Cả hai thằng kia rõ ràng là đang rất hào hứng về một điều gì đó, nhưng Charlie muốn biết là cái thùng có an toàn không. Nó thử dùng hai bàn tay tạo ra đủ lọai hình, để minh hoạ cho câu hỏi: “Có an toàn không? Cái thùng ấy? Đâu rồi?”
Chẳng được cái tích gì. Benjamin và Fidelio hẳn đang có điều gì đó khác trong đầu. Cho dù điều đó là gì thì Charlie cũng phải đợi đến tối nay mới biết được. Nó vẫy tay thêm lần nữa và định chạy xuống cầu thang, thì chợt nghe có tiếng bước chân ở bên dưới. Nếu chạy qua cánh cửa vào hành lang rộng, thì nó sẽ bị lộ diện ngay bên ngoài phòng Manfred. Cách duy nhất để thoát thân là chạy tiếp lên trên.
Khi Charlie bắt đầu rón rén lên tầng bốn, có tiếng nhạc văng vẳng khắp khu vực cầu thang chật hẹp. Ai đó đang chơi đàn piano. Hay tuyệt. Đó là một giai điệu mê ly, vừa mạnh mẽ lại vừa réo rắt. Người nghệ sĩ này có vẻ làm chủ tất cả mọi cung bậc trên phím đàn.
Như thể có một sợi chỉ ma thuật kéo Charlie về phía âm thanh ấy. Nó không dừng lại ở tầng bốn, mà cứ vậy leo lên tiếp, bây giờ thì chậm lại và hơi sờ sợ, vì nhận ra mình không thể dừng lại được. Hơn nữa, nó sợ cái mà nó có thể nhìn thấy khi lên đến đỉnh tháp.
Căn phòng mà nó cuối cùng cũng bước vào không trống trải như những phòng kia. Phòng này chất đầy sách nhạc. Những chồng tập nhạc nằm dưới sàn. Các kệ sách đóng trên những bức tường xếp kín những cuốn sách giao hưởng đóng bìa da – chúng được xếp theo tên của các nhà soạn nhạc kiệt xuất: Mozart, Chopin, Beethoven, Bach, Liszt. Một số cái tên quen thuộc với Charlie, một số khác nó chưa bao giờ nghe nói đến.
Phía bên trong một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi, một dòng suối nhạc piano trầm bổng vọng ra. Charlie sờ vào nắm đấm cửa. Nó xoay nắm đấm, mở cửa ra và cứ thế đứng ở ngưỡng cửa mà chằm chằm nhìn vô phòng. Trong phòng trống rỗng, ngoại trừ một cây đàn piano đen nhẫy, khổng lồ và người đàn ông ngồi phía sau: thầy Pilgrim. Ông thầy piano xa lạ nhìn thẳng vào Charlie; nhưng hình như ông không nhận ra là cửa mở, mặc dù gió lùa khiến một vài tờ báo bay khỏi bậu cửa sổ.
Charlie không biết phải làm gì. Nó cứ đứng ngây ra, như bị thôi miên, và rồi, cuối cùng, nó bước vô phòng và khép cửa lại sau lưng. Thầy Pilgrim vẫn mê mải dạo đàn ,hết nhìn xuống đôi tay mình lại thả hồn ra bầu trời bên ngoài cửa sổ, nét mặt thầy vô định, đôi mắt đen và sâu thăm thẳm.
Xa xa, tháp đồng hồ của ngôi nhà thờ lớn bắt đầu điểm giờ cho toàn thành phố. Một, hai, ba... lúc đó là 12 giờ, Charlie chợt nhớ ra. Nó sẽ trễ mất. Người ta sẽ thắc mắc không biết nó ở đâu. Không chừng chính Manfred sẽ đi tìm nó. Nó toan quay đi, thì bỗng nhiên, thầy Pilgrim ngừng chơi. Hình như thầy đang lắng nghe tiếng chuông đồng hồ. Đến tiếng gõ thứ mười hai thì thầy Pilgrim đứng dậy. Trông thấy Charlie đứng lớ xớ bên cánh cửa, thầy nhăn mặt.
“Con... con xin lỗi, thưa thầy, con bị lạc,” Charlie lập bập nói. “Tiếng đàn của thầy rất... à... hay quá.. thưa thầy, làm con chỉ muốn lắng nghe.”
“Cái gì?” thầy Pilgrim hỏi.
“Nhạc của thầy làm con chỉ muốn lắng nghe, thưa thầy.”
“Ờ.”
“Con xin lỗi vì đã tự tiện vô phòng thầy,” Charlie lí nhí. “Thưa, con đi đây.”
“Đợi đã.” Người thấy xa lạ vòng qua cây đàn piano, bước về phía Charlie. “Con là ai?”
“Dạ, con là Charlie Bone.”
“Charlie sao?”
“Dạ phải.”
Charlie thấy một thoáng quan tâm nháng lên trong đôi mắt đen của thầy Pilgrim, rồi vụt tan. “Ra vậy,” thầy lẩm bẩm. “Con nên chạy đi thì hơn.”
“Vâng, thưa thầy.”
Trong chớp mắt, Charlie đã biến khỏi. Nó phóng qua cửa, lao xuống các bậc thang xoắn ốc với thời gian chỉ bằng một nửa lúc nó đi lên. Nó chạy được đến phòng Nhà Vua mà không gặp phải ai, ngoại trừ người gác cửa nhe răng cười và nháy mắt hết cỡ với nó khi nó chạy lẹ qua hành lang.
“Làm gì thế?” Olivia hỏi ngay khi Charlie hộc tốc vào phòng. “Manfred nãy giờ thò mặt vô đây hai lần, hỏi xem đằng ấy ở đâu!”
“Thế bồ nói gì với nó?” Charlie hỏi lại.
“Tớ nói như tụi mình đã nhất trí với nhau. Nói bồ ở trong nhà tắm.”
“Những hai lần cơ à?” Charlie lo lắng.
“Lần thứ hai em nói anh bị đau bụng,” Billy nói rành rọt, vẻ nghiêm trang. “Nhưng em không biết anh ấy có tin hay không.”
Vừa lúc đó, thầy Paltry-Kèn Sáo bước vô, thu lại sách và bảo bọn trẻ chuẩn bị đi ăn trưa.
Chẳng được cái tích gì. Benjamin và Fidelio hẳn đang có điều gì đó khác trong đầu. Cho dù điều đó là gì thì Charlie cũng phải đợi đến tối nay mới biết được. Nó vẫy tay thêm lần nữa và định chạy xuống cầu thang, thì chợt nghe có tiếng bước chân ở bên dưới. Nếu chạy qua cánh cửa vào hành lang rộng, thì nó sẽ bị lộ diện ngay bên ngoài phòng Manfred. Cách duy nhất để thoát thân là chạy tiếp lên trên.
Khi Charlie bắt đầu rón rén lên tầng bốn, có tiếng nhạc văng vẳng khắp khu vực cầu thang chật hẹp. Ai đó đang chơi đàn piano. Hay tuyệt. Đó là một giai điệu mê ly, vừa mạnh mẽ lại vừa réo rắt. Người nghệ sĩ này có vẻ làm chủ tất cả mọi cung bậc trên phím đàn.
Như thể có một sợi chỉ ma thuật kéo Charlie về phía âm thanh ấy. Nó không dừng lại ở tầng bốn, mà cứ vậy leo lên tiếp, bây giờ thì chậm lại và hơi sờ sợ, vì nhận ra mình không thể dừng lại được. Hơn nữa, nó sợ cái mà nó có thể nhìn thấy khi lên đến đỉnh tháp.
Căn phòng mà nó cuối cùng cũng bước vào không trống trải như những phòng kia. Phòng này chất đầy sách nhạc. Những chồng tập nhạc nằm dưới sàn. Các kệ sách đóng trên những bức tường xếp kín những cuốn sách giao hưởng đóng bìa da – chúng được xếp theo tên của các nhà soạn nhạc kiệt xuất: Mozart, Chopin, Beethoven, Bach, Liszt. Một số cái tên quen thuộc với Charlie, một số khác nó chưa bao giờ nghe nói đến.
Phía bên trong một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi, một dòng suối nhạc piano trầm bổng vọng ra. Charlie sờ vào nắm đấm cửa. Nó xoay nắm đấm, mở cửa ra và cứ thế đứng ở ngưỡng cửa mà chằm chằm nhìn vô phòng. Trong phòng trống rỗng, ngoại trừ một cây đàn piano đen nhẫy, khổng lồ và người đàn ông ngồi phía sau: thầy Pilgrim. Ông thầy piano xa lạ nhìn thẳng vào Charlie; nhưng hình như ông không nhận ra là cửa mở, mặc dù gió lùa khiến một vài tờ báo bay khỏi bậu cửa sổ.
Charlie không biết phải làm gì. Nó cứ đứng ngây ra, như bị thôi miên, và rồi, cuối cùng, nó bước vô phòng và khép cửa lại sau lưng. Thầy Pilgrim vẫn mê mải dạo đàn ,hết nhìn xuống đôi tay mình lại thả hồn ra bầu trời bên ngoài cửa sổ, nét mặt thầy vô định, đôi mắt đen và sâu thăm thẳm.
Xa xa, tháp đồng hồ của ngôi nhà thờ lớn bắt đầu điểm giờ cho toàn thành phố. Một, hai, ba... lúc đó là 12 giờ, Charlie chợt nhớ ra. Nó sẽ trễ mất. Người ta sẽ thắc mắc không biết nó ở đâu. Không chừng chính Manfred sẽ đi tìm nó. Nó toan quay đi, thì bỗng nhiên, thầy Pilgrim ngừng chơi. Hình như thầy đang lắng nghe tiếng chuông đồng hồ. Đến tiếng gõ thứ mười hai thì thầy Pilgrim đứng dậy. Trông thấy Charlie đứng lớ xớ bên cánh cửa, thầy nhăn mặt.
“Con... con xin lỗi, thưa thầy, con bị lạc,” Charlie lập bập nói. “Tiếng đàn của thầy rất... à... hay quá.. thưa thầy, làm con chỉ muốn lắng nghe.”
“Cái gì?” thầy Pilgrim hỏi.
“Nhạc của thầy làm con chỉ muốn lắng nghe, thưa thầy.”
“Ờ.”
“Con xin lỗi vì đã tự tiện vô phòng thầy,” Charlie lí nhí. “Thưa, con đi đây.”
“Đợi đã.” Người thấy xa lạ vòng qua cây đàn piano, bước về phía Charlie. “Con là ai?”
“Dạ, con là Charlie Bone.”
“Charlie sao?”
“Dạ phải.”
Charlie thấy một thoáng quan tâm nháng lên trong đôi mắt đen của thầy Pilgrim, rồi vụt tan. “Ra vậy,” thầy lẩm bẩm. “Con nên chạy đi thì hơn.”
“Vâng, thưa thầy.”
Trong chớp mắt, Charlie đã biến khỏi. Nó phóng qua cửa, lao xuống các bậc thang xoắn ốc với thời gian chỉ bằng một nửa lúc nó đi lên. Nó chạy được đến phòng Nhà Vua mà không gặp phải ai, ngoại trừ người gác cửa nhe răng cười và nháy mắt hết cỡ với nó khi nó chạy lẹ qua hành lang.
“Làm gì thế?” Olivia hỏi ngay khi Charlie hộc tốc vào phòng. “Manfred nãy giờ thò mặt vô đây hai lần, hỏi xem đằng ấy ở đâu!”
“Thế bồ nói gì với nó?” Charlie hỏi lại.
“Tớ nói như tụi mình đã nhất trí với nhau. Nói bồ ở trong nhà tắm.”
“Những hai lần cơ à?” Charlie lo lắng.
“Lần thứ hai em nói anh bị đau bụng,” Billy nói rành rọt, vẻ nghiêm trang. “Nhưng em không biết anh ấy có tin hay không.”
Vừa lúc đó, thầy Paltry-Kèn Sáo bước vô, thu lại sách và bảo bọn trẻ chuẩn bị đi ăn trưa.
Danh sách chương