"Được rồi, hôm nay, tớ tập trung tất cả mọi người lại đây là vì ...".

"Có ai đó chết".

"Không, Kate!", tôi thở dài.

"Hừm, vậy mà cậu nói giống như ...", Kate nhấm nhẳng trong khi Frankie và tôi nhăn nhó vì cái tính tự nhiên quá đáng toàn hại Kate thành ra xử sự không khéo chút nào.

"Này, thế London của cậu thế nào rồi?". Frankie hỏi.

Tôi ngồi bên chiếc bàn trong phòng khách sạn của mình, điện thoại trong tay, kết nối với chiếc điện thoại mở loa lớn ở nhà Kate đầu dây bên kia. Tôi đã mất cả buổi sáng dạo vòng quanh London với bố, chụp những tấm hình ông đứng lúng túng, vụng về ngay đằng trước những thứ đặc trưng cho nước Anh, như những chiếc xe buýt màu đỏ, những thùng thư, những con ngựa của cảnh sát, những quán rượu, cung điện Buckingham, và một người hoàn toàn không biết cách ăn mặc là nam hay nữ.

Kệ tôi ngồi một mình, bố vẫn nằm trên giường xem phần còn lại của chương trình tivi, vừa nhấm nháp cốc rượu mạnh, món kem chua và cả những lát khoai tây Pringles không hành.

"TUYỆT QUÁ!", ông hét lên với chương trình tivi. Tôi chia sẻ những thông tin mới nhất. Bên kia đầu dây, Kate và Frankie tranh nhau nói quanh chiếc điện thoại được bật loa ngoài.

"Con cậu nôn trớ vào tớ đây này!", Frankie hét toáng lên.

"Nôn trớ đâu mà nôn trớ, thằng bé chỉ chảy nước bọt tí tẹo ...".

"Không phải. Thế này mới là chảy nước bọt ...".

Im lặng.

"Frankie, cậu gớm quá đi!".

"Thôi ... Thôi ... Trời đất các cậu, ngừng lại được chưa?".

"Xin lỗi, Joyce. Nhưng tớ không thể tiếp tục cuộc nói chuyện cho đến khi nó được đưa ra khỏi đây. Cái sinh vật này cứ bò chung quanh, cắn cái này cái kia, leo lên cái này cái kia. Phì nước bọt. Rồi tùm lum thứ khác nữa. Tớ không tập trung được. Christian giúp được không nhỉ?".

Tôi cố gắng để khỏi bật cười.

"Tại sao cậu gọi con tớ là nó. Rồi còn sinh vật này kia nữa. Và câu trả lời cho cậu luôn là không. Christian đang bận".

"Anh ấy đang coi đá banh mà ...!".

"Thì coi đá banh chính là bận đấy. Anh ấy không thích bị làm phiền. Nhất là với cậu. Luôn như thế".

Lại một khoảng im lặng.

"Lại đây, nhóc". Ở đầu dây bên kia, tiếng Frankie nói một cách khó khăn.

"Tên thằng bé là Sam. Cậu là mẹ đỡ đầu của thằng bé đấy, ngay cả trong trường hợp cậu quên béng mất điều đó".

"Không, tớ không quên điều đó. Tớ chỉ quên tên nó thôi". Giọng cô bạn căng thẳng, như thể cô đang phải nhấc một vật nặng khủng khiếp lên. "Này ... này ...

Cậu cho nó ăn cái gì thế?".

Sam kêu thét lên.

Frankie khịt mũi.

"Frankie, thôi đưa thằng bé đây cho tớ. Tớ mang cu cậu vô với anh Christian vậy".

"Phù ... Xong rồi, Joyce". Frankie bắt đầu ngay khi Kate đi ra. "Tớ đã nghiên cứu cẩn thận những thông tin mà cậu cho tớ ngày hôm qua. Tớ có mang mấy tờ giấy theo cùng ... Chờ chút nhé".

Tôi nghe tiếng lật giấy sột soạt.

"Cái gì thế?":

Tiếng Kate hỏi, khi vừa quay trở lại.

"Cứ như Joyce nhảy vào trong đầu óc của anh chàng người Mỹ kia. Và thế là bằng cách nào đó không biết, cô bạn của chúng ta có được ký ức của anh ấy, những khả năng của anh ấy, cả sự thông minh của anh ấy. Frankie đáp.

"Hả?". Tiếng Kate cứ như đang xem phim kinh dị.

"Tớ phát hiện ra tên của anh ấy là Justin Hitchcock". Tôi nói đầy phấn khích.

"Bằng cách nào?" Kate hỏi.

"Họ của anh ấy tất nhiên là trùng với họ con gái. Tớ tìm ra thông tin về cô bé trong cuốn chương trình ba lê tối qua. Và tên anh ấy ... Ừm, tớ đã nghe cái tên đó trong mơ".

Im lặng.

Tôi đảo mắt qua lại để tưởng tượng ra hai đứa bạn mình lúc này trông như thế nào.

"Có chuyện khỉ gió gì đang diễn ra ở đây thế?", Kate hỏi, giọng xáo trộn và hoang mang.

"Tìm thông tin về anh ta trên Google thử xem, Kate". Frankie đề nghị. "Xem thử xem liệu cái tên đó có tồn tại không".

"Anh ấy tồn tại. Tin tớ đi", tôi nói đầy chắc chắn.

"Không, cưng ạ .... Cậu thấy đấy, những cái câu chuyện này của cậu ... Chúng tớ nói thật là chúng tớ lo ngại cậu có vấn đề gì đấy không bình thường. Phải kiểm tra trước khi thật sự tin vào những điều cậu nói. Để chúng tớ tìm đã nhé.

Rồi chúng ta sẽ tiếp tục dựa trên những thông tin đó ...".

Tôi chống cằm, ngồi đợi.

"Trong khi Kate làm điều đó ... Tớ có vài ý về việc chia sẽ ký ức ...".

"Cái gì?". Kate lại gào lên phát hoảng lần nữa. "Chia sẻ ký ức? Cả hai cậu đều có vấn đề thần kinh à?".

"Không, chỉ có tớ thôi", tôi nói đầy mỏi mệt, gục đầu lên bàn.

"Nghe này, Joyce. Tớ đã lên mạng, tìm kiếm thông tin về tình trạng của cậu.

Tớ phát hiện ra lằng cậu không phải là người duy nhất trên thế giới này có cảm giác như thế ...".

Tôi ngồi bật dậy ngay, lắng nghe chăm chú.

"Tớ đã vào khá nhiều trang web, xem các bài phỏng vấn một số người.

Những người này thừa nhận không hiểu bằng cách nào, họ có được những ký ức của người khác. Một số người còn có cả những kỹ năng, khẩu vị tương tự như người khác".

"Này, hai cậu thôi đi. Tớ biết những chuyện này đã được dàn dựng sẵn.

Đừng có dọa tớ nữa, Frankie". Tiếng của Kate vang bên kia đầu dây.

"Không phải dàn dựng sẵn đâu ...", tôi khẳng định với Kate.

"Thế sao cậu nói với tớ rằng tự dưng cậu có được kỹ năng của ai đó khác, nghe như là ma thuật".

"Tự dưng cậu ấy nói được tiếng Latin, tiếng Pháp và tiếng Ý", Frankie giải thích.

"Còn khẩu vị ....?", Kate vẫn chưa bị thuyết phục.

"Bây giờ cậu ấy thích ăn thịt". Frankie lại nói.

"Nhưng tại sao cậu lại nghĩ rằng đó là kỹ năng, khẩu vị của người khác ...? Tại sao cậu không nghĩ rằng Joyce đã tự học tiếng Latin, tiếng Pháp, tiếng Ý và cũng chính Joyce quyết định ăn thịt, giống như mọi người bình thường? Sao cậu cứ phải nghĩ rằng đó là những kỹ năng và khẩu vị mà cậu ấy TỰ NHIÊN có được từ ai đó khác?".

Im lặng.

"Nghe này, Kate. Tớ đồng ý với cậu rằng chuyện thay đổi từ việc ăn kiêng sang ăn bình thường có thể là quyết định của chính Joyce. Nhưng còn chuyện học ba ngoại ngữ thì ...".

"Và tớ có những giấc mơ về những khoảnh khắc tuổi thơ của Justin Hitchcock nữa".

Vài phút trôi qua.

"Nghe này ... Tớ tìm được cái này". Frankie nói, "Những gì cậu đã trải qua là hoàn toàn bình thường ... à, không hoàn toàn bình thường, nhưng vẫn có những người khác ... ờ ...".

"Cũng kỳ quái như thế?", Kate gợi ý.

"Những trường hợp này cũng rơi vào tình huống tương tự cậu. Chỉ có điều là, tất cả họ đều từng thay tim ... Cậu thì chẳng thay gì cả nên chúng ta lướt qua xem cái khác vậy".

Thình thịch. Thình thịch. Trống ngực tôi rộn lên trở lại.

"Gượm đã". Kate ngắt lời. "Có một người trong này nói rằng họ bị người ngoài hành tinh bắt cóc".

"Ngừng đọc cái đó đi nào, Kate". Frankie nhăn nhó. "Tớ đâu có đề cập gì đến người phụ nữ đó đâu".

"Nghe tớ này", tôi cắt ngang cuộc tranh cãi của hai cô bạn. "Anh ấy từng hiến máu. Trùng khoảng thời gian tớ vào bệnh viện".

"Vậy thì sao?". Kate hỏi.

"Cậu ấy được truyền máu". Frankie giải thích. "Không khác lắm với cái giả thiết mà tớ vừa đề cập".

Tất cả chúng tôi đều im lặng.

Kate phá tan bầu không khí ngột ngạt. "Tớ vẫn không hiểu được. Ai đó giải thích đi".

"Ừ, nó cũng giống những trường hợp thay tim mà Frankie nói ban nãy, phải không?". Tôi mềm mỏng. "Máu cũng đến từ tim".

Kate thở hổn hển. "Nó đi thẳng từ trái tim anh ấy sang trái tim cậu".

"Ồ, thế bây giờ có thấy sự truyền máu lãng mạn chưa nào!", Frankie bình luận thêm. "Để tớ nói cho các cậu nghe những gì tớ tìm được trên mạng. Một số báo cáo về những người được thay tim cho rằng, bệnh nhân thay tim không chỉ nhận quả tim mà còn thừa hưởng luôn cả một số tính cách đã có từ người hiến tặng. Họ làm những nghiên cứu với gia đình bệnh nhân, và nhận ra rằng không ít người thay đổi, có cuộc sống mới sau khi được thay tim. Các nhà khoa học giải thích rằng, trong trái tim có những tế bào "thông minh" có khả năng ghi nhớ ký ức".

"Thế nghĩa là nếu trái tim vẫn giữ được sự thông minh ấy thì khi máu - thứ được bơm trực tiếp từ trái tim - truyền từ người này sang người khác, nó có thể mang theo cả những ký ức đó luôn?", Kate hỏi. "Ví dụ như tình yêu của anh ấy với ... món thịt và các ngôn ngữ", cô thêm vào với chút ít chua chát trong giọng nói.

Không ai muốn nói "vâng" cho câu hỏi ấy. Cả ba chúng tôi đều muốn nói "không".

"Joyce này, thế cậu thử tìm xem ai đã hiến máu cho cậu được không". Kate nói sau một hồi lâu.

"Không được". Tiếng của Frankie. "Những thông tin như thể luôn được giữ bí mật. Với lại, không phải tất cả máu cậu ấy được truyền đều là của anh ấy.

Anh ấy chỉ hiến tặng có một đơn vị máu thôi. Sau đó, máu sẽ được phân tích ra đủ các thành phần như hồng cầu, bạch cầu gì đó. Những gì Joyce nhận được có thể chỉ là một phần máu của anh ấy. Nó có thể bị pha trộn với máu được hiến tặng của những người khác nữa".

"Máu của anh ấy vẫn chảy trong người tớ". Tôi nói, "Không quan trọng là bao nhiêu đâu, các cậu".

"Bọn tớ tìm ra thông tin về cái tên Justin Hitchcock trên Google rồi". Kate lấp đầy khoảng trống.

Tim tôi đập loạn xạ. Nói cho tôi biết đi nào. Hãy nói rằng không phải tôi đã tưởng tượng và dựng nên nó. Hãy nói rằng anh ấy tồn tại.

"Đây này. Justin Hitchcock ... Một người làm nón ở Massachusetts. Hừm, ít nhất thì cũng trùng chi tiết anh ta là người Mỹ".

"Trời ... Cậu có cái gì khác không? Đọc tiếp đi!". Tôi giục. "Một Justin Hitchcock khác, trong lĩnh vực quân đội ... Năm 1774. Ôi trời ơi, cách cậu đến mấy trăm năm đấy".

"Gượm đã ...", Frankie ngắt ngang, không muốn tôi mất hi vọng. "Có một Justin Hitchcock khác ở đây ... Làm việc tại New York".

"Không". Tôi nói một cách bực dọc. "Tớ biết là anh ấy có tồn tại mà. Thật là kỳ lạ. Các cậu thêm vào tên trường Cao đẳng Trinity xem. Anh ấy từng có một buổi nói chuyện ở đó".

Lách cách. Lách cách. Lách cách.

"Không. Không có cái tên Justin Hitchcock nào với trường Cao đẳng Trinity".

"Cậu có chắc cậu đã nói chuyện với con gái anh ta không?", Kate hỏi.

"Vâng". Tôi nghiến chặt hàm răng.

"Để tớ thêm vào các từ khóa khác nhé ... Nghệ thuật, kiến trúc, tiếng Anh, tiếng Latin, tiếng Ý ...". Frankie nói trong khi vẫn tiếp tục gõ lách cách trên bàn phím ở đầu dây bên kia.

"A ha! Có đây rồi. Justin Hitchcock. Giảng viên được mời thỉnh giảng tại trường Cao đẳng Trinity, Dublin. Cán bộ giảng dạy bộ môn Nghệ thuật và Khoa học Nhân Văn. Khoa Nghệ thuật và Kiến trúc. Tốt nghiệp đại học tại Chicago.

Bằng cao học, ở Chicago. Quan tâm đặc biệt đến Lịch sử nước ý thời Phục hưng và nghệ thuật điêu khắc Barốc, những bức họa châu Âu giai đoạn 1600- 1900.

Đồng tác giả cuốn sách Thời đại vàng son của hội họa Hà Lan:

Vermeer, Metsu và Terborch. Anh ta cũng đã từng viết trên 50 bài báo khác nhau trên các tạp chí ... Vân vân và vân vân ...".

"Anh ấy ... có thật!". Kate nói, mặc dù nghe giọng cô ấy như không tin được chính mình.

Cảm thấy tự tin hơn, tôi tiếp:

"Thử tìm tên anh ấy với từ khóa Phòng Triển Lãm Quốc Gia London xem".

"Tại sao?".

"Tớ có một linh cảm ...".

"Cậu và những linh cảm của cậu ...", Kate tiếp tục đọc.

"Anh ấy là ủy viên ban quản trị khu vực Nghệ thuật Âu châu tại Phòng Triển Lãm Quốc Gia, London. Ôi trời ơi ... Joyce, anh ấy làm việc ở London hả? Tớ phải đến xem anh ấy thế nào".

"Chính là anh ấy ...". Tôi nói, tự tin. "Nếu anh ấy là người hiến màu cho tớ, điều đó có ý nghĩa quan trọng với tớ".

"Chúng ta sẽ phải tìm ra cách gì đó ...". Kate đề nghị.

"Đó là anh ấy", tôi lặp lại, như đang trên mây.

"Thế bây giờ cậu định làm gì tiếp theo?".

Tôi mỉm cười thật nhẹ và liếc nhìn đồng hồ lần nữa. "Điều gì khiến các cậu nghĩ rằng tớ chưa chuẩn bị gì cả và chưa biết phải làm gì cả?".

Justin vừa cầm điện thoại vừa đi đi lại lại trong văn phòng làm việc nhớ tại Phòng Triển Lãm Quốc Gia.

"Không, không, Simon. Tôi nói những bức chân dung của các danh họa người Hà Lan cơ ...", anh cười. "Tôi từng viết một cuốn sách về đề tài đó. Vì thế, những thứ ấy tôi còn hơn là thân thuộc nữa ...".

Hừm, mình mới viết xong nửa cuốn và đã ngừng lại cách đây hai năm rồi.

"Cuộc triển lãm sẽ bao gồm sáu mươi tác phẩm, tất cả những bức họa trong giai đoạn 1600 đến năm 1680".

Có tiếng gõ cửa.

"Xin chờ một chút", anh nói vọng ra.

Nhưng anh chưa dứt câu thì cánh cửa đã mở và người đồng nghiệp của anh, Roberta bước vào. Mặc dù còn trẻ, mới độ tuổi ba mươi, nhưng lưng cô gái đã hơi gù. Cách ăn mặc của cô ấy như thể cô đang sống ở một thập kỷ trước. Cô hiền lành và rụt rè, chỉ hay luôn miệng xin lỗi về mọi thứ, xin lỗi tất cả mọi người như thể sự xuất hiện của cô là một điều gì xúc phạm.

"Xin lỗi, Justin", cô thì thầm, cầm một chiếc làn mây nhỏ trong tay. "Tôi không biết anh đang nghe điện thoại. Xin lỗi. Cái này tiếp tân nhờ chuyển cho anh. Tôi chỉ cầm nó vào đây thôi. Xin lỗi".

Cô quay đi, không gây ra tiếng động nào, cứ như đang rón rén bước trên đầu ngón chân. Cánh cửa được khẽ khàng đóng lại sau lưng.

Anh chỉ gật đầu nhẹ nhàng một cái với cô rồi quay trở lại với cuộc nói chuyện qua điện thoại. Tiếp tục những gì ban nãy đang nói dở.

"Vâng, Simon. Nếu có bất kỳ vấn đề nào khác anh cần biết, vui lòng liên lạc với tôi ở đây, tại văn phòng".

Anh dập máy. Bàn tay chợt ngập ngừng một thoáng. Cái giỏ gì thế nhỉ?

Không biết mình có cần gọi cho bộ phận bảo vệ trước khi mở ra không. Bên dưới tay cầm khá dày, chiếc làn mây được phủ kín bởi một tấm vải ca rô. Anh bước lùi lại một bước, nhấc tấm vải phủ lên từ từ, thật chậm, trong tư thế sẵn sàng ... nhảy ra xa nếu có bất cứ điều gì không ổn ...

Một tá bánh xốp nướng được xếp ngay ngắn trong làn, bày ra trước mắt anh!

Tim anh rộn lên từng nhịp thình thịch, thình thịch. Anh quay nhìn quanh phòng, biết chắc rằng không có ai khác ngoài mình, nhưng anh vẫn có một cảm giác không thoải mái khi nhận món quà bất ngờ này. Anh lục lọi chiếc làn mây.

Có một tấm thiệp nhỏ trong đó. Hai bàn tay anh bất giác run run. Anh từ từ rút cánh thiệp ra khỏi chiếc phong bì. Ngay chính giữa, chỉ có một dòng chữ viết tay ngay ngắn, nét chữ rất đẹp ...

"Cám ơn ...".

Justin bước từng bước vội vàng xuyên qua những sảnh lớn của Phòng Triển Lãm Quốc Gia. Một phần anh đang vâng theo, một phần khác đang làm trái cái quy định "Không chạy trong sảnh lớn", vì anh cứ chạy ba bước lại đi ba bước, rồi lại chạy ba bước và đi chậm lại trong ba bước. Cứ thế!

Anh bắt gặp Roberta rón rén đi xuyên qua lối đi tiền sảnh, giống như một cái bóng trong thư viện nơi cô đa làm việc suốt năm năm qua.

"Roberta!".

Sự liều lĩnh trong anh được tháo cũi xổ lồng. Không vâng theo quy định "Không được nói to, hét lớn trong sảnh" nữa. Giọng anh vang vọng, dội lại từ những bức tường và trần nhà cao ngất, làm điếc tai hết tất cả những bức ảnh chân dung to tướng. To đến nỗi đủ làm rụng rời héo rũ cả những đóa hướng dương rực rỡ trong bức họa của Van Gogh và làm rạn nứt cả mặt kính trong bức họa chân dung của Arnolfini.

Chừng đó cũng đủ làm Roberta cứng người vì sợ và từ từ xoay lại. Đôi mắt của cô tròn xoe, đầy nỗi sợ hãi, giống như một con hươu bị chói lòa giữa ánh đèn pha ô tô.

Cô đỏ mặt bối rối khi nửa tá nhân viên, khách tham quan khác quay lại nhìn cô chằm chằm. Roberta hít một hơi sâu như thể vừa nghẹt thở. Và Justin lập tức cảm thấy rất có lợi khi vừa phá vỡ những nguyên tắc của cô, làm mọi người chú ý đến cô trong khi cô chỉ muốn được giấu kín mình.

Anh ngừng những bước chân mạnh mẽ nửa đi nửa chạy của mình lại và cố gắng đi lặng lẽ hơn trên sàn nhà, lướt khẽ khàng như cô đã làm, trong sự nỗ lực "bù đắp" lại những tiếng ồn vừa gây ra. Cô đứng đó. Bất động như tượng đá.

Gần sát bức tường đến mức có thể, giống như một người leo núi đã vượt qua hết những rào cản, chỉ thích một nơi trú ngụ yên ổn hơn là chú ý đến vẻ đẹp của nó.

Justin tự hỏi thái độ này là "hậu quả" nghề nghiệp của cô, hay đó là cách mà một người quản thủ thư viện trong Phòng Triển Lãm Quốc Gia dùng để cuốn hút người khác theo cách của cô. Anh nghiêng nhiều hơn về nửa vế sau.

"Tôi đây", cô thì thầm, mắt vẫn mở to thoáng vẻ hoảng hốt.

"Xin lỗi vì đã hét toáng tên cô", anh nói khẽ đến mức có thể.

Gương mặt cô giãn ra và đôi vai cô có vẻ buông lỏng hơn tí chút.

"Cô lấy cái giỏ mây này ở đâu thế?", anh đỡ nó lên.

"Ở quầy tiếp tân. Tôi vừa quay lại sau giờ nghỉ giải lao thì Charlie nhờ tôi đưa nó cho anh. Có chuyện gì không ổn à?".

"Charlie". Anh ngẫm nghĩ một lát. "Anh chàng trực ở lối ra vào?".

Cô gật.

"Ồ, cảm ơn Robelta. Tôi xin lỗi vì đã hét to quá". Anh xoay người, nửa chạy, nửa bước đi, với chiếc giỏ mây đong đưa trên tay.

"Kết thúc một ngày rồi à? Gì mà vui thế?".

Anh nghe tiếng cười khẽ.

Justin nhận ra tiếng cười ấy. Anh đột ngột dừng lại và quay người một vòng, chạm mặt Charlie, người bảo vệ với chiều cao trên một mét tám.

"Trời đất quỷ thần ơi, tôi cũng đang đi kiếm anh đây!".

"Anh cần gì?".

"Tôi tự hỏi ai đưa cho anh cái giỏ này?".

"Một người giao chuyển hàng hóa từ ...", Charlie di chuyển ra đằng sau cái bàn nhỏ và lật sột soạt mấy tờ giấy. Anh tìm ra một cái bìa kẹp hồ sơ.

"Cửa hàng Harrods", người bảo vệ đọc. "Sao thế? Có gì không ổn với chỗ bánh xốp nướng này à?". Anh ta tằng hắng giọng, cái lưỡi giấu trong miệng chà qua chà lại trên răng.

Justin nhíu mày. "Làm thế nào anh biết được đó là bánh xốp nướng?".

Charlie lảng tránh ánh mắt của anh. "Tôi phải kiểm tra mà, chẳng phải vậy sao? Đây là Phòng Triển Lãm Quốc Gia. Anh không thể yêu cầu tôi chấp nhận một cái gói được gửi vào mà không biết trong ấy có gì".

Justin dò xét Charlie - lúc này mặt đã đỏ bừng lên. Anh phát hiện ra những mảnh vụn bánh nhỏ xíu vẫn còn kẹt lại trên khóe miệng anh chàng bảo vệ, vương lại cả chút ít dấu tích trên bộ đồng phục của anh ta. Anh nhấc tấm vải ca rô phủ trên cái làn bằng mây của mình và đếm. Mười một chiếc bánh xốp nướng.

"Anh không nghĩ là thật ngớ ngẩn khi gửi cho một ai đó mười một chiếc bánh xốp nướng à?".

"Ngớ ngẩn?". Đôi mắt nhìn lảng đi nơi khác, vai nhấp nhổm bồn chồn. "Tôi không biết đâu, anh bạn. Tôi chưa bao giờ gửi bánh xốp nướng cho bất kỳ ai trong suốt cuộc đời mình".

"Chẳng phải rõ ràng là người ta gửi mười hai chiếc bánh xốp nướng sao nhỉ?".

Vai nhún nhẹ. Những ngón tay ngọ nguậy bồn chồn. Ánh mắt anh ta dò xét từng người bước vào phòng triển lãm, chăm chú hơn hẳn mức bình thường.

Những cử chỉ của anh ta đủ nói với Justin rằng anh ta đã kết thúc cuộc nói chuyện.

Justin rút điện thoại di động ra khi anh rời quảng trường Trafalgar.

"A lô?".

"Bea, bố đây!".

"Con không thèm nói chuyện với bố!".

"Sao không?".

"Peter nói với con những gì bố bảo anh ấy ở buổi biểu diễn ba lê tối qua hết rồi", cô bé nhấm nhẳng.

"Bố đã làm gì nào?".

"Bố căn vặn anh ta suốt cả buổi tối xem tình ý của anh ta thế nào".

"Bố là bố của con. Và đó là việc bố phải làm".

"Không đúng. Những gì bố đã làm không khác nào thứ việc tồi tệ nhất ấy!", cô bé giận muốn bốc khói.

"Con thề đấy, con sẽ không nói chuyện với bố nữa, cho đến khi nào bố xin lỗi anh ấy".

"Xin lỗi?", anh bật cười, "Vì cái gì mới được? Bố chỉ đặt vài câu hỏi về quá khứ của cậu ta, nhằm xác định chắc chắn những việc cậu ta định lên kế hoạch".

"Lên kế hoạch? Anh ta chẳng hề lên kế hoạch chuyện gì với con cả!".

"Bố chỉ hỏi cậu ta vài câu hỏi, thế thì sao nào? Bea, cậu ta không đủ tốt với con đâu".

"Không. Anh ta không đủ tốt với bố thì có. Được rồi, con không quan tâm bố nghĩ gì về anh ấy. Miễn là con, chính con đây này, cảm thấy hạnh phúc".

"Cậu ta làm nhũng công việc không ổn lắm để kiếm sống ...".

"Anh ta là một chuyên viên tư vấn về công nghệ thông tin!".

"Con gái yêu, con biết bố cảm nhận thế nào về một chuyên viên tư vấn không. Họ nhìn thấy hết mọi việc, vậy sao họ không tự làm điều đó cho chính mình, thay vì chỉ đi kiếm tiền bằng cách nói nói với người khác?".

"Bố là một giảng viên, một ủy viên ban quản trị, nhà Phê bình sách, bất cứ cái quái gì cũng được. Nếu bố biết nhiều đến thế, tại sao bố không tự xây dựng nên những công trình kiến trúc hoặc vẽ nên những tác phẩm hội họa của chính mình?", cô bé gào lên. "Thay vì chỉ đi khoe khoang với mọi người là bố hiểu biết nhiều về những tác phẩm, những công trình ấy thế nào!".

Hừm.

"Con gái yêu, đừng để mình vượt khỏi khả năng kiểm soát bản thân như thế chứ".

"Không, bố mới là người đang bị vượt khỏi khả năng kiểm soát bản thân. Bố sẽ xin lỗi Peter. Nếu bố không làm thế, con sẽ không trả lời bất kỳ cuộc gọi điện thoại nào của bố nữa và bố có thể tự giải quyết tất cả những trò kịch tính bố gây ra này".

"Chờ đã. Chờ đã. Chờ đã. Chỉ một câu hỏi thôi".

"Bố, con ...".

"Con có gửi cho bố chiếc làn mây đựng một tá bánh xốp nướng quế không?", anh vội vàng hỏi.

"Hả? Không!".

"Không?".

"Không bánh xốp nướng. Không cuộc nói chuyện nào. Không gì cả".

"Được rồi ... con gái. Không cần phải tăng gấp đôi sự phản đối lên như vậy".

"Con sẽ không liên lạc với bố bằng bất kỳ cách nào cho tới khi bố chịu xin lỗi", cô bé kết thúc.

"Thôi được rồi", anh thở dài. "Bố xin lỗi".

"Không phải xin lỗi con. Xin lỗi Peter kia".

"Được rồi, nhưng điều đó không có nghĩa là con sẽ không đi lấy giùm bố đồ bố gửi giặt ủi trên đường con về vào ngày mai đấy chứ? Con biết chỗ đó mà, nó là tiệm giặt ủi bên cạnh ga xe điện ngầm ...".

Điện thoại bị ngắt. Anh nhìn chằm chằm vào màn hình đầy khó hiểu.

Con gái của mình ngắt điện thoại với mình? Mình biết ngay cái cậu Peter đó sẽ gây rắc rối mà.

Anh ngẫm nghĩ lần nữa về những chiếc bánh xốp nướng và bấm số. Tằng hắng giọng.

"A lô".

"Jennifer, anh ... Justin đây".

"Chào anh, Justin". Giọng người vợ cũ lạnh băng.

Giọng nói đó từng ấm áp. Từng ngọt ngào như mật. Không, ngọt ngào như chiếc kẹo caramen nóng bỏng. Giọng nói ấy từng vút lên như nốt nhạc khi cô nghe tên anh bên đầu dây bên kia, giống như tiếng đàn piano đánh thức anh vào buổi sáng Chủ nhật khi nghe cô chơi từ phòng tập nhạc. Nhưng bây giờ thì sao?

Anh lắng nghe sự im lặng ở đầu dây bên kia.

Lạnh băng.

"Anh chỉ gọi để biết liệu có phải là em đã gửi cho anh một chiếc làn mây bánh xốp nướng?".

Ngay khi anh nói điều đó xong, anh nhận ra mình thật kỳ quặc biết bao khi thực hiện cuộc gọi này. Tất nhiên là cô ta đã không hề gửi cho anh cái gì cả. Tại sao cô phải gửi?

"Anh nói gì cơ?".

"Anh nhận được một giỏ bánh xốp nướng gửi đến văn phòng hôm nay, kèm theo một mẩu giấy cảm ơn. Nhưng mẩu giấy không hề cho biết chút thông tin gì về người gửi. Thế là anh tự hỏi có phải đó là em không".

Bây giờ, giọng cô ấy trở nên rất buồn cười, à không, không phải buồn cười, mà là châm biếm, mỉa mai. "Thế theo anh, em phải cảm ơn anh về cái gì nhỉ, Justin?".

Đó là một câu hỏi đơn giản, nhưng vì đã biết cô rõ rệt suốt những năm chung sống, nên anh hiểu rằng nó chứa đựng hàng loạt ẩn ý đằng sau câu chữ, giống như một cái móc câu chờ anh nhảy lên đớp phải. Cái móc câu cắm sâu vào môi anh và một Justin cay đắng liền quay trở lại. Giọng anh trở nên quen thuộc như suốt thời kỳ họ .... vâng, suốt thời kỳ kết thúc mọi thứ của họ. Cô cũng đã so kè với anh từng lời như thế.

"Ồ, anh không biết. Hai mươi năm của cuộc sống hôn nhân, có lẽ thế. Một đứa con gái. Một cuộc sống tốt. Một mái nhà che trên đầu cho em".

Anh biết đó là một lời phát biểu ngốc nghếch. Bởi vì trước anh, sau anh và ngay cả không có anh, cô ấy đã từng và luôn luôn có một mái nhà, với tất cả mọi thứ, che trên đầu cô ấy. Nhưng câu nói ấy buột khỏi miệng anh trong lúc này và anh không thể ngừng lại, sẽ không ngừng lại, để thể hiện rằng anh đúng và cô ấy sai. Sự giận dữ thúc mạnh vào từng từ từng chữ, giống như một người nài ngựa rít lên với con ngựa của mình khi cả hai đã phóng gần về đích.

"Rồi thì đi du lịch khắp thế giới".

Phóng lên nào!

"Rồi thì áo quần. Áo quần. Và nhiều áo quần hơn".

Phóng lên nào!

"Cảm ơn về một cái bếp mới tinh tươm mà chúng ta chẳng cần đến. Về một căn phòng tập nhạc, vì chúa ...".

Và anh tiếp tục, giống như một người đàn ông từ thế kỷ mười chín luôn giữ cho vợ mình một cuộc sống tốt lành trong khi cô ta thì thậm chí không hề có tí tẹo biết ơn, lờ đi sự thật rằng cô được tạo cho một cuộc sống tốt lành, được chơi trong một dàn nhạc, đi du lịch khắp thế giới với anh tháp tùng.

Vào giai đoạn đầu cuộc sống hôn nhân của họ, họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc sống với mẹ Justin. Cả hai đều trẻ và có một đứa con lẽo đẽo theo sau - nguyên nhân cuộc hôn nhân vội vàng của họ. Và rồi, trong khi Justin vẫn tiếp tục đến trường cao đẳng mỗi ngày, nhắm tới những quầy bar giải trí mỗi tối và làm việc ở một viện bảo tàng nghệ thuật mỗi cuối tuần thì Jennifer đã đi kiếm tiền bằng cách chơi đàn piano ở một nhà hàng dành cho giới thượng lưu tại Chicago.

Tới cuối tuần, cô quay về nhà vào sáng sớm, lưng đau nhừ, ngón tay giữa cũng đau nhừ. Nhưng tất cả đều biến khỏi đầu khi cô được bên anh.

Cô biết rằng tràng đả kích này sẽ đến và anh ngấu nghiến, ngấu nghiến, ngấu nghiến, nhai rau ráu ngay miếng mồi đang đầy trong miệng. Cuối cùng, thoát khỏi tất cả những thứ họ đã phải trải qua trong suốt hai mươi năm chung sống với nhau vừa rồi và đã hết hơi hết sức, anh dừng lại.

Jennifer im lặng.

"Jennifer?".

"Vâng, Justin". Lạnh băng.

Justin thở dài, cảm thấy như kiệt sức. "Nào, có phải là em không?".

"Cái giỏ bánh đó chắc hẳn từ một trong số những người phụ nữ khác của anh gửi tới, bởi vì hoàn toàn chắc chắn không phải là từ em".

Cúp máy.

Cơn giận dữ sôi sùng sục bên trong anh. Những người phụ nữ khác.

Những người phụ nữ khác!

Một cuộc tình đến khi anh hai mươi tuổi, một sự lóng ngóng vụng về trong bóng đêm với Mary- Beth Dursoa ở trường cao đẳng, trước cả khi anh và Jennifer kết hôn, và cô ấy cứ tiếp tục mang ý nghĩ như thể anh là một gã sở khanh. Trên giường ngủ của họ, anh đã từng đặt một bức tranh mang tên Than Khóc của Piero di Cosimo, bức mà Jennifer luôn luôn ghê tởm nhưng anh vẫn hi vọng có thể gửi đến cho cô một thông điệp ẩn giấu đằng sau. Trong bức họa ấy, có một cô gái trẻ bán khỏa thân, người mà chỉ mới liếc qua tưởng chừng đang ngủ, nhưng khi nhìn kỹ sẽ nhận ra máu đang rỉ từ cổ cô ấy. Một vị thần nửa người nửa dê đang khóc than cô ấy.

Cách hiểu của Justin về bức tranh là, người phụ nữ mất đi niềm tin về sự trung thực của chồng mình, đã theo anh ta vào rừng sâu. Anh ta đi săn, không hề đi chệch đường như cô nghĩ, và đã vô tình bắn nhầm trúng cô, chỉ vì cô sột soạt trong lùm cây như một con thú. Thỉnh thoảng, suốt những khoảnh khắc trong bóng tối, khi nỗi ghét nhau đã cuồng nộ dâng lên suốt những trận cãi vã gay gắt khó chịu, khi cổ họng của họ đều đã đau nhừ, khi mắt họ đều đã sưng mọng lên vì những giọt nước mắt tràn ra, khi trái tim họ tan vỡ trong cảm giác đau đớn, đầu óc họ nặng trịch với những phân tích này nọ, Justin đều nhìn chăm chăm lên bức tranh và ganh tỵ với vị thần nửa người nửa dê nọ.

Vừa giận dữ vừa xúc động, anh bước xuống những bậc thềm nơi quảng trường, ngồi xuống bên cạnh một đài phun nước, đặt giỏ bánh xuống bên cạnh chân mình và cắn từng miếng bánh nướng quế, ngốn nhanh đến nỗi hầu như không có thời gian thưởng thức mùi vị của nó. Những mẩu bánh vụn rơi xuống chân anh, cuốn hút cả một đàn bồ câu với đôi mắt đen láy những ý định rất rõ ràng tìm đến. Anh vớ tiếp một chiếc bánh xốp nướng khác nhưng anh bị bủa vây bởi những con chim bồ câu hăng hái quá mức mổ mổ cả vào cái làn mây đựng bánh một cách háu ăn. Mổ, mổ, mổ. Anh nhìn cả tá những con bồ câu đang "thẳng tiến" về phía mình, nhon nhón trên mặt đất hệt như những chiếc máy bay phản lực chiến đấu. Lo ngại trước đàn chim háu ăn anh nhấc cái giỏ lên, hù chúng bay tán loạn với tất cả sự "mạnh mẻ" của một cậu bé mười một tuổi.

Anh lướt qua cổng trước ngôi nhà của mình; vẫn để cửa mở sau lưng. Thật bất ngờ, nhào ra đón anh là Doris, với một cây cọ vẽ và bảng màu trong tay.

"Anh xem này, em mới làm lại đấy", cô toe toét.

Những cái móng tay in hình con báo dài ngoẵng của cô được gắn thêm những viên đá lóng lánh. Cô mặc một bộ áo liền quần như da rắn. Đôi chân loạng choạng một cách đầy nguy hiểm trên đôi giày gót cao ngất, có dây buộc ở mắt cá một cách khéo léo. Mái tóc của cô như thường lệ, làm người ta phát sốc vì màu đỏ rực. Đôi mắt hệt như mắt mèo với đường viền mắt kẻ bằng chì đậm nét xếch lên nơi khóe mắt. Đôi môi được tô tiệp màu với mái tóc. Anh nhìn chúng với cảm giác khó chịu cùng cực khi chúng mở ra, khép lại. "Anh thấy tông màu này dùng cho căn phòng có ổn không. Ôi trời ơi, em thích màu kẹo Cappuccino cơ. Nhưng em không nghĩ nó sẽ thích hợp với màu màn cửa. Anh nghĩ thế nào?".

Cô vung vẩy những mảng màu khác nhau trước mặt anh. Nhưng anh không đáp lại. Chỉ hít một hơi thật sâu và đếm đến mười trong đầu, như cách người ta vẫn hướng dẫn để giúp bình tĩnh lại. Và khi nhận ra rằng cô lại tiếp tục vung bảng màu lên để nói tiếp, anh quyết định mình sẽ đếm đến ... hai mươi.

"Chào anh? Justin?", cô quệt ngón tay lên mặt anh một cái "Chào a- n- h!".

"Có lẽ em nên để anh ấy nghỉ ngơi, Doris. Anh ấy có vẻ mệt đấy!", Al nhìn anh trai mình với một vẻ căng thẳng.

"Nhưng ...".

"Thôi được, em hỏi một câu nữa thôi. Bea thích căn phòng của nó được sơn màu ngà. Và Peter cũng vậy. Tưởng tượng xem căn phòng này sẽ lãng mạn biết chừng nào cho ...".

"ĐỦ RỒI!". Justin gào lên bằng tất cả sức lực của mình, không muốn cái tên của cô con gái anh và thế giới lãng mạn gì đó nằm trong cùng một câu.

Doris nhảy dựng lên và ngừng nói ngay tức khắc. Hai tay cô ôm ngực. Al ngừng uống, cái chai đưa lên tới môi như đông cứng lại ở đó. Hơi thở nặng nề của Al, chạm trên thành chai, tạo nên những thanh âm ngồ ngộ như từ cái tẩu hút thuốc bằng ngà.

Sau đó, hoàn toàn là một sự im lặng.

"Doris", Justin hít một hơi sâu, cố gắng nói bằng vẻ bình tĩnh nhất có thể.

"Đủ rồi đấy. Không cần thêm bất kỳ cái gì nữa. Không có cà phê Cappuccino nào ở đây ...".

"Kẹo Cappuccino ...", cô đính chính cái rụp, rồi lại im lặng ngay tức thì.

"Cái gì cũng được. Đây là căn nhà theo phong cách Victoria, từ thế kỷ mười chín, không phải là nơi để em sơn phết đủ thứ màu sắc xanh đỏ tím vàng để làm nên một căn phòng cho các quý cô". Anh cố gắng chế ngự cảm xúc của mình, để không xúc phạm đến cô em dâu. "Nếu em muốn đề cập đến màu sô- cô- la Cappuccino ...".

"Kẹo chứ không phải sô- cô- la", cô thì thầm.

"Gì cũng được! Anh không muốn em phí thời gian làm cái việc này nữa, không khéo em phá hỏng hết mọi thứ ...".

Cô không nói nên lời, đầy vẻ bị xúc phạm, tổn thương.

"Căn nhà này, nếu cần thay đổi thì nó cần những thứ đồ gỗ đúng niên đại, những màu sắc đúng niên đại, chứ không phải cái kiểu tả pí lù như cái thực đơn của Al".

"Ơ này!", Al lên tiếng ngay khi nghe ông anh trai ví von dính đến tên mình.

"Anh biết việc này cần thiết ...", Justin hít một hơi sâu và nói bằng giọng nhẹ nhàng, lịch sự hơn. "Anh đánh giá cao sự giúp đỡ của em. Nhưng căn nhà này không đơn giản giống như em nghĩ ... Nói với anh là em đã hiểu rõ mọi thứ đi nào!".

Cô chầm chậm gật đầu. Điều đó giúp anh thở hắt ra một hơi nhẹ nhõm. Đột nhiên, những tấm bảng màu trong tay cô bay vèo vào một góc tường. Doris rít lên, "Em chưa từng thấy ai tệ như anh!".

"Doris!", Al nhảy ra khỏi chiếc ghế bành. Justin thì ngay tức khắc, lật đật bước về phía sau để tránh dáng vẻ như sắp sửa nhào tới của cô em, với nhưng chiếc móng tay cứ như vũ khí.

"Anh nghe đây, anh là người nhỏ nhen, ích kỷ, hẹp hòi, xấu xa nhất mà em từng thấy. Em đã bỏ ra suốt hai tuần lễ để làm gì? Để nghiên cứu xem tầng hầm nhà anh chứa gì, để dọn dẹp chúng, cái đống đồ đạc mà anh thậm chí cũng chẳng biết đến sự tồn tại ấy. Em đã ở trong bóng tối, quét dọn ... Cái nơi mà người ta nghe toàn mùi cũ mốc ấy. Giọng cô chùng xuống, nhưng vẫn chưa có vẻ gì muốn ngưng.

"Em đã thu thập về bao nhiêu là những cuốn brochure quảng cáo màu sơn của từng giai đoạn lịch sử. Để làm gì à? Vì em muốn chính tay em sẽ chọn ra những màu sơn thích hợp cho anh, trong căn nhà này, những màu sơn của thế kỷ mười chín. Em đã bắt tay làm quen với hết người này đến người khác để tìm hiểu về cái hồn sâu sắc của London mà em chưa từng biết. Em đọc bao nhiêu là cuốn sách cũ, những cuốn sách phủ đầy bụi trên kệ ấy. Em đã xem không biết bao nhiêu màu sơn Dulux để tìm kiếm màu thích hợp. Em đã phải mọc ba đầu sáu tay để lục lọi các cửa hàng đồ cũ để tìm xem những loại đồ gỗ cổ xưa màu sắc thế nào. Em làm đủ mọi thứ em có thể. Vậy mà ...".

Cô dí những ngón tay với chiếc móng dài ngoằn vào sát Justin, đến mức sắp dồn anh sát vào tường. "Đừng Nói Với Em Là Em Không Làm Được Gì!!!".

Cô tằng hắng giọng và đứng thẳng dậy. Cơn giận dữ trong giọng nói bây giờ được thay thế bằng những cái vung tay run bần bật.

"Mặc kệ anh nói cái gì, em cũng sẽ hoàn thành việc này. Em sẽ tiếp tục và không nao núng đâu. Em sẽ làm, không đếm xỉa đến anh. Em sẽ làm nó cho em trai anh, người mà biết đâu có thể chết vào khoảng tháng tới và anh thậm chí cũng chẳng thèm quan tâm đến".

"Chết?", Justin trợn tròn mắt.

Nói bằng đấy câu xong, cô em dâu quay gót giày và bay biến ngay như một cơn lốc lên phòng riêng. Nhưng đến sát cửa, cô quay lại. "Em muốn cho anh biết, em sẽ đập cửa lại RẤT TO, để chứng tỏ cho anh biết rằng em giận dữ đến mức nào".

Tiền sau đó, cô biến đi lần nữa, với một tiếng dập cửa cái rầm.

Tôi bước từng bước một đầy căng thẳng bên ngoài cánh cửa hé mở của ngôi nhà Justin. Có nên bấm chuông bây giờ không? Hay đơn giản là gọi lớn tên anh ta cho trong phòng nghe? Có khi nào anh ta gọi cảnh sát và họ giải tôi đi vì tội xâm phạm gia cư bất hợp pháp? Chưa thấy cái quyết định nào lại tệ như cái quyết định này.

Frankie và Kate đã thuyết phục tôi đến đây, để tự mình "trình diện" với anh ấy. Họ đã bơm tôi lên với đến mức tôi tự tin bắt chiếc taxi đầu tiên để thẳng tiến đến quảng trường Trafalgar, sau khi bắt kịp anh ở Phòng Triển Lãm Quốc Gia trước lúc anh rời khỏi.

Tôi đã gần anh như chưa bao giờ gần thế khi anh nói chuyện điện thoại, đã nghe anh hỏi mọi người về giỏ bánh. Tôi có một cảm giác thoải mái rất ngớ ngẩn khi được quan sát anh mà anh không hề biết. Tôi đã không rời mắt khỏi anh, được nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt thay vì từ trong ký ức.

Cơn giận dữ của anh với ai đó trên điện thoại - tôi gầm như chắc chắn là vợ cũ của anh, người phụ nữ với mái tóc đỏ và những đốm tàn nhang - đã thuyết phục tôi rằng đây là khoảng thời gian chưa phù hợp để tiếp cận anh và thế là tôi đã đi theo anh.

Đi theo, không phải rình rập.

Tôi dành thời gian cố gắng tạo nên cho mình dũng khí để nói chuyện với anh. Tôi có nên đề cập đến chuyện truyền máu không? Có khi nào anh nghĩ rằng tôi có vấn đề về tâm thần? Hay anh sẽ mở lòng để nghe, và ... biết đâu tốt hơn nữa, mở lòng để tin?

Lúc theo anh lên xe điện ngầm, một lần nữa, tôi nhận ra đây không phải là thời điểm phù hợp. Nó quá đông. Mọi người cứ xô đẩy nhau mạnh bạo, tránh nhìn vào mắt nhau, chẳng quan tâm đến những lời giới thiệu làm quen. Và thế là sau những bước đi hối hả lên lên xuống xuống con đường gần nhà anh, giống như một cô nữ sinh mới yêu lần đầu, bây giờ, tôi phát hiện chính mình đang đứng trước cửa nhà anh, với một kế hoạch.

Nhưng kế hoạch của tôi lại một lần nữa bị gián đoạn khi Justin và em trai anh bắt đầu nói đến một điều mà tôi biết rằng tôi không nên nghe. Đó là một bí mật gia đình mà tôi đã vô cùng quen thuộc. Tôi dời ngón tay xa dần khỏi chuông cửa, núp kín sau cánh cửa sổ và chờ một cơ hội tốt của mình.

Justin nhìn quanh phòng xem có cái gì để ngồi không. Anh kéo một thùng sơn to đùng lại và ngồi xuống, không để ý đến cả một vòng sơn trắng còn ướt quanh nắp thùng.

"Al, Doris nói cái gì vậy? Cái gì mà tháng tới em sẽ chết".

"Không, không, không". Al cười rũ. "Cô ấy nói, biết đâu là sẽ chết. Anh thấy không, rõ ràng cách nói này khác hẳn mà. Này, anh nhấm nháp chút này đi anh trai. Tốt cho anh lắm đấy. Cạn nào!". Al dốc ngược chai của mình và uống hết phần bia cuối cùng trong đó.

"Khoan đã, khoan đã. Al, em đang nói về chuyện gì mới được? Có chuyện gì em không nói với anh phải không? Bác sĩ nói gì?".

"Bác sĩ nói với em chính xác những điều em đã nói cho anh nghe hai tuần trước. Nếu có bất kỳ thành viên nào trong gia đình chúng ta từng mất vì bệnh tim trong giai đoạn còn trẻ, ví dụ nam dưới năm mươi lăm tuổi, thì những người còn lại tiềm ẩn nguy cơ mắc phải bệnh mạch vành".

"Em có bị cao huyết áp không?".

"Chút ít thôi".

"Em có bị cholesterol cao không?".

"Rất nhiều".

"Thế thì, tất cả việc em phải làm là thay đổi lối sống, Al. Nó không có nghĩa là em sẽ bị đánh ngã giống như ... giống như ...".

"Bố?".

"Không". Anh nhíu mày và lắc đầu.

"Bệnh mạch vành ở tim là nguyên nhân số một gây chết người ở Mỹ, với cả nam lẫn nữ. Cứ mỗi 33 giây, lại có một người Mỹ phải chịu đựng một số loại triệu chứng của bệnh mạch vành, và hầu như cứ mỗi phút lại có ai đó bị chết đi vì điều ấy. Anh nhìn lên cái đồng hồ của ông cố ngoại bị che mất một nửa trong tấm vải phủ đầy bụi bặm. Từng phút một đang trôi qua. Al ôm lấy quả tim của mình và bắt đầu rên. Rồi những tiếng rên ồn ào nhanh chóng biến thành tiếng cười.

Justin tròn xoe mắt. "Ai nói với em những điều vớ vẩn ấy?

"Những tài liệu in thành tờ rơi ở phòng khám của bác sĩ nói thế".

"Al, em sẽ không bị đau tim đâu".

"Tuần tới là sinh nhật lần thứ bốn mươi của em".

"Anh biết". Justin đập tay vào đầu gối, vui vẻ. "Thế thì chúng ta sẽ phải tổ chức một bữa tiệc lớn thôi".

"Hồi bố mất, bố cũng đúng chừng này tuổi", anh cúi nhìn xuống phần nhãn và lớp bên ngoài của chai bia.

"Những chuyện này là thế nào?", giọng nói của Justin chợt nhỏ nhẹ hơn.

"Khỉ thật, em nói anh nghe xem Al, tất cả những chuyện này là thế nào? Tại sao em không nói gì đó sớm hơn?".

"Em chỉ nghĩ là em nên dành nhiều thời gian bên anh, trước khi anh biết đấy, trong trường hợp ...", mắt Al bỗng rưng rưng và anh vội nhìn đi nơi khác.

Nói cho cậu ấy biết sự thật đi.

"Al, nghe anh nói này, có một việc em cần phải biết". Giọng Justin rưng rưng. Anh tằng hắng mấy lần, cố gắng kiềm chế cảm xúc.

Mình chưa từng bao giờ nói cho ai nghe cả.

"Bố phải chịu đựng một áp lực khổng lồ trong công việc. Ông đã trải qua hàng loạt khó khăn, về tài chính, và mặt khác bố đã không nói với bất kỳ ai cả.

Không ai, kể cả mẹ".

"Em biết, Justin. Em biết".

"Em biết?".

"Vâng, em biết điều đó. Bố đâu có rơi vào cái chết mà không có lý do. Bố đã căng thẳng quá mức chịu đựng. Và em không ... Em biết thế. Nhưng ngay từ khi em còn là một đứa trẻ, cái cảm giác này đã bao trùm lấy em, rằng ngày nào đó nó cũng sẽ xảy ra với em. Nó nhảy nhót trong đầu em lâu đến mức em có thể nhớ rõ và bây giờ, trước ngày sinh nhật của em tuần tới, em lại không có được vóc dáng gọn gàng ... Mọi thứ trong công việc thì quá chừng bận rộn, em lại không chăm sóc bản thân mình. Em không bao giờ có thể làm điều đó như anh, anh biết không?".

"Này, em đâu có cần phải giải thích điều đó với anh":

"Nhớ cái ngày chúng ta đã trải qua với bố trên bãi cỏ trước nhà không? Với những cái bình tưới ấy ... Phải đến hàng giờ trước khi mẹ tìm thấy bố ... Anh nhớ cả nhà mình đã chơi đùa như thế nào không?".

"Chúng ta đã có những khoảng thời gian tuyệt diệu bên nhau", Justin mỉm cười, cố ngăn những giọt nước mắt.

"Anh nhớ không?", Al cười lớn.

"Giống như mới vừa hôm qua ...", Justin nói.

"Bố đã giữ cái vòi và phun nước vào cả hai anh em mình. Dường như ông cảm thấy chuyện đó cực kỳ hài hước". Al cau mày trong những ký ức lộn xộn và nghĩ một lát, trước khi nụ cười quay trở lại.

"Bố mang về cho mẹ một bó hoa to đùng, anh nhớ mẹ cài một bông thật lớn lên tóc không?".

"Bông hoa hướng dương". Justin gật đầu, thêm vào.

"Hôm đó trời nóng khủng khiếp. Anh nhớ nó nóng đến thế nào không?".

"Nhớ chứ".

"Bố đã xắn quần lên tận đầu gối, cởi cả giày vớ ra. Cỏ thì ướt đẫm nước. Bàn chân bố xục trong lớp cỏ. Bố cứ thế đuổi theo chúng ta, chạy vòng vòng, vòng vòng ...". Al cười xa xôi. "Đó là lần cuối cùng em nhìn thấy bố".

Đó không phải lần cuối cùng của anh!

Ký ức Justin lóe lên hình ảnh bố anh đóng lại cánh cửa phòng khách. Justin đã chạy vào nhà từ sân trước lên phòng tắm, tất cả những trò chạy chơi tưng bừng với vòi nước xịt khiến anh lúc đấy hay còn là một cậu bé, thấy mình muốn nổ tung. Tất cả mọi thành viên khác trong gia đình, theo anh biết, đều vẫn còn ở bên ngoài chơi đùa. Anh có thể nghe tiếng mẹ chạy đuổi theo Al, chọc ghẹo Al.

Và Al, lúc đó chỉ mới năm tuổi, vừa cười vừa kêu thét lên. Nhưng khi anh xuống cầu thang, anh để ý rằng bố đi ra khỏi bếp, xuống tiền sảnh. Justin, muốn nhảy ra làm bố ngạc nhiên, bèn núp xuống và nhìn bố từ phía sau thành cầu thang.

Nhưng anh nhận ra có cái gì đó trong tay ông. Anh nhìn thấy một cái chai, chứa chất lỏng gì đó, cái chai luôn được khóa kỹ trong ngăn tủ nhà bếp và chỉ lấy ra trong những dịp đặc biệt khi gia đình bên nội vượt quãng đường dài từ Ai- len đến thăm. Khi tất cả mọi người uống chai này, họ đều thay đổi, họ hát những bài hát mà Justin chưa bao giờ nghe trước đó nhưng bố anh thì biết rõ từng từ, họ cười lớn, kể những câu chuyện và đôi khi khóc. Anh không chắc tại sao cái chai đó bây giờ lại trong tay bố. Hay là bố muốn hát, muốn cười, muốn kể những câu chuyện trong hôm nay? Hay là bố muốn khóc?

Kế đó, Justin nhìn thấy một lọ thuốc cũng đang trong tay bố nữa. Anh biết đấy là thuốc, bởi vì chúng nằm trong một cái hộp giống như cái hộp mà bố mẹ hay lấy thuốc uống mỗi khi bị ốm. Anh hi vọng bố không cảm thấy "bị ốm" lúc này, và anh hi vọng ông không muốn khóc. Anh nhìn theo khi ông đóng cửa lại sau lưng, vời những viên thuốc và chai rượu trong tay. Lẽ ra anh nên biết rằng bố định làm gì khi đó, nhưng anh đã không biết.

Cậu bé chín tuổi Justin chẳng bao giờ nghe biết chuyện gì tiếp theo. Anh vẫn nấp ở trên cầu thang, đợi bố đi ra đi anh có thể nhảy ra làm bố bất ngờ. Khi thời gian cứ thế trôi qua, anh bắt đầu cảm thấy có điều gì không ổn. Nhưng anh không biết tại sao anh có cảm giác ấy. Anh cũng không muốn phá hỏng dự tính nhào ra ôm bố để bố bất ngờ bằng việc đi kiểm tra xem bố thế nào.

Vài phút mà lâu như hàng giờ. Không có gì cả ngoài sự im lặng từ phía sau cánh cửa đóng kín. Justin nuốt cổ họng khô khốc và đứng dậy. Anh vẫn có thể nghe Al đùa giỡn la hét bên ngoài. Anh vẫn còn nghe tiếng Al cười khi anh đi vào trong phòng và nhìn thấy hai bàn chân xanh lét trên sàn. Anh nhớ sâu sắc cái hình ảnh hai bàn chân ấy, bố nằm trên sàn, như một người khổng lồ màu xanh. Anh nhớ đã theo những bàn chân ấy và tìm thấy bố nằm trên sàn, nhìn bất động lên trần nhà, không còn sự sống.

Anh không nói gì cả. Không gào thét. Không chạm vào ông. Không hôn ông.

Không cố gắng giúp ông. Bởi vì mặc dù anh không hiểu nhiều lắm vào thời gian ấy, nhưng anh đã biết rằng quá trễ để giúp rồi. Anh chỉ chậm chạp quay ra khỏi phòng, đóng cánh cửa lại sau lưng và chạy ra ngoài bãi cỏ với mẹ và em trai mình.

Họ đã có năm phút với nhau. Năm phút của mọi thứ vẫn chính xác là như cũ.

Anh chín tuổi. Vào một ngày nắng đẹp, với bố mẹ và đứa em trai. Và anh đã hạnh phúc. Và mẹ đã hạnh phúc. Và những người hàng xóm đã mỉm cười với anh, bình thường như họ vẫn làm với mọi đứa trẻ khác. Tất cả thức ăn của bữa tối đều được chính mẹ nấu cho. Và khi anh không ngoan ở trường, thầy cô lại hét toáng lên với anh, như họ nên làm thế.

Năm phút của mọi thứ vẫn chính xác là như cũ, cho đến khi mẹ anh đi vào nhà và sau đó tất cả mọi thứ hoàn toàn khác biệt, tất cả mọi thứ đều thay đổi.

Năm phút sau, anh không còn chín tuổi. Không còn với bố mẹ và đứa em trai.

Anh đã không còn hạnh phúc. Mẹ đã không còn hạnh phúc. Những người hàng xóm mỉm cười với anh với nỗi buồn rầu giấu trong đáy mắt khiến anh ước giá họ đừng mỉm cười thì hơn. Tất cả những gì anh ăn đều do những phụ nữ sống trên cùng con đường mang tới trong hộp giấy những người luôn trông có vẻ buồn buồn - nhằm bày tỏ sự chia sẻ. Và khi anh nghịch phá gì đó ở trường, thầy cô vẫn chỉ nhìn anh với cùng một gương mặt. Tất cả mọi người đều có cùng một gương mặt như nhau. Cảm thông, thương cảm. Năm phút anh cố kéo thêm không đủ.

Mẹ nói với mọi người rằng bố đã bị một cơn đau tim. Bà nói với tất cả những người khác trong gia đình và mọi người đến thăm rằng cơn đau tim tới khi bố ăn một miếng bánh gì đấy.

Justin không bao giờ cho phép mình nói ra cho bất kỳ ai rằng anh biết sự thật. Nửa phần vì anh muốn tin vào lời nói dối và nửa phần vì anh nghĩ mẹ anh cũng bắt đầu tin vào điều bà tự nói dối ấy. Thế là anh giữ nó cho riêng mình.

Anh không nói với cả Jennifer, bởi vì anh sợ nói điều đó ra có thể làm nó trở thành sự thật. Anh không muốn công nhận bố anh đã chết bằng cách ấy. Và bây giờ, khi mẹ đã qua đời, anh trở thành người duy nhất biết sự thật về bố anh.

Câu chuyện về cái chết của bố đã được nói dối, được bịa đặt để giúp họ vượt qua đám mây u ám bao phủ. Thế nhưng, câu chuyện ấy như một gánh nặng với Justin. Anh muốn nói với Al sự thật ngay bây giờ, anh đã thật sự muốn làm điều đó. Nhưng làm thế nào được? Chắc chắn biết sự thật thì còn tệ hơn nhiều, và anh phải giải thích thế nào, tại sao anh giữ nó trong lòng sau ngần ấy năm ...?

Song, sau đó hẳn là anh không phải mang tất cả gánh nặng trên vai lâu hơn. Có lẽ cuối cùng đó sẽ là chút giải thoát cho anh. Nó có thể giúp làm tan biến đi nỗi lo sợ về cơn đau tim của Al và họ có thể cùng giải quyết với nhau chuyện đó.

"Al, có một chuyện này anh phải nói với em", Justin bắt đầu.

Đột nhiên, tiếng chuông cửa vang lên. Một cái bấm chuông dứt khoát, rất mạnh cắt ngang ý nghĩ của cả hai người, phá vỡ khoảnh khắc im lặng như một nhát búa tạ đập vào cửa kính. Tất cả mọi suy nghĩ của họ nãy giờ vỡ tan tành và rơi loảng xoảng từng mảnh nhỏ trên nền đất.

"Ai bấm chuông thế nhỉ?". Doris kêu lên, phá vỡ sự im lặng.

Justin đi ra cửa, với một vệt sơn hình tròn màu trắng in trên quần phía đằng sau. Cánh cửa đã được khép hờ, và anh kéo nó mở rộng hơn. Phía trước anh, trên hàng rào, treo một túi giặt ủi sạch. Những bộ vest của anh, những chiếc sơ mi và áo thun lót bên trong đều được phủ riêng trong từng lớp nilon. Không có ai ở đây. Anh bước ra ngoài và chạy lên vỉa hè để xem ai đã để chúng lại đó, nhưng không có ai cả. Bãi cỏ phía trước trống trơn.

"Ai thế anh?", Doris hỏi lớn.

"Không có ai cả", Justin đáp, khó hiểu. Anh tháo cái móc túi giặt ủi của anh trên hàng rào xuống và mang nó vào bên trong.

"Anh định nói với em là mấy bộ áo này biết tự nhấn chuông cửa hả?", Doris hỏi, vẫn còn đầy vẻ giận dữ.

"Anh không biết. Thật lạ! Bea dự tính sẽ đi lấy những thứ này vào ngày mai.

Anh đâu có đặt hàng chỗ dịch vụ giặt ủi bảo họ mang tới tận nhà".

"Có lẽ đó là dịch vụ giao hàng đặc biệt, dành cho những khách hàng tiềm năng, vì nhìn chừng này áo quần thì em đoán chắc là họ đã giặt ủi hết cả tủ quần áo của anh đấy". Cô nhìn anh phân loại quần áo với vẻ ngán ngẫm.

"Ừ", và anh đánh cuộc dịch vụ giao trả quần áo tại nhà này sẽ kèm theo một hóa đơn chóng mặt, anh lẩm bẩm.

"Anh đã có chút ít xào xáo với Bea trước đó, có lẽ nó làm thế này thay một lời xin lỗi".

"Ồ, anh đúng là một người bướng bỉnh không chịu nổi".

Doris trợn mắt. "Có khi nào anh chịu nghĩ, dù chỉ một giây rằng anh mới là người phải nói lời xin lỗi?".

Justin nheo mắt nhìn cô. "Em đã nói với Bea phải không?".

"Ơ nhìn nè, có một cái bì thư bên mặt này", Al chỉ tay, cắt ngang để khỏi phải bắt đầu một cuộc chiến mới.

"Hóa đơn của anh đó", Doris cười lớn.

Tim Justin đột nhiên thót lại khi anh bắt gặp cái bì thư quen thuộc. Anh ném đống quần áo xuống trên tấm vải lấm bụi và xé toạc cái phong bì.

"Cẩn thận chứ!", Doris nhặt những mảnh giấy lên.

Anh mở phong bì, nuốt nước bọt một cách khó khăn, đọc mẩu giấy kèm theo.

"Viết gì trong ấy thế?", Al hỏi.

"Chắc phải là một cái hóa đơn mắc phát khiếp, nhìn mặt anh ấy kìa!", Doris trêu chọc. "Hoặc là một lá thư nài nỉ. Có gì không ổn với chúng à? Họ muốn bao nhiêu?".

Justin lục lọi, lấy ra tấm thiệp anh nhận được trên giỏ bánh nướng xốp trước đó. Rồi anh giữ hai tấm thiệp gần nhau để họ có thể đọc trọn vẹn câu. Từng chữ một trên đó làm anh lạnh cả sống lưng.

Cảm ơn ... Đã cứu sống cuộc đời tôi!

Tôi nằm trong một chiếc thùng, không thở được, tim đập thình thịch với tốc độ của một đôi cánh chim đang hoạt động hết cỡ. Tôi giống như một đứa trẻ đang chơi trốn tìm, với cảm giác cực kỳ căng thẳng, hồi hộp phấn khích nôn nao trong dạ dày; như một con cún đang cố xoay người vòng vòng, cố hất bằng được mấy con bọ chét ra khỏi người. Làm ơn đừng tìm ra em, Justin. Đừng tìm thấy em đang như thế này, nằm trong cái thùng chứa vật liệu xây dựng thừa trong vườn nhà anh, người dính đầy bụi bặm và vữa thạch cao.

Tôi nghe tiếng bước chân của anh di chuyển xa hơn, những bước chân di chuyển về phía ngôi nhà và tiếng cửa đóng lại.

Tôi làm cái quái gì thế này? Một kẻ hèn nhát. Đã chạy như vịt ra và bấm chuông cửa để ngăn Justin kể câu chuyện về bố anh ấy cho Al, và sau đó, sợ đóng vai chúa trời với hai người lạ, tôi đã chạy như tên bắn, trốn xuống dưới đáy cái thùng này.

Tôi không chắc tôi sẽ có thể nói điều gì với anh. Tôi không biết làm cách nào để tìm ra được từ ngữ giải thích cái cảm giác mà tôi đang cảm thấy lúc này.

Thế giới không phải là một nơi đơn giản. Những câu chuyện như thế này phần lớn sẽ xuất hiện trên tờ Điều Tra, Pháp Luật, hoặc trải rộng trên cả hai trang hoành tráng của những tạp chí lá cải dành cho phụ nữ khác. Bên cạnh câu chuyện, hẳn sẽ có cả một tấm hình của tôi, trong khu vườn của bố, trông đầy vẻ cô đơn khổ sở trước máy ảnh. Chẳng trang điểm gì cả. Không! Justin có lẽ chẳng bao giờ tin tôi nếu tôi nói với anh ấy, nhưng hành động thì có thể mang lại tác động lớn hơn lời nói.

Nằm quay lưng xuống, tôi nhìn đăm đắm lên bầu trời. Nằm quay mặt xuống, những đám mây trên kia đang nhìn chằm chằm xuống tôi ở dưới này. Chúng trôi lướt qua người phụ nữ trong cái thùng vật liệu xây dựng với vẻ tò mò, gọi cả những đám mây lang thang phía sau chúng đến cùng xem. Càng nhiều đám mây hợp lại, chúng càng háo hức để tận mắt nhìn thấy điều mà những đám mây khác đang í ới gọi đến xem. Sau đó, chúng cũng trôi lướt qua, để lại mình tôi, nhìn lên bầu trời xanh với lác đác những cụm mây trắng còn sót lại. Tôi tưởng như nghe được cả tiếng mẹ tôi cười lớn, hình dung được cả cách bà thúc khuỷu tay vào những bà bạn khác để đến xem con gái của mẹ. Tôi tưởng tượng ra bà, nhìn trộm qua những đám mây, giống hệt như cái cách bố làm ở ban công chỗ ngồi trên cao của Nhà hát Hoàng gia. Tôi mỉm cười, tận hưởng điều đó lúc này.

Bây giờ, khi tôi phủi bụi, những vệt sơn và vụn gỗ khỏi quần áo, lồm cồm trèo ra khỏi thùng vật liệu xây dựng, tôi cố gắng để nhớ những điều khác mà Bea đã đề cập, những điều bố cô muốn người được anh cứu sống làm.

"Justin, bình tĩnh lại nào, vì Chúa. Anh đang làm em sợ đấy!". Doris ngồi trên một cái thang gấp và nhìn theo Justin, đi tới đi lui trong phòng với tốc độ chóng mặt.

"Anh không thể bình tĩnh được. Em không hiểu anh đang muốn nói cái gì hả?". Anh chìa ra hai mảnh giấy, ghép lại thành một câu nguyên mà anh đã nhận được.

Mắt Doris mở to hơn. "Anh đã cứu sống một ai đó?".

"Vâng". Anh nhún vai và thôi bước. "Nó cũng không thật sự là việc gì lớn.

Đôi khi em chỉ làm một việc gì đó mà em cần làm thôi".

"Anh ấy hiến máu", Al cắt ngang sự cố gắng khiêm tốn của anh trai mình.

"Anh hiến máu?".

"Cái lần anh ấy đã gặp cô ma cà rồng đó, em nhớ chưa?". Al nhắc lại những tình tiết cho vợ, "Ở Ailen, nơi người ta dễ dàng hỏi:

Có thích hiến nửa lít máu không!!! Cẩn thận đấy!".

"Tên cô ấy là Sarah, không phải cô ma cà rồng".

"Thế là anh đã hiến máu để có được một cuộc hẹn hò". Doris khoanh tay trước ngực.

"Không có gì tốt hơn anh đã làm được hả, hay tất cả những việc này anh đều làm chỉ vì chính anh?".

"Này, anh cũng có trái tim chứ bộ!".

Al và Doris cười rũ ra, đấm thùm thụp vào nhau trước những câu đối đáp ăn ý của mình.

Justin hít một hơi sâu. "Quay về với những gì chúng ta đang có trong tay đi.

Ai đã gửi cho anh những mẩu cảm ơn này và mục đích của nó là gì?".

Anh lại bắt đầu đi tới đi lui cắn móng tay. "Có lẽ đây là ý tưởng một trò đùa của Bea. Nó là người duy nhất anh nói về chuyện xứng đáng để nhận được một lời cảm ơn trở lại sau khi đã cứu sống cuộc đời ai đó".

Trời, làm ơn đừng là con nha Bea!

"Này anh, anh ích kỷ quá đấy!", Al cười thành tiếng.

"Không", Doris lắc đầu, đôi bông tai quá dài lúc lắc chạm vào gò má cô với mỗi nhịp lắc đầu như thế. "Bea không muốn làm bất cứ cái gì dính đến anh đâu, cho đến khi anh xin lỗi. Em không biết dùng lời nào để diễn tả là bây giờ nó đang ghét anh đến mức nào".

"Cảm ơn chúa vì điều đó", Justin tiếp tục bước. "Nhưng hẳn là nó đã kể cho ai đó nghe, không thì chuyện này không thể xảy ra được. Doris, em phải tìm ra xem Bea đã kể cho ai nghe về chuyện đó chứ!".

"Hừ". Doris nghếch cằm lên nhìn qua chỗ khác. "Anh đã nói một vài điều rất tệ về em trước đây. Em không nghĩ rằng em có thể giúp anh".

Justin khuỵu gối xuống trước Doris.

"Làm ơn đi, Doris. Anh xin em. Anh rất ... rất xin lỗi về những gì anh đã nói.

Anh không thể nói gì hơn về khoảng thời gian và những điều em đã làm cho nơi này. Anh đã đánh giá không đúng em. Không có em, chắc hẳn là anh vẫn còn uống nước trong cái cốc dùng đánh răng và ăn trong cái bát dành cho mèo".

"Này, em phải kiểm tra lại điều anh ấy vừa nói đấy", Al cắt ngang trò quỳ gối nài nỉ của ông anh trai. "Anh ấy thậm chí còn không có một con mèo nữa thì ăn trong bát dành cho mèo sao được".

"Thế em có phải là một nhà thiết kế tuyệt diệu, năng khiếu tiềm ẩn từ sâu thẳm bên trong không?". Doris nghếch mặt lên.

"Vâng ... một nhà thiết kế tuyệt diệu".

"Tuyệt diệu thế nào?".

"Tuyệt diệu hơn ...", anh đánh trống lảng, "Andrea Palladio".

Doris nhìn sang trái rồi nhìn sang phải. "Ông ta giỏi hơn cả Ty Pennington à?".

"Ông ta là một kiến trúc sư người Ý ở thế kỷ mười sáu, được biết đến với những ảnh hưởng rộng rãi đến lịch sử kiến trúc Phương Tây".

"Ồ ... Được rồi. Anh được tha thứ", cô chìa tay ra, "Đưa em điện thoại của anh, em sẽ gọi cho Bea".

Một lúc sau, cả ba người đều đã ngồi quanh chiếc bàn mới trong nhà bếp, lắng nghe cuộc chuyện trò của Doris qua điện thoại, tất nhiên chỉ nghe được phân nửa - là những lời Doris nói.

"Được rồi, Bea đã nói với Peter, với người chuẩn bị phục trang cho vở Hồ Thiên Nga, và bố cô ấy".

"Người chuẩn bị phục trang? Tụi em còn giữ cuốn chương trình chứ?".

Doris biến vào phòng ngủ và quay lại với cuốn chương trình ba lê. Cô gõ nhẹ vào những trang giấy.

"Không phải", Justin lắc đầu khi đọc hết phần giới thiệu về người phụ nữ ấy.

"Anh đã gặp người phụ nữ này tối hôm đó, và đó không phải là người bí ẩn.

Nhưng bố cô ấy có trong này không? Anh không thấy bố cô ấy đâu cả".

Al nhún vai.

"Những người này không liên quan gì đến cả. Anh chắc chắn rằng đã không cứu sống cuộc đời người phụ nữ này hay bố cô ta. Người đó chắc hẳn phải là người Ai- len và đã nhận được sự chăm sóc theo dõi trong một bệnh viện Ailen".

"Biết đâu bố cô ấy là người Ai- len, hoặc đã từng ở Ai- len".

"Đưa cho anh cuốn chương trình, anh sẽ gọi đến nhà hát".

"Justin, anh không thể gọi cho cô ấy được", Doris giật cuốn chương trình trong tay anh, nhưng anh khéo léo tránh được. "Anh định nói gì?".

"Tất cả những việc anh muốn biết chỉ là bố cô ấy có phải là người Ai- len không hoặc đã từng ở Ai- len tháng rồi không?".

Al và Doris nhìn nhau đầy lo lắng trong khi Justin rời khỏi nhà bếp, đi gọi điện thoại.

"Anh có từng như thế này không?" Doris hỏi nhỏ Al.

"Không đời nào", Al lắc mạnh đầu, cằm đưa qua đưa lại.

Năm phút sau, Justin quay trở vào.

"Cô ấy nhớ đã gặp anh, và ... không, không phải là cô ấy hay bố cô ấy. Vậy là, hoặc Bea đã nói với ai đó khác nữa, hoặc là ... chắc hẳn Peter đã ngớ ngẩn nhiều chuyện với người khác. Anh phải đi gặp mấy đứa nhỏ và ...".

"Xử sự người lớn chút đi, Justin. Không phải cậu ấy đâu!". Doris nói nghiêm nghị. "Phải bắt đầu tìm kiếm ở nơi khác. Gọi cho những người giặt ủi quần áo, gọi cho anh chàng đã chuyển những chiếc bánh xốp nướng đến".

"Anh làm hết rồi. Họ được thanh toán qua thẻ tín dụng và theo nguyên tắc họ chẳng thể tiết lộ chút gì về người chủ thẻ".

"Cuộc đời của anh là một bí mật to lớn. Giữa người phụ nữ tên Joyce và những người bí mật giúp chuyển thông điệp của cô ấy. Anh nên thuê một thám tử tư. Doris đáp lại. "Ồ, em nhớ rồi!", cô chợt lục lọi trong túi rồi đưa cho anh một mẩu giấy.

"Nhân nói chuyện những thám tử tư, em có cái này cho anh. Em có nó vài ngày trước nhưng không nói gì vì em không muốn anh làm một chuyện vô ích như đi chăn ngỗng trời. Nhưng anh hãy xem nó nếu như anh chọn cách này.

Đây!".

Cô đưa cho anh mẩu giấy với những chi tiết về Joyce ở bên trong.

"Em đã gọi cho Trung Tâm Truyền Thông Quốc Tế và đưa cho họ số điện thoại cá nhân của người tên Joyce đã gọi đến cho Bea tuần rồi. Họ cho em địa chỉ để đến đấy.

Em nghĩ tìm người phụ nữ này là một ý tưởng tốt hơn đấy, Justin. Quên người bí ẩn kia đi. Al biết được người gửi cho anh những mẩu tin nhắn này là ai? Tập trung vào người phụ nữ này, một mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh mới là điều anh cần".

Anh đọc lướt qua mẩu giấy trước khi nhét nó vào túi áo, hoàn toàn không quan tâm đến. Tâm trí anh đang ở nơi nào khác.

"Anh chỉ muốn nhảy vào chuyện người bí ẩn kia thôi, phải vậy không?", Doris dò xét.

"Này, cũng có thể là người phụ nữ tên Joyce đã gửi những thông điệp", Al nói to chen vào.

Cả Doris và Justin đều quay lại nhìn anh, mắt trợn tròn.

"Đừng có kỳ quặc như thế, Al". Justin gạt ra. "Anh đã gặp cô ấy ở tiệm hớt tóc. Ai nói với em đó là người bí ẩn đã làm tất cả những chuyện này?".

"Ừm, mọi thứ rất rõ ràng". Al đáp. "Bởi vì anh đã nhận được một giỏ bánh nướng xốp". Al khịt mũi. "Chỉ có một người phụ nữ mới có thể nghĩ ra chuyện gửi đến một giỏ bánh xốp nướng. Hoặc là một anh chàng đồng tính. Và cho dù là ai đi nữa, anh ta hoặc cô ta - hoặc có thể là một người bán nam bán nữ - viết chữ rất đẹp, điều đó càng khiến giả thuyết của em có cơ sở. Một phụ nữ, một người đồng tính, hoặc một người bán nam bán nữ", anh kết lại.

"Anh đây này, chính anh đã từng là một người nghĩ đến giỏ bánh xốp nướng", Justin vênh vênh, phản đối. "Và, anh cũng là một người viết chữ đẹp!".

"Đấy! Thì đúng như em nói. Chỉ có thể là một phụ nữ, một gã đồng tính, hoặc người nửa này nửa kia", anh chàng cười toe toét.

Justin cáu tiết vung tay lên và buông người rơi lại vào ghế. "Hai em không giúp được gì cả".

"Này, em biết ai có thể giúp anh", Al nhổm lên.

"Ai?", Justin chống cằm, đầy chán nản.

"Cô ma cà rồng", anh nói với một vẻ giả vờ hoảng sợ.

"Anh đã nhờ cô ấy giúp rồi. Tất cả những gì anh có thể xem được là những chi tiết về máu của mình trong ngân hàng dữ liệu. Không có thông tin gì về người nhận máu do anh hiến tặng. Cô ấy sẽ không nói cho anh biết là máu của anh đã đi đâu đâu và cô ấy cũng sẽ chẳng bao giờ nói chuyện với anh lần nữa".

"Vì anh đã bỏ mặc cô ấy, chạy theo chiếc xe buýt Viking?".

"Em biết lý do sao anh làm vậy mà!".

"Justin, anh đúng là có một cách xử sự hết ý kiến với phụ nữ".

Anh nhìn chằm chằm vào hai mẩu giấy - đã được anh đặt ở giữa bàn.

Là ai nhỉ?

"Anh không phải hỏi Sarah quá thẳng thắn vào vấn đề đâu. Có lẽ anh nên rình theo dõi cô ấy tí tẹo trong văn phòng của cô ấy", Al trở nên đầy hứng thú.

"Không được, thế là sai đấy". Justin không bị thuyết phục. "Anh sẽ dính vào rắc rối. Anh đã gây rắc rối cho cô ấy rồi, bên cạnh đó, anh đã xử sự rất tệ với cô ấy!".

"Đấy thật sự là một việc làm rất đáng yêu!", Doris đầy ranh mãnh. "Có thể đón cô ấy ở văn phòng, nói với cô ấy rằng anh xin lỗi, như một người bạn".

Một nụ cười nhẹ nhàng nở trên gương mặt mỗi người bọn họ.

"Nhưng anh làm sao xin nghỉ một ngày tuần tới để đến Dublin?". Doris hỏi, phá tan khoảnh khắc tinh quái vừa rồi.

"Anh đã nhận lời mời từ phòng triển lảm quốc gia ở Dublin, sẽ có một buổi nói chuyện về tác phẩm Người Phụ Nữ Viết Thư", Justin nói đầy hào hứng.

"Bức họa ấy vẽ gì thế?", Al hỏi.

"Một phụ nữ viết thư, thám tử ạ!". Doris khịt mũi.

"Nghe chán phèo!", Al chun chun mũi. Sau đó, anh và Doris ngồi xuống, quan sát Justin đọc những mẩu giấy cảm ơn lần này sang lần khác, hi vọng giải mã được những gì giấu trong đó.

"Người Đàn Ông Đọc Mẩu Ghi Chú", Al nhại, "Thảo luận đi".

Al và Doris cười rũ ra lần nữa khi Justin bước ra khỏi phòng.

"Này anh đi đâu đấy".

"Người Đàn Ông Đi Đặt Vé Máy Bay", anh nháy mắt.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện