NHỮNG HÒN ĐÁ LẤP LÁNH
“Phải mấy người bắt chó không?” Nội Bone la vọng xuống.
Tim của Charlie thót lại.
“Đừng lo, Charlie, chúng ta sẽ không để họ làm gì mạnh bạo đâu,” mẹ Charlie trấn an nó.
Nội Bone đã xuống tới hành lang. Bà ta mở cửa trước và hét lên hoảng hốt.
Charlie chạy ra hành lang. Một người đàn ông nhỏ thó, trông lông lá, đứng ở ngưỡng cửa. Charlie nhận ra ông ngay tức khắc. Đó là bạn của nó, ông Onimous! Đằng sau ông là ba con mèo trông dữ tợn – nguyên nhân khiến nội Bone hét lên. Bà vốn ghét mèo, nhất là mèo màu cam. Những con này màu cam, màu vàng và màu đồng.
“Ông là người diệt chó?” Nội Bone hỏi, vẻ nghi ngờ. “Hình như trước kia tôi có thấy ông với mấy con mèo kỳ dị này rồi.” Nội Bone lùi lại.
Người đàn ông chìa ra một tấm danh thiếp.
“Orvil Onimous, thưa bà. Đội diệt côn trùng kiêm bắt thú.”
“Ông vô và bắt con chó mắc dịch ấy mau đi,” nội Bone nói. “Charlie, nếu nó có dây xích thì đi lấy ra đây.”
Charlie lao trở lại nhà bếp, theo sau là ông Onimous và lũ mèo.
“Ổn rồi,” nó thì thào với mẹ và ngoại Maisie. “Ông Onimous tới.”
Ngoại Maisie lôi sợi dây xích chó khỏi túi tạp dề của bà và đưa ra.
“Vậy là tốt cho con chó,” ngoại nói.
Ông Onimous nháy mắt.
Có tiếng gầm gừ và khè khè như mọi khi giữa chó với mèo trong lúc ông Onimous tròng sợi dây xích vô cổ Hạt Đậu, nhưng hình như con chó bự này vui mừng khi gặp lại tất cả bọn họ.
“Làm sao mà ông biết con Hạt Đậu đang lâm nguy?” Charlie hỏi nhỏ.
“Lũ mèo biết,” ông Onimous nói. “Chúng đòi đi thăm cậu, nhưng mãi khi tới đây ta mới biết là việc gì. Nhớ tới thăm tiệm cà phê của chúng tôi nhé, Charlie.”
Nội Bone kêu lên:
“Lẹ lẹ lên! Tống con chó đó ra khỏi đây mau!”
Ông Onimous dẫn con chó đang hí hửng đi khỏi. Và Hạt Đậu nhìn lại, chỉ một lần, để thảy cho Charlie một tiếng sủa động viên.
“Vui lên đi, các bạn,” ông Onimous nói.
Nội Bone đóng sập cửa lại. May thay, một hồi sau, khi đội bắt chó thật tới nhấn chuông thì chính Charlie ra mở cửa.
“Xong xuôi rồi,” Charlie bảo họ, “chúng tôi đã tìm được cho con chó một ngôi nhà.”
***
Vấn đề con Hạt Đậu đã được giải quyết xong, Charlie ngủ một đêm ngon lành, đúng ra nó còn ngủ lố giấc là đằng khác. Nó chỉ tỉnh dậy khi ngoại Maisie lay nó.
“Ngoại đi đây, Charlie. Tắc-xi đang đợi. Mẹ con đi làm rồi, còn nội Bone cũng đã đi đâu đó.”
Ngoại đặt một mẩu giấy lên gối Charlie.
“Đây là địa chỉ của mấy bà cô Yewbeam, phòng trường hợp con cần họ. Dù gì thì họ cũng là mấy bà cô của con. Ngoại phải để con lại một mình, nhóc con ạ, nhưng không còn cách nào khác.”
“Không sao đâu ngoại,” Charlie ngáp. Nó không thể tưởng tượng nổi có lý do gì mà nó phải ghé nhà mấy bà cô Yewbeam.
Ngoại Maisie hôn nhẹ lên đầu nó rồi ra đi.
Căn nhà im lặng khác thường. Charlie không tài nào nhớ nổi nó đã từng bao giờ ở nhà hoàn toàn một mình như thế này chưa. Ông cậu Paton luôn có ở nhà. Luôn luôn. Vậy, điều gì đã xảy ra với ông vậy? Sau bữa sáng, Charlie ghé chợ gặp mẹ nó. Cô đang cân táo cho một người đàn ông có vẻ thiếu kiên nhẫn, và có một hàng người xếp hàng dài đằng sau ông ta.
“Bây giờ mẹ không thể dừng tay được,” mẹ nó thì thầm. “Bữa trưa gặp con nhé. Con không sao chứ?”
“Không sao. Con đến nhà Emma đây,” Charlie vui vẻ nói.
Emma sống với dì của nó, cô Julia Ingledew, trong một tiệm sách ở đằng sau nhà thờ lớn. Nhưng khi Charlie vừa xuống con đường dốc tới tiệm sách cô Ingledew, bất giác nó lôi từ túi áo ra mẩu giấy mà ngoại Maisie đã đưa cho nó. Mấy bà cô có một địa chỉ thật lạ lùng: số 13 đường Ngách Tối.
“Ngách Tối,” Charlie lầm bầm một mình.
Đó là tên một con đường, một con hẻm hay là một thành phố khác? Charlie đi vô một quầy báo. Nó mua một gói kẹo bạc hà và đưa mẩu giấy cho người phụ nữ đằng sau quầy.
“Ngách Tối? Cháu sẽ không tới đó đấy chứ?”
“Cháu nghĩ là cháu phải tới,” Charlie nói.
“Không hay gì đâu. Một nơi qủy tha ma bắt. Không thích hợp với bọn con nít như cháu đâu.”
Charlie nổi trí tò mò.
“Tại sao vậy?”
“Tối tăm. Không đèn đường.”
“Nhưng giờ là ban ngày mà,” Charlie nêu rõ.
“Có khối chuyện xảy ra ở chỗ ấy rồi, nhóc. Tốt hơn cháu nên thôi đi.”
“Cháu có bà con ở đó,” Charlie nói.
Người phụ nữ chồm ra khỏi quầy, nhìn Charlie trân trân.
“Bà con như thế nào?” Bà hỏi.
“Mấy bà cô. Cháu chắc chắn là không sao đâu. Bác làm ơn chỉ giúp cháu nó ở đâu.”
Người phụ nữ thở dài.
“Được rồi, nhưng đừng có trách là tôi không cảnh báo trước đấy nhé. Quẹo phải ở cuối đường này, sau đó đi tiếp đến khi nào tới Vòng Cung Ụ Xám. Ngách Tối ở đâu đó trong ấy.”
“Cám ơn bác.”
Charlie vội rời quầy, không để người phụ nữ kịp tuyên bố thêm một lời cảnh báo ảm đạm nào nữa.
Vòng Cung Ụ Xám là một nơi đúng như tên gọi: một vòng cung gồm những toà nhà, cao, xám xịt, đâu mặt vô một bãi cỏ bẩn thỉu, hình bán nguyệt. Một cái cây khổng lồ, rậm rạp đứng ở chính tâm, tạo cho nơi này một bầu không khí âm u, đầy hiểm hoạ.
Rất chính xác, đi được chừng nửa đường quanh vòng cung thì tới một khoảng trống giữa những dãy nhà liên kế, và một tấm biển bạc màu đóng vô một bức tường đề: NGÁCH TỐI. Charlie quẹo vô ngõ hẻm hẹp rí, tối tăm ấy. Hai bên hẻm, những bức tường không cửa sổ, dơ dáy, chĩa thẳng lên trời. Một cơn gió nhớp nháp xoáy thẳng vô mặt Charlie. Thật khó mà tin rằng, chỉ mới khoảnh khắc trước đó thôi nó còn đứng dưới ánh mặt trời.
Ngõ hẻm nới rộng vô một con đường lát gạch, bao quanh là những căn nhà trông ảm đạm và cổ kính. Cũng giống như những bức tường khổng lồ kia, những căn nhà hình như đổ vô trong, đuổi sạch ánh sáng đi. Phía trên chúng, lơ lửng những đám mây đen kịt, đen nhất mà Charlie từng thấy.
Charlie rùng mình rồi bắt đầu bước ngang qua những căn nhà, lẩm nhẩm đếm số đánh trên cửa. Hầu như nhà nào cũng vắng tanh. Những cửa sổ che ván kín mít, những cánh cửa loang lổ đóng đinh chặt lại. Cứ như kẻ nào đó, hoặc cái gì đó, vừa mới quét tất cả các cựu cư dân ở đây đi khỏi. Ở căn số 5, một nhóm thanh niên ùa ra cửa, vừa ẩu đả vừa la ó rầm trời. Charlie vội dấn bước. Tới căn số 9, một người đàn ông trông bặm trợn xuất hiện từ tầng hầm. Ông ta rống lên chửi Charlie, lúc này đã dợm chân chạy. Qua căn số 11, một cái nắp thùng rác rớt xuống vỉa hè, và một con chuột chạy luồn qua hai chân Charlie.
Ngách Tối là ngõ cụt, chẳng dẫn tới đâu cả. Cuối con đường lát gạch, một dãy nhà, cao hơn những nhà kia, đứng sừng sững ngay trước mặt Charlie. Chúng có những tháp nhỏ kỳ lạ, những ban công khung sắt, những cửa sổ cao, hình vòm, với trán tường có chạm trổ mặt thần lùn giữ cửa và những con vật kỳ lạ. Căn nhà đầu tiên mang số 13.
Charlie leo lên những bậc cấp bằng đá. Phía trên cùng của cánh cửa đen có một khoen đồng dùng để gõ cửa, mang hình một bàn tay, treo trên số 13. Charlie không gõ cửa, dĩ nhiên! Thay vô đó, nó tì người lên những lan can của ban công và ngó vô một cửa sổ dài. Căn phòng bên trong chất đầy những đồ đạc lờ mờ, tối. Nó nhìn kỹ qua cánh cửa sổ nằm phía kia của cửa chính, thì thấy chân dung của những người nghiêm trang và đăm chiêu treo kín cả ba bức tường. Căn nhà im ắng. Có vẻ như không người.
Khi Charlie quay trở ra, nó nhận thấy căn kế bên cũng mang số 13, và căn kế nữa cũng vậy!
“Tội nghiệp ông đưa thư,” nó lẩm bẩm.
Căn nhà thứ hai cũng im lìm và tối như bưng, nhưng từ căn thứ ba vọng ra âm thanh vo vo rè rè.
Để nhìn cho rõ hơn, Charlie chạy xuống những bậc cấp tầng hầm và leo lên gờ tường hẹp rí bên dưới ô cửa sổ dài. Kiễng chân lên, nó có thể thấy căn phòng bên trong.
Hóa ra cái nó thấy thú vị hơn là nó tưởng. Một chiếc bàn dài hình ô-van chiến gầm hết căn phòng. Bên trên ngổn ngang những mảnh vải, khoen xê-quin, lông chim, nút áo, đinh khuy, những miếng gương nhỏ hình vuông, nhung, da thuộc, những cục bông gòn. Một hàng đèn có chụp bằng đồng hình quả chuông treo phía trên bàn, soi rõ ba dáng người. Belle ngồi bên trên một bàn máy may, trong khi bà cô Venetia và Dorcas Loom đứng cạnh nhau, nhìn Belle. Bà cô Venetia đang cầm một cái kim cài mũ có gắn hình một con bọ hung ở đầu. Belle nói cái gì đó, và bà cô Venetia ghim chiếc kim cài mũ vô một mảnh vải nhung đỏ. Mảnh vải lập tức biến thành một mảng lúc nhúc những con bọ cánh cứng, đen thùi.
Dorcas nín thở - và cả Charlie cũng vậy.
Belle thình lình nhìn ra cửa sổ, và ánh nhìn hung tợn màu xanh da trời của nó hất Charlie té bật ngửa vô dãy thùng rác. Từ bên trên, ngay cửa lớn, đang ngó xuống là Asa Pike.
“Anh làm cái quỷ gì ở đây vậy?” Charlie hỏi, lồm cồm bò dậy.
“Tao phải hỏi mày câu đó mới đúng.”
Asa, trong trang phục hóa trang thảm hại như thường lên, nhìn nó nảy lửa. Thằng này mặc áo khoác da, sơ mi trắng, cà vạt sọc xanh da trời và quần màu xám. Làm như chưa đủ gây ngạc nhiên, trên tay nó còn cầm một bó hoa tu-lip.
“Mấy bà cô của tôi sống ở đây,” Charlie nói.
“Thế sao mày không vô mà phải dòm trộm?” Asa chất vấn.
“Không phải việc của anh.”
Asa nhún vai và nhấn chuông, trong khi Charlie leo lên những bậc cấp tầng hầm. Khi nó lên tới vỉa hè, một tiếng động từ phía trên khiến nó phải ngước lên nhìn. Một người đàn ông nhìn ra từ một cửa sổ cao có chắn song. Tóc ông ta đen, gương mặt trầm tư. Charlie cảm thấy chắc chắn là ông ta biết nó. Nó có cảm giác người đàn ông này là một tù nhân.
Charlie vội chạy khỏi Ngách Tối, cố gạt bỏ hình ảnh đàn bọ lúc nhúc ra khỏi đầu.
***
“Bồ vừa xem phim kinh dị à?” Emma hỏi khi Charlie ào vô nhà cô Ingledew. “Trông bồ thất thần quá đấy.”
“Ừ, mình vừa từ một nơi kinh dị về,” Charlie hổn hển. Nó kể cho Emma nghe về đám bọ hung và Ngách Tối.
Mắt Emma tròn xoe, rồi nó nói:
“Thiệt tình mình không ngạc nhiên. Mấy bà cô bồ ác độc quá chừng mà. Dì mình đang làm bánh mì kẹp. Bồ có muốn ăn không?”
Tất nhiên là Charlie đồng ý. Cô Julia Ingledew thường kẹp bánh mì thật khéo, với những đồ kẹp ngon lạ lùng. Hôm nay cũng không là ngoại lệ. Có điều, thứ Bảy là ngày cô Ingledew bận bịu nhất nên tất cả phải ngồi ăn đằng sau quầy, và cô Ingledew cứ chốc chốc phải chạy ra để tiếp khách hàng.
Một người đàn ông coi bộ có gu sang trọng về cả ăn mặc lẫn sách vở vừa rời khỏi tiệm, với một cuốn sách hiếm về cá. Nhưng cô Ingledew lộ vẻ không vui, như đáng lẽ cô phải vui nếu xét về món tiền lớn cô vừa bán được. Cô nhấm nháp một miếng bánh mì, tằng hắng và nói:
“Charlie, có chuyện gì xảy ra với Ông cậu của con vậy?”
“Con không biết. Ông cậu đi đâu đó.”
Cô Ingledew lo lắng, “Thường thì ông ấy tới tiệm sách ít nhất hai lần một tuần, vậy mà giờ chẳng có lời nào.”
Charlie rất vui khi cô hơi đỏ mặt. Như thế có nghĩa là việc Ông cậu nó làm cho cô Ingledew phải lòng chưa hẳn là vô vọng.
“Ông cậu có để lại một mẩu tin nhắn, nói rằng mấy bà cô đang âm mưu chuyện gì đó,” Charlie giải thích, “và Ông cậu phải ngăn ai đó nguy hiểm sắp tới.”
“Chao!” Emma thốt lên. “Mình thắc mắc không biết Ông cậu có thành công không.”
“Mình cũng thế,” Charlie nói.
“Cô hy vọng Ông cậu của con sẽ an bình,” cô Ingledew lo lắng nói. “Cô không biết phải làm gì nếu không… ý cô là, ông ấy thật đáng tin cậy, phải không Charlie?”
“Dạ phải,” Charlie đồng ý.
Charlie về đến nhà đúng giờ ăn trưa, nhưng nó ước gì nó đừng về thì hơn. Nội Bone quyết định ra tay một chút, tức là nó buộc phải xơi bánh rau khê thay vì món khoai tây chiên như thường lệ.
Vẫn không có tin tức gì từ Ông cậu Paton, nhưng nội Bone xem ra chẳng có gì bận tâm cả.
“Ta tin là hắn đang phởn phơ nghỉ mát,” bà nói.
Điều này càng xác nhận với Charlie là sự thật thì ngược lại. Nó cũng ngấm ngầm nghĩ rằng bà nội biết Ông cậu Paton đi đâu. Vẻ mặt nghiêm nghị của bà chỉ có mỗi một ý nghĩa rằng Ông cậu đang gặp nguy hiểm.
Sau nửa giờ khốn khổ, nội Bone để cho Charlie và mẹ nó rửa chén đĩa.
Charlie thở phào nhẹ nhõm.
“Mẹ à, con lo cho Ông cậu Paton quá. Làm sao chúng ta biết ông đang ở đâu bây giờ?”
“Chúng ta không thể biết được đâu, Charlie. Ông cậu của con biết mình đang làm gì mà,” mẹ nó liếc mình trong gương và phủi phủi vai.
“Mẹ không có bạn trai khác đấy chứ?” Charlie hỏi.
Câu trả lời của mẹ nó không chắc chắn cho lắm.
“Sao con lại nghĩ như vậy?”
“Mẹ đừng quên ba nhe,” Charlie nói.
“Dĩ nhiên là không rồi, Charlie.” Mẹ nó mỉm cười ưu tư.
Chiều Chủ nhật, Charlie tới quán Cà Phê Thú Kiểng như thường lệ. Đó là một nơi lý tưởng để tụ tập bạn bè, miễn là đừng quên mang theo một con thú cưng.
Hôm nay, người bảo vệ quán, Norton Cross, để Charlie vô mà không cần thú.
“Ông Onimous đã kể cho tôi nghe hết về con Hạt Đậu rồi,” người đàn ông lực lưỡng nói.
“Thú cưng của cậu đang chờ cậu kìa, Charlie,” ông chỉ một chiếc bàn, nơi Gabriel ngồi và đang cho con Hạt Đậu ăn bánh bích quy của chó.
Con chó vàng sủa một tiếng hân hoan khi trông thấy Charlie và nhảy lồng lên, suýt nữa thì tông nó lộn nhào. Sau phần đon đả chào mừng với con Hạt Đậu, Charlie ngồi xuống kế bên Gabriel. Trên đùi Gabriel đầy những con chuột đủ màu.
“Em ngạc nhiên là sao con Hạt Đậu không thịt chúng,” Charlie nhận xét.
“Anh nghĩ Hạt Đậu không chén những thứ nhúc nhích được,” Gabriel nói.
Cửa quán Cà Phê Thú Kiểng mở ra, kêu lanh canh, và thêm ba khách hàng nữa bước vô. Olivia với con thỏ trắng, Emma xách một con chim trông lạ mắt bị nhốt ở trong lồng, và một vị khách bất ngờ: thầy Boldova. Thầy cầm con chuột đen của mình, con Rembrandt, và ông bảo vệ Norton Cross khoát tay cho thầy vô quán cà phê.
Trong khi hai cô bé bước tới bàn Gabriel, thì thầy Boldova đi về phía quầy.
“Hôm qua thầy Boldova tới tiệm sách của cô mình,” Emma giải thích. “Thầy muốn nói chuyện về Ollie và con trăn, Charlie. Cho nên mình đưa thầy tới đây.”
Thầy Boldova đi lại bàn với một khay đầy bánh táo và nước cam.
“Để thầy chiêu đãi,” thầy bảo. “Chuyền quanh đi.”
Thầy giáo dạy vẽ ngồi xuống giữa Emma và Olivia, trong khi tụi nhỏ chia bánh thật đều.
“Emma bảo là thầy muốn nói chuyện với con, thưa thầy,” Charlie nói, cắn một miếng bánh thật to.
Thầy Boldova đã mất vẻ hớn hở.
“Ừ, Charlie. Thầy sẽ đi thẳng vô vấn đề luôn. Có một nữ sinh mới trong khoa hội họa, Belle Donner. Rõ ràng, cô này sống với mấy bà cô của trò. Như vậy có nghĩa là cô ấy là bà con với trò, đúng không Charlie?”
Charlie nghẹn bánh.
“Con hy vọng là không,” nó nói khàn khàn.
“Ấy, có chuyện gì vậy?” Olivia hỏi. “Có gì cho tụi con cùng biết với?”
“Ừ, trò có biết gì về Belle không?” Thầy Boldova hỏi.
“Không ạ,” Charlie nói. “Ngoại trừ việc mắt nó cứ liên tục đổi màu… và… và con thấy…”
“Thấy gì?” Olivia nôn nóng.
Charlie kể cho mọi người nghe về khu Ngách Tối và đám bọ cánh cứng.
“Tuy là một trong những bà cô của con làm nên đám bọ, nhưng con chắc chắn là Belle cũng có dính líu vô đó. Con nhỏ hình như có quyền lực đối với họ.”
“Chắc chắn là bà ta…”
“Bà ta là ai?” Olivia hỏi.
Thầy Boldova mỉm cười nghiêm nghị.
“Emma chắc là đã nói cho các trò biết rằng em trai Ollie của thầy từng là học viên của Học viện Bloor. Cách đây hơn một năm, nó thình lình biến mất. Khi thầy tới Học viện Bloor để tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra với nó, thầy buộc phải dùng tên họ hoàn toàn khác. Chắc chắn sẽ có nhiều người trong Học viện Bloor muốn tống khứ thầy đi nếu học biết thầy là ai.”
“Tống khứ thầy đi!” Emma thất kinh.
“Thầy e là vậy,” thầy Boldova trầm ngâm cắn một miếng bánh. “Bằng cách này hay cách khác.”
“Còn Belle…” Charlie gợi ý.
“À, Belle,” thầy Boldova lau miệng bằng chiếc khăn giấy màu nâu của quán Cà Phê Thú Kiểng, rồi bắt đầu:
“Phía bên kia núi ở miền đông bắc có một toà lâu đài. Nó được xây dựng từ thế kỷ thứ 12 và trước kia từng có một cái tên khác. Ngày nay người ta gọi nó là Lâu đài Yewbeam.”
Nói tới đó, thầy liếc Charlie.
Charlie lặp lại, “Yewbeam,” nhưng nó không ngắt lời thầy.
“Suốt nhiều thế kỷ,” thầy Boldova tiếp, “những hậu duệ của Vua Đỏ sống trong Lâu đài Yewbeam. Hầu hết những chủ nhân của lâu đài này đều được ban phép thuật. Vào năm 1900, một đứa bé gái ra đời tại Lâu đài này. Tên nó là Yolanda. Cha nó là người biến hình, mẹ nó là người thôi miên. Trong ngày sinh nhật lần thứ 21 của mình, Yolanda được thừa hưởng toà lâu đài, mặc dầu…”
Thầy Boldova liếc nhìn những gương mặt háo hức chờ đợi của bọn trẻ:
“… mặc dầu không ai có thể chắc rằng cha của cô ta đã chết hoàn toàn chưa.”
“Chết hoàn toàn,” Olivia kêu lên. “Vậy nghĩa là sao?”
“Tức là, người ta không bao giờ chắc chắn khi nào thì người biến hình ngừng tồn tại. Yolanda bây giờ đã hơn một trăm tuổi, và bà ta vẫn có thể biến thành một nữ sinh mười hai tuổi.”
“Ý thầy là,” Charlie há hốc mồm, “Yolanda là… Belle?”
“Thầy chắc chắn,” thầy Boldova nói. “Và thầy sợ rằng bà ta đã nhận ra thầy. Nhà của thầy ở không xa nhà của bà ta lắm, và bà ta luôn luôn hậm hực với những người ở trong Lâu đài Lấp Lánh. Nơi đó ngày xưa rộn đầy tiếng cười, rất vui, lúc nào ánh sáng cũng lấp lánh. Nhưng kể từ khi Ollie biến mất, thì chúng tôi, tức thầy và cha của thầy, không thích làm cho những đồ vật sáng lấp lánh lên nữa. Phải, cả hai chúng tôi đều có phép thuật. Buồn một nỗi, Ollie lại không được ban phép thuật. Tài năng của nó là âm nhạc, và nó cũng được ban cho trí tò mò vô biên. Và thầy luôn lo sợ rằng điều này sẽ chỉ làm thằng bé gặp toàn rắc rối.”
“Thưa thầy, có một bức chân dung của bà Selena Sparks. Bà ấy cũng là một người làm lấp lánh được ạ?” Charlie hỏi.
“Bà Selena… à phải, một phụ nữ tuyệt vời, theo ý kiến chung của mọi người. Chúng tôi là con cháu một người em trai của bà, ông không có phép thuật. Bà Selena không lấy chồng. Có quá nhiều niềm vui rồi mà.”
Charlie nhấp nhỏm muốn hỏi xem làm thế nào mà tạo được ánh sáng lấp lánh, nhưng nó nghĩ lúc này là không thích hợp. Olivia lại không có mối băn khoăn như thế.
“Thầy làm được gì ạ, thưa thầy?” Con bé hỏi. “Làm sao thầy làm cho đồ vật lấp lánh lên được ạ?”
“Bận lòng làm gì chuyện ấy,” thầy giáo đáp.
Nhưng rồi, nhìn những vẻ mặt thất vọng, thầy bảo:
“Ồ, thế này này.”
Thầy thò tay vô túi quần và lôi ra một nắm đá nhỏ. Thầy đặt tay lên bàn, để cho nắm đá lăn nhẹ trong lòng bàn tay mở ra. Bốn cái đầu chụm sát lại, và đột nhiên, những hòn đá bắt đầu toả sáng lấp lánh. Bọn trẻ cảm nhận sức nóng từ những tia lửa lung linh do những hòn đá phát ra. Hạt Đậu, con thỏ, con vẹt, và mất con chuột chợt đồng loạt kêu lên hoặc sủa om.
Con chuột Rembrandt, xem ra đã quen với cảnh tượng này, nên yên lặng theo dõi.
Thầy Boldova nắm nắm tay lại và tia sáng tắt ngúm. Con chim mà Emma mang theo thình lình la lên:
“Ta sẽ bị nguyền rủa!”
“Chúng có thể rất nguy hiểm,” thầy Boldova nói, đút nắm đá trở lại vô túi.
“Làm sao thầy giữ được chúng khi chúng nóng như vậy?” Gabriel hỏi.
“Thật tình thầy cũng không biết,” thầy giáo đáp.
Ông Onimous xuất hiện bên cạnh bàn, muốn biết xem chuyện gì đang xảy ra.
“Ai làm khách hàng của ta bực mình vậy?” Ông hỏi, ý nói đến mấy con thú.
Thầy Boldova đang tính nhận lỗi thì ông Onimous bỗng đặt ngón tay lên môi.
“Không. Đừng nói với tôi. Chú là một trong số họ phải không?” Ông nháy mắt với Charlie và tiếp, “Cậu thấy anh bạn Hạt Đậu thế nào? Trông anh chàng vui sướng đấy chứ?”
“Trông nó tuyệt lắm, thưa ông Onimous. Nó có hoà thuận được với lũ mèo không vậy?” Charlie nói.
“Không lo. Charlie, chúng là bạn mà. Lại nói về mấy con mèo lửa, dạo này chúng rất quan tâm tới cái trường của cậu đấy. Ở đó tất cả mọi việc vẫn ổn chứ?”
Trong một thoáng, Charlie ngần ngừ, rồi, nhìn thầy Boldova, nó nói khẽ:
“Không ổn.”
Nó hạ giọng kể cho ông Onimous nghe về Belle và về Ollie vô hình.
“Ôi trời,” ông Onimous than thở. “Thảo nào mà bọn mèo cứ tò mò.”
Vừa lúc đó, một toán khách hàng rất ồn ào đi vô: bốn con chó đen trùi trũi, bị rọ mõm vuông, và con mắt ngầu lên nguy hiểm. Hai thiếu niên đi kèm chúng trông khá ôn hoà, nhưng Charlie cảm thấy họ có cái gì đó đáng sợ. Cả hai đều béo ù, tóc hoe hoe, gương mặt đỏ bừng, đầy tàn nhang. Nhìn vô, người ta có thể nói rằng bọn này đã không dành nhiều thời gian để huấn luyện đám chó của mình.
“Chó săn,” Gabriel lẩm bẩm. “Tốt hơn em nên canh chừng con Hạt Đậu. Không chúng đánh nhau tới chết cho coi.”
Ông Onimous nhún nhảy bước đi, để can thiệp đám chó sủa mới bùng lên, trong khi con Hạt Đậu bắt đầu gầm gừ trong cổ họng. Chắc hẳn nó rất muốn xông vô lũ chó săn, nhưng không dám liều.
Bọn trẻ cũng vừa ăn bánh xong. Và sau vài cái ôm, Charlie dẫn Hạt Đậu vô chỗ an toàn sau quầy.
“Hẹn gặp vào tuần tới nha,” nó nói với con chó vàng.
Khi Charlie bước về phía cửa, nó gặp ngay lũ chó săn ngáng đường. Tiếng gừ của chúng có hơi hăm đe doạ, và trong một thoáng Charlie không dám vượt qua chúng.
“Xin lỗi,” một trong hai thiếu niên nở nụ cười gượng gạo và kéo bọn chó săn tránh đường ra.
Gabriel đã mở cửa và Charlie chạy hết tốc lực qua cửa, suýt nữa thì tông vô một con bé đang đứng bên ngoài: Dorcas Loom.
“Chào!” Charlie nói. “Bồ làm gì ở đây vậy?”
“Mình chờ các anh của mình,” Dorcas nói.
“Không có thú à?” Gabriel hỏi.
“Không thích,” Dorcas đáp.
Đúng lúc đó thầy Boldova đi ra khỏi quán. Theo sau là Emma và Olivia.
“Ô!” Mắt Dorcas mở lớn. “Ai mà tưởng tượng được là thầy ở đây, thưa thầy.”
“Chào Dorcas,” thầy dạy vẽ mỉm cười nhẹ.
Và rồi Dorcas trông thấy con chim mà Emma mang theo.
“Dễ thương quá,” nó trầm trồ. “Con gì vậy?”
“Con yểng đó. Mình không…”
Quá trễ để Emma ngăn Dorcas đừng thò tay vô lồng chim.
“Chíu chiu! Chíu chiu!” Dorcas gọi.
Con yểng mổ ngón tay của Dorcas và con bé thét lên một tiếng xé óc.
Một trong hai chủ nhân của lũ chó săn thò đầu ra khỏi cửa, hỏi lớn:
“Chuyện gì vậy, Dorcy? Sao la thế?”
“Con chim thối tha, độc ác, tởm lợm, quái đản đó cắn em!” Dorcas gào.
“Mày không nên nuôi thú nguy hiểm chớ,” thằng thiếu niên gằn giọng, trừng mắt nhìn Emma.
“Đừng lố bịch thế.” Thầy Boldova vội nói. “Tôi thấy bốn con chó săn kia còn đáng sợ hơn là một con yểng hiền lành này.”
Thằng thiếu niên giơ nắm đấm lên, nhưng nghĩ sao nó lại rụt lại và thụt vô sau cánh cửa.
“Tụi anh sẽ ra ngay, Dorc,” nó nói.
Dorcas giờ đã bình tĩnh lại, nhưng khi Emma xin lỗi về hành vi của con yểng, Dorcas thậm chí không thèm nhìn mặt nó.
“Tạm biệt Dorcas,” mấy đứa kia chào rồi đi khỏi.
Dorcas quay lưng lại và mút ngón tay.
Khi chúng ra đến đường cái, thầy Boldova nói:
“Này, nghe đây. Thầy không muốn bất cứ ai trong các trò cố cứu Ollie đâu đấy.”
“Nhưng mà…” Charlie lên tiếng.
“Không nhưng gì hết. Quá nguy hiểm,” thầy Boldova dứt khoát. “Tin thầy đi. Thầy rất biết ơn vì sự giúp đỡ của các trò, Charlie và Emma, nhưng cứ để đó cho thầy, được chứ?”
Bọn trẻ miễn cưỡng đồng ý và thầy giáo dạy vẽ bước về phía Học viện Bloor. Emma và Olivia đi theo lối dẫn tới tiệm sách của cô Ingledew, còn Gabriel và Charlie đi thẳng ra ngã tư.
Trước khi chúng chia tay, Charlie bảo:
“Anh có nghĩ là Dorcas theo dõi tụi mình không? Dạo này nó thay đổi rất nhiều. Kể từ hồi em thấy nó trong ngôi nhà ở Ngách Tối, em có cảm tưởng là nó không phải như tất cả tụi mình vẫn nghĩ về nó.”
“Chắc chắn là nó đã giảm cân,” Gabriel pha trò.
“Không phải thế,” Charlie nói, toét miệng cười.
“Ừm, nó cũng có phép thuật. Nhưng chúng ta không biết nó có tài phép gì. Còn để thám thính thì anh nghĩ đã có Billy Raven làm gián điệp rồi. Tất cả chúng ta đều biết thằng bé về phe Manfred và cái lão Ezekiel Bloor kinh khủng ấy.”
“Chỗ nào cũng có thể có do thám cả,” Charlie trầm tư. “Và Billy có lẽ không còn hữu ích cho họ nữa, bởi vì tất cả tụi mình đều đã biết nó rồi. Ngoài ra, em thấy tội tội cho nó sao ấy, một đứa trẻ mồ côi, phải sống một mình trong toà nhà u ám, tối tăm đó suốt. Không bao giờ được về nhà. Thử tưởng tượng coi!”
“Không thể tưởng tượng nổi,” Gabriel thừa nhận, gật gù. “Hẹn gặp lại ngày mai, Charlie.”
Gabriel phóng chồm đi cùng một con chuột bám vô mái tóc loà xoà của nó, trông tức cười đến nỗi Charlie không nhịn được cười, nhưng vừa chợt nghĩ đến Belle, nụ cười của nó tắt ngấm.
“Phải mấy người bắt chó không?” Nội Bone la vọng xuống.
Tim của Charlie thót lại.
“Đừng lo, Charlie, chúng ta sẽ không để họ làm gì mạnh bạo đâu,” mẹ Charlie trấn an nó.
Nội Bone đã xuống tới hành lang. Bà ta mở cửa trước và hét lên hoảng hốt.
Charlie chạy ra hành lang. Một người đàn ông nhỏ thó, trông lông lá, đứng ở ngưỡng cửa. Charlie nhận ra ông ngay tức khắc. Đó là bạn của nó, ông Onimous! Đằng sau ông là ba con mèo trông dữ tợn – nguyên nhân khiến nội Bone hét lên. Bà vốn ghét mèo, nhất là mèo màu cam. Những con này màu cam, màu vàng và màu đồng.
“Ông là người diệt chó?” Nội Bone hỏi, vẻ nghi ngờ. “Hình như trước kia tôi có thấy ông với mấy con mèo kỳ dị này rồi.” Nội Bone lùi lại.
Người đàn ông chìa ra một tấm danh thiếp.
“Orvil Onimous, thưa bà. Đội diệt côn trùng kiêm bắt thú.”
“Ông vô và bắt con chó mắc dịch ấy mau đi,” nội Bone nói. “Charlie, nếu nó có dây xích thì đi lấy ra đây.”
Charlie lao trở lại nhà bếp, theo sau là ông Onimous và lũ mèo.
“Ổn rồi,” nó thì thào với mẹ và ngoại Maisie. “Ông Onimous tới.”
Ngoại Maisie lôi sợi dây xích chó khỏi túi tạp dề của bà và đưa ra.
“Vậy là tốt cho con chó,” ngoại nói.
Ông Onimous nháy mắt.
Có tiếng gầm gừ và khè khè như mọi khi giữa chó với mèo trong lúc ông Onimous tròng sợi dây xích vô cổ Hạt Đậu, nhưng hình như con chó bự này vui mừng khi gặp lại tất cả bọn họ.
“Làm sao mà ông biết con Hạt Đậu đang lâm nguy?” Charlie hỏi nhỏ.
“Lũ mèo biết,” ông Onimous nói. “Chúng đòi đi thăm cậu, nhưng mãi khi tới đây ta mới biết là việc gì. Nhớ tới thăm tiệm cà phê của chúng tôi nhé, Charlie.”
Nội Bone kêu lên:
“Lẹ lẹ lên! Tống con chó đó ra khỏi đây mau!”
Ông Onimous dẫn con chó đang hí hửng đi khỏi. Và Hạt Đậu nhìn lại, chỉ một lần, để thảy cho Charlie một tiếng sủa động viên.
“Vui lên đi, các bạn,” ông Onimous nói.
Nội Bone đóng sập cửa lại. May thay, một hồi sau, khi đội bắt chó thật tới nhấn chuông thì chính Charlie ra mở cửa.
“Xong xuôi rồi,” Charlie bảo họ, “chúng tôi đã tìm được cho con chó một ngôi nhà.”
***
Vấn đề con Hạt Đậu đã được giải quyết xong, Charlie ngủ một đêm ngon lành, đúng ra nó còn ngủ lố giấc là đằng khác. Nó chỉ tỉnh dậy khi ngoại Maisie lay nó.
“Ngoại đi đây, Charlie. Tắc-xi đang đợi. Mẹ con đi làm rồi, còn nội Bone cũng đã đi đâu đó.”
Ngoại đặt một mẩu giấy lên gối Charlie.
“Đây là địa chỉ của mấy bà cô Yewbeam, phòng trường hợp con cần họ. Dù gì thì họ cũng là mấy bà cô của con. Ngoại phải để con lại một mình, nhóc con ạ, nhưng không còn cách nào khác.”
“Không sao đâu ngoại,” Charlie ngáp. Nó không thể tưởng tượng nổi có lý do gì mà nó phải ghé nhà mấy bà cô Yewbeam.
Ngoại Maisie hôn nhẹ lên đầu nó rồi ra đi.
Căn nhà im lặng khác thường. Charlie không tài nào nhớ nổi nó đã từng bao giờ ở nhà hoàn toàn một mình như thế này chưa. Ông cậu Paton luôn có ở nhà. Luôn luôn. Vậy, điều gì đã xảy ra với ông vậy? Sau bữa sáng, Charlie ghé chợ gặp mẹ nó. Cô đang cân táo cho một người đàn ông có vẻ thiếu kiên nhẫn, và có một hàng người xếp hàng dài đằng sau ông ta.
“Bây giờ mẹ không thể dừng tay được,” mẹ nó thì thầm. “Bữa trưa gặp con nhé. Con không sao chứ?”
“Không sao. Con đến nhà Emma đây,” Charlie vui vẻ nói.
Emma sống với dì của nó, cô Julia Ingledew, trong một tiệm sách ở đằng sau nhà thờ lớn. Nhưng khi Charlie vừa xuống con đường dốc tới tiệm sách cô Ingledew, bất giác nó lôi từ túi áo ra mẩu giấy mà ngoại Maisie đã đưa cho nó. Mấy bà cô có một địa chỉ thật lạ lùng: số 13 đường Ngách Tối.
“Ngách Tối,” Charlie lầm bầm một mình.
Đó là tên một con đường, một con hẻm hay là một thành phố khác? Charlie đi vô một quầy báo. Nó mua một gói kẹo bạc hà và đưa mẩu giấy cho người phụ nữ đằng sau quầy.
“Ngách Tối? Cháu sẽ không tới đó đấy chứ?”
“Cháu nghĩ là cháu phải tới,” Charlie nói.
“Không hay gì đâu. Một nơi qủy tha ma bắt. Không thích hợp với bọn con nít như cháu đâu.”
Charlie nổi trí tò mò.
“Tại sao vậy?”
“Tối tăm. Không đèn đường.”
“Nhưng giờ là ban ngày mà,” Charlie nêu rõ.
“Có khối chuyện xảy ra ở chỗ ấy rồi, nhóc. Tốt hơn cháu nên thôi đi.”
“Cháu có bà con ở đó,” Charlie nói.
Người phụ nữ chồm ra khỏi quầy, nhìn Charlie trân trân.
“Bà con như thế nào?” Bà hỏi.
“Mấy bà cô. Cháu chắc chắn là không sao đâu. Bác làm ơn chỉ giúp cháu nó ở đâu.”
Người phụ nữ thở dài.
“Được rồi, nhưng đừng có trách là tôi không cảnh báo trước đấy nhé. Quẹo phải ở cuối đường này, sau đó đi tiếp đến khi nào tới Vòng Cung Ụ Xám. Ngách Tối ở đâu đó trong ấy.”
“Cám ơn bác.”
Charlie vội rời quầy, không để người phụ nữ kịp tuyên bố thêm một lời cảnh báo ảm đạm nào nữa.
Vòng Cung Ụ Xám là một nơi đúng như tên gọi: một vòng cung gồm những toà nhà, cao, xám xịt, đâu mặt vô một bãi cỏ bẩn thỉu, hình bán nguyệt. Một cái cây khổng lồ, rậm rạp đứng ở chính tâm, tạo cho nơi này một bầu không khí âm u, đầy hiểm hoạ.
Rất chính xác, đi được chừng nửa đường quanh vòng cung thì tới một khoảng trống giữa những dãy nhà liên kế, và một tấm biển bạc màu đóng vô một bức tường đề: NGÁCH TỐI. Charlie quẹo vô ngõ hẻm hẹp rí, tối tăm ấy. Hai bên hẻm, những bức tường không cửa sổ, dơ dáy, chĩa thẳng lên trời. Một cơn gió nhớp nháp xoáy thẳng vô mặt Charlie. Thật khó mà tin rằng, chỉ mới khoảnh khắc trước đó thôi nó còn đứng dưới ánh mặt trời.
Ngõ hẻm nới rộng vô một con đường lát gạch, bao quanh là những căn nhà trông ảm đạm và cổ kính. Cũng giống như những bức tường khổng lồ kia, những căn nhà hình như đổ vô trong, đuổi sạch ánh sáng đi. Phía trên chúng, lơ lửng những đám mây đen kịt, đen nhất mà Charlie từng thấy.
Charlie rùng mình rồi bắt đầu bước ngang qua những căn nhà, lẩm nhẩm đếm số đánh trên cửa. Hầu như nhà nào cũng vắng tanh. Những cửa sổ che ván kín mít, những cánh cửa loang lổ đóng đinh chặt lại. Cứ như kẻ nào đó, hoặc cái gì đó, vừa mới quét tất cả các cựu cư dân ở đây đi khỏi. Ở căn số 5, một nhóm thanh niên ùa ra cửa, vừa ẩu đả vừa la ó rầm trời. Charlie vội dấn bước. Tới căn số 9, một người đàn ông trông bặm trợn xuất hiện từ tầng hầm. Ông ta rống lên chửi Charlie, lúc này đã dợm chân chạy. Qua căn số 11, một cái nắp thùng rác rớt xuống vỉa hè, và một con chuột chạy luồn qua hai chân Charlie.
Ngách Tối là ngõ cụt, chẳng dẫn tới đâu cả. Cuối con đường lát gạch, một dãy nhà, cao hơn những nhà kia, đứng sừng sững ngay trước mặt Charlie. Chúng có những tháp nhỏ kỳ lạ, những ban công khung sắt, những cửa sổ cao, hình vòm, với trán tường có chạm trổ mặt thần lùn giữ cửa và những con vật kỳ lạ. Căn nhà đầu tiên mang số 13.
Charlie leo lên những bậc cấp bằng đá. Phía trên cùng của cánh cửa đen có một khoen đồng dùng để gõ cửa, mang hình một bàn tay, treo trên số 13. Charlie không gõ cửa, dĩ nhiên! Thay vô đó, nó tì người lên những lan can của ban công và ngó vô một cửa sổ dài. Căn phòng bên trong chất đầy những đồ đạc lờ mờ, tối. Nó nhìn kỹ qua cánh cửa sổ nằm phía kia của cửa chính, thì thấy chân dung của những người nghiêm trang và đăm chiêu treo kín cả ba bức tường. Căn nhà im ắng. Có vẻ như không người.
Khi Charlie quay trở ra, nó nhận thấy căn kế bên cũng mang số 13, và căn kế nữa cũng vậy!
“Tội nghiệp ông đưa thư,” nó lẩm bẩm.
Căn nhà thứ hai cũng im lìm và tối như bưng, nhưng từ căn thứ ba vọng ra âm thanh vo vo rè rè.
Để nhìn cho rõ hơn, Charlie chạy xuống những bậc cấp tầng hầm và leo lên gờ tường hẹp rí bên dưới ô cửa sổ dài. Kiễng chân lên, nó có thể thấy căn phòng bên trong.
Hóa ra cái nó thấy thú vị hơn là nó tưởng. Một chiếc bàn dài hình ô-van chiến gầm hết căn phòng. Bên trên ngổn ngang những mảnh vải, khoen xê-quin, lông chim, nút áo, đinh khuy, những miếng gương nhỏ hình vuông, nhung, da thuộc, những cục bông gòn. Một hàng đèn có chụp bằng đồng hình quả chuông treo phía trên bàn, soi rõ ba dáng người. Belle ngồi bên trên một bàn máy may, trong khi bà cô Venetia và Dorcas Loom đứng cạnh nhau, nhìn Belle. Bà cô Venetia đang cầm một cái kim cài mũ có gắn hình một con bọ hung ở đầu. Belle nói cái gì đó, và bà cô Venetia ghim chiếc kim cài mũ vô một mảnh vải nhung đỏ. Mảnh vải lập tức biến thành một mảng lúc nhúc những con bọ cánh cứng, đen thùi.
Dorcas nín thở - và cả Charlie cũng vậy.
Belle thình lình nhìn ra cửa sổ, và ánh nhìn hung tợn màu xanh da trời của nó hất Charlie té bật ngửa vô dãy thùng rác. Từ bên trên, ngay cửa lớn, đang ngó xuống là Asa Pike.
“Anh làm cái quỷ gì ở đây vậy?” Charlie hỏi, lồm cồm bò dậy.
“Tao phải hỏi mày câu đó mới đúng.”
Asa, trong trang phục hóa trang thảm hại như thường lên, nhìn nó nảy lửa. Thằng này mặc áo khoác da, sơ mi trắng, cà vạt sọc xanh da trời và quần màu xám. Làm như chưa đủ gây ngạc nhiên, trên tay nó còn cầm một bó hoa tu-lip.
“Mấy bà cô của tôi sống ở đây,” Charlie nói.
“Thế sao mày không vô mà phải dòm trộm?” Asa chất vấn.
“Không phải việc của anh.”
Asa nhún vai và nhấn chuông, trong khi Charlie leo lên những bậc cấp tầng hầm. Khi nó lên tới vỉa hè, một tiếng động từ phía trên khiến nó phải ngước lên nhìn. Một người đàn ông nhìn ra từ một cửa sổ cao có chắn song. Tóc ông ta đen, gương mặt trầm tư. Charlie cảm thấy chắc chắn là ông ta biết nó. Nó có cảm giác người đàn ông này là một tù nhân.
Charlie vội chạy khỏi Ngách Tối, cố gạt bỏ hình ảnh đàn bọ lúc nhúc ra khỏi đầu.
***
“Bồ vừa xem phim kinh dị à?” Emma hỏi khi Charlie ào vô nhà cô Ingledew. “Trông bồ thất thần quá đấy.”
“Ừ, mình vừa từ một nơi kinh dị về,” Charlie hổn hển. Nó kể cho Emma nghe về đám bọ hung và Ngách Tối.
Mắt Emma tròn xoe, rồi nó nói:
“Thiệt tình mình không ngạc nhiên. Mấy bà cô bồ ác độc quá chừng mà. Dì mình đang làm bánh mì kẹp. Bồ có muốn ăn không?”
Tất nhiên là Charlie đồng ý. Cô Julia Ingledew thường kẹp bánh mì thật khéo, với những đồ kẹp ngon lạ lùng. Hôm nay cũng không là ngoại lệ. Có điều, thứ Bảy là ngày cô Ingledew bận bịu nhất nên tất cả phải ngồi ăn đằng sau quầy, và cô Ingledew cứ chốc chốc phải chạy ra để tiếp khách hàng.
Một người đàn ông coi bộ có gu sang trọng về cả ăn mặc lẫn sách vở vừa rời khỏi tiệm, với một cuốn sách hiếm về cá. Nhưng cô Ingledew lộ vẻ không vui, như đáng lẽ cô phải vui nếu xét về món tiền lớn cô vừa bán được. Cô nhấm nháp một miếng bánh mì, tằng hắng và nói:
“Charlie, có chuyện gì xảy ra với Ông cậu của con vậy?”
“Con không biết. Ông cậu đi đâu đó.”
Cô Ingledew lo lắng, “Thường thì ông ấy tới tiệm sách ít nhất hai lần một tuần, vậy mà giờ chẳng có lời nào.”
Charlie rất vui khi cô hơi đỏ mặt. Như thế có nghĩa là việc Ông cậu nó làm cho cô Ingledew phải lòng chưa hẳn là vô vọng.
“Ông cậu có để lại một mẩu tin nhắn, nói rằng mấy bà cô đang âm mưu chuyện gì đó,” Charlie giải thích, “và Ông cậu phải ngăn ai đó nguy hiểm sắp tới.”
“Chao!” Emma thốt lên. “Mình thắc mắc không biết Ông cậu có thành công không.”
“Mình cũng thế,” Charlie nói.
“Cô hy vọng Ông cậu của con sẽ an bình,” cô Ingledew lo lắng nói. “Cô không biết phải làm gì nếu không… ý cô là, ông ấy thật đáng tin cậy, phải không Charlie?”
“Dạ phải,” Charlie đồng ý.
Charlie về đến nhà đúng giờ ăn trưa, nhưng nó ước gì nó đừng về thì hơn. Nội Bone quyết định ra tay một chút, tức là nó buộc phải xơi bánh rau khê thay vì món khoai tây chiên như thường lệ.
Vẫn không có tin tức gì từ Ông cậu Paton, nhưng nội Bone xem ra chẳng có gì bận tâm cả.
“Ta tin là hắn đang phởn phơ nghỉ mát,” bà nói.
Điều này càng xác nhận với Charlie là sự thật thì ngược lại. Nó cũng ngấm ngầm nghĩ rằng bà nội biết Ông cậu Paton đi đâu. Vẻ mặt nghiêm nghị của bà chỉ có mỗi một ý nghĩa rằng Ông cậu đang gặp nguy hiểm.
Sau nửa giờ khốn khổ, nội Bone để cho Charlie và mẹ nó rửa chén đĩa.
Charlie thở phào nhẹ nhõm.
“Mẹ à, con lo cho Ông cậu Paton quá. Làm sao chúng ta biết ông đang ở đâu bây giờ?”
“Chúng ta không thể biết được đâu, Charlie. Ông cậu của con biết mình đang làm gì mà,” mẹ nó liếc mình trong gương và phủi phủi vai.
“Mẹ không có bạn trai khác đấy chứ?” Charlie hỏi.
Câu trả lời của mẹ nó không chắc chắn cho lắm.
“Sao con lại nghĩ như vậy?”
“Mẹ đừng quên ba nhe,” Charlie nói.
“Dĩ nhiên là không rồi, Charlie.” Mẹ nó mỉm cười ưu tư.
Chiều Chủ nhật, Charlie tới quán Cà Phê Thú Kiểng như thường lệ. Đó là một nơi lý tưởng để tụ tập bạn bè, miễn là đừng quên mang theo một con thú cưng.
Hôm nay, người bảo vệ quán, Norton Cross, để Charlie vô mà không cần thú.
“Ông Onimous đã kể cho tôi nghe hết về con Hạt Đậu rồi,” người đàn ông lực lưỡng nói.
“Thú cưng của cậu đang chờ cậu kìa, Charlie,” ông chỉ một chiếc bàn, nơi Gabriel ngồi và đang cho con Hạt Đậu ăn bánh bích quy của chó.
Con chó vàng sủa một tiếng hân hoan khi trông thấy Charlie và nhảy lồng lên, suýt nữa thì tông nó lộn nhào. Sau phần đon đả chào mừng với con Hạt Đậu, Charlie ngồi xuống kế bên Gabriel. Trên đùi Gabriel đầy những con chuột đủ màu.
“Em ngạc nhiên là sao con Hạt Đậu không thịt chúng,” Charlie nhận xét.
“Anh nghĩ Hạt Đậu không chén những thứ nhúc nhích được,” Gabriel nói.
Cửa quán Cà Phê Thú Kiểng mở ra, kêu lanh canh, và thêm ba khách hàng nữa bước vô. Olivia với con thỏ trắng, Emma xách một con chim trông lạ mắt bị nhốt ở trong lồng, và một vị khách bất ngờ: thầy Boldova. Thầy cầm con chuột đen của mình, con Rembrandt, và ông bảo vệ Norton Cross khoát tay cho thầy vô quán cà phê.
Trong khi hai cô bé bước tới bàn Gabriel, thì thầy Boldova đi về phía quầy.
“Hôm qua thầy Boldova tới tiệm sách của cô mình,” Emma giải thích. “Thầy muốn nói chuyện về Ollie và con trăn, Charlie. Cho nên mình đưa thầy tới đây.”
Thầy Boldova đi lại bàn với một khay đầy bánh táo và nước cam.
“Để thầy chiêu đãi,” thầy bảo. “Chuyền quanh đi.”
Thầy giáo dạy vẽ ngồi xuống giữa Emma và Olivia, trong khi tụi nhỏ chia bánh thật đều.
“Emma bảo là thầy muốn nói chuyện với con, thưa thầy,” Charlie nói, cắn một miếng bánh thật to.
Thầy Boldova đã mất vẻ hớn hở.
“Ừ, Charlie. Thầy sẽ đi thẳng vô vấn đề luôn. Có một nữ sinh mới trong khoa hội họa, Belle Donner. Rõ ràng, cô này sống với mấy bà cô của trò. Như vậy có nghĩa là cô ấy là bà con với trò, đúng không Charlie?”
Charlie nghẹn bánh.
“Con hy vọng là không,” nó nói khàn khàn.
“Ấy, có chuyện gì vậy?” Olivia hỏi. “Có gì cho tụi con cùng biết với?”
“Ừ, trò có biết gì về Belle không?” Thầy Boldova hỏi.
“Không ạ,” Charlie nói. “Ngoại trừ việc mắt nó cứ liên tục đổi màu… và… và con thấy…”
“Thấy gì?” Olivia nôn nóng.
Charlie kể cho mọi người nghe về khu Ngách Tối và đám bọ cánh cứng.
“Tuy là một trong những bà cô của con làm nên đám bọ, nhưng con chắc chắn là Belle cũng có dính líu vô đó. Con nhỏ hình như có quyền lực đối với họ.”
“Chắc chắn là bà ta…”
“Bà ta là ai?” Olivia hỏi.
Thầy Boldova mỉm cười nghiêm nghị.
“Emma chắc là đã nói cho các trò biết rằng em trai Ollie của thầy từng là học viên của Học viện Bloor. Cách đây hơn một năm, nó thình lình biến mất. Khi thầy tới Học viện Bloor để tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra với nó, thầy buộc phải dùng tên họ hoàn toàn khác. Chắc chắn sẽ có nhiều người trong Học viện Bloor muốn tống khứ thầy đi nếu học biết thầy là ai.”
“Tống khứ thầy đi!” Emma thất kinh.
“Thầy e là vậy,” thầy Boldova trầm ngâm cắn một miếng bánh. “Bằng cách này hay cách khác.”
“Còn Belle…” Charlie gợi ý.
“À, Belle,” thầy Boldova lau miệng bằng chiếc khăn giấy màu nâu của quán Cà Phê Thú Kiểng, rồi bắt đầu:
“Phía bên kia núi ở miền đông bắc có một toà lâu đài. Nó được xây dựng từ thế kỷ thứ 12 và trước kia từng có một cái tên khác. Ngày nay người ta gọi nó là Lâu đài Yewbeam.”
Nói tới đó, thầy liếc Charlie.
Charlie lặp lại, “Yewbeam,” nhưng nó không ngắt lời thầy.
“Suốt nhiều thế kỷ,” thầy Boldova tiếp, “những hậu duệ của Vua Đỏ sống trong Lâu đài Yewbeam. Hầu hết những chủ nhân của lâu đài này đều được ban phép thuật. Vào năm 1900, một đứa bé gái ra đời tại Lâu đài này. Tên nó là Yolanda. Cha nó là người biến hình, mẹ nó là người thôi miên. Trong ngày sinh nhật lần thứ 21 của mình, Yolanda được thừa hưởng toà lâu đài, mặc dầu…”
Thầy Boldova liếc nhìn những gương mặt háo hức chờ đợi của bọn trẻ:
“… mặc dầu không ai có thể chắc rằng cha của cô ta đã chết hoàn toàn chưa.”
“Chết hoàn toàn,” Olivia kêu lên. “Vậy nghĩa là sao?”
“Tức là, người ta không bao giờ chắc chắn khi nào thì người biến hình ngừng tồn tại. Yolanda bây giờ đã hơn một trăm tuổi, và bà ta vẫn có thể biến thành một nữ sinh mười hai tuổi.”
“Ý thầy là,” Charlie há hốc mồm, “Yolanda là… Belle?”
“Thầy chắc chắn,” thầy Boldova nói. “Và thầy sợ rằng bà ta đã nhận ra thầy. Nhà của thầy ở không xa nhà của bà ta lắm, và bà ta luôn luôn hậm hực với những người ở trong Lâu đài Lấp Lánh. Nơi đó ngày xưa rộn đầy tiếng cười, rất vui, lúc nào ánh sáng cũng lấp lánh. Nhưng kể từ khi Ollie biến mất, thì chúng tôi, tức thầy và cha của thầy, không thích làm cho những đồ vật sáng lấp lánh lên nữa. Phải, cả hai chúng tôi đều có phép thuật. Buồn một nỗi, Ollie lại không được ban phép thuật. Tài năng của nó là âm nhạc, và nó cũng được ban cho trí tò mò vô biên. Và thầy luôn lo sợ rằng điều này sẽ chỉ làm thằng bé gặp toàn rắc rối.”
“Thưa thầy, có một bức chân dung của bà Selena Sparks. Bà ấy cũng là một người làm lấp lánh được ạ?” Charlie hỏi.
“Bà Selena… à phải, một phụ nữ tuyệt vời, theo ý kiến chung của mọi người. Chúng tôi là con cháu một người em trai của bà, ông không có phép thuật. Bà Selena không lấy chồng. Có quá nhiều niềm vui rồi mà.”
Charlie nhấp nhỏm muốn hỏi xem làm thế nào mà tạo được ánh sáng lấp lánh, nhưng nó nghĩ lúc này là không thích hợp. Olivia lại không có mối băn khoăn như thế.
“Thầy làm được gì ạ, thưa thầy?” Con bé hỏi. “Làm sao thầy làm cho đồ vật lấp lánh lên được ạ?”
“Bận lòng làm gì chuyện ấy,” thầy giáo đáp.
Nhưng rồi, nhìn những vẻ mặt thất vọng, thầy bảo:
“Ồ, thế này này.”
Thầy thò tay vô túi quần và lôi ra một nắm đá nhỏ. Thầy đặt tay lên bàn, để cho nắm đá lăn nhẹ trong lòng bàn tay mở ra. Bốn cái đầu chụm sát lại, và đột nhiên, những hòn đá bắt đầu toả sáng lấp lánh. Bọn trẻ cảm nhận sức nóng từ những tia lửa lung linh do những hòn đá phát ra. Hạt Đậu, con thỏ, con vẹt, và mất con chuột chợt đồng loạt kêu lên hoặc sủa om.
Con chuột Rembrandt, xem ra đã quen với cảnh tượng này, nên yên lặng theo dõi.
Thầy Boldova nắm nắm tay lại và tia sáng tắt ngúm. Con chim mà Emma mang theo thình lình la lên:
“Ta sẽ bị nguyền rủa!”
“Chúng có thể rất nguy hiểm,” thầy Boldova nói, đút nắm đá trở lại vô túi.
“Làm sao thầy giữ được chúng khi chúng nóng như vậy?” Gabriel hỏi.
“Thật tình thầy cũng không biết,” thầy giáo đáp.
Ông Onimous xuất hiện bên cạnh bàn, muốn biết xem chuyện gì đang xảy ra.
“Ai làm khách hàng của ta bực mình vậy?” Ông hỏi, ý nói đến mấy con thú.
Thầy Boldova đang tính nhận lỗi thì ông Onimous bỗng đặt ngón tay lên môi.
“Không. Đừng nói với tôi. Chú là một trong số họ phải không?” Ông nháy mắt với Charlie và tiếp, “Cậu thấy anh bạn Hạt Đậu thế nào? Trông anh chàng vui sướng đấy chứ?”
“Trông nó tuyệt lắm, thưa ông Onimous. Nó có hoà thuận được với lũ mèo không vậy?” Charlie nói.
“Không lo. Charlie, chúng là bạn mà. Lại nói về mấy con mèo lửa, dạo này chúng rất quan tâm tới cái trường của cậu đấy. Ở đó tất cả mọi việc vẫn ổn chứ?”
Trong một thoáng, Charlie ngần ngừ, rồi, nhìn thầy Boldova, nó nói khẽ:
“Không ổn.”
Nó hạ giọng kể cho ông Onimous nghe về Belle và về Ollie vô hình.
“Ôi trời,” ông Onimous than thở. “Thảo nào mà bọn mèo cứ tò mò.”
Vừa lúc đó, một toán khách hàng rất ồn ào đi vô: bốn con chó đen trùi trũi, bị rọ mõm vuông, và con mắt ngầu lên nguy hiểm. Hai thiếu niên đi kèm chúng trông khá ôn hoà, nhưng Charlie cảm thấy họ có cái gì đó đáng sợ. Cả hai đều béo ù, tóc hoe hoe, gương mặt đỏ bừng, đầy tàn nhang. Nhìn vô, người ta có thể nói rằng bọn này đã không dành nhiều thời gian để huấn luyện đám chó của mình.
“Chó săn,” Gabriel lẩm bẩm. “Tốt hơn em nên canh chừng con Hạt Đậu. Không chúng đánh nhau tới chết cho coi.”
Ông Onimous nhún nhảy bước đi, để can thiệp đám chó sủa mới bùng lên, trong khi con Hạt Đậu bắt đầu gầm gừ trong cổ họng. Chắc hẳn nó rất muốn xông vô lũ chó săn, nhưng không dám liều.
Bọn trẻ cũng vừa ăn bánh xong. Và sau vài cái ôm, Charlie dẫn Hạt Đậu vô chỗ an toàn sau quầy.
“Hẹn gặp vào tuần tới nha,” nó nói với con chó vàng.
Khi Charlie bước về phía cửa, nó gặp ngay lũ chó săn ngáng đường. Tiếng gừ của chúng có hơi hăm đe doạ, và trong một thoáng Charlie không dám vượt qua chúng.
“Xin lỗi,” một trong hai thiếu niên nở nụ cười gượng gạo và kéo bọn chó săn tránh đường ra.
Gabriel đã mở cửa và Charlie chạy hết tốc lực qua cửa, suýt nữa thì tông vô một con bé đang đứng bên ngoài: Dorcas Loom.
“Chào!” Charlie nói. “Bồ làm gì ở đây vậy?”
“Mình chờ các anh của mình,” Dorcas nói.
“Không có thú à?” Gabriel hỏi.
“Không thích,” Dorcas đáp.
Đúng lúc đó thầy Boldova đi ra khỏi quán. Theo sau là Emma và Olivia.
“Ô!” Mắt Dorcas mở lớn. “Ai mà tưởng tượng được là thầy ở đây, thưa thầy.”
“Chào Dorcas,” thầy dạy vẽ mỉm cười nhẹ.
Và rồi Dorcas trông thấy con chim mà Emma mang theo.
“Dễ thương quá,” nó trầm trồ. “Con gì vậy?”
“Con yểng đó. Mình không…”
Quá trễ để Emma ngăn Dorcas đừng thò tay vô lồng chim.
“Chíu chiu! Chíu chiu!” Dorcas gọi.
Con yểng mổ ngón tay của Dorcas và con bé thét lên một tiếng xé óc.
Một trong hai chủ nhân của lũ chó săn thò đầu ra khỏi cửa, hỏi lớn:
“Chuyện gì vậy, Dorcy? Sao la thế?”
“Con chim thối tha, độc ác, tởm lợm, quái đản đó cắn em!” Dorcas gào.
“Mày không nên nuôi thú nguy hiểm chớ,” thằng thiếu niên gằn giọng, trừng mắt nhìn Emma.
“Đừng lố bịch thế.” Thầy Boldova vội nói. “Tôi thấy bốn con chó săn kia còn đáng sợ hơn là một con yểng hiền lành này.”
Thằng thiếu niên giơ nắm đấm lên, nhưng nghĩ sao nó lại rụt lại và thụt vô sau cánh cửa.
“Tụi anh sẽ ra ngay, Dorc,” nó nói.
Dorcas giờ đã bình tĩnh lại, nhưng khi Emma xin lỗi về hành vi của con yểng, Dorcas thậm chí không thèm nhìn mặt nó.
“Tạm biệt Dorcas,” mấy đứa kia chào rồi đi khỏi.
Dorcas quay lưng lại và mút ngón tay.
Khi chúng ra đến đường cái, thầy Boldova nói:
“Này, nghe đây. Thầy không muốn bất cứ ai trong các trò cố cứu Ollie đâu đấy.”
“Nhưng mà…” Charlie lên tiếng.
“Không nhưng gì hết. Quá nguy hiểm,” thầy Boldova dứt khoát. “Tin thầy đi. Thầy rất biết ơn vì sự giúp đỡ của các trò, Charlie và Emma, nhưng cứ để đó cho thầy, được chứ?”
Bọn trẻ miễn cưỡng đồng ý và thầy giáo dạy vẽ bước về phía Học viện Bloor. Emma và Olivia đi theo lối dẫn tới tiệm sách của cô Ingledew, còn Gabriel và Charlie đi thẳng ra ngã tư.
Trước khi chúng chia tay, Charlie bảo:
“Anh có nghĩ là Dorcas theo dõi tụi mình không? Dạo này nó thay đổi rất nhiều. Kể từ hồi em thấy nó trong ngôi nhà ở Ngách Tối, em có cảm tưởng là nó không phải như tất cả tụi mình vẫn nghĩ về nó.”
“Chắc chắn là nó đã giảm cân,” Gabriel pha trò.
“Không phải thế,” Charlie nói, toét miệng cười.
“Ừm, nó cũng có phép thuật. Nhưng chúng ta không biết nó có tài phép gì. Còn để thám thính thì anh nghĩ đã có Billy Raven làm gián điệp rồi. Tất cả chúng ta đều biết thằng bé về phe Manfred và cái lão Ezekiel Bloor kinh khủng ấy.”
“Chỗ nào cũng có thể có do thám cả,” Charlie trầm tư. “Và Billy có lẽ không còn hữu ích cho họ nữa, bởi vì tất cả tụi mình đều đã biết nó rồi. Ngoài ra, em thấy tội tội cho nó sao ấy, một đứa trẻ mồ côi, phải sống một mình trong toà nhà u ám, tối tăm đó suốt. Không bao giờ được về nhà. Thử tưởng tượng coi!”
“Không thể tưởng tượng nổi,” Gabriel thừa nhận, gật gù. “Hẹn gặp lại ngày mai, Charlie.”
Gabriel phóng chồm đi cùng một con chuột bám vô mái tóc loà xoà của nó, trông tức cười đến nỗi Charlie không nhịn được cười, nhưng vừa chợt nghĩ đến Belle, nụ cười của nó tắt ngấm.
Danh sách chương