò được nhặt dưới ánh trăng. Tôi không định lên đồi cỏ đâu.
Alice càng trợn to hai mắt:
- Bờ biển? Vào ban đêm này ư? – Giọng thốt cao vỡ òa. Cô ấy bặm chặt môi và lắc đầu nguầy nguậy. – Không. Thật quá điên rồ. Tiểu thư, cô không được đi. Tuyệt đối không được dạo bờ biển vào ban đêm.
Tôi run run siết chặt nắm tay, cảm giác thất bại sắp sửa bùng nổ thành lửa giận.
- Nhưng tôi muốn đến bờ biển để nhặt một vỏ óc em trai. Hình như đó không phải yêu cầu gì quá đáng.
- Xin thứ lỗi, tôi không thể giúp gì cho cô được. – Alice cúi đầu, hết mực cung kính nhún nhường khiến tôi chẳng thể nào phát cáu được.
Cảm giác bị đánh bại, tôi thở dài ngồi xuống giường.
- Em đi được rồi, Alice.
- Cô có cần tôi giúp thay đồ ra không?
Tôi lắc đầu.
- Không cần đâu. Cảm ơn em.
Cô ấy mở cửa và nhanh chóng ra ngoài trước khi tôi nói thêm lời nào nữa. Đưa mắt từ cánh cửa lớn khép kín đến ô cửa sổ đóng chặt, cơn bức bối mỗi lúc một dâng lên trong lòng. Phải rời khỏi phòng. Tôi đưa tay lên ngực, cảm giác như có thứ gì đó nghèn nghẹn thít chặt lấy mình.
Danh sách chương