BÒ, CHUÔNG VÀ DƠI BẰNG VÀNG
Khi leo lên đồi dốc về nhà, Lysander bắt đầu cảm thấy khó thở. Điều này trước giờ chưa từng xảy ra. Nó là một cậu bé khỏe mạnh, to cao so với tuổi, một vận động viên chạy nước rút đáng gờm và là nhà vô địch chạy vượt rào.
Chính tiếng trống đã lấy mất hơi thở của Lysander. Đúng thế. Những nhịp trống giận dữ nện thình thình trong đầu nó, tựa hồ như tiếng sấm từ đằng xa, khiến nó giật mình thon thót.
“Nguy khốn!” Đứng trên vai chủ nhân, con vẹt Homer la to.
“Phải, nguy khốn.” Lysander đồng ý.
Nó vừa leo đến đoạn dốc nhất của con đường đồi, một gò đất cong, dài, kết thúc tại một dải đất bằng phẳng trải ra thật dễ chịu. Tại đây nó dừng lại, nhìn ra khắp thành phố. Ngôi nhà thờ lớn, với mái vòm cao ngất, làm cho tất cả các ngôi nhà trong phố lùn hẳn đi. Cao bằng nó, có chăng chỉ có tòa nhà tăm tối lạnh lẽo ở phía bắc.
“Học viện Bloor,” Lysander lẩm bẩm.
Lơ lửng trên những mái nhà xám của học viện ấy, ngay tại bìa rừng bao quanh khu lâu đài bỏ hoang, có một làn khói mỏng bốc lên.
Khi vừa trông thấy làn khói, mắt Lysander bỗng nhiên nhoáng lên, da nó như bốc cháy, cổ nó đau rát như bị sưng tấy. Dứt tung cổ áo ra, nó vội vã chạy nốt mấy mét cuối cùng về nhà. Tới một cánh cổng đôi bằng sắt, cao nghệu, nó xô tung một cánh ra, và lao bắn đi trên lối đi vô một ngôi nhà bề thế, màu trắng, nằm đằng sau những thảm cỏ xanh ngắt và mịn màng như mặt bàn bi–a.
Mẹ nó, cô Jessamine Sage, đang xem một chương trình đố vui trên truyền hình, đúng lúc cậu con trai đang phóng rầm rầm lên phòng. Cô Sage biết ngay con mình lại gặp rắc rối. Cô đã nghe được tiếng trống hòa theo bước chân của con. Tài phép của Lysander vốn được thừa hưởng từ chính cô. Bản thân cô cũng có những dịp nghe thấy tiếng trống giục và tiếng tổ tiên la hét đòi chú ý tới.
Cô Sage cẩn thận đứng lên khỏi chiếc ghế bành thoải mái của mình. Cô vốn là một phụ nữ uyên bác và vô cùng mạnh mẽ, nhưng dạo này cô luôn cảm thấy nặng nề và uể oải. Không cần tiếng trống báo tin cô cũng biết rằng một đứa bé khác sắp chào đời. Có nhiều dấu hiệu rõ rệt khác báo cho cô điều đó.
Người phụ nữ đẹp và oai vệ đó leo cầu thang lên tầng một. Đằng sau hai cánh cửa hẹp hai bên phòng con trai cô, hai đứa con gái cô – đứa mười tuổi, đứa mười bốn – đang chơi một thứ nhạc ầm ĩ, không nhịp điệu, bằng đàn ghi–ta và giọng của chúng. Toàn những tiếng la chói tai, tiếng gõ phừng phừng phừng. Hoàn toàn không có tiếng trống.
“Hortense! Alexandra! Yên lặng!” Cô Sage hét bằng giọng ra lệnh, dứt khoát mà cả 2 đứa bé phải vâng lời ngay tức khắc.
Khi mở cửa phòng cậu con trai, cô Sage đụng ngay phải một hàng rào âm thanh khác, dữ dội đến độ suýt nữa thì hất văng cô bật trở lại chiếu nghỉ.
“Lysander! Yên!” Cô ra lệnh. Cô không bao giờ dùng quá hai từ, hoặc năm từ, cho những vấn đề chỉ cần 1 từ kiểu này.
Lysander đang nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, hai tay ôm chặt lấy tai. Dù thế nó vẫn nghe được giọng nói đầy uy lực của mẹ. Nó mở mắt ra.
“Nghĩ đến cái cây.” Cô Sage ngân nga.
“Rễ, lá, cành.”
“Đỡ lấy, nâng lên…”
“Bầu trời…”
“Nghĩ tới Nhà vua.”
Lysander bỏ 2 tay ra khỏi tai.
“Thế,” Mẹ nó cúi người xuống giường. “Đỡ hơn chưa?”
Lần nào cũng có tác dụng. Ngay khi Lysander nghĩ tới cái cây, ngay khi nó nghĩ tới bức chân dung bí hiểm trong phòng Nhà Vua, dù chỉ trong tâm trí, là nó cảm thấy dễ chịu liền. Nó ngồi dậy và dụi mắt. Tiếng trống vẫn còn đó, trong đầu nó, nhưng giờ đã đủ êm cho nó suy nghĩ được.
“Nói,” mẹ Lysander bảo.
“Nguy khốn!” Con vẹt Homer la lên từ chỗ đậu của mình bên cửa sổ.
“Mẹ không hỏi mày,” Lysander nói với nụ cười thảm não. “Nhưng đúng là có nguy,” nó nói với mẹ. “Con không biết là cái gì, nhưng nó ở trong Học viện Bloor. Con trông thấy khói, song da con có cảm giác bốc khói. Tổ tiên đang giận dữ mẹ à.”
“Họ luôn có lý do.” Cô Sage nói.
“Thứ Hai này con không muốn đi học. Con không muốn đối mặt với nó, cho dù nó là gì. Trước đây chưa bao giờ con cảm thấy nó như thế này.”
“Con phải đối mặt với nó,” Cô Sage vỗ vỗ hai bàn tay con trai. “Con phải đi học.”
“Charlie Bone cũng nói vậy.”
“Charlie?”
“Dạ phải. Cái thằng tóc như hàng rào ấy, mẹ biết mà. Ông cậu nó tổ chức tiệc cuối học kỳ rồi, mẹ nhớ không? Nó gần như nhỏ nhất đám, nhưng cứ đâm đầu vô mấy vụ rắc rối, và tụi con, Tancred, con và Gabriel, chẳng hiểu sao cứ bị cuốn theo nó. Lần này nó lại lao vô rắc rối nữa, đang cố cứu một thằng bé vô hình.”
“Vô hình?” Cô Sage nhăn trán.
“Con đang tạc một bức tượng,” Lysander tiếp. “Nó hoàn hảo lắm, mẹ à. Bức tượng đẹp nhất con tạc từ trước tới giờ. Con nghĩ tổ tiên chúng ta sẽ đưa thằng bé trở lại được. Nhưng tiếng trống bảo không được, con làm điều sai trái rồi.”
Cô Sage đứng lên.
“Không phải con đâu, Lysander. Có một ai khác đang làm điều gì đó sai trái. Đi học đi con, và sắp đặt lại mọi việc đâu ra đó.”
Cô lướt ra khỏi phòng con trai, chiếc váy hoa dài dập dềnh quanh mắt cá chân như sóng biển.
“Mẹ làm như dễ lắm ấy!” Homer thét lên the thé.
“Với con thì dễ mà,” cô Sage nói, đóng cánh cửa lại.
***
Vào sáng thứ Hai, chẳng cần đợi lâu, nguyên do của điềm báo kinh khủng mà Lysander nói đã lộ rõ.
Sau giờ kiểm tra môn lịch sử, Charlie và Fidelio chạy ra vườn và thấy đám bạn chúng đang tụ tập bên tàn tích của một ngọn lửa. Gã Weedon hay đốt rác trên nền đất, cho nên việc đó chẳng có gì là bất thường – chính cử chỉ, điệu bộ của nhóm bạn mới khiến Charlie chú ý, Lysander đứng như hóa đá, không tin nổi sự việc trước mắt mình; trong khi đó, mái tóc vàng cứng đơ của Tancred nổ lách tách những tia lửa điện.
Đứng sát bên Lysander, cái dáng hươ tay múa chân như điên loạn của Olivia đập ngay vào mắt Charlie. Nó và Fidelio liền co giò lao đến chỗ hai đứa.
Giữa đống cây cháy xém và giấy bị thiêu rụi, hai con mắt màu xanh da trời ngó ra, ngó chúng lom lom. Đôi mắt này là tất cả những gì còn lại của bức tượng kiệt tác của Lysander.
“Sao họ có thể làm thế?” Emma kêu lên.
Lysander đang run bắn. Hai cánh tay nó ép chặt vô thân mình, bàn tay nắm chặt. Dường như nó đã cấm khẩu.
Charlie nhận ra một đám học trò đang ngó nó. Asa Pike với nụ cười mãn nguyện trên mặt, trong khi những đường nét dài ngoẵng của Zelda Dobinski vặn vẹo thành một nụ cười khoái trá kinh khủng. Manfed, tuy nhiên, lại nhìn Lysander trừng trừng, như thể hắn bị sỉ nhục trước cái nỗ lực rất thông minh hầu cứu Ollie của chú bé châu Phi này.
“Có người nào khác biết đâu…” Lysander lảm nhảm. “Ai mà…”
“Rõ ràng là có đứa nào đó trong khoa hội họa.” Olivia quả quyết.
Im lặng phủ xuống nhóm con nít, và rồi, hầu như đồng loạt, chúng nhìn về phía những bức tường của khu lâu đài hoang, nơi Bella và Dorcas đang đứng dòm chúng.
“Nhưng tại sao?” Lysander thẫn thờ.
“Bởi vì tài điêu khắc của anh quá tuyệt vời.” Olivia nói nghiêm trang, “và vì có ai đó không muốn tụi mình cứu Ollie Sparks.”
“Đừng bỏ cuộc Sander,” Charlie nói.
“Em không biết bức tượng đó có ý nghĩa như thế nào với Lysander đâu,” Tancred nói. “Nó có thể cũng bị đau đớn, đúng không, Sander? Như thể nó đã đặt một phần trái tim vô khúc gỗ đó. Em có biết như thế là thế nào không, Charlie?”
“Không.” Giọng Charlie ỉu xìu. “Em xin lỗi.”
“Cái gì vậy?” Fidelio bỗng la lên, vò vò đầu. “Mình nghe thấy tiếng trống.”
“Chứ ông nghĩ là cái gì?” Tancred nói, hơi tức giận. “Đi thôi, Sander. Tụi mình ra khỏi đây.”
Nó kéo cánh tay bạn và lái đi khỏi đám tàn lửa. Lysander dường như chẳng nhận thức được những gì xảy qua xung quanh mình nữa. Nó cứ để mặc cho Tancred dẫn trở lại trường, và Charlie nghe thấy tiếng trống yếu ớt, như nhịp tim, theo sau Lysander băng qua bãi cỏ.
“Em đâu có kêu anh làm vậy đâu,” Charlie nhìn vô đôi mắt màu xanh da trời trong đống lửa, mang đầy vẻ buộc tội.
“Anh ấy muốn làm vậy mà. Đó là ý anh ấy chớ bộ,” Nó lẩm bẩm.
“Không phải lỗi của em,” Fidelio nói vui vẻ. “Sander sẽ vượt qua thôi. Tụi mình cần phải nghĩ tới những thứ khác nữa.”
“Kinh khủng quá.” Emma rên lên. “Mình cảm tưởng như đang nhìn một thằng bé thật vậy, hay là một thứ giống thằng bé thật vậy.”
“Đi khỏi đây thôi.” Olivia nói, nhìn Bella và Dorcas. “Tụi mình đâu muốn để tụi nó thưởng thức nỗi đau khổ của tụi mình quá lâu đâu, đúng chưa?”
Khi chúng quay khỏi đống lửa, Gabriel nhảy xồ đến nhập bọn với chúng.
“Tôi vừa học xong một tiết dương cầm quái dị,” anh chàng thở hồng hộc. “Kéo dài hàng thế kỷ và…Ô, không.”
Nó chợt ngừng nói giữa chừng, nhìn trân trân vô đôi mắt xanh da trời.
“Đó là…?”
“Bức tượng Lysander tạc đấy.” Charlie nói. “Tụi này biết chắc ai đã làm vậy.”
Trong cố gắng khuấy cả bọn vui lên, Olivia thông báo là nó có mang một chiếc đĩa Frisbee tới trường.
“Chơi thảy đĩa đi mấy người.” Con bé đề nghị.
Trong khi tụi nó thảy chiếc đĩa Frisbee đỏ cho nhau, Gabriel kể cho bọn chúng nghe về giờ học đàn kỳ lạ của mình.
Thầy Pilgrim, thầy giáo dương cầm, là một người lập dị ngay cả lúc bình thường nhất. Cao, da ngăm, có vẻ vô cảm, hiếm khi người ta thấy thầy bên ngoài phòng học nhạc – cái phòng ở lầu trên cùng của chái tây. Hầu như thầy không bao giờ nói chuyện, thật khó để xin được lời chỉ dạy của thầy, đến nỗi mà thầy mất gần hết học trò. Tuy nhiên vào những giờ học dương cầm thêm của Gabriel, thầy Pilgrim lại nói chuyện rất nhiều (nhiều so với thầy).
“Kể đi, kể cho tụi này xem thầy đã nói cái gì?”
Olivia nhảy lên chụp cái đĩa Frisbee, làm văng một chiếc giày màu vàng giữa chừng cú nhảy.
“Thật quái lạ.” Gabriel nói. “Thầy nói: ‘Ông ấy nói không biết tới đây bằng cách nào. Nhưng tôi không thể giúp đỡ ông ấy.’ Nghe vậy tôi liền hỏi: ‘Ai vậy, thưa thầy Pilgrim?’ thì thầy nói ‘có quá nhiều thứ ông ấy không thể tiếp nhận được – đèn điện, xe cộ, những món đồ nhựa. Ông ấy không thích chúng; chúng khiến ông phát hoảng. Rồi ông sẽ phá hủy chúng cho coi. Ai mà trách được ông ấy nào…?’. Rồi, thầy Pilgrim nhìn xoáy vô tôi, và nói: ‘Tôi thì không biết ông ấy sẽ làm điều đó như thế nào, nhưng trò, trò biết chứ?’ Tôi nói…”
Gabriel chụp lấy cái đĩa Frisbee và thét lên đau đớn.
“Ui da! Thảy mạnh qúa, Charlie!”
“Nào, nào.” Olivia giục giã. “Thế, anh đã nói gì nào?”
“Tôi chỉ nói: ‘Không, thưa thầy’. Chứ tôi biết nói gì nữa bây giờ.”
“Lẽ ra anh nên nói: ‘Biết cái gì ạ?’” Fidelio bảo.
Một ý nghĩ kinh khủng thình lình bật ra trong đầu Charlie. Nó đứng đờ ra tại chỗ, hai tay nắm chặt chiếc đĩa Frisbee.
“Thảy đi! Lẹ lên! Charlie, thảy lẹ coi.” Bọn bạn nó la í ới.
“Khoan đã,” Charlie nói. “Thầy Pilgrim có mô tả vị khách bí hiểm đó không?”
Gabriel lắc đầu.
“Tôi cũng chẳng moi được cái tên nào từ thầy. Thầy chỉ bảo: ‘Ông ấy làm được, trò biết đấy, ông ấy rất dị thường. Coi ông ấy đã làm gì với bản nhạc đây!’ Xong tôi nhìn, mấy người biết không! Tất cả những nốt nhạc trên bản nhạc đó đều hóa thành vàng! Chính xác, đó là bản xô–nát số 27 của Beethoven. Sau đó, tôi nhận thấy mấy con dơi ở góc phòng… Luôn có dơi ở trong phòng thầy Pilgrim, nhưng thầy không để ý, tôi cũng không để ý, chúng như những con chuột bay…”
“Những con dơi thì sao?” Fidelio nôn nóng hỏi.
“Chúng cũng biến thành vàng luôn,” Gabriel nói.
“Ô!” Charlie cảm thấy mắc ói.
“Gì vậy, Charlie?” Emma ngó nó.
“È, không có gì,” Charlie khào khào.
“Cả lũ nhện cũng vậy.” Gabriel vô tình kể tiếp. “Cả mạng nhện luôn. Trông rất đẹp, như đồ trang trí Giáng sinh ấy.”
Charlie vui mừng khi nghe tiếng còi đi săn rúc lên. Nó tự hỏi khi nào điều bất ngờ ghê gớm kế tiếp sẽ xảy ra với nó. Lần đầu tiên trong đời, nó chỉ ao ước được vùi trong một bài kiểm tra toán thật khó.
“Anh có cảm giác là em biết người đó là ai.” Fidelio vừa nói vừa rượt theo Charlie qua bãi cỏ. “Vị khách của thầy Pilgrim ấy.”
“Suỵt!” Charlie nhắc.
“Kể cho tụi này nghe đi, Charlie. Kể đi.” Olivia hét lên.
Chúng chen chúc đi vô tiền sảnh, nơi mà Charlie vô cùng biết ơn vì có luật im lặng. Nó đi về lớp toán, cùng với Fidelio theo sau, trong khi đám con gái đi về phía để áo khoác của chúng, còn Gabriel lê bước lên cầu thang, tới giờ kiểm tra lý thuyết đáng sợ.
Charlie dù đã ao ước được chôn mình trong những phân số, nhưng nó nhận ra là nó không sao làm vậy được. Ý nghĩ của nó cứ quay về với vị khách bí hiểm của thầy Pilgrim. Có ai khác có thể biến nhện thành vàng nào? Còn ai khác có thể sợ đèn điện và xe cộ nào? Cuối bài kiểm tra, Charlie biết mình đã làm rất tệ. Phải chi nó đã dùng cây gậy phép để học toán, chứ không phải học tiếng Pháp.
Có thêm tin tức càng xấu nữa đang chờ nó trong căn-tin. Một bà nhân viên phục vụ bữa trưa đang bấn loạn cả lên, kể là sáng nay bà đã chứng kiến một con bò đực to bành xông ra khỏi tiệm bán thịt, nơi trước đó chỉ treo hai súc thịt bò lớn ở đằng sau quầy.
“Mới đó còn là thịt bò, thoắt cái đã thành bò.”
Bà Gill cứ lầm bà lầm bầm trong khi trao những đĩa khoai tây hầm thịt băm cho bọn trẻ.
“Chuyện gì đang xảy ra với cái thế giới này thế không biết?” Bà nói.
“Chuyện gì là chuyện gì, bà Gill?” Fidelio hỏi, với nụ cười quyến rũ cố hữu của mình.
“Anh đâu có tin lời bà ấy, phải không?” Charlie thì thầm khi chúng đi ra bàn.
“Ừm, thế em tin à?” Fidelio hỏi lại. “Tội nghiệp bà ấy. Bà ấy bị khùng rồi.”
“Thật ra thì em tin bà ấy,” Charlie bảo.
Đúng lúc ấy, Gabriel nhập bọn với bọn chúng, hăm hở kể:
“Mấy đứa có nghe bà Gill…”
“Nghe rồi.” Fidelio ngắt ngang. “Và Charlie tin bà ấy, bởi nó biết tại sao, cái gì, và ai… ừm, chuyện là thế nào Charlie?”
“Các anh biết bức tranh đó chứ?” Charlie bắt đầu. “Bức tranh mà em mang tới trường hồi học kỳ vừa rồi đó.”
Fidelio và Gabriel chợt nhìn Charlie chằm chằm, với cái nĩa đồ ăn đang đưa lên miệng nửa chừng.
“Tấm hình thầy phù thủy ấy hả?” Gabriel thì thầm, vẻ bí mật.
Charlie nhìn quanh căn–tin. Chẳng có ai chú ý tới chúng. Tiếng dao nĩa lạch cạch và tiếng trò chuyện náo nhiệt, ồn đến nỗi không một ma nào ngoài cái bàn của chúng có thể nghe thấy chúng. Vả lại, Charlie đã hạ giọng khi kể cho hai bạn nghe về chuyến viếng thăm Skarpo của nó, và chuyện con chuột thoát ra ngoài.
“Tức là, em nghĩ ông ấy cũng đã ra theo?” Fidelio hỏi.
“Chắc chắn,” Charlie nói. “Mới đầu em nghĩ là không thể thế được, vì ông ấy vẫn còn ở trong tranh, nhưng Ông cậu của em nói đó chỉ là hình ảnh của Skarpo thôi, chứ không phải là nguyên khí. Em cứ cố cho là Skarpo không thể ra ngoài được, tại vì em hoàn toàn không muốn tin chuyện ấy.”
“Vậy em nghĩ dơi hóa vàng, bò và các thứ kia đều là ông ấy…?” Fidelio nói.
“Chắc chắn,” Charlie nói. “Và em có cảm giác kinh khủng là ông ấy chỉ mới bắt đầu thôi. Còn những thứ tệ hơn nữa kìa.”
***
Quả đúng vậy.
Bọn trẻ ở Học viện Bloor đang sắp sửa ra ngoài nghỉ giải lao buổi chiều thì một đám mây bay ngang mặt trời. Sau đó, một đám nữa, rồi đám nữa. Bầu trời đầy những gợn tím nhợt, ghê rợn. Nó tối dần thành màu chàm và rồi từ từ chuyển thành đen. Đen như hắc ín.
Một đám con nít đứng lớ xớ ở gần cửa vườn, ngại ngần, không đứa nào muốn mình là người đầu tiên bước ra ngoài trời tối đen.
“Trời ơi, lũ ngu.” Zelda Dobinski ré lên. “Đi ra! Lẹ lên! Có tí xíu mây mà chúng mày sợ gì hả?”
Để bày tỏ sự khinh miệt bọn nhóc, nó đẩy dạt đám đông qua một bên và xông vài bước ra ngoài vườn tối thui.
Một con cóc rớt độp xuống đầu nó. Và rồi thêm một con khác. Khi con cóc đầu tiên đáp phịch xuống đầu Zelda, miệng con nhỏ há hốc ra. Đến con thứ hai thì nó thét lớn lên và chạy trối chết vô đám đông.
Thế rồi, trời bắt đầu đổ một cơn mưa ếch nhái.
Vài đứa trẻ rú lên, lùi vô trong tiền sảnh. Mấy đứa khác đưa tay hứng ếch, nhưng lũ sinh vật nhớt nhợt này rơi với lực mạnh đến nỗi có tiếng thét lên:
“Ui da.”
“Cứu với!”
“Ối!”
cùng những bàn tay rụt lại tức thì.
Từ đằng xa chúng nghe tiếng còi cảnh sát rền vang, tiếng xe cứu thương, xe cứu hỏa inh ỏi khắp thành phố.
Đứng phía sau đám đông, tim Charlie cứ đập thon thót. Skarpo ở đâu? Làm thế quái nào mà bắt được hắn và đưa trở lại nơi mà hắn phải về bây giờ? Rõ ràng là quá nguy hiểm để ra chơi ngoài trời đen kịt như thế này. Đèn bật sáng khắp tòa nhà, và bọn trẻ bị lùa về lại các phòng học. Charlie phải về với lớp tiếng Anh của thầy Carp.
Thầy Carp là một ông thầy lực lưỡng, mặt đỏ gay. Thầy hay dựng một cây roi, mỏng mảnh, coi bộ độc ác, ngay cạnh bàn của mình, và người ta biết được một cách tình cờ (dĩ nhiên rồi), rằng cây gậy đó là để búng tai bọn trẻ mỗi khi thầy tức giận. Charlie đã trở nên khá thiện nghệ trong việc né tránh những cú tấn công này, nhưng từ tia nhìn nghiệt ngã ánh lên trong đôi mắt hý của thầy Carp, Charlie dám chắc là thầy đã quyết định trị cho nó một trận, vào một ngày nào đó. Và Charlie nghĩ ngày nào đó là hôm nay.
Từ bàn bên cạnh, Fidelio thì thào với Charlie:
“Thầy sẽ làm gì tiếp theo đây, Charlie? Em có nghĩ ra không?”
Charlie lắc đầu.
Cất giọng the thé, thầy Carp hét:
“Các trò có nửa giờ để học cách dùng từ trước khi kiểm tra.”
Lo sợ cho đôi tai của mình, hai mươi đứa trẻ vội lấy tập Cách Dùng Từ và lặng lẽ cúi đầu xuống.
Bên ngoài, những đám mây đen đã bay lên cao, mặt trời hiện ra. Loáng sau, bọn trẻ đã thấy gã Weedon và vài trò lớp lớn đi thu dọn ếch bằng lưới, thùng và bao. Charlie tự hỏi không biết ếch rớt xuống khắp thành phố hay chỉ đơn độc Học viện Bloor chịu ơn huệ này? Qua cửa sổ, Charlie thấy Manfred chùi đôi bàn tay của hắn vô quần và mỉm cười một mình. Nụ cười của hắn không kéo dài lâu.
Không ai thấy là bất thường khi chuông nhà thờ lớn bắt đầu đổ. Nhưng khi chuông của năm nhà thờ khác, nhỏ hơn, cùng hòa nhịp thì mọi người bắt đầu lo lắng. Chẳng mấy chốc, tiếng chuông báo tử thống thiết vang dậy khắp cả thành phố. Và chúng không chịu dừng, cứ đổ hoài, đổ hoài. Các vị linh mục và những người kéo chuông vội vã chạy vô nhà thờ, thấy ở đó những sợi dây thừng đang tự động kéo lên kéo xuống một cách bí hiểm.
Fidelio nhìn Charlie. Charlie đảo tròn mắt và nhún vai. Bỗng, một trong những nữ sinh ngồi hàng đầu giơ tay lên. Khi thầy Carp, hai tay đang bịt chặt tai, không chú ý thì nữ sinh đó – tên là Rosie Stubbs – hét lên:
“Thưa thầy, dạ, có con voi trong vườn kìa.”
Tất cả mọi người đều quay ra ngó. Đúng thế.
Thầy Carp, ửng đỏ loang ra cả hai má, liền chộp lấy cây roi. Rosie vội đưa tay lên che 2 tai.
Tiếng chuông càng lúc càng ầm ĩ.
“IM NGAY! IM NGAY! TẤT CẢ BỌN BAY!”
Thầy Carp gầm vang, mặc dù cả lớp đang im phăng phắc.
“Ta không thể nào chịu nổi. Đứa nào làm cái trò này? Phải bắn hết chúng đi!”
Tất cả bọn học trò há hốc miệng.
Chợt nhớ ra mình đang ở đâu, thầy Carp quát:
“Dẹp hết tập vở đi. Ích lợi gì. Không thể tiếp tục được. Cả lớp, giải tán!”
Bọn trẻ tống hết tập vở vô hộc bàn với vẻ biết ơn, chen nhau ra khỏi lớp, tràn ra tiền sảnh. Các lớp khác cũng trống dần. Đám giáo viên trông bực bội đang tất tả xuôi theo tiền sảnh xuống phòng giáo vụ, áo chùng đen bay phần phật, giấy tờ bay tung tóe, sách ôm trên tay rách lả tả.
Những đứa nãy giờ túm tụm trong tiền sảnh, thấy coi bộ không thể nào tuân thủ được luật im lặng, bèn vừa thì thầm, lào xào, vừa kéo nhau xuống căn–tin của khoa mình, hy vọng đã có bữa trưa lớn.
Charlie và Fidelio vừa xoay sở để chộp được một chiếc bánh nhân táo và một ly cam vắt, thì Billy Raven chạy ào tới, hớt hơ hớt hải:
“Anh bị kêu lên văn phòng giáo sư Bloor kìa!”
“Anh?” Charlie hỏi, mặt tái mét.
“Cả đám mình. Cả anh nữa, Gabriel.”
“Cả đám mình?” Gabriel hỏi lại. “Kỳ cục thiệt. Chuyện quái gì vậy?”
Khi leo lên đồi dốc về nhà, Lysander bắt đầu cảm thấy khó thở. Điều này trước giờ chưa từng xảy ra. Nó là một cậu bé khỏe mạnh, to cao so với tuổi, một vận động viên chạy nước rút đáng gờm và là nhà vô địch chạy vượt rào.
Chính tiếng trống đã lấy mất hơi thở của Lysander. Đúng thế. Những nhịp trống giận dữ nện thình thình trong đầu nó, tựa hồ như tiếng sấm từ đằng xa, khiến nó giật mình thon thót.
“Nguy khốn!” Đứng trên vai chủ nhân, con vẹt Homer la to.
“Phải, nguy khốn.” Lysander đồng ý.
Nó vừa leo đến đoạn dốc nhất của con đường đồi, một gò đất cong, dài, kết thúc tại một dải đất bằng phẳng trải ra thật dễ chịu. Tại đây nó dừng lại, nhìn ra khắp thành phố. Ngôi nhà thờ lớn, với mái vòm cao ngất, làm cho tất cả các ngôi nhà trong phố lùn hẳn đi. Cao bằng nó, có chăng chỉ có tòa nhà tăm tối lạnh lẽo ở phía bắc.
“Học viện Bloor,” Lysander lẩm bẩm.
Lơ lửng trên những mái nhà xám của học viện ấy, ngay tại bìa rừng bao quanh khu lâu đài bỏ hoang, có một làn khói mỏng bốc lên.
Khi vừa trông thấy làn khói, mắt Lysander bỗng nhiên nhoáng lên, da nó như bốc cháy, cổ nó đau rát như bị sưng tấy. Dứt tung cổ áo ra, nó vội vã chạy nốt mấy mét cuối cùng về nhà. Tới một cánh cổng đôi bằng sắt, cao nghệu, nó xô tung một cánh ra, và lao bắn đi trên lối đi vô một ngôi nhà bề thế, màu trắng, nằm đằng sau những thảm cỏ xanh ngắt và mịn màng như mặt bàn bi–a.
Mẹ nó, cô Jessamine Sage, đang xem một chương trình đố vui trên truyền hình, đúng lúc cậu con trai đang phóng rầm rầm lên phòng. Cô Sage biết ngay con mình lại gặp rắc rối. Cô đã nghe được tiếng trống hòa theo bước chân của con. Tài phép của Lysander vốn được thừa hưởng từ chính cô. Bản thân cô cũng có những dịp nghe thấy tiếng trống giục và tiếng tổ tiên la hét đòi chú ý tới.
Cô Sage cẩn thận đứng lên khỏi chiếc ghế bành thoải mái của mình. Cô vốn là một phụ nữ uyên bác và vô cùng mạnh mẽ, nhưng dạo này cô luôn cảm thấy nặng nề và uể oải. Không cần tiếng trống báo tin cô cũng biết rằng một đứa bé khác sắp chào đời. Có nhiều dấu hiệu rõ rệt khác báo cho cô điều đó.
Người phụ nữ đẹp và oai vệ đó leo cầu thang lên tầng một. Đằng sau hai cánh cửa hẹp hai bên phòng con trai cô, hai đứa con gái cô – đứa mười tuổi, đứa mười bốn – đang chơi một thứ nhạc ầm ĩ, không nhịp điệu, bằng đàn ghi–ta và giọng của chúng. Toàn những tiếng la chói tai, tiếng gõ phừng phừng phừng. Hoàn toàn không có tiếng trống.
“Hortense! Alexandra! Yên lặng!” Cô Sage hét bằng giọng ra lệnh, dứt khoát mà cả 2 đứa bé phải vâng lời ngay tức khắc.
Khi mở cửa phòng cậu con trai, cô Sage đụng ngay phải một hàng rào âm thanh khác, dữ dội đến độ suýt nữa thì hất văng cô bật trở lại chiếu nghỉ.
“Lysander! Yên!” Cô ra lệnh. Cô không bao giờ dùng quá hai từ, hoặc năm từ, cho những vấn đề chỉ cần 1 từ kiểu này.
Lysander đang nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, hai tay ôm chặt lấy tai. Dù thế nó vẫn nghe được giọng nói đầy uy lực của mẹ. Nó mở mắt ra.
“Nghĩ đến cái cây.” Cô Sage ngân nga.
“Rễ, lá, cành.”
“Đỡ lấy, nâng lên…”
“Bầu trời…”
“Nghĩ tới Nhà vua.”
Lysander bỏ 2 tay ra khỏi tai.
“Thế,” Mẹ nó cúi người xuống giường. “Đỡ hơn chưa?”
Lần nào cũng có tác dụng. Ngay khi Lysander nghĩ tới cái cây, ngay khi nó nghĩ tới bức chân dung bí hiểm trong phòng Nhà Vua, dù chỉ trong tâm trí, là nó cảm thấy dễ chịu liền. Nó ngồi dậy và dụi mắt. Tiếng trống vẫn còn đó, trong đầu nó, nhưng giờ đã đủ êm cho nó suy nghĩ được.
“Nói,” mẹ Lysander bảo.
“Nguy khốn!” Con vẹt Homer la lên từ chỗ đậu của mình bên cửa sổ.
“Mẹ không hỏi mày,” Lysander nói với nụ cười thảm não. “Nhưng đúng là có nguy,” nó nói với mẹ. “Con không biết là cái gì, nhưng nó ở trong Học viện Bloor. Con trông thấy khói, song da con có cảm giác bốc khói. Tổ tiên đang giận dữ mẹ à.”
“Họ luôn có lý do.” Cô Sage nói.
“Thứ Hai này con không muốn đi học. Con không muốn đối mặt với nó, cho dù nó là gì. Trước đây chưa bao giờ con cảm thấy nó như thế này.”
“Con phải đối mặt với nó,” Cô Sage vỗ vỗ hai bàn tay con trai. “Con phải đi học.”
“Charlie Bone cũng nói vậy.”
“Charlie?”
“Dạ phải. Cái thằng tóc như hàng rào ấy, mẹ biết mà. Ông cậu nó tổ chức tiệc cuối học kỳ rồi, mẹ nhớ không? Nó gần như nhỏ nhất đám, nhưng cứ đâm đầu vô mấy vụ rắc rối, và tụi con, Tancred, con và Gabriel, chẳng hiểu sao cứ bị cuốn theo nó. Lần này nó lại lao vô rắc rối nữa, đang cố cứu một thằng bé vô hình.”
“Vô hình?” Cô Sage nhăn trán.
“Con đang tạc một bức tượng,” Lysander tiếp. “Nó hoàn hảo lắm, mẹ à. Bức tượng đẹp nhất con tạc từ trước tới giờ. Con nghĩ tổ tiên chúng ta sẽ đưa thằng bé trở lại được. Nhưng tiếng trống bảo không được, con làm điều sai trái rồi.”
Cô Sage đứng lên.
“Không phải con đâu, Lysander. Có một ai khác đang làm điều gì đó sai trái. Đi học đi con, và sắp đặt lại mọi việc đâu ra đó.”
Cô lướt ra khỏi phòng con trai, chiếc váy hoa dài dập dềnh quanh mắt cá chân như sóng biển.
“Mẹ làm như dễ lắm ấy!” Homer thét lên the thé.
“Với con thì dễ mà,” cô Sage nói, đóng cánh cửa lại.
***
Vào sáng thứ Hai, chẳng cần đợi lâu, nguyên do của điềm báo kinh khủng mà Lysander nói đã lộ rõ.
Sau giờ kiểm tra môn lịch sử, Charlie và Fidelio chạy ra vườn và thấy đám bạn chúng đang tụ tập bên tàn tích của một ngọn lửa. Gã Weedon hay đốt rác trên nền đất, cho nên việc đó chẳng có gì là bất thường – chính cử chỉ, điệu bộ của nhóm bạn mới khiến Charlie chú ý, Lysander đứng như hóa đá, không tin nổi sự việc trước mắt mình; trong khi đó, mái tóc vàng cứng đơ của Tancred nổ lách tách những tia lửa điện.
Đứng sát bên Lysander, cái dáng hươ tay múa chân như điên loạn của Olivia đập ngay vào mắt Charlie. Nó và Fidelio liền co giò lao đến chỗ hai đứa.
Giữa đống cây cháy xém và giấy bị thiêu rụi, hai con mắt màu xanh da trời ngó ra, ngó chúng lom lom. Đôi mắt này là tất cả những gì còn lại của bức tượng kiệt tác của Lysander.
“Sao họ có thể làm thế?” Emma kêu lên.
Lysander đang run bắn. Hai cánh tay nó ép chặt vô thân mình, bàn tay nắm chặt. Dường như nó đã cấm khẩu.
Charlie nhận ra một đám học trò đang ngó nó. Asa Pike với nụ cười mãn nguyện trên mặt, trong khi những đường nét dài ngoẵng của Zelda Dobinski vặn vẹo thành một nụ cười khoái trá kinh khủng. Manfed, tuy nhiên, lại nhìn Lysander trừng trừng, như thể hắn bị sỉ nhục trước cái nỗ lực rất thông minh hầu cứu Ollie của chú bé châu Phi này.
“Có người nào khác biết đâu…” Lysander lảm nhảm. “Ai mà…”
“Rõ ràng là có đứa nào đó trong khoa hội họa.” Olivia quả quyết.
Im lặng phủ xuống nhóm con nít, và rồi, hầu như đồng loạt, chúng nhìn về phía những bức tường của khu lâu đài hoang, nơi Bella và Dorcas đang đứng dòm chúng.
“Nhưng tại sao?” Lysander thẫn thờ.
“Bởi vì tài điêu khắc của anh quá tuyệt vời.” Olivia nói nghiêm trang, “và vì có ai đó không muốn tụi mình cứu Ollie Sparks.”
“Đừng bỏ cuộc Sander,” Charlie nói.
“Em không biết bức tượng đó có ý nghĩa như thế nào với Lysander đâu,” Tancred nói. “Nó có thể cũng bị đau đớn, đúng không, Sander? Như thể nó đã đặt một phần trái tim vô khúc gỗ đó. Em có biết như thế là thế nào không, Charlie?”
“Không.” Giọng Charlie ỉu xìu. “Em xin lỗi.”
“Cái gì vậy?” Fidelio bỗng la lên, vò vò đầu. “Mình nghe thấy tiếng trống.”
“Chứ ông nghĩ là cái gì?” Tancred nói, hơi tức giận. “Đi thôi, Sander. Tụi mình ra khỏi đây.”
Nó kéo cánh tay bạn và lái đi khỏi đám tàn lửa. Lysander dường như chẳng nhận thức được những gì xảy qua xung quanh mình nữa. Nó cứ để mặc cho Tancred dẫn trở lại trường, và Charlie nghe thấy tiếng trống yếu ớt, như nhịp tim, theo sau Lysander băng qua bãi cỏ.
“Em đâu có kêu anh làm vậy đâu,” Charlie nhìn vô đôi mắt màu xanh da trời trong đống lửa, mang đầy vẻ buộc tội.
“Anh ấy muốn làm vậy mà. Đó là ý anh ấy chớ bộ,” Nó lẩm bẩm.
“Không phải lỗi của em,” Fidelio nói vui vẻ. “Sander sẽ vượt qua thôi. Tụi mình cần phải nghĩ tới những thứ khác nữa.”
“Kinh khủng quá.” Emma rên lên. “Mình cảm tưởng như đang nhìn một thằng bé thật vậy, hay là một thứ giống thằng bé thật vậy.”
“Đi khỏi đây thôi.” Olivia nói, nhìn Bella và Dorcas. “Tụi mình đâu muốn để tụi nó thưởng thức nỗi đau khổ của tụi mình quá lâu đâu, đúng chưa?”
Khi chúng quay khỏi đống lửa, Gabriel nhảy xồ đến nhập bọn với chúng.
“Tôi vừa học xong một tiết dương cầm quái dị,” anh chàng thở hồng hộc. “Kéo dài hàng thế kỷ và…Ô, không.”
Nó chợt ngừng nói giữa chừng, nhìn trân trân vô đôi mắt xanh da trời.
“Đó là…?”
“Bức tượng Lysander tạc đấy.” Charlie nói. “Tụi này biết chắc ai đã làm vậy.”
Trong cố gắng khuấy cả bọn vui lên, Olivia thông báo là nó có mang một chiếc đĩa Frisbee tới trường.
“Chơi thảy đĩa đi mấy người.” Con bé đề nghị.
Trong khi tụi nó thảy chiếc đĩa Frisbee đỏ cho nhau, Gabriel kể cho bọn chúng nghe về giờ học đàn kỳ lạ của mình.
Thầy Pilgrim, thầy giáo dương cầm, là một người lập dị ngay cả lúc bình thường nhất. Cao, da ngăm, có vẻ vô cảm, hiếm khi người ta thấy thầy bên ngoài phòng học nhạc – cái phòng ở lầu trên cùng của chái tây. Hầu như thầy không bao giờ nói chuyện, thật khó để xin được lời chỉ dạy của thầy, đến nỗi mà thầy mất gần hết học trò. Tuy nhiên vào những giờ học dương cầm thêm của Gabriel, thầy Pilgrim lại nói chuyện rất nhiều (nhiều so với thầy).
“Kể đi, kể cho tụi này xem thầy đã nói cái gì?”
Olivia nhảy lên chụp cái đĩa Frisbee, làm văng một chiếc giày màu vàng giữa chừng cú nhảy.
“Thật quái lạ.” Gabriel nói. “Thầy nói: ‘Ông ấy nói không biết tới đây bằng cách nào. Nhưng tôi không thể giúp đỡ ông ấy.’ Nghe vậy tôi liền hỏi: ‘Ai vậy, thưa thầy Pilgrim?’ thì thầy nói ‘có quá nhiều thứ ông ấy không thể tiếp nhận được – đèn điện, xe cộ, những món đồ nhựa. Ông ấy không thích chúng; chúng khiến ông phát hoảng. Rồi ông sẽ phá hủy chúng cho coi. Ai mà trách được ông ấy nào…?’. Rồi, thầy Pilgrim nhìn xoáy vô tôi, và nói: ‘Tôi thì không biết ông ấy sẽ làm điều đó như thế nào, nhưng trò, trò biết chứ?’ Tôi nói…”
Gabriel chụp lấy cái đĩa Frisbee và thét lên đau đớn.
“Ui da! Thảy mạnh qúa, Charlie!”
“Nào, nào.” Olivia giục giã. “Thế, anh đã nói gì nào?”
“Tôi chỉ nói: ‘Không, thưa thầy’. Chứ tôi biết nói gì nữa bây giờ.”
“Lẽ ra anh nên nói: ‘Biết cái gì ạ?’” Fidelio bảo.
Một ý nghĩ kinh khủng thình lình bật ra trong đầu Charlie. Nó đứng đờ ra tại chỗ, hai tay nắm chặt chiếc đĩa Frisbee.
“Thảy đi! Lẹ lên! Charlie, thảy lẹ coi.” Bọn bạn nó la í ới.
“Khoan đã,” Charlie nói. “Thầy Pilgrim có mô tả vị khách bí hiểm đó không?”
Gabriel lắc đầu.
“Tôi cũng chẳng moi được cái tên nào từ thầy. Thầy chỉ bảo: ‘Ông ấy làm được, trò biết đấy, ông ấy rất dị thường. Coi ông ấy đã làm gì với bản nhạc đây!’ Xong tôi nhìn, mấy người biết không! Tất cả những nốt nhạc trên bản nhạc đó đều hóa thành vàng! Chính xác, đó là bản xô–nát số 27 của Beethoven. Sau đó, tôi nhận thấy mấy con dơi ở góc phòng… Luôn có dơi ở trong phòng thầy Pilgrim, nhưng thầy không để ý, tôi cũng không để ý, chúng như những con chuột bay…”
“Những con dơi thì sao?” Fidelio nôn nóng hỏi.
“Chúng cũng biến thành vàng luôn,” Gabriel nói.
“Ô!” Charlie cảm thấy mắc ói.
“Gì vậy, Charlie?” Emma ngó nó.
“È, không có gì,” Charlie khào khào.
“Cả lũ nhện cũng vậy.” Gabriel vô tình kể tiếp. “Cả mạng nhện luôn. Trông rất đẹp, như đồ trang trí Giáng sinh ấy.”
Charlie vui mừng khi nghe tiếng còi đi săn rúc lên. Nó tự hỏi khi nào điều bất ngờ ghê gớm kế tiếp sẽ xảy ra với nó. Lần đầu tiên trong đời, nó chỉ ao ước được vùi trong một bài kiểm tra toán thật khó.
“Anh có cảm giác là em biết người đó là ai.” Fidelio vừa nói vừa rượt theo Charlie qua bãi cỏ. “Vị khách của thầy Pilgrim ấy.”
“Suỵt!” Charlie nhắc.
“Kể cho tụi này nghe đi, Charlie. Kể đi.” Olivia hét lên.
Chúng chen chúc đi vô tiền sảnh, nơi mà Charlie vô cùng biết ơn vì có luật im lặng. Nó đi về lớp toán, cùng với Fidelio theo sau, trong khi đám con gái đi về phía để áo khoác của chúng, còn Gabriel lê bước lên cầu thang, tới giờ kiểm tra lý thuyết đáng sợ.
Charlie dù đã ao ước được chôn mình trong những phân số, nhưng nó nhận ra là nó không sao làm vậy được. Ý nghĩ của nó cứ quay về với vị khách bí hiểm của thầy Pilgrim. Có ai khác có thể biến nhện thành vàng nào? Còn ai khác có thể sợ đèn điện và xe cộ nào? Cuối bài kiểm tra, Charlie biết mình đã làm rất tệ. Phải chi nó đã dùng cây gậy phép để học toán, chứ không phải học tiếng Pháp.
Có thêm tin tức càng xấu nữa đang chờ nó trong căn-tin. Một bà nhân viên phục vụ bữa trưa đang bấn loạn cả lên, kể là sáng nay bà đã chứng kiến một con bò đực to bành xông ra khỏi tiệm bán thịt, nơi trước đó chỉ treo hai súc thịt bò lớn ở đằng sau quầy.
“Mới đó còn là thịt bò, thoắt cái đã thành bò.”
Bà Gill cứ lầm bà lầm bầm trong khi trao những đĩa khoai tây hầm thịt băm cho bọn trẻ.
“Chuyện gì đang xảy ra với cái thế giới này thế không biết?” Bà nói.
“Chuyện gì là chuyện gì, bà Gill?” Fidelio hỏi, với nụ cười quyến rũ cố hữu của mình.
“Anh đâu có tin lời bà ấy, phải không?” Charlie thì thầm khi chúng đi ra bàn.
“Ừm, thế em tin à?” Fidelio hỏi lại. “Tội nghiệp bà ấy. Bà ấy bị khùng rồi.”
“Thật ra thì em tin bà ấy,” Charlie bảo.
Đúng lúc ấy, Gabriel nhập bọn với bọn chúng, hăm hở kể:
“Mấy đứa có nghe bà Gill…”
“Nghe rồi.” Fidelio ngắt ngang. “Và Charlie tin bà ấy, bởi nó biết tại sao, cái gì, và ai… ừm, chuyện là thế nào Charlie?”
“Các anh biết bức tranh đó chứ?” Charlie bắt đầu. “Bức tranh mà em mang tới trường hồi học kỳ vừa rồi đó.”
Fidelio và Gabriel chợt nhìn Charlie chằm chằm, với cái nĩa đồ ăn đang đưa lên miệng nửa chừng.
“Tấm hình thầy phù thủy ấy hả?” Gabriel thì thầm, vẻ bí mật.
Charlie nhìn quanh căn–tin. Chẳng có ai chú ý tới chúng. Tiếng dao nĩa lạch cạch và tiếng trò chuyện náo nhiệt, ồn đến nỗi không một ma nào ngoài cái bàn của chúng có thể nghe thấy chúng. Vả lại, Charlie đã hạ giọng khi kể cho hai bạn nghe về chuyến viếng thăm Skarpo của nó, và chuyện con chuột thoát ra ngoài.
“Tức là, em nghĩ ông ấy cũng đã ra theo?” Fidelio hỏi.
“Chắc chắn,” Charlie nói. “Mới đầu em nghĩ là không thể thế được, vì ông ấy vẫn còn ở trong tranh, nhưng Ông cậu của em nói đó chỉ là hình ảnh của Skarpo thôi, chứ không phải là nguyên khí. Em cứ cố cho là Skarpo không thể ra ngoài được, tại vì em hoàn toàn không muốn tin chuyện ấy.”
“Vậy em nghĩ dơi hóa vàng, bò và các thứ kia đều là ông ấy…?” Fidelio nói.
“Chắc chắn,” Charlie nói. “Và em có cảm giác kinh khủng là ông ấy chỉ mới bắt đầu thôi. Còn những thứ tệ hơn nữa kìa.”
***
Quả đúng vậy.
Bọn trẻ ở Học viện Bloor đang sắp sửa ra ngoài nghỉ giải lao buổi chiều thì một đám mây bay ngang mặt trời. Sau đó, một đám nữa, rồi đám nữa. Bầu trời đầy những gợn tím nhợt, ghê rợn. Nó tối dần thành màu chàm và rồi từ từ chuyển thành đen. Đen như hắc ín.
Một đám con nít đứng lớ xớ ở gần cửa vườn, ngại ngần, không đứa nào muốn mình là người đầu tiên bước ra ngoài trời tối đen.
“Trời ơi, lũ ngu.” Zelda Dobinski ré lên. “Đi ra! Lẹ lên! Có tí xíu mây mà chúng mày sợ gì hả?”
Để bày tỏ sự khinh miệt bọn nhóc, nó đẩy dạt đám đông qua một bên và xông vài bước ra ngoài vườn tối thui.
Một con cóc rớt độp xuống đầu nó. Và rồi thêm một con khác. Khi con cóc đầu tiên đáp phịch xuống đầu Zelda, miệng con nhỏ há hốc ra. Đến con thứ hai thì nó thét lớn lên và chạy trối chết vô đám đông.
Thế rồi, trời bắt đầu đổ một cơn mưa ếch nhái.
Vài đứa trẻ rú lên, lùi vô trong tiền sảnh. Mấy đứa khác đưa tay hứng ếch, nhưng lũ sinh vật nhớt nhợt này rơi với lực mạnh đến nỗi có tiếng thét lên:
“Ui da.”
“Cứu với!”
“Ối!”
cùng những bàn tay rụt lại tức thì.
Từ đằng xa chúng nghe tiếng còi cảnh sát rền vang, tiếng xe cứu thương, xe cứu hỏa inh ỏi khắp thành phố.
Đứng phía sau đám đông, tim Charlie cứ đập thon thót. Skarpo ở đâu? Làm thế quái nào mà bắt được hắn và đưa trở lại nơi mà hắn phải về bây giờ? Rõ ràng là quá nguy hiểm để ra chơi ngoài trời đen kịt như thế này. Đèn bật sáng khắp tòa nhà, và bọn trẻ bị lùa về lại các phòng học. Charlie phải về với lớp tiếng Anh của thầy Carp.
Thầy Carp là một ông thầy lực lưỡng, mặt đỏ gay. Thầy hay dựng một cây roi, mỏng mảnh, coi bộ độc ác, ngay cạnh bàn của mình, và người ta biết được một cách tình cờ (dĩ nhiên rồi), rằng cây gậy đó là để búng tai bọn trẻ mỗi khi thầy tức giận. Charlie đã trở nên khá thiện nghệ trong việc né tránh những cú tấn công này, nhưng từ tia nhìn nghiệt ngã ánh lên trong đôi mắt hý của thầy Carp, Charlie dám chắc là thầy đã quyết định trị cho nó một trận, vào một ngày nào đó. Và Charlie nghĩ ngày nào đó là hôm nay.
Từ bàn bên cạnh, Fidelio thì thào với Charlie:
“Thầy sẽ làm gì tiếp theo đây, Charlie? Em có nghĩ ra không?”
Charlie lắc đầu.
Cất giọng the thé, thầy Carp hét:
“Các trò có nửa giờ để học cách dùng từ trước khi kiểm tra.”
Lo sợ cho đôi tai của mình, hai mươi đứa trẻ vội lấy tập Cách Dùng Từ và lặng lẽ cúi đầu xuống.
Bên ngoài, những đám mây đen đã bay lên cao, mặt trời hiện ra. Loáng sau, bọn trẻ đã thấy gã Weedon và vài trò lớp lớn đi thu dọn ếch bằng lưới, thùng và bao. Charlie tự hỏi không biết ếch rớt xuống khắp thành phố hay chỉ đơn độc Học viện Bloor chịu ơn huệ này? Qua cửa sổ, Charlie thấy Manfred chùi đôi bàn tay của hắn vô quần và mỉm cười một mình. Nụ cười của hắn không kéo dài lâu.
Không ai thấy là bất thường khi chuông nhà thờ lớn bắt đầu đổ. Nhưng khi chuông của năm nhà thờ khác, nhỏ hơn, cùng hòa nhịp thì mọi người bắt đầu lo lắng. Chẳng mấy chốc, tiếng chuông báo tử thống thiết vang dậy khắp cả thành phố. Và chúng không chịu dừng, cứ đổ hoài, đổ hoài. Các vị linh mục và những người kéo chuông vội vã chạy vô nhà thờ, thấy ở đó những sợi dây thừng đang tự động kéo lên kéo xuống một cách bí hiểm.
Fidelio nhìn Charlie. Charlie đảo tròn mắt và nhún vai. Bỗng, một trong những nữ sinh ngồi hàng đầu giơ tay lên. Khi thầy Carp, hai tay đang bịt chặt tai, không chú ý thì nữ sinh đó – tên là Rosie Stubbs – hét lên:
“Thưa thầy, dạ, có con voi trong vườn kìa.”
Tất cả mọi người đều quay ra ngó. Đúng thế.
Thầy Carp, ửng đỏ loang ra cả hai má, liền chộp lấy cây roi. Rosie vội đưa tay lên che 2 tai.
Tiếng chuông càng lúc càng ầm ĩ.
“IM NGAY! IM NGAY! TẤT CẢ BỌN BAY!”
Thầy Carp gầm vang, mặc dù cả lớp đang im phăng phắc.
“Ta không thể nào chịu nổi. Đứa nào làm cái trò này? Phải bắn hết chúng đi!”
Tất cả bọn học trò há hốc miệng.
Chợt nhớ ra mình đang ở đâu, thầy Carp quát:
“Dẹp hết tập vở đi. Ích lợi gì. Không thể tiếp tục được. Cả lớp, giải tán!”
Bọn trẻ tống hết tập vở vô hộc bàn với vẻ biết ơn, chen nhau ra khỏi lớp, tràn ra tiền sảnh. Các lớp khác cũng trống dần. Đám giáo viên trông bực bội đang tất tả xuôi theo tiền sảnh xuống phòng giáo vụ, áo chùng đen bay phần phật, giấy tờ bay tung tóe, sách ôm trên tay rách lả tả.
Những đứa nãy giờ túm tụm trong tiền sảnh, thấy coi bộ không thể nào tuân thủ được luật im lặng, bèn vừa thì thầm, lào xào, vừa kéo nhau xuống căn–tin của khoa mình, hy vọng đã có bữa trưa lớn.
Charlie và Fidelio vừa xoay sở để chộp được một chiếc bánh nhân táo và một ly cam vắt, thì Billy Raven chạy ào tới, hớt hơ hớt hải:
“Anh bị kêu lên văn phòng giáo sư Bloor kìa!”
“Anh?” Charlie hỏi, mặt tái mét.
“Cả đám mình. Cả anh nữa, Gabriel.”
“Cả đám mình?” Gabriel hỏi lại. “Kỳ cục thiệt. Chuyện quái gì vậy?”
Danh sách chương