Dọc quãng đường, họ lại bắt gặp thêm một con quái vật lai.

Nó khác hẳn với con bại trận dưới súng của Lục Phong – nó mảnh dẻ, màu xám đen, giống con bọ que được phóng to gấp bội lần, sau lưng nó mọc cặp cánh mỏng to tướng mà chỉ bươm bướm mới có, hai sợi râu mỏng vươn dài từ trên trán, ta chẳng lần ra nổi mắt nó ở nơi nao. Thân hình nó dài hơn năm mét, có sáu chân mảnh. Thời khắc họ vượt qua một bờ dốc thoải thì nó đang xực con thằn lằn to tầm hai mét, cơ thể giáp xác sáng loáng vốn lung linh dưới ánh cực quang dần biến thành lớp vảy sần trong lúc nó mải ăn.



Bọ que

Cơ thể linh hoạt nhẹ bỗng giúp nó di chuyển như con thoi rất chóng, chờ ăn xong đầu thằn lằn thì con bọ que này bèn nằm ép xuống lấy đà, kế đó nhảy bật đến đằng trước, mồm thì cắp con mồi còn dư vỗ cánh bay về phương trời xa… Nó vẫn chưa phát hiện ra sự tồn tại của Lục Phong và An Chiết.

Đây có lẽ chính là quái vật kiểu lai thông minh mà Lục Phong từng nhắc, nó hiểu mình cần tìm chốn ẩn náu bí mật sau khi thu hoạch gen để vượt qua giai đoạn mất ổn định.

An Chiết dõi theo cặp cánh trắng muốt nọ, đoạn cất lời khen từ tận đáy lòng:

– Đẹp quá à.

Bản thân cậu cũng là màu trắng, cậu thích màu sợi nấm của mình lắm, nhưng cậu lại chẳng có cặp cánh bung xòe và xinh xắn như vậy, dẫu trở về nguyên hình thì cũng chỉ là một cục xốp tròn vo thôi, cậu đã đánh mất vẻ ngoài mà một cây nấm nên có từ lâu rồi – bị nước mưa cùng gió lốc thổi gãy quặp vào mùa giông thuở bé con, còn mang tiếng là “Biến dị thoát li hình thái cơ bản của loài”, điều này khiến cậu cảm thấy thật nhục nhã.

Chợt nghe Lục Phong bình tĩnh hỏi:

– Em muốn ăn nó à? An Chiết:

–.

Cậu chối phăng:

– Không phải vậy.

Lục Phong nói:

– Đừng ăn bậy.

An Chiết lầm bầm đáp:

– Em đâu có đánh lại chúng nó.

Nghe thế, khóe môi Lục Phong hơi giương lên.

Thân làm một dị chủng, lại còn bị con người dạy dỗ cấm bạ đâu ăn đó, An Chiết thấy tức giận lắm, đáng nhẽ cậu phải có quyền ăn uống tự do chứ.

Kế đó bụng cậu vang rồn rột.

Lục Phong hỏi:

– Đồ ăn của em đâu?

An Chiết nhớ lại lượng thức ăn còn dư, khéo chẳng đủ cho một bữa luôn ấy chứ, cậu trả lời:

– Đợt thêm chốc nữa.

Suy ngẫm giây lát, cậu hỏi Lục Phong:

– Anh đói rồi à?

Lục Phong đáp:

– Tôi ổn.

An Chiết dám chắc rằng cái tên này đang cãi bướng, cậu trở tay moi nửa miếng lương khô ra khỏi ba-lô, bẻ một phần, đoạn giơ ra trước mặt Lục Phong định đút cho anh.

Thượng tá cũng không cự tuyệt.

An Chiết tiếp tục đút, đút tới miếng thứ ba thì sực nhớ món này khô khốc dữ lắm, phải vừa ăn vừa uống mới đúng. Nước cũng chỉ còn non nửa bình, cậu lấy ra, cơ mà chẳng biết nên để thượng tá uống kiểu gì, vì vậy cậu đành bảo:

– Anh dừng chân một lát.

Thế là đương lúc ngày dần rạng, cậu và Lục Phong ngồi lẩn sau một tảng đá to chia đôi nốt bình nước. Nước là thứ khiến nấm vui sướng khôn tả, An Chiết liếm môi, kế đó bỗng bị Lục Phong nhét một miếng lương khô vào mồm.

Ngón tay hơi lạnh tình cờ chạm trúng bờ môi An Chiết, An Chiết ngậm miếng lương khô từ tốn nuốt ực xuống, chẳng thể tin nổi giây phút này cậu lại thấy thảnh thơi quá, dù rõ ràng thức ăn thức uống của họ đã sắp vơi sạch rồi, chẳng hay biết ngày mai nên sống bằng cách nào nữa.

Cậu nói cùng Lục Phong:

– Anh ăn đi, em không vận động.

Không vận động thì không cần ăn nhiều đâu.

Lục Phong giữ im lặng, xoa nhẹ mái tóc cậu, An Chiết ngẩng đầu nhìn thẳng vào anh. Cậu nhận thấy trong nắng mai nhạt nhòa, ánh mắt vốn luôn thờ ơ của thượng tá thậm chí được tô điểm đôi chút ấm áp.

Khoảnh khắc đó An Chiết chợt nảy nở một thứ ảo tưởng huyễn hoặc, mặc dù cậu hoàn toàn khác biệt với Lục Phong, mặc dù giữa họ chẳng có bất cứ tiếng nói chung nào, nhưng mà… nếu như tín hiệu không bao giờ khôi phục, nếu như có một ngày cậu và Lục Phong đều là dị chủng, hoặc cậu và Lục Phong đều là con người, nếu như họ vẫn còn sống, và nếu như, thực tình có ngày ấy, vậy thì có lẽ họ sẽ làm bạn rất thân.

Bản thân cậu chả phải là cá thể ưu tú vượt trội trong xã hội loài người, thậm chí còn được xem như một cá thể vô giá trị, song thượng tá vẫn đối xử với cậu tốt lắm, cho nên giả sử Lục Phong biến thành dị chủng, miễn là đừng xấu tệ thì cậu hứa sẽ không ghét anh đâu.

Nhưng điều này vốn dĩ chẳng thể thực hiện, Lục Phong là con người, mà tiếc thay cậu lại là nấm. Tuy nhiên nếu cậu là người ngay từ thuở ban sơ, biết đâu chỉ là một cư dân tầm thường ở ngoại thành, hoàn toàn không có cơ hội quen biết Lục Phong. Ngẫm kiểu đó, cậu lại thấy may mắn vì mình là một cây nấm.

Họ tiếp tục đi về phía trước, qua một đêm, An Chiết nhận thấy chân mình bớt đau nhiều rồi, vì thế cậu bèn nói Lục Phong đừng cõng nữa, để cậu tự đi. Giây phút được thả xuống, cậu phát hiện Lục Phong thoáng chau mày trông sang bên cạnh.

Có hai bộ xương người vỡ vụn nằm dưới một tảng đá lớn gần đấy, xương sọ và cột sống đứt đoạn văng xa nhau cả quãng, xương tay chẳng rõ tung tích, một khúc xương đùi xám ngoét chênh chếch cắm trong đụn cát – như cán cờ, hoặc là mộ bia.

Họ tới gần vị trí đó, Lục Phong cúi người vươn ngón tay lau đi lớp bụi mỏng bám trên một bộ xương.

– Còn mới phết, tầm hai hôm thôi – Anh nói.

Lời anh vừa dứt, ánh mắt lúc An Chiết quan sát bộ xương cũng bắt đầu nghi ngại. Trong trường hợp hiện tại, thì vùng ngoài hẳn là không có mống người nào sinh sống nữa rồi, cho nên đào đâu ra xương người mới chứ. Cậu hỏi:

– Là phi công của các anh à?

Lục Phong nhìn chung quanh:

– Không có xác.

Họ lại kiểm tra bộ xương cẩn thận lần nữa, trên bề mặt nó có dấu vết bị quái vật gặm cắn, bên cạnh, dưới lớp cát mỏng vùi lấp một bộ quần áo rách tả tơi – màu xám đen, chẳng phải trang phục tiêu chuẩn ở căn cứ. Vẻ mặt Lục Phong như đang suy tư điều gì, chuyện này nhất định không bình thường.

Nhưng mà, họ cũng chả có manh mối nào khác, chỉ đành buộc lòng đi tiếp thôi.

Sau nửa tiếng tiếp theo, trong màn sương buổi tinh mơ, có thứ gì lãng đãng nơi nẻo xa mờ mịt, một dải xám ngắt giăng rộng trên đường chân trời như bến bờ của một thành trì hùng tráng.

An Chiết cất tiếng:

– Hình như em thấy nó rồi.

…Đấy nhất định là thành phố đổ nát mà Lục Phong nhắc đến.

Lục Phong trả lời:

– Tôi cũng thấy.

An Chiết hỏi:

– Mình có thể tìm thấy nước uống và lương thực trong phế tích à?

Lục Phong trả lời:

– Ừ.

An Chiết hỏi bận nữa:

– Tìm được thiệt luôn hở?

Lục Phong hờ hững nói:

– Tôi thường xuyên nán lại phế tích.

An Chiết đáp:

– …Ò.

Thượng tá Lục vốn là người thích tới thì tới thích đi thì đi ở Vực Thẳm mà.

Dù sao không bị chết đói vẫn là chuyện đáng mừng rỡ, bước chân của cậu cũng vì vậy nhẹ bẫng đôi chút, còn đi vượt Lục Phong một bước cơ. Bỗng ngay giây phút này, mặt đất dưới chân cậu bất chợt mềm lũn!

Kế đấy sụp xuống.

An Chiết tiện đà chúi cả người theo.

An Chiết:!!!

Trống ngực cậu nện nhanh dữ dội, suýt tí nữa là hãi quá hóa thành nấm mất rồi, nhưng trong gang tấc nọ một sức mạnh trĩu nặng truyền đến cánh tay trái cậu – là Lục Phong túm chặt lấy cậu. An Chiết bị neo giữa không trung, cậu thở phào nhẹ nhõm, sau đó được Lục Phong kéo lên. Chân của cậu vừa khỏi thì cánh tay lại bắt đầu đau nhức nhối rồi, An Chiết khẽ hít sâu một hơi. Lục Phong duỗi tay, đoạn trượt từ bờ vai xuống cổ tay cậu, đoạn bảo:

– Chưa gãy.

An Chiết ngó sang chốn kia.

…Đấy là một cái hố sâu ba mét cực hung hiểm, phía trên đặt vài tấm ván gỗ vừa mỏng vừa giòn – nó bị hạt cát che lấp, ta chẳng lần ra nổi bất kì sự khác biệt nào với chung quanh, song chỉ cần giẫm mạnh thì sẽ rơi thẳng xuống hố ngay.

An Chiết khó hiểu, cậu trông thấy Lục Phong cũng chau mày lại.

– Bẫy rập, mới làm – Lục Phong nói.

Cái chốn này, thoạt tiên là xuất hiện xương người, rồi lại xuất hiện một cạm bẫy – tức sản phẩm của loài người. Lẽ nào trên sa mạc vẫn còn kẻ sống sót ư?

Lúc bấy giờ, Lục Phong thốt nhiên ngẩng đầu, quay ngoắt sang hướng nọ:

– Ai đấy?

Đằng đó là một mô đất nhô cao, ở khu vực đồi núi thì nó nhiều không đếm xuể, kể từ khi Lục Phong dứt lời, đằng đó vẫn chưa hé bất cứ tiếng động nào.

Lục Phong ấy vậy mà rút súng ra, xẵng giọng:

– Bước ra đây.

Chẳng có động tĩnh.

Mười giây, hai mươi giây, ba mươi giây.

Thanh âm sột soạt thình lình vang lên ở đằng đó, kế tiếp rít dài một tiếng két nặng trịch, An Chiết nhìn về phía phát ra tiếng động, bề mặt mô đất rơi cát lộp độp, có thứ gì nom như tấm vung hé mở – bóng đen bò ra, thoạt tiên cậu tưởng rằng nó là chuột chũi, ngó kĩ lại thì không ngờ đấy là một con người, một con người chẳng hề có xu thế đột biến và còn sống khỏe, nó bận quần bò chằng đụp, trông khá tương tự với quần áo nằm cạnh mấy bộ xương ban nãy.

Nó đứng nhổm dậy, ta thấy rõ đây một thằng bé gầy còm, nước da trắng bợt khôn tả do hiếm khi phơi nắng, song hai má thì lấm tấm ít tàn nhang. Nó nhìn họ, tuồng như sửng sốt vô cùng, nó trợn mắt đăm đăm sang bên này.

An Chiết lẳng lặng nhìn trả.

Chờ qua đủ hai phút, thằng bé kia mới lắp bắp thốt:

– Các… các anh… là người ư?

Nó nói hơi cà lăm, phát âm kì quái đáo để, khác hẳn chất giọng phổ thông mọi người hay giao tiếp với nhau trong căn cứ.

Lục Phong nói:

– Đưa chúng tôi ra khỏi đây trước đã.

Thằng bé nọ đanh người nhìn chòng chọc vào họ, cánh tay rủ bên hông run bần bật, bấy giờ mới thình lình chạy vọt qua bên này:

– Gượm tí!

Nó đi tới chỗ họ bằng một cái lối ngoằn ngoèo, sau đấy thì xoay lưng đi trước dẫn đường, dẫn họ đi vòng qua vô vàn khúc cua lắt léo, vừa đi vừa ấp úng nói:

– Xin… xin lỗi, chúng em sợ… sợ quái vật đến gần, đào lắm… lắm hố bẫy. Chúng sẽ chẳng vượt qua nổi, chúng… chúng em cũng có thể quan sát… không… không ngờ vẫn có người trở về. Anh… anh không sao chứ?

An Chiết thấy nó cúi gầm đầu, trưng vẻ não nuột tự trách, An Chiết bèn đáp:

– Không sao mà.

Lúc tới cạnh mô đất thằng bé đẩy mạnh thiết bị nào đó, cót két… một cánh cửa sắt dày cộm đong đưa hé mở, để lộ một cửa động đen ngòm.

– Các anh… các anh là người vùng khác hả? – Thằng bé giống hệt sực thông suốt điều gì, quay ngoắt về phía họ, lưỡi nó xoắn vào, thoạt đầu là ngó Lục Phong, lại như bị dọa bởi vẻ mặt lạnh tanh của anh, bèn sượng ngoắt ngó sang An Chiết, rồi nói thế.

An Chiết trả lời:

– Đúng vậy.

– Em… – Thằng bé thở phì phò dăm bận, mặt nó ửng sắc hồng kích động, nếu chẳng phải do đứng cách nửa mét thì khéo An Chiết sẽ nghe thấy tiếng quả tim nó đập thùm thùm mất.

Cậu hỏi:

– Em ổn chứ?

– Em… – Dường như thằng bé đã hiểu rõ về sự việc xảy đến hiện tại, coi nó rặt vẻ sắp hết hơi.

– Chào em, – Lục Phong mở miệng – Tòa Xử án ở căn cứ phương Bắc, cần giúp đỡ không?

– Chúng em… chúng em cần giúp đỡ, – Luồng chớp tựa ánh ban mai vụt lóe nơi đôi mắt thằng bé nọ, nó xoay người chui tọt vào đường hầm, vừa chạy huỳnh huỵch vào lối sâu vừa hô to – Nội ơi!

Đi theo nó, Lục Phong và An Chiết cũng bước vào đường hầm lắt léo sâu hun hút, bóng tối âm u sập xuống nơi này lúc đóng chặt cửa sắt vào, nhưng đằng xa có le lói thứ tia sáng yếu. An Chiết chẳng trông rõ nẻo đường dưới chân, nên bèn cẩn thận chống vách tường, chợt Lục Phong nắm lấy cổ tay cậu, dắt cậu tiến về phía trước.

Đây là một loạt nấc thang dốc đứng chạy dài xuống dưới, không cẩn thận là té dễ như chơi, sau khi đi xuống địa hình thoải ước chừng thêm một trăm mét, đoạn rẽ qua một khúc cua nữa thì mới rộng thoáng đôi chút, đèn măng-sông treo trên vách tù mù quầng sáng trắng – rọi tỏ cái hang động chật hẹp này, trông ra nẻo xa, nó sâu đến độ chẳng có bến bờ, tiếng bước chân văng vẳng chung quanh dấy lên thứ âm vang dài bất tận.

Lục Phong hỏi:

– Gia đình em đào nó à?

– Không phải, – Thằng bé trả lời – quặng mỏ từ đời tám hoánh rồi, nhiều người trốn ở đây lắm.

Lục Phong hỏi:

– Có bao nhiêu người? Ở bao lâu?

– Em chả rõ, – Thằng bé hơi cúi đầu – em chào đời ở đây, sau đó nhiều người đều… đều chết cả rồi, chú em ra ngoài, hiện chỗ này chỉ còn mỗi em với nội của em thôi.

Trước khi bước vào nơi mà “Nội” thằng bé nhắc tới đang ở, An Chiết nghe thấy tiếng thở hi hóp ồm ồm – giống hệt thanh âm dội ra từ khoang ngực của loài thú sắp lịm đi. Trong một cái hố gầm chừng mười mét vuông, một chiếc giường lò xo rộng chưa đến một mét đặt ở đấy, có cụ ông tóc hoa râm nằm trên giường, An Chiết tới gần, thấy cụ đắp tấm chăn lông phủ màu vàng xám, hai gò má hóp vào và đồng tử đục ngầu đi, tấm thân cụ run lập cập như thể đang hứng chịu nỗi đau đớn khủng khiếp nào đó. Dẫu họ đã đứng trước giường, thì cụ cũng chẳng buồn hó hé tí nào.

– Nội ốm rồi ạ – Thằng bé bảo.

Nói đoạn, nó bèn ngồi xuống mép giường kéo tay ông nội mình lên, rống to:

– Nội ơi, có người ở ngoài đến tìm chúng ta! Họ nói mình đến từ căn cứ, căn cứ có thật đó ạ!

Trí óc của cụ nay đã lú lẫn, cụ không ngấm được sự mừng rỡ kích động trong giọng nói nó nữa, mà thay vào đó là chau chặt mày, xoay đầu, tuồng như toan lánh xa sự om sòm của nó.

– Chúng ta có thể tới chốn có rất nhiều người! – Thằng bé tựa hồ đã quen, nó chẳng nhụt chí trước thái độ tiêu cực của cụ, giọng điệu ngày một hưng phấn.

Song bấy giờ, bờ môi khô quắt của cụ mấp máy, thều thào đôi ba âm tiết mơ hồ.

Cháu trai cụ hỏi:

– Gì cơ?

An Chiết cũng dỏng tai nghe kĩ, bờ môi cụ mấp máy, lặp lại vài âm tiết nọ lần nữa.

– Sắp… – Cổ họng cụ khản đặc, gắng xổ hơi khỏi miệng, giọng giống tiếng gió rít tan hoang – Sắp đến… lúc rồi.

Thằng bé áy náy trông sang Lục Phong An Chiết bảo:

– Nội hay nói câu này lắm, nội cứ nghĩ mình bệnh nặng sắp chết ạ.

Dứt lời thằng bé mách với cụ rằng:

– Chúng ta đến nơi mà loài người đều đang ở, nơi ấy chắc chắn có thuốc.

Cụ hãy cứ lặp đi lặp lại câu nói cũ, họ đành phải bỏ cuộc. Tới tận khi họ rời khỏi nơi đây cụ vẫn lầm bầm hoài “Sắp đến lúc rồi”, An Chiết thấy câu này quen thuộc đáo để, ngặt nỗi cậu chẳng nhớ mình đã nghe nó ở đâu.

Ngay sau đó thằng bé bèn dẫn họ tới một căn buồng hình vuông khá rộng, buồng nối thông với ba hang động rẽ nhánh tối mù – giống như khu trung tâm thông đi muôn ngả, trên vách tường gồ ghề lấm tấm những giấy dán ố vàng cố định bản đồ tuyến đường quặng mỏ và những điều cần chú ý khi làm việc, có chiếc bàn nhỏ tứ giác đặt giữa buồng, kế bên là hai bộ ghế xô-pha cũ rích, hơi ẩm dày đã bào mòn sạch mọi lớp sơn trên ghế xô-pha.

Lục Phong đang trò chuyện với thằng bé kia.

Thằng bé kia tên là Siebe, dựa theo lời nó kể, thì quặng mỏ đã bị lún – vào giây phút cơn thảm họa chưa từng xuất hiện trong lịch sử ập đến năm xưa. Song bức xạ vẫn chưa rọi xuyên qua mặt đất, nên nhờ đó số ít người ở dưới vẫn sống tiếp được, nó kéo dài cho đến tận bây giờ, họ thường tới phế tích lân cận gom nhặt ít nhu yếu phẩm, cũng thường bị quái vật ngoài kia quật chết ngốn chửng, mẹ của nó chỉ có độc một đứa con là nó thôi, dần dà dần dà, vài chục người thuở đầu nay chỉ còn lại mỗi nó và ông nội, hai ông cháu sống nương tựa cùng những ông chú lớn tuổi khác.

– Em biết mà, chắc chắn mọi người sẽ không chết, chắc chắn họ đang xây nhà mới ở vùng đất nào đấy thôi, ngặt nỗi chúng em chả tìm thấy các anh, hồi xưa nội em bảo lúc người lớn lần ra một lối thoát khác trong quặng mỏ, cảnh vật ngoài kia đã đổi dời rồi, chẳng còn ai sống sót cả.

– Radio không thu được tín hiệu và ở ngoài thì toàn là quái vật, chúng em cũng chẳng đi đâu được hết, chỉ biết ru rú trong này thôi, nhưng chúng em tin chắc rằng vẫn còn người khác ạ – Giọng Siebe đong đầy nỗi run rẩy xúc động, nó lôi một cuốn sách mỏng cũ nát quá nửa ra khỏi khe nhỏ nơi vách tường.

– Hai năm trước chúng em phát hiện một chiếc xe ở ngoài, trừ người chết ra thì trong xe chính là những cuốn tập này, em biết rằng vẫn còn con người ở đâu đấy, em… em vẫn luôn chờ các anh đến. Đồng bào… đồng bào của chúng em nhất định đang miệt mài tìm kiếm cứu nạn mà – Nó nhìn Lục Phong, ánh mắt chứa chan niềm hi vọng.

Lục Phong hơi chùng giọng, trả lời rằng:

– Căn cứ chào đón mọi người.

Mà An Chiết thì vươn tay, cuốn tạp chí nọ nằm trên cùng chồng sách mỏng, ánh đèn măng-sông nhập nhoạng rọi sáng trang bìa của nó. Đầu đề là bốn chữ “Nguyệt San Căn Cứ” – bốn chữ này chạm tới những mảnh vụn hồi ức lưu trữ trong não cậu, đây là cuốn tạp chí mà nhóm ngành văn hóa ở căn cứ phát cho mọi người. Cuốn tạp chí này do căn cứ loài người ở miền viễn xứ phát hành, được mang theo cùng với cẩm nang vũ khí và truyện khiêu dâm bởi các tên lính hoặc lính đánh thuê, họ vọt lên chiếc xe bọc thép rời khỏi căn cứ, vượt qua một chặng đường xa xôi, rồi vĩnh viễn lang bạt ở vùng ngoài. Tiếp sau đấy, kẻ sống sót thuộc thời đại sa mạc nhặt được nó trong xác xe, nơi quặng mỏ họ chuyền tay nhau đọc ngày này qua tháng nọ, họ hiểu nó tượng trưng cho sự tồn tại của quê hương loài người xứ xa.

Trang bìa trong đã ngả vàng, nó viết dòng chữ “Nguyện cho chúng ta có một tương lai ngời sáng”, lật qua, là trang mục lục.

Bàn tay lật qua lật lại trang giấy của An Chiết thình lình run rẩy, ánh mắt cậu khựng tại một hàng trên trang mục lục, hai chữ giản đơn vô ngần.

Vào Đông.

Dấu chấm lửng kéo dài một mạch đến mép phải trang giấy, ở điểm cuối của nó in hai chữ khác, đại diện cho tên tác giả.

An Trạch.

An Chiết chợt ngừng thở hẳn ngay khoảnh khắc chóng vánh ấy, thoáng sau cậu nhác thấy một tác phẩm nằm dưới Vào Đông, tên là Một ngày trong năm 2059.

Năm 2059 là thời đại xa xôi trong lịch sử, chính vì thế cái tên ấy đã nói lên đôi phần – rằng đây là một tác phẩm lịch sử khảo cứu.

Tên tác giả của nó, là Thi Sĩ.

…Hai cái tên này cứ thế mà lặng lẽ nằm sóng vai nhau trên trang giấy.

An Chiết nhẹ phủ ngón tay lên mặt giấy, ngón tay cậu từng ôm siết bả vai An Trạch khi ở trong sơn động phủ đầy dây leo, cũng từng được thi sĩ nắm chặt nơi khoang xe tăm tối mịt mù, giờ đây nó nhẹ nhàng vuốt ve tên của hai con người nọ, hình bóng họ lại sống dậy trong tâm tưởng An Chiết lần nữa. Cậu lật tới trang kia… hai trang nằm kề nhau, Vào Đông là một bài thơ ngắn, kể lại cảnh bông tuyết chao nhẹ khắp quảng trường Trạm Cung Cấp vào mùa đông năm nào, An Trạch nói rằng đụn tuyết đó mềm mại như cánh chim bồ câu trắng vậy.

An Chiết có thể nhớ rõ mồn một từng chi tiết trong thanh âm y, cậu như nghe thấy chính miệng An Trạch miêu tả cho mình, trong phút giây ngắn ngủi hiện tại, An Trạch giống hệt đã hồi sinh lần nữa, và thi sĩ cũng đứng mỉm cười với cậu, chàng nằng nặc đòi kể cho cậu nghe về lịch sử căn cứ – rằng trên thế giới này vẫn còn ghi chép sót lại của họ.

Nỗi hoang hoải mông lung sập vào tầm mắt An Chiết, rõ ràng cậu đã thôi nhớ đến hai con người ấy lâu lắm rồi, song hình bóng họ hãy còn hiện lên trước mắt cậu, như thể họ vừa gặp nhau ngày hôm qua. Cứ vậy cậu gặp lại họ, giống hệt bé con Siebe tình cờ gặp gỡ hai vị khách tới từ căn cứ loài người vậy.

– Vốn dĩ, vẫn còn hai chú nữa ở đây, nhưng họ ra ngoài tìm lương thực, ròng rã một hôm chưa trở về, em đoán… – Siebe gục đầu xuống – em đoán… chắc họ không về được nữa.

– Xin lỗi, – Lục Phong nói – tôi đến chậm.

– Không đâu ạ! – Siebe bất chợt lắc đầu, nó hé miệng cười gượng với Lục Phong, giọng nom hơi khàn – Bên ngoài toàn là quái vật, bảo đảm các anh cũng gặp lắm gian truân, chỉ cần các anh tới, em đã… đã biết ơn rồi. Trên thế giới này vẫn còn những người khác, chúng em còn có nhà, tốt… tốt quá.

Tia sáng từ đèn măng-sông hắt vào tròng mắt đen láy của nó, nơi đấy bùng lên ánh lửa hừng hực và ngời sáng, đóm lửa kia kết hợp với cảm xúc nhỏ nhặt trên mặt Siebe làm gợi rõ một sự đơn thuần, xen lẫn niềm háo hức trong bao nỗi sầu. An Chiết lặng thinh nhìn khuôn mặt Siebe, cậu biết đó là thứ cảm xúc mà bản thân sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu nổi. Cậu cúi đầu xuống, trên trang giấy nguyệt san ố vàng, giọng nói và bề ngoài của An Trạch lại tiếp tục hiện rõ trước mắt cậu.

Lệ nhoen khóe mi An Chiết, tầm mấy tiếng trước cậu còn mải oán thầm rằng loài người cứ đâm đầu vào những việc công cốc chỉ để duy trì khả năng tự chủ, mường tượng đến cái ngày Lục Phong biến thành dị chủng, cậu sẽ không xua đuổi anh. Tuy nhiên ý nghĩ đấy lại thoáng dao động vào giờ phút này.

Con người là con người, cậu thầm nhủ.

Cậu biết căn cứ không còn hi vọng, cậu biết loài người chẳng còn lối thoát.

Nhưng họ cũng thật sự đang sống mãi với thời gian.

Hết chương 59
. Tranh minh họa.Artist: 新手司機阿雪雪 @weibo

Artist: ershiyimaowu @lofter





Click vào ảnh để lấy fullsize.Artist: mingwu375 @lofter

– Thi sĩ –



Click vào ảnh để lấy fullsize.Artist: moqingqq @lofter

– Sơn động của Chiết –

Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện