Thật là tốt khi chẳng ai cần nhờ cậy đến May Phúc đánh thức mình. Con chó già đã ngủ như chết trong căn phòng dưới lòng đất của bà bếp trưởng.
Nhưng Olivia không bị lôi đi giữa đêm khuya, và Charlie có một giấc ngủ dài yên bình một cách hiếm có. Ông cậu nó, trái lại, cứ trằn trọc bất an.
Không lâu sau khi cô Brown ra về, bốn bà chị của Ông cậu Paton cũng về nhà. Ông đang ở trong phòng mình thì nghe tiếng cửa trước nện một cái rầm, rồi đến tiếng xí xa xí xố trong hành lang. Ông đắn đo xem có nên đi xuống và đối mặt với họ hay không. Cuối cùng ông tự nhủ là mình cần phải xuống. Có thể họ sẽ phớt lờ không thèm nghe ông nói, nhưng ông cần phải cố bắt họ lắng nghe, vì lợi ích của Charlie.
Khi Ông cậu Paton bước vào nhà bếp, ông thấy các bà chị của mình ngồi bên bàn, đang húp một thứ súp trông kinh tởm – nhìn như là súp bạch tuộc. Tất cả đều đang tranh nhau nói và không ai nhìn lên khi ông em của họ xuất hiện. Ông đã lẹ làng tắt đèn đi.
“Ối giời, là nó đấy.”
“Cút đi.”
“Bật đèn lên!” Các bà chị của Ông cậu Paton nhao nhao gầm gừ ông.
“Tôi mà bật đèn lên thì các bà sẽ có mảnh thuỷ tinh trong súp,” Ông cậu Paton nói.
“Thế thì cút đi,” nội Bone nạt.
“Không,” Ông cậu Paton băng tới trạn bát đĩa và thắp lên hai ngọn nến.
“Tao không sao thấy được tao đang ăn cái gì,” bà cô Venetia rít lên.
“Thế còn tốt hơn đấy,” Ông cậu Paton nói, đặt nến lên bàn. “Trông gớm quá.”
Đồng loạt bốn tiếng thở hốc lên điên giận.
“Tôi muốn nói chuyện với các chị,” Ông cậu Paton lôi một chiếc ghế ở đầu bàn ra.
“Nói gì?” Nội Bone lộ vẻ thiếu kiên nhẫn.
“Về con dâu của bà.”
“Hứ!” Bà tiếp tục sục mặt vào món súp.
“Lạy trời, Grizelda, bà phải nhận thấy chuyện gì đang xảy ra chứ. Sự xuất hiện của tay bá tước – tên thầy bùa – đáng lý ra phải làm các bà choáng váng chứ. Các bà chắc chắn khoong thể tán thành những gì hắn đang làm đâu - lật tung thành phố lên, bóp vặn tâm trí người ta, đánh cắp mẹ của Charlie.”
“Bá tước Harken ấy, ngài rất hùng mạnh,” bà cố Venetia miệng nói tay sờ bông hồng lụa màu xanh lá cây gắn trên mái tóc đen của mình.
“Rất hùng mạnh,” bà cô Eustacia đệm nhịp đồng ý, vỗ vào chiếc trâm cài màu xanh lá cây trên ve áo mình.
“Rất mạnh,” bà cô Lucritie rờ một bên bông tai thuỷ tinh màu xanh lá cây lủng lẳng đáp trên vai.
Sự chú ý của Ông cậu Paton bị hút về cái lắc tay bằng đá màu xanh lá cây trên cổ tay nội Bone khi bà ta đưa muỗng súp lên miệng. Ông đứng dậy khỏi bàn. “Các bà làm tôi tởm lợm, tất cả các bà,” ông nói.
“Cảm giác tụi này cũng tương tự,” bà cô Venetia gầm gừ.
Ông cậu chộp lấy vai bà chị lớn nhất. “Grizelda, con trai bà đâu?”
“Chết rồi!” Bà nói, vẩy tay ông ra. “Nào, để chúng tao yên.”
“Không phải!” Ông cậu Paton gầm vang. “Tất cả chúng ta đều biết Lyell không chết. Nhưng mà nó ở đâu? Bộ bà không nhận thấy gã bá tước của bà, cái tên thầy bùa lọc lõi ấy, đang cố làm cho Amy quên chồng cô ấy hay sao?”
“Chừng nào Amy còn nhớ tới Lyell, cô ta còn giữ hắn bám víu vào cái thế giới này,” Eustacia, kẻ tiên tri, nói với ông, “Nhưng nếu cô ta quên chồng đi thì một ngày, một tuần, sau đó một tháng, hắn sẽ biến mất vĩnh viễn. Không bao giờ trở lại.”
“Cô nàng đã tháo nhẫn của cô nàng ra rồi,” bà cô Venetia hể hả.
“Đó là bước đầu tiên,” bà cô Eustacia đế thêm. “Bây giờ chỉ có thằng bé mới có thể giữ cho thằng bố nó thoi thóp thôi.”
“Mà nó thì đến mặt cha cũng chả nhớ,” bà cô Venetia mỉm cười độc địa.
“Sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu Lyell Bone bị quên lãng,” bà cô Lucretia nói, liếc nhìn bà chị lớn của mình.
Gương mặt nội Bone trơ như tảng đá.
Ông cậu Paton trơn mắt kinh hãi nhìn họ. “Tôi không thể tin là mình lại được nghe những điều này. Bá tước sẽ đưa cô Amy vào quá khứ, vào tương lai, Ai biết là đi đâu. Ồ, phải rồi, tôi biết về Gương Thần của Amoret. Các bà thật sự muốn Charlie mất cả cha lẫn mẹ sao?”
“Tụi này hết hy vọng vào thằng Charlie rồi,” nội Bone thẳng thừng. “Có thời bọn ta tưởng nó sẽ theo bọn ta, sẽ đặt tài phép của nó vào việc hữu ích. Nhưng nó quá giống thằng cha nó. Giờ thì ta nhận ra rồi. Không ai trong cha con chúng nó muốn theo bọn ta, muốn là một phần trong kế hoạch vĩ đại, kiểm soát thế giới của Ezekiel. Chúng không chịu phục tùng!”
“Bộ các bà không thấy điều đó là đáng tự hào à?” Ông cậu Paton lẳng lặng nói.
“Đồ ngu!” Nội Bone cay cú. “Đừng hòng có tương lai nào cho kẻ bơi ngược dòng nước. Mi cần phải xuôi dòng nếu mi muốn có quyền lực.”
“Xuôi dòng? Huỷ hoại cuộc đời người ta? Đánh cắp con cái người ta? Đó là những gì các người gọi là quyền lực ư?” Ông cậu Paton quay gót và rời phòng, run lên vì kinh tởm.
Tất cả điều này rồi sẽ kết thúc ở đâu? Ông âu sầu tự hỏi khi leo lên những bậc thang tối thui. Những ngón tay ông nắm phải mảnh giấy da dê trong túi áo và ông sực nhớ rằng vẫn còn hy vọng – nếu tìm thấy nhà vua.
Tại học viện Bloor, nguyên một ngày trôi qua mà cả cô Brown lẫn chú Brown đều không thấy đâu. Charlie bắt đầu hy vọng cha mẹ Benjamin đã đổi ý. Có lẽ họ không đang tâm đi do thám bọn trẻ.
Trong Phòng Nhà Vua tối hôm đó chả ai hé răng lấy một lời. Tất cả đều cắm đầu vào làm bài tập, tuyệt nhiên không đứa nào nhìn vào mắt đứa nào. Cứ như thể một cuộc đình chiến ngầm vừa được tuyên bố, mặc dù Charlie biết là điều đó sẽ không kéo dài. Bọn Joshua, Drocas Loom, hai chị em sinh đôi chỉ đang rình chờ cơ hội tốt và đang vận dụng công lực thôi. Còn về Manfred, chắc chắn ai đó sẽ phải trả giá cho bộ mặt sẹo khủng khiếp của hắn.
Asa không ngồi chỗ thường lệ của nó bên cạnh Manfred, mà hơi tách ra một chút. Kể từ khi cái bóng đến đây, Asa có vẻ căng thẳng, cứ thắc tha thắc thỏm... hệt như một con thú trong đàn thú kia, Charlie nghĩ.
Sau giờ làm bài tập, Charlie đuổi theo kịp Tancred và Lysander trước khi hai anh lớn lên tới phòng ngủ chung của họ. “Ngày mai chúng ta gặp nhau ở đâu đó được không?” Charlie hỏi thầm. “Em cần lời khuyên... à, thật ra là cần sự giúp đỡ của các anh.”
“Trong phòng vẽ, trước bữa tối,” Lysander liếc xuôi hành lang. “Manfred tới kìa,” anh hạ thấp giọng.
Charlie bước lùi lại, “Chúc ngủ ngon, Sander! Chúc ngủ ngon, Tanc!” Charlie la to khi hai anh lớn rảo bước đi khỏi.
Charlie biết mình sẽ không thoát dễ dàng như mấy anh. Ngay tiếp theo, nó cảm thấy một bàn tay nặng trịch đè lên vai mình, nóng bỏng. Charlie nhăn lại đau đớn. “Úi da!” Nó ngước lên nhìn thẳng vào cái mặt lỗ rỗ của Manfred.
“Này, này, chống mắt nhìn kỹ đi,” Manfred hằn học. “Đẹp đấy chứ? Ông cậu mày chịu trách nhiệm cho điều này đấy.” Manfred giơ ngón tay chọc vào hai cái sẹo lớn hơn.
Bị rơi vào tình huống đòi hỏi phải khéo léo, Charlie đáng lý ra phải thông cảm với Manfred, nhưng thay vào đó, nó lắp bắp, “Đó là lỗi tại thầy.”
“Tại tao á?” Manfred đục nắm đấm vào vai Charlie.
“Charlie vặn vai thoát ra. Cơn đau xé gan. Y như một que cời nóng rực đâm vào bả vai. “Úi da! Đó là gì vậy?”
“Tao đã bảo mày trước rồi mà, hãy gọi tao là ngài.” Manfred giơ hai bàn tay lên, chĩa lòng bàn tay ra ngoài. “Cái đó là sự đau đớn, Charlie Bone. Hai bàn tay này chứa đầy sự đau đớn. Đừng có trêu chọc tao kẻo lại khiến tao sử dụng chúng nữa bây giờ.”
Charlie nhìn thò lõ vào tấm lưng của Manfred khi gã thanh niên cao nhòng, xương xẩu bước đi khỏi. Vậy là Manfred có một tài phép mới. Hắn đang trở nên giống như Borlath, con trai lớn nhất của Vua Đỏ, kẻ giết chóc bằng lửa. Tốt hết là loan ngay cái tin tức, Charlie nghĩ.
Buổi tối hôm sau, Fidelio xung phong lãnh phần làm Billy mất tập trung trong khi những đúa khác gặp nhau tại xưởng vẽ. Không phải là chúng không tin Billy, mà bởi vì nhiều đứa có pháp thuật vắng mặt quá thì dễ khiến người ta sinh nghi. Thật ra dùng xưởng vẽ làm nơi tụ họp là khá phiêu lưu. Rất có thể Joshua và Dorcas sẽ đột ngột xông vào. Cả hai đứa chúng nó đều ở khoa Hội hoạ, mặc dầu không đứa nào tỏ ra ham thích vẽ.
Charlie là đứa cuối cùng đến họp. Mãi nó mới xoay xở lẻn ra khỏi phòng ngủ chung được, trong khi Billy và Fidelio cãi nhau với Bragger Braine về việc chuột cống ăn đứt chuột đồng.
Nó thấy bọn bạn ngồi bệt dưới đất bên cạnh dãy cửa sổ dài nhìn ra vườn. Một bức tranh của Emma vẽ một con chim lớn đã che khuất bọn nhỏ – đó một bức tranh hết sức đẹp, Charlie xem xét nó dưới ánh sáng từ chiếc đèn bão mới của Lysander.
“Olivia đã kể cho bọn anh nghe về vụ bức tường,” Lysander nói khi Charlie quỳ gối xuống bên cạnh anh.
“Và bầy ong nữa,” Tancred thêm vào, cười tít.
“Em cho rằng bầy ong đã cứu sống em,” Charlie nói.
“Kể từ bây giờ tụi anh sẽ phải để mắt đến em, Charlie à,” Gabriel đề nghị. “Cái thằng Tilpin nhãi ranh đó đã nhất định ăn thua đủ với em rồi.”
Lysander mang theo một quyển sổ tay. Anh đề nghị cả bọn hãy lập bảng phân công để Charlie không bao giờ phải đi một mình trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên ngày mai, thứ Năm.” Anh mở quyển sổ ra, đặt xuống đất và viết chữ “thứ Năm” ở trên cùng trang đầu tiên.
“Sander,” Charlie ngập ngừng. “Không phải là em lo lắng cho chính em đâu.”
“Ồ, em phải lo chứ,” Tancred nói.
“Em biết, và dĩ nhiên em cũng hơi sợ, nhưng mẹ em mới thật sự là đáng lo. Bằng cách nào đó em phải lấy cho được Gương Thần của Amoret. Nếu không thì em... em...”
“Không thì bồ làm sao?” Emma nhẹ nhàng hỏi.
“Em nghĩ cái bóng sẽ bắt mẹ em ra khỏi thế giới này. Hắn có thể đi chu du bằng chiếc gương, giống kiểu như em vậy. Mẹ em đã bị hắn ếm bùa rồi; mẹ đã quên mặt ba em, mẹ không bao giờ ở nhà; lần cuối cùng em gặp mẹ, mẹ đã nhìn sượt qua em, như thể em không tồn tại vậy.”
Lũ bạn của Charlie lộ vẻ khiếp hãi đến nỗi nó ước chi mình thu lại được những lời vừa nói. Nỗi kinh hoàng dường như đã cướp sạch lời nói của bọn trẻ con, mãi cho đến khi Olivia cất tiếng, “Để tớ làm cho!”
Cả bọn nhìn con nhỏ, và Lysander hỏi, “Làm gì?”
“Để em lấy chiếc gương cho,” Olivia nói, mặt rạng rỡ.
“Em thậm chí còn không biết nó ở đâu cơ mà,” Tancred bảo.
“Chỗ nào có hắn là có nó, đúng chưa nào?” Olivia nói với giọng thực tế. “Charlie bảo bá tước Harken Badlock giờ là quản lý mới của Vương Quốc. Ờm, em biết chắc chắn rằng người chủ cũ sống trong một căn hộ sa hoa ở trên tầng chót của cửa hàng.”
“Vậy em định làm gì? Nẫng chiếc gương ngay trước mũi hắn ư?” Tancred nói. “Đó là chưa kể em có vào được căn hộ gác mái đặc biệt của hắn hay không đấy, khi mà nó được hai tên tay sai đắc lực canh gác nghiêm ngặt suốt đêm ngày.”
“Đừng có giễu đi, Tancred Torsson,” Olivia phản đối kịch liệt. “Chắc chắn em sẽ đợi đến chừng nào tên bá tước đi khỏi. Thể nào hắn cũng sẽ đưa mẹ của Charlie đi du hí cuối tuần trên chiếc limo bóng lộn đó mà.”
“Trông bồ sẽ chẳng ăn nhập gì với Vương Quốc, Liv à,” Charlie nhận xét. “Mình không nói là bồ không bảnh, hay là gì gì, nhưng có điều...”
“Thế mới là chỗ cho mẹ tớ xông vào,” đôi mắt xám của Olivia long lanh phấn khích. “Mẹ tớ mê làm cái gì đó đại loại như thế này chết đi được. Vừa rồi mẹ tớ cũng mới vào một vai gớm ghiếc như thế đấy. Tụi mình sẽ có được coi một màn ngoạn mục. Tin tớ đi. Trông mẹ tớ sẽ cực kì rực rỡ. Đội ngũ nhân viên ở Vương Quốc sẽ lăng xăng xoắn xuýt để làm cho mẹ tớ hài lòng. Tớ sẽ lẻn vô trong khi họ còn đang cúi chào với lại quỳ gối.”
Một quãng im lặng trong khi cả bọn tiêu hoá kế hoạch của Olivia.
“Mình nghĩ ý này tuyệt vời đấy,” Cuối cùng Emma nói.
Tất cả tán đồng.
“Chỉ có một điều,” Lysander nói, “em sẽ để cái gương ở đâu khi mà, à nếu mà em lấy được nó?”
“Nhà em,” Olivia đáp gọn lỏn. “Charlie có thể gặp em ở đó.”
“Tớ nghĩ bọn mình cũng sẽ tới đó luôn,” Lysander nhìn Tancred và Garbiel.
“Tất nhiên,” Tancred nhất trí.
Garbiel gật đầu sốt sắng.
Nguyên đám đứng lên, duỗi cánh tay và ngo ngoe những cẳng chân bị chuột rút vì ngồi lâu. Nhưng Lysander không để cho cả bọn đi về mà chưa lập kế hoạch phân công bảo vệ Charlie. Mỗi phút của mọi giờ nghỉ giải lao đều phải được tính đến. Fidelio sẽ được thông báo về nhiệm vụ của mình trong kế hoạch, ngay khi tụi nó tìm gặp riêng được cậu chàng.
Charlie hơi ngại ngùng trước toàn bộ sự sắp xếp này. Thật xấu hổ khi nghĩ mình không thể tự bảo trọng được cái thân mình. Song, cũng dễ chịu lắm khi biết mỗi bước chân ra ngoài nó sẽ không phải chỉ có một mình.
Kế hoạch của Olivia đầy ắp những nguy hiểm. Có rất nhiều kẽ hở khiến vụ việc có thể chệch choạc, nhưng mà, kỳ nghỉ cuối tuần đã cận kề, tinh thần Charlie đang phấn chấn hơn bao giờ hết. Vụ việc phải thành công. Không thể nghĩ tới thất bại.
Chẳng đứa nào phải biết tính sao với Billy. Thằng nhỏ không muốn ở thêm một cuối tuần nữa trong Học viện Bloor, nhưng nhà của Charlie không phải là nơi tá túc dễ chịu, với một bà ngoại bị đông cứng trong bồn tắm và một bà mẹ bị bùa mê khuất phục. Ngoài ra, không ai nghĩ được tài phép của Billy có thể giúp ích gì cho chiến dịch quá bất trắc này. Thằng bé chỉ tổ vướng chân vướng cẳng mà thôi.
“Billy có thể ở nhà mình,” Emma đề nghị. “Mình không nghĩ mình hữu ích gì nhiều trong vụ này.”
Billy rất háo hức với viến cảnh nghỉ cuối tuần tại tiệm sách cô Ingledew. Không có chó cãi nhau với Rembrandt, chỉ có con vịt hiền lành để trò chuyện. Và dì của Emma lại là một đầu bếp xuất sắc.
Vào lúc mười một giờ ba mươi sáng thứ Bảy, cô Amy Bone ra khỏi căn phòng tầng trên cùng của mình. Charlie chắc hẳn sẽ không thể nào nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của mẹ nếu không cố ý chờ nghe. Khi cô tới chân dãy cầu thang đầu tiên, Charlie bước ra ngoài chiếu nghỉ.
Diện mạo của cô Amy khiến Charlie không thốt được lời nào. Mẹ nó diện áo khoác lông thú hào nhoáng và tóc mượt như lụa vàng. Hai hạt ngọc trai lớn treo tòn teng hai bên tai, còn móng tay thì sơn màu xanh lá cây chói lọi. Tim Charlie hụt mất một nhịp khi nó thấy chiếc nhẫn cưới của mẹ không còn nữa. Mà thay vào vị trí đó là chiếc nhẫn ngọc lục bảo to tướng, sáng chói lói trên ngón tay mẹ.
“Mẹ đi đâu vậy?” Nó nghẹn ngào hỏi.
“Đi chơi.” Cô đi xuống trong dãy cầu thang thứ hai trong đôi giày gót cao chót vót khiến dáng cô nhấp nhô như làn sóng.
Charlie đi theo mẹ, nhưng mẹ nó rời nhà mà không ngoảnh lại lần nào. Charlie chạy bổ vào nhà bếp và ngó trân trối ra cửa sổ khi chiếc limousine vàng choá đỗ xịch bên lề đường. Mất một lúc Charlie mất hết tinh thần đến tê liệt, nhưng rồi, sực nhớ đây là giây phút mình đang trông đợi, nó nhào vô hành lang và gọi điện thoại cho Olivia.
“Alô!” Giọng hớn hở từ phía đầu giây bên kia vang lên.
“Mẹ mình đi rồi,” Charlie thông báo. “Mẹ mình đi với...” Nó ngừng sựng, miệng vẫn còn há ra, nội Bone từ phòng khách xộc vào. “Con không biết nội ở nhà, nội!”
“Không biết hả? Mày đang gọi cho ai đó?”
“Alô! Alô!” Giọng của Olivia nổ lục bục ra khỏi ống nghe. Tất cả những tiết học kịch đã luyện cho con nhỏ một giọng nói rất rành rọt, réo rắt. “Cô ấy đi với ai, tay bá...”
Charlie bịt tay vào ống nghe. “Là bạn con, Olivia ấy mà,” Nó bảo với nội Bone. “Con đang định rủ bạn ấy đi ăn trưa, bởi vì mẹ đi ra ngoài rồi, và con không nghĩ là còn nhiều đồ ăn ở nhà.”
“Mày nghĩ đúng đấy,” bà nội nó nói. “Đi đi, đi mà rủ nó.”
Charlie dí ống nghe sát vào miệng, “Ừm, thì mình đã nói đấy, mẹ mình đi rồi... trên một chiếc xe lộng lẫy.” Nó cười toác hoác với nội Bone, “Vậy thì mình đến ăn trưa nhé? Bà nội mình, bà đang đứng đây này, bảo thế cũng được.”
“Tất nhiên,” Olivia nói bằng giọng khoái chí được kìm lại. “Mẹ mình với mình đã sẵn sàng rồi. Hẹn gặp lại, Charlie.”
Ông cậu Paton đã được thông báo về kế hoạch này, và mặc dù rất lo sợ tụi nhỏ gặp nguy hiểm nếu có gì trục trặc, nhưng ông cũng thừa nhận là kế hoạch đó rất đáng thử, bằng không thì Charlie sẽ mất luôn cả mẹ.
Charlie giật chiếc áo khoác ra khỏi phòng mình và thò đầu qua cửa phòng Ông cậu Paton. “Mẹ con đi rồi, đi với kẻ-mà-ai-cũng-biết đấy, vậy là tất cả hệ thống đã khởi động,” nó báo cho Ông cậu.
Ông cậu Paton ngước mắt khỏi bàn viết. “Chúc may mắn!” Ông bảo. “Ta sẽ đợi.”
Cô Vertigo quyết định mặc áo khoác da màu đỏ bó sát người và đi bốt đen cao gót. Thêm chiếc mũ bê-rê nhung đỏ và túi xách to vàng óng ánh nữa cho hoàn tất lệ bộ. Trông cô đến là choáng. Tuy nhiên, Olivia không muốn nổi đình đám như mẹ. Hôm nay nó đóng vai một tiểu thư rụt rè, bẽn lẽn. Với quần jeans tuềnh toàng, áo khoác vải len thô kiểu lính thuỷ, và mái tóc đã trở về màu nâu nhạt tự nhiên, trông con nhỏ đúng là hiện thân của sự ngây thơ.
“Con có mang theo điện thoại di động của con chưa?” Cô Vertigo hỏi con gái khi họ đến Vương Quốc.
“Trong túi quần con đây rồi,” Olivia đáp.
“Phải hứa gọi cho mẹ khi con gặp rắc rối đấy nhé.”
“Đương nhiên.”
“Hào hứng quá đi mất,” mẹ của Olivia nở với hai gã gác cửa một nụ cười rạng rỡ và họ lập tức nhảy xồ tới mở cửa ra rộng hết cỡ.
Olivia và cô Vertigo bước vào cửa hàng hơi âm u dịu dàng, toả hương thơm ngọt ngào, và đông đến không ngờ.
“Bán giảm giá!” Cô Vertigo reo mừng. “Ôi, Liv, thú vị quá! Chúng ta hãy bắt đầu với khăn quàng cổ chứ nhỉ?”
Olivia theo mẹ sàng tới quầy trưng bày khăn quàng cổ muôn màu sặc sỡ. Cô Vertigo liền thưởng thức thú vui của mình. Cô đã có sẵn bốn cây son bóng từ màu hồng nhạt cho đến đỏ tươi. “Tôi muốn lựa một chiếc khăn tiệp màu với từng cây son này,” cô bảo với người bán hàng. “Chúng phải bằng lụa thiên nhiên, không quá vuông mà không quá dài, và hy vọng, giảm giá chỉ còn nửa giá,” cô chớp chớp hàng mi giả của mình.
Trong lúc một nhóm nhân viên cửa hàng ăn mặc lịch duyệt vây quanh mẹ Olivia, nôn nả, ríu rít mời chào, Olivia lỉnh đi khỏi. Lách len qua đám đông đang săn hang đang trả giá, con nhỏ chạy tới thang máy và nhảy vào, vừa lúc cửa đóng sập lại. Một cặp vợ chồng già mỉm cười với nó đầu kia thang máy. Cả hai đều mặc áo khoác ca rô màu nâu và đội mũ phớt vải nỉ mềm.
“Đôi?” người đàn ông hỏi lớ ngớ giọng nước ngoài.
“Đôi?” Olivia không hiểu.
“Ông ấy hỏi cháu lên tầng hai à,” người phụ nữ già giải thích, thúc vào người ông chồng “Ông ấy hay nói sai lắm. Tiếng Anh của bà khá hơn.”
“Cảm ơn ông bà, không ạ. Không phải tầng hai,” Olivia trả lời.
Người đàn ông lại hỏi. “Ba. bốn?” Ngón tay ông rà rà trên bảng bấm số.
“Đồ chơi,” Olivia đáp
“À, đồ chơi,” người đàn ông thở dài. “Ước gì ta biết nó ở tầng mấy.”
“Nhanh lên, Herman. Chúng tôi đi đây, bái bai.”
Cửa thang máy mở và họ lụm cụm bước ra ngoài, người phụ nữ vẫy tay nhẹ và ông Herman vẫn khổ sở lẩm bẩm về đồ chơi.
Cuối cùng được ở lại một mình, Olivia nhấn một nút không đề số và thang máy vút lên tầng trên cùng của toà nhà. Khi cửa mở, Olivia hé nhìn ra. Cách đó vài mét có một gã đàn ông phương phi đang ngồi đọc báo, bàn chân gã dường như chìm hẳn vào một biển lông màu đen trải khắp, đến tận cùng dãy hành lang dài. Bên cạnh gã đàn ông đó là cánh cửa kính trắng có gắn chữ “Noble” bằng đồng.
Olivia nghĩ nhanh. Cửa thang máy đang bắt đầu đóng. Nó lại nhấn nút lần nữa. Khi cửa thang máy mở ra lại, bỗng nghe có tiếng chiêm chiếp lớn. Gã đàn ông càu nhàu, đặt tờ báo xuống và lao vội tới cuối hành lang, nơi đó một con chim vỗ cánh phành phạch quanh hệ thống đèn chiếu sang.
Olivia vội chạy ra khỏi thang máy, hướng tới cánh cửa đề chữ “Noble”. Cửa không khoá. Olivia lẻn vào trong và nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại sau lưng.
Thảm lông màu trắng ngập tới mắt cá chân, Olivia ngó quanh căn hộ quái dị. “Không có thời gian để dòm ngó, Liv,” nó tự nhủ, trong khi nhìn lướt qua chiếc ngế sofa bằng da ngựa lùn, mấy cái bàn bằng ngà voi và những con chim nhồi bông trông đến phát kinh.
Có hai cánh cửa dẫn ra khỏi phòng khách rải lông. Olivia thử đẩy cánh cửa gần nhất. Cánh cửa mở vào một tủ quần áo rộng thênh thang, có thể đi hẳn vào được. Bộ nào không bằng lông thú thì cũng màu xanh lá cây. Một tấm gương dài treo trên tường. Nhưng không có dấu hiệu gì của chiếc gương nhỏ cổ xưa. Olivia lùi trở ra.
Cánh cửa thứ hai dẫn vào một căn phòng hứa hẹn hơn nhiều. Một cái giường bốn cọc khổng lồ lù lù ngay giữa phòng, phủ kín những tấm tranh thêu trông có đến hàng trăm tuổi.
Làm thế quái nào mà chúng lên được tới đây? Olivia thắc mắc. Cái giường khổng lồ trông như ảo ảnh, một thưa mà chính Olivia cũng có thể làm ra. Ngay lập tức, nó đã có câu trả lời. Cái giường đúng là do phù phép mà thành. Cả cái tủ com-mốt đen thùi dựa vào tường cũng vậy. Chúng không phải là ảo ảnh mà là những vật dụng cổ xưa được mang tới đây bằng ma thuật.
Một cái ghế ghỗ to dềnh dàng dựng ở góc phòng. Trông nó xưa xửa xừa xưa với lưng ghế cao cong gồ lên và hai tay ghế dày bị mối ăn. Olivia đã từng thấy một chiếc ghế như vậy trong viện bảo tàng địa phương.
Lão bá tước cất cái gương ở đâu? Có lẽ hắn không bao giờ để xa khỏi tầm mắt của hắn. Bàn thì trống lốc, còn ghế thì thậm chí không có lấy một miếng lót đệm bên trên. Olivia tiến đến cái giường. Không có gì ở dưới gối hay ở giữa những tấm trải trắng toát, hồ bột cứng. Nó đi đến tủ com-mốt. Bắt đầu từ ngăn kéo trên cùng, nó mở ra, rồi mở tiếp từng cái một.
Rỗng không, rỗng không, rỗng không. Trái tim Olivia chìm lỉm. Nó phải quỳ gối xuống sàn nhà để lôi cái ngăn kéo cuối cùng ra. Cái này rít kin kít và run lên bần bật khi Olivia giật tay nắm, nhưng nó chỉ hé ra được có vài phân. Olivia đút hẳn cả cánh tay vào và khua khoắng lục lọi. Ngón tay nó chạm vào cái gì đó láng láng, dẹp dẹp, ở tuốt trong cùng. Từ từ, Olivia khều vật đó ra trước và lôi khỏi ngăn kéo.
Đáng lẽ ra chẳng có gì ngạc nhiên khi mà món đồ ta hy vọng tìm hóa ra lại nằm ở chỗ mà ta ít mong chờ nhất. Tuy nhiên Olivia sững sờ với khám phá của mình đến mức nó phải ngồi bệt xuống trên hai gót chân và hít thở thật sâu vài hơi liền mới hồi tỉnh để ngắm nghía cái vật đang nằm trên đùi mình.
Đó là một cái gương – rất cổ xưa, xét theo diện mạo của nó. Vòng tròn thủy tinh, nếu ta gọi đó là thuỷ tinh, được khéo léo gắn vào một khung vàng tinh tế. Những hoa văn kỹ xảo được khắc vào vàng: Hình những chiếc lá, những chú chim và hình những sinh vật nhỏ xíu có mắt cẩn đá quý đang nhảy múa. Cán gương hình ô-van dài bằng bạc và vàng xoắn vào nhau, và khi Olivia cầm cái cán, nó cảm thấy một luồng hơi ấm toả khắp người. Từ từ, nó đưa gương lên mặt soi. Không có hình phản chiếu. Mình là ma cà rồng chăng? Olivia chột dạ, nheo mắt vào khoảnh thủy tinh. Mình đang ở đâu đây? Một màn sương mỏng cuồn cuộn trên bề mặt thuỷ tinh, nhưng dù cố căng mắt, Olivia vẫn không thể thấy gì đằng sau màn sương. Sực nhớ ra sự nguy hiểm của phi vụ, con nhỏ lật đật đóng ngăn kéo lại và nhét tấm gương vào trong túi chiếc áo khoác len thô của mình. Lúc vào nó đã quên không làm cho con chim ảo của mình biến đi, và tự hỏi liệu tên lính gác đã phát hiện ra đó chỉ là ảo ảnh hay chưa. Nó cần phải tạo ra thứ gì đó kịch tính hơn để đánh lạc hướng hắn lần thứ hai. Nhắm mắt lại, nó hình dung khói bốc lên từ tấm thảm len. Nó không quên dặm thêm mùi lông cháy khét lẹt, mà nó phải tưởng tượng ra bởi vì nó chưa ngửi thấy cái mùi đó bao giờ.
Đi nhón gót qua căn hộ, nó áp tai vào cánh cửa chính. Có tiếng chửi rủa đâu đằng xa và tiếng bước chân thình thịch vọng vào tai nó. Nín thở, Olivia mở cửa, lẻn ra và nhẹ nhàng đóng lại ngay. Khói giả đã tạo nên vố lừa. Ở đầu đằng kia hành lang, tên lính gác kinh hoàng đang nhảy bạch bạch cả hai chân trên tấm thảm cháy sém. Ngay khi mảng khói này biến mất thì một mảng khói khác lại xuất hiện.
Olivia chạy bay tới thang máy và nhấn nút. Thang máy đang bận. Nó lại nhấn nữa, nhấn nữa, nhấn nữa.Tên lính nghỉ lấy hơi trong cuộc chiến với tấm thảm. Hắn vò đầu và nhìn xuôi xuống hành lang. Olivia nép rúm vào cánh cửa thang máy. Một tiếng binh lớn, sắc gọn. cửa mở ra và nó lụm chụm chồm vào, hối hả vừa nhấn nút xuống tầng trệt vừa lảo đảo dựa lưng vào bức tường phía sau.
“Ê!” Tên lính gác gọi to.
Nhưng Olivia đang trên đường đi xuống, mừng rơn vì thang máy không dừng lại lần nào cho tới khi xuống tới tầng trệt. Làm ra vẻ tỉnh bơ hết sức, Olivia chạy ù ra chỗ mẹ nó. Mặc dù người đông nghìn nghịt nhưng Olivia chẳng khó khăn gì mà không xác định được cái áo khoác đỏ chói lọi của cô Vertigo. Lúc này cô đang bận rộn ở quầy bán đồ trang điểm. Khi Olivia tới nơi, nó thấy trên quầy sáp lủng củng những kem, phấn, bút chải mascara, chổi và chai lọ.
“Mẹ, chúng ta đi thôi,” Olivia giục.
Cô Vertigo quay qua và thấy gương mặt hớt hải của con gái. “Ờ, ờ,” cô nở với người bán hàng một nụ cười thiểu não. “Xin lỗi, chúng không phải là những thứ tôi muốn. Chả có món nào được cả. Cám ơn cô rất nhiều.”
Người bán hang trợn mắt nhìn đống bừa bộn trên quầy khi Olivia lôi mẹ nó đi khỏi.
“Việc có thành không?” Cô Vertigo hỏi.
Olivia gật đầu.
Vừa ra đến ngoài đường, họ va thẳng vào cô Chrystal, cô này, thật không thể tin nổi, đang nắm tay Joshua Tilpin.
“Cô Chrystal đó à?” Cô Vertigo nói bằng giọng xởi lởi, phô trương quá sức. “Cuộc mua sắm này hay quá, cô nhỉ? Ố, ai đây?” Cô mỉm cười với Joshua.
“Một trong những học sinh của tôi,” cô Chrystal đáp nhẹ hều. “Tên cậu ta là Joshua. Nhà trường yêu cầu tôi đi mua cho nó một chiếc áo sơ-mi mới.”
“Một chiếc sơ-mi đắt tiền cho một thằng bé!” Cô Vertigo nhận xét, nháy mắt tới những cây cột cẩm thạch của Vương Quốc.
Cô Chrystal giả tảng ngó lơ lời nhận xét và hối hả lôi Joshua vào trong cửa hàng.
“Tội nghiệp thằng bé,” cô Vertigo xuýt xoa. “Trông nó lẻo khẻo thương tâm quá.”
“Mẹ đừng có tin như thế, mẹ,” Olivia cặp hẳn cánh tay mình vào cánh tay mẹ. “Làm ơn nhanh lên.”
Charlie đang đứng trên những bậc tam cấp nhà cô Verttgo khi Olivia và mẹ về đến nhà. Nó biết sứ mệnh đã thành công ngay khi vừa trông thấy gương mặt cười cười nhưng lo âu của Olivia.
“Hai mẹ con tớ đã đâm sầm vào Joshua va cô Chrystal,” Olivia bảo với Charlie khi tất cả đi vào tiền sảnh rộng thênh thang nhà Vertigo. “Chắc chắn họ sẽ nghi ngờ và tớ nghĩ tên lính gác đã trông thấy tớ.”
“Hãy cứ hy vọng là không nhìn thấy hắn đi.” Charlie nói. “Cho mình xem cái gương được không, Liv?”
“Đúng đấy, chúng ta cùng xem nào. Cô không chờ nổi nữa rồi,” Cô Vertigo quăng áo khoác lên mắc và đẩy bọn trẻ vào phòng khách.
Olivia rút cái gương ra thì bỗng có tiếng nổ lớn ở trước cửa. Ngay lập tức có hai hình hài xuất hiện bên ngoài cửa sổ kiểu Pháp.
Cô Vertigo thét lên.
“Không sao đâu mẹ,” Olivia nói. “Đó là Tancred và Lysander. Các anh ấy đến để trợ giúp đấy.”
“Và chúng ta sẽ cần các anh ấy,” Charlie nói khi một tiếng nổ nữa rung chuyển cả ngôi nhà. “Xem ra bồ có đuôi bám rồi, Liv.”
Nhưng Olivia không bị lôi đi giữa đêm khuya, và Charlie có một giấc ngủ dài yên bình một cách hiếm có. Ông cậu nó, trái lại, cứ trằn trọc bất an.
Không lâu sau khi cô Brown ra về, bốn bà chị của Ông cậu Paton cũng về nhà. Ông đang ở trong phòng mình thì nghe tiếng cửa trước nện một cái rầm, rồi đến tiếng xí xa xí xố trong hành lang. Ông đắn đo xem có nên đi xuống và đối mặt với họ hay không. Cuối cùng ông tự nhủ là mình cần phải xuống. Có thể họ sẽ phớt lờ không thèm nghe ông nói, nhưng ông cần phải cố bắt họ lắng nghe, vì lợi ích của Charlie.
Khi Ông cậu Paton bước vào nhà bếp, ông thấy các bà chị của mình ngồi bên bàn, đang húp một thứ súp trông kinh tởm – nhìn như là súp bạch tuộc. Tất cả đều đang tranh nhau nói và không ai nhìn lên khi ông em của họ xuất hiện. Ông đã lẹ làng tắt đèn đi.
“Ối giời, là nó đấy.”
“Cút đi.”
“Bật đèn lên!” Các bà chị của Ông cậu Paton nhao nhao gầm gừ ông.
“Tôi mà bật đèn lên thì các bà sẽ có mảnh thuỷ tinh trong súp,” Ông cậu Paton nói.
“Thế thì cút đi,” nội Bone nạt.
“Không,” Ông cậu Paton băng tới trạn bát đĩa và thắp lên hai ngọn nến.
“Tao không sao thấy được tao đang ăn cái gì,” bà cô Venetia rít lên.
“Thế còn tốt hơn đấy,” Ông cậu Paton nói, đặt nến lên bàn. “Trông gớm quá.”
Đồng loạt bốn tiếng thở hốc lên điên giận.
“Tôi muốn nói chuyện với các chị,” Ông cậu Paton lôi một chiếc ghế ở đầu bàn ra.
“Nói gì?” Nội Bone lộ vẻ thiếu kiên nhẫn.
“Về con dâu của bà.”
“Hứ!” Bà tiếp tục sục mặt vào món súp.
“Lạy trời, Grizelda, bà phải nhận thấy chuyện gì đang xảy ra chứ. Sự xuất hiện của tay bá tước – tên thầy bùa – đáng lý ra phải làm các bà choáng váng chứ. Các bà chắc chắn khoong thể tán thành những gì hắn đang làm đâu - lật tung thành phố lên, bóp vặn tâm trí người ta, đánh cắp mẹ của Charlie.”
“Bá tước Harken ấy, ngài rất hùng mạnh,” bà cố Venetia miệng nói tay sờ bông hồng lụa màu xanh lá cây gắn trên mái tóc đen của mình.
“Rất hùng mạnh,” bà cô Eustacia đệm nhịp đồng ý, vỗ vào chiếc trâm cài màu xanh lá cây trên ve áo mình.
“Rất mạnh,” bà cô Lucritie rờ một bên bông tai thuỷ tinh màu xanh lá cây lủng lẳng đáp trên vai.
Sự chú ý của Ông cậu Paton bị hút về cái lắc tay bằng đá màu xanh lá cây trên cổ tay nội Bone khi bà ta đưa muỗng súp lên miệng. Ông đứng dậy khỏi bàn. “Các bà làm tôi tởm lợm, tất cả các bà,” ông nói.
“Cảm giác tụi này cũng tương tự,” bà cô Venetia gầm gừ.
Ông cậu chộp lấy vai bà chị lớn nhất. “Grizelda, con trai bà đâu?”
“Chết rồi!” Bà nói, vẩy tay ông ra. “Nào, để chúng tao yên.”
“Không phải!” Ông cậu Paton gầm vang. “Tất cả chúng ta đều biết Lyell không chết. Nhưng mà nó ở đâu? Bộ bà không nhận thấy gã bá tước của bà, cái tên thầy bùa lọc lõi ấy, đang cố làm cho Amy quên chồng cô ấy hay sao?”
“Chừng nào Amy còn nhớ tới Lyell, cô ta còn giữ hắn bám víu vào cái thế giới này,” Eustacia, kẻ tiên tri, nói với ông, “Nhưng nếu cô ta quên chồng đi thì một ngày, một tuần, sau đó một tháng, hắn sẽ biến mất vĩnh viễn. Không bao giờ trở lại.”
“Cô nàng đã tháo nhẫn của cô nàng ra rồi,” bà cô Venetia hể hả.
“Đó là bước đầu tiên,” bà cô Eustacia đế thêm. “Bây giờ chỉ có thằng bé mới có thể giữ cho thằng bố nó thoi thóp thôi.”
“Mà nó thì đến mặt cha cũng chả nhớ,” bà cô Venetia mỉm cười độc địa.
“Sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu Lyell Bone bị quên lãng,” bà cô Lucretia nói, liếc nhìn bà chị lớn của mình.
Gương mặt nội Bone trơ như tảng đá.
Ông cậu Paton trơn mắt kinh hãi nhìn họ. “Tôi không thể tin là mình lại được nghe những điều này. Bá tước sẽ đưa cô Amy vào quá khứ, vào tương lai, Ai biết là đi đâu. Ồ, phải rồi, tôi biết về Gương Thần của Amoret. Các bà thật sự muốn Charlie mất cả cha lẫn mẹ sao?”
“Tụi này hết hy vọng vào thằng Charlie rồi,” nội Bone thẳng thừng. “Có thời bọn ta tưởng nó sẽ theo bọn ta, sẽ đặt tài phép của nó vào việc hữu ích. Nhưng nó quá giống thằng cha nó. Giờ thì ta nhận ra rồi. Không ai trong cha con chúng nó muốn theo bọn ta, muốn là một phần trong kế hoạch vĩ đại, kiểm soát thế giới của Ezekiel. Chúng không chịu phục tùng!”
“Bộ các bà không thấy điều đó là đáng tự hào à?” Ông cậu Paton lẳng lặng nói.
“Đồ ngu!” Nội Bone cay cú. “Đừng hòng có tương lai nào cho kẻ bơi ngược dòng nước. Mi cần phải xuôi dòng nếu mi muốn có quyền lực.”
“Xuôi dòng? Huỷ hoại cuộc đời người ta? Đánh cắp con cái người ta? Đó là những gì các người gọi là quyền lực ư?” Ông cậu Paton quay gót và rời phòng, run lên vì kinh tởm.
Tất cả điều này rồi sẽ kết thúc ở đâu? Ông âu sầu tự hỏi khi leo lên những bậc thang tối thui. Những ngón tay ông nắm phải mảnh giấy da dê trong túi áo và ông sực nhớ rằng vẫn còn hy vọng – nếu tìm thấy nhà vua.
Tại học viện Bloor, nguyên một ngày trôi qua mà cả cô Brown lẫn chú Brown đều không thấy đâu. Charlie bắt đầu hy vọng cha mẹ Benjamin đã đổi ý. Có lẽ họ không đang tâm đi do thám bọn trẻ.
Trong Phòng Nhà Vua tối hôm đó chả ai hé răng lấy một lời. Tất cả đều cắm đầu vào làm bài tập, tuyệt nhiên không đứa nào nhìn vào mắt đứa nào. Cứ như thể một cuộc đình chiến ngầm vừa được tuyên bố, mặc dù Charlie biết là điều đó sẽ không kéo dài. Bọn Joshua, Drocas Loom, hai chị em sinh đôi chỉ đang rình chờ cơ hội tốt và đang vận dụng công lực thôi. Còn về Manfred, chắc chắn ai đó sẽ phải trả giá cho bộ mặt sẹo khủng khiếp của hắn.
Asa không ngồi chỗ thường lệ của nó bên cạnh Manfred, mà hơi tách ra một chút. Kể từ khi cái bóng đến đây, Asa có vẻ căng thẳng, cứ thắc tha thắc thỏm... hệt như một con thú trong đàn thú kia, Charlie nghĩ.
Sau giờ làm bài tập, Charlie đuổi theo kịp Tancred và Lysander trước khi hai anh lớn lên tới phòng ngủ chung của họ. “Ngày mai chúng ta gặp nhau ở đâu đó được không?” Charlie hỏi thầm. “Em cần lời khuyên... à, thật ra là cần sự giúp đỡ của các anh.”
“Trong phòng vẽ, trước bữa tối,” Lysander liếc xuôi hành lang. “Manfred tới kìa,” anh hạ thấp giọng.
Charlie bước lùi lại, “Chúc ngủ ngon, Sander! Chúc ngủ ngon, Tanc!” Charlie la to khi hai anh lớn rảo bước đi khỏi.
Charlie biết mình sẽ không thoát dễ dàng như mấy anh. Ngay tiếp theo, nó cảm thấy một bàn tay nặng trịch đè lên vai mình, nóng bỏng. Charlie nhăn lại đau đớn. “Úi da!” Nó ngước lên nhìn thẳng vào cái mặt lỗ rỗ của Manfred.
“Này, này, chống mắt nhìn kỹ đi,” Manfred hằn học. “Đẹp đấy chứ? Ông cậu mày chịu trách nhiệm cho điều này đấy.” Manfred giơ ngón tay chọc vào hai cái sẹo lớn hơn.
Bị rơi vào tình huống đòi hỏi phải khéo léo, Charlie đáng lý ra phải thông cảm với Manfred, nhưng thay vào đó, nó lắp bắp, “Đó là lỗi tại thầy.”
“Tại tao á?” Manfred đục nắm đấm vào vai Charlie.
“Charlie vặn vai thoát ra. Cơn đau xé gan. Y như một que cời nóng rực đâm vào bả vai. “Úi da! Đó là gì vậy?”
“Tao đã bảo mày trước rồi mà, hãy gọi tao là ngài.” Manfred giơ hai bàn tay lên, chĩa lòng bàn tay ra ngoài. “Cái đó là sự đau đớn, Charlie Bone. Hai bàn tay này chứa đầy sự đau đớn. Đừng có trêu chọc tao kẻo lại khiến tao sử dụng chúng nữa bây giờ.”
Charlie nhìn thò lõ vào tấm lưng của Manfred khi gã thanh niên cao nhòng, xương xẩu bước đi khỏi. Vậy là Manfred có một tài phép mới. Hắn đang trở nên giống như Borlath, con trai lớn nhất của Vua Đỏ, kẻ giết chóc bằng lửa. Tốt hết là loan ngay cái tin tức, Charlie nghĩ.
Buổi tối hôm sau, Fidelio xung phong lãnh phần làm Billy mất tập trung trong khi những đúa khác gặp nhau tại xưởng vẽ. Không phải là chúng không tin Billy, mà bởi vì nhiều đứa có pháp thuật vắng mặt quá thì dễ khiến người ta sinh nghi. Thật ra dùng xưởng vẽ làm nơi tụ họp là khá phiêu lưu. Rất có thể Joshua và Dorcas sẽ đột ngột xông vào. Cả hai đứa chúng nó đều ở khoa Hội hoạ, mặc dầu không đứa nào tỏ ra ham thích vẽ.
Charlie là đứa cuối cùng đến họp. Mãi nó mới xoay xở lẻn ra khỏi phòng ngủ chung được, trong khi Billy và Fidelio cãi nhau với Bragger Braine về việc chuột cống ăn đứt chuột đồng.
Nó thấy bọn bạn ngồi bệt dưới đất bên cạnh dãy cửa sổ dài nhìn ra vườn. Một bức tranh của Emma vẽ một con chim lớn đã che khuất bọn nhỏ – đó một bức tranh hết sức đẹp, Charlie xem xét nó dưới ánh sáng từ chiếc đèn bão mới của Lysander.
“Olivia đã kể cho bọn anh nghe về vụ bức tường,” Lysander nói khi Charlie quỳ gối xuống bên cạnh anh.
“Và bầy ong nữa,” Tancred thêm vào, cười tít.
“Em cho rằng bầy ong đã cứu sống em,” Charlie nói.
“Kể từ bây giờ tụi anh sẽ phải để mắt đến em, Charlie à,” Gabriel đề nghị. “Cái thằng Tilpin nhãi ranh đó đã nhất định ăn thua đủ với em rồi.”
Lysander mang theo một quyển sổ tay. Anh đề nghị cả bọn hãy lập bảng phân công để Charlie không bao giờ phải đi một mình trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên ngày mai, thứ Năm.” Anh mở quyển sổ ra, đặt xuống đất và viết chữ “thứ Năm” ở trên cùng trang đầu tiên.
“Sander,” Charlie ngập ngừng. “Không phải là em lo lắng cho chính em đâu.”
“Ồ, em phải lo chứ,” Tancred nói.
“Em biết, và dĩ nhiên em cũng hơi sợ, nhưng mẹ em mới thật sự là đáng lo. Bằng cách nào đó em phải lấy cho được Gương Thần của Amoret. Nếu không thì em... em...”
“Không thì bồ làm sao?” Emma nhẹ nhàng hỏi.
“Em nghĩ cái bóng sẽ bắt mẹ em ra khỏi thế giới này. Hắn có thể đi chu du bằng chiếc gương, giống kiểu như em vậy. Mẹ em đã bị hắn ếm bùa rồi; mẹ đã quên mặt ba em, mẹ không bao giờ ở nhà; lần cuối cùng em gặp mẹ, mẹ đã nhìn sượt qua em, như thể em không tồn tại vậy.”
Lũ bạn của Charlie lộ vẻ khiếp hãi đến nỗi nó ước chi mình thu lại được những lời vừa nói. Nỗi kinh hoàng dường như đã cướp sạch lời nói của bọn trẻ con, mãi cho đến khi Olivia cất tiếng, “Để tớ làm cho!”
Cả bọn nhìn con nhỏ, và Lysander hỏi, “Làm gì?”
“Để em lấy chiếc gương cho,” Olivia nói, mặt rạng rỡ.
“Em thậm chí còn không biết nó ở đâu cơ mà,” Tancred bảo.
“Chỗ nào có hắn là có nó, đúng chưa nào?” Olivia nói với giọng thực tế. “Charlie bảo bá tước Harken Badlock giờ là quản lý mới của Vương Quốc. Ờm, em biết chắc chắn rằng người chủ cũ sống trong một căn hộ sa hoa ở trên tầng chót của cửa hàng.”
“Vậy em định làm gì? Nẫng chiếc gương ngay trước mũi hắn ư?” Tancred nói. “Đó là chưa kể em có vào được căn hộ gác mái đặc biệt của hắn hay không đấy, khi mà nó được hai tên tay sai đắc lực canh gác nghiêm ngặt suốt đêm ngày.”
“Đừng có giễu đi, Tancred Torsson,” Olivia phản đối kịch liệt. “Chắc chắn em sẽ đợi đến chừng nào tên bá tước đi khỏi. Thể nào hắn cũng sẽ đưa mẹ của Charlie đi du hí cuối tuần trên chiếc limo bóng lộn đó mà.”
“Trông bồ sẽ chẳng ăn nhập gì với Vương Quốc, Liv à,” Charlie nhận xét. “Mình không nói là bồ không bảnh, hay là gì gì, nhưng có điều...”
“Thế mới là chỗ cho mẹ tớ xông vào,” đôi mắt xám của Olivia long lanh phấn khích. “Mẹ tớ mê làm cái gì đó đại loại như thế này chết đi được. Vừa rồi mẹ tớ cũng mới vào một vai gớm ghiếc như thế đấy. Tụi mình sẽ có được coi một màn ngoạn mục. Tin tớ đi. Trông mẹ tớ sẽ cực kì rực rỡ. Đội ngũ nhân viên ở Vương Quốc sẽ lăng xăng xoắn xuýt để làm cho mẹ tớ hài lòng. Tớ sẽ lẻn vô trong khi họ còn đang cúi chào với lại quỳ gối.”
Một quãng im lặng trong khi cả bọn tiêu hoá kế hoạch của Olivia.
“Mình nghĩ ý này tuyệt vời đấy,” Cuối cùng Emma nói.
Tất cả tán đồng.
“Chỉ có một điều,” Lysander nói, “em sẽ để cái gương ở đâu khi mà, à nếu mà em lấy được nó?”
“Nhà em,” Olivia đáp gọn lỏn. “Charlie có thể gặp em ở đó.”
“Tớ nghĩ bọn mình cũng sẽ tới đó luôn,” Lysander nhìn Tancred và Garbiel.
“Tất nhiên,” Tancred nhất trí.
Garbiel gật đầu sốt sắng.
Nguyên đám đứng lên, duỗi cánh tay và ngo ngoe những cẳng chân bị chuột rút vì ngồi lâu. Nhưng Lysander không để cho cả bọn đi về mà chưa lập kế hoạch phân công bảo vệ Charlie. Mỗi phút của mọi giờ nghỉ giải lao đều phải được tính đến. Fidelio sẽ được thông báo về nhiệm vụ của mình trong kế hoạch, ngay khi tụi nó tìm gặp riêng được cậu chàng.
Charlie hơi ngại ngùng trước toàn bộ sự sắp xếp này. Thật xấu hổ khi nghĩ mình không thể tự bảo trọng được cái thân mình. Song, cũng dễ chịu lắm khi biết mỗi bước chân ra ngoài nó sẽ không phải chỉ có một mình.
Kế hoạch của Olivia đầy ắp những nguy hiểm. Có rất nhiều kẽ hở khiến vụ việc có thể chệch choạc, nhưng mà, kỳ nghỉ cuối tuần đã cận kề, tinh thần Charlie đang phấn chấn hơn bao giờ hết. Vụ việc phải thành công. Không thể nghĩ tới thất bại.
Chẳng đứa nào phải biết tính sao với Billy. Thằng nhỏ không muốn ở thêm một cuối tuần nữa trong Học viện Bloor, nhưng nhà của Charlie không phải là nơi tá túc dễ chịu, với một bà ngoại bị đông cứng trong bồn tắm và một bà mẹ bị bùa mê khuất phục. Ngoài ra, không ai nghĩ được tài phép của Billy có thể giúp ích gì cho chiến dịch quá bất trắc này. Thằng bé chỉ tổ vướng chân vướng cẳng mà thôi.
“Billy có thể ở nhà mình,” Emma đề nghị. “Mình không nghĩ mình hữu ích gì nhiều trong vụ này.”
Billy rất háo hức với viến cảnh nghỉ cuối tuần tại tiệm sách cô Ingledew. Không có chó cãi nhau với Rembrandt, chỉ có con vịt hiền lành để trò chuyện. Và dì của Emma lại là một đầu bếp xuất sắc.
Vào lúc mười một giờ ba mươi sáng thứ Bảy, cô Amy Bone ra khỏi căn phòng tầng trên cùng của mình. Charlie chắc hẳn sẽ không thể nào nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của mẹ nếu không cố ý chờ nghe. Khi cô tới chân dãy cầu thang đầu tiên, Charlie bước ra ngoài chiếu nghỉ.
Diện mạo của cô Amy khiến Charlie không thốt được lời nào. Mẹ nó diện áo khoác lông thú hào nhoáng và tóc mượt như lụa vàng. Hai hạt ngọc trai lớn treo tòn teng hai bên tai, còn móng tay thì sơn màu xanh lá cây chói lọi. Tim Charlie hụt mất một nhịp khi nó thấy chiếc nhẫn cưới của mẹ không còn nữa. Mà thay vào vị trí đó là chiếc nhẫn ngọc lục bảo to tướng, sáng chói lói trên ngón tay mẹ.
“Mẹ đi đâu vậy?” Nó nghẹn ngào hỏi.
“Đi chơi.” Cô đi xuống trong dãy cầu thang thứ hai trong đôi giày gót cao chót vót khiến dáng cô nhấp nhô như làn sóng.
Charlie đi theo mẹ, nhưng mẹ nó rời nhà mà không ngoảnh lại lần nào. Charlie chạy bổ vào nhà bếp và ngó trân trối ra cửa sổ khi chiếc limousine vàng choá đỗ xịch bên lề đường. Mất một lúc Charlie mất hết tinh thần đến tê liệt, nhưng rồi, sực nhớ đây là giây phút mình đang trông đợi, nó nhào vô hành lang và gọi điện thoại cho Olivia.
“Alô!” Giọng hớn hở từ phía đầu giây bên kia vang lên.
“Mẹ mình đi rồi,” Charlie thông báo. “Mẹ mình đi với...” Nó ngừng sựng, miệng vẫn còn há ra, nội Bone từ phòng khách xộc vào. “Con không biết nội ở nhà, nội!”
“Không biết hả? Mày đang gọi cho ai đó?”
“Alô! Alô!” Giọng của Olivia nổ lục bục ra khỏi ống nghe. Tất cả những tiết học kịch đã luyện cho con nhỏ một giọng nói rất rành rọt, réo rắt. “Cô ấy đi với ai, tay bá...”
Charlie bịt tay vào ống nghe. “Là bạn con, Olivia ấy mà,” Nó bảo với nội Bone. “Con đang định rủ bạn ấy đi ăn trưa, bởi vì mẹ đi ra ngoài rồi, và con không nghĩ là còn nhiều đồ ăn ở nhà.”
“Mày nghĩ đúng đấy,” bà nội nó nói. “Đi đi, đi mà rủ nó.”
Charlie dí ống nghe sát vào miệng, “Ừm, thì mình đã nói đấy, mẹ mình đi rồi... trên một chiếc xe lộng lẫy.” Nó cười toác hoác với nội Bone, “Vậy thì mình đến ăn trưa nhé? Bà nội mình, bà đang đứng đây này, bảo thế cũng được.”
“Tất nhiên,” Olivia nói bằng giọng khoái chí được kìm lại. “Mẹ mình với mình đã sẵn sàng rồi. Hẹn gặp lại, Charlie.”
Ông cậu Paton đã được thông báo về kế hoạch này, và mặc dù rất lo sợ tụi nhỏ gặp nguy hiểm nếu có gì trục trặc, nhưng ông cũng thừa nhận là kế hoạch đó rất đáng thử, bằng không thì Charlie sẽ mất luôn cả mẹ.
Charlie giật chiếc áo khoác ra khỏi phòng mình và thò đầu qua cửa phòng Ông cậu Paton. “Mẹ con đi rồi, đi với kẻ-mà-ai-cũng-biết đấy, vậy là tất cả hệ thống đã khởi động,” nó báo cho Ông cậu.
Ông cậu Paton ngước mắt khỏi bàn viết. “Chúc may mắn!” Ông bảo. “Ta sẽ đợi.”
Cô Vertigo quyết định mặc áo khoác da màu đỏ bó sát người và đi bốt đen cao gót. Thêm chiếc mũ bê-rê nhung đỏ và túi xách to vàng óng ánh nữa cho hoàn tất lệ bộ. Trông cô đến là choáng. Tuy nhiên, Olivia không muốn nổi đình đám như mẹ. Hôm nay nó đóng vai một tiểu thư rụt rè, bẽn lẽn. Với quần jeans tuềnh toàng, áo khoác vải len thô kiểu lính thuỷ, và mái tóc đã trở về màu nâu nhạt tự nhiên, trông con nhỏ đúng là hiện thân của sự ngây thơ.
“Con có mang theo điện thoại di động của con chưa?” Cô Vertigo hỏi con gái khi họ đến Vương Quốc.
“Trong túi quần con đây rồi,” Olivia đáp.
“Phải hứa gọi cho mẹ khi con gặp rắc rối đấy nhé.”
“Đương nhiên.”
“Hào hứng quá đi mất,” mẹ của Olivia nở với hai gã gác cửa một nụ cười rạng rỡ và họ lập tức nhảy xồ tới mở cửa ra rộng hết cỡ.
Olivia và cô Vertigo bước vào cửa hàng hơi âm u dịu dàng, toả hương thơm ngọt ngào, và đông đến không ngờ.
“Bán giảm giá!” Cô Vertigo reo mừng. “Ôi, Liv, thú vị quá! Chúng ta hãy bắt đầu với khăn quàng cổ chứ nhỉ?”
Olivia theo mẹ sàng tới quầy trưng bày khăn quàng cổ muôn màu sặc sỡ. Cô Vertigo liền thưởng thức thú vui của mình. Cô đã có sẵn bốn cây son bóng từ màu hồng nhạt cho đến đỏ tươi. “Tôi muốn lựa một chiếc khăn tiệp màu với từng cây son này,” cô bảo với người bán hàng. “Chúng phải bằng lụa thiên nhiên, không quá vuông mà không quá dài, và hy vọng, giảm giá chỉ còn nửa giá,” cô chớp chớp hàng mi giả của mình.
Trong lúc một nhóm nhân viên cửa hàng ăn mặc lịch duyệt vây quanh mẹ Olivia, nôn nả, ríu rít mời chào, Olivia lỉnh đi khỏi. Lách len qua đám đông đang săn hang đang trả giá, con nhỏ chạy tới thang máy và nhảy vào, vừa lúc cửa đóng sập lại. Một cặp vợ chồng già mỉm cười với nó đầu kia thang máy. Cả hai đều mặc áo khoác ca rô màu nâu và đội mũ phớt vải nỉ mềm.
“Đôi?” người đàn ông hỏi lớ ngớ giọng nước ngoài.
“Đôi?” Olivia không hiểu.
“Ông ấy hỏi cháu lên tầng hai à,” người phụ nữ già giải thích, thúc vào người ông chồng “Ông ấy hay nói sai lắm. Tiếng Anh của bà khá hơn.”
“Cảm ơn ông bà, không ạ. Không phải tầng hai,” Olivia trả lời.
Người đàn ông lại hỏi. “Ba. bốn?” Ngón tay ông rà rà trên bảng bấm số.
“Đồ chơi,” Olivia đáp
“À, đồ chơi,” người đàn ông thở dài. “Ước gì ta biết nó ở tầng mấy.”
“Nhanh lên, Herman. Chúng tôi đi đây, bái bai.”
Cửa thang máy mở và họ lụm cụm bước ra ngoài, người phụ nữ vẫy tay nhẹ và ông Herman vẫn khổ sở lẩm bẩm về đồ chơi.
Cuối cùng được ở lại một mình, Olivia nhấn một nút không đề số và thang máy vút lên tầng trên cùng của toà nhà. Khi cửa mở, Olivia hé nhìn ra. Cách đó vài mét có một gã đàn ông phương phi đang ngồi đọc báo, bàn chân gã dường như chìm hẳn vào một biển lông màu đen trải khắp, đến tận cùng dãy hành lang dài. Bên cạnh gã đàn ông đó là cánh cửa kính trắng có gắn chữ “Noble” bằng đồng.
Olivia nghĩ nhanh. Cửa thang máy đang bắt đầu đóng. Nó lại nhấn nút lần nữa. Khi cửa thang máy mở ra lại, bỗng nghe có tiếng chiêm chiếp lớn. Gã đàn ông càu nhàu, đặt tờ báo xuống và lao vội tới cuối hành lang, nơi đó một con chim vỗ cánh phành phạch quanh hệ thống đèn chiếu sang.
Olivia vội chạy ra khỏi thang máy, hướng tới cánh cửa đề chữ “Noble”. Cửa không khoá. Olivia lẻn vào trong và nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại sau lưng.
Thảm lông màu trắng ngập tới mắt cá chân, Olivia ngó quanh căn hộ quái dị. “Không có thời gian để dòm ngó, Liv,” nó tự nhủ, trong khi nhìn lướt qua chiếc ngế sofa bằng da ngựa lùn, mấy cái bàn bằng ngà voi và những con chim nhồi bông trông đến phát kinh.
Có hai cánh cửa dẫn ra khỏi phòng khách rải lông. Olivia thử đẩy cánh cửa gần nhất. Cánh cửa mở vào một tủ quần áo rộng thênh thang, có thể đi hẳn vào được. Bộ nào không bằng lông thú thì cũng màu xanh lá cây. Một tấm gương dài treo trên tường. Nhưng không có dấu hiệu gì của chiếc gương nhỏ cổ xưa. Olivia lùi trở ra.
Cánh cửa thứ hai dẫn vào một căn phòng hứa hẹn hơn nhiều. Một cái giường bốn cọc khổng lồ lù lù ngay giữa phòng, phủ kín những tấm tranh thêu trông có đến hàng trăm tuổi.
Làm thế quái nào mà chúng lên được tới đây? Olivia thắc mắc. Cái giường khổng lồ trông như ảo ảnh, một thưa mà chính Olivia cũng có thể làm ra. Ngay lập tức, nó đã có câu trả lời. Cái giường đúng là do phù phép mà thành. Cả cái tủ com-mốt đen thùi dựa vào tường cũng vậy. Chúng không phải là ảo ảnh mà là những vật dụng cổ xưa được mang tới đây bằng ma thuật.
Một cái ghế ghỗ to dềnh dàng dựng ở góc phòng. Trông nó xưa xửa xừa xưa với lưng ghế cao cong gồ lên và hai tay ghế dày bị mối ăn. Olivia đã từng thấy một chiếc ghế như vậy trong viện bảo tàng địa phương.
Lão bá tước cất cái gương ở đâu? Có lẽ hắn không bao giờ để xa khỏi tầm mắt của hắn. Bàn thì trống lốc, còn ghế thì thậm chí không có lấy một miếng lót đệm bên trên. Olivia tiến đến cái giường. Không có gì ở dưới gối hay ở giữa những tấm trải trắng toát, hồ bột cứng. Nó đi đến tủ com-mốt. Bắt đầu từ ngăn kéo trên cùng, nó mở ra, rồi mở tiếp từng cái một.
Rỗng không, rỗng không, rỗng không. Trái tim Olivia chìm lỉm. Nó phải quỳ gối xuống sàn nhà để lôi cái ngăn kéo cuối cùng ra. Cái này rít kin kít và run lên bần bật khi Olivia giật tay nắm, nhưng nó chỉ hé ra được có vài phân. Olivia đút hẳn cả cánh tay vào và khua khoắng lục lọi. Ngón tay nó chạm vào cái gì đó láng láng, dẹp dẹp, ở tuốt trong cùng. Từ từ, Olivia khều vật đó ra trước và lôi khỏi ngăn kéo.
Đáng lẽ ra chẳng có gì ngạc nhiên khi mà món đồ ta hy vọng tìm hóa ra lại nằm ở chỗ mà ta ít mong chờ nhất. Tuy nhiên Olivia sững sờ với khám phá của mình đến mức nó phải ngồi bệt xuống trên hai gót chân và hít thở thật sâu vài hơi liền mới hồi tỉnh để ngắm nghía cái vật đang nằm trên đùi mình.
Đó là một cái gương – rất cổ xưa, xét theo diện mạo của nó. Vòng tròn thủy tinh, nếu ta gọi đó là thuỷ tinh, được khéo léo gắn vào một khung vàng tinh tế. Những hoa văn kỹ xảo được khắc vào vàng: Hình những chiếc lá, những chú chim và hình những sinh vật nhỏ xíu có mắt cẩn đá quý đang nhảy múa. Cán gương hình ô-van dài bằng bạc và vàng xoắn vào nhau, và khi Olivia cầm cái cán, nó cảm thấy một luồng hơi ấm toả khắp người. Từ từ, nó đưa gương lên mặt soi. Không có hình phản chiếu. Mình là ma cà rồng chăng? Olivia chột dạ, nheo mắt vào khoảnh thủy tinh. Mình đang ở đâu đây? Một màn sương mỏng cuồn cuộn trên bề mặt thuỷ tinh, nhưng dù cố căng mắt, Olivia vẫn không thể thấy gì đằng sau màn sương. Sực nhớ ra sự nguy hiểm của phi vụ, con nhỏ lật đật đóng ngăn kéo lại và nhét tấm gương vào trong túi chiếc áo khoác len thô của mình. Lúc vào nó đã quên không làm cho con chim ảo của mình biến đi, và tự hỏi liệu tên lính gác đã phát hiện ra đó chỉ là ảo ảnh hay chưa. Nó cần phải tạo ra thứ gì đó kịch tính hơn để đánh lạc hướng hắn lần thứ hai. Nhắm mắt lại, nó hình dung khói bốc lên từ tấm thảm len. Nó không quên dặm thêm mùi lông cháy khét lẹt, mà nó phải tưởng tượng ra bởi vì nó chưa ngửi thấy cái mùi đó bao giờ.
Đi nhón gót qua căn hộ, nó áp tai vào cánh cửa chính. Có tiếng chửi rủa đâu đằng xa và tiếng bước chân thình thịch vọng vào tai nó. Nín thở, Olivia mở cửa, lẻn ra và nhẹ nhàng đóng lại ngay. Khói giả đã tạo nên vố lừa. Ở đầu đằng kia hành lang, tên lính gác kinh hoàng đang nhảy bạch bạch cả hai chân trên tấm thảm cháy sém. Ngay khi mảng khói này biến mất thì một mảng khói khác lại xuất hiện.
Olivia chạy bay tới thang máy và nhấn nút. Thang máy đang bận. Nó lại nhấn nữa, nhấn nữa, nhấn nữa.Tên lính nghỉ lấy hơi trong cuộc chiến với tấm thảm. Hắn vò đầu và nhìn xuôi xuống hành lang. Olivia nép rúm vào cánh cửa thang máy. Một tiếng binh lớn, sắc gọn. cửa mở ra và nó lụm chụm chồm vào, hối hả vừa nhấn nút xuống tầng trệt vừa lảo đảo dựa lưng vào bức tường phía sau.
“Ê!” Tên lính gác gọi to.
Nhưng Olivia đang trên đường đi xuống, mừng rơn vì thang máy không dừng lại lần nào cho tới khi xuống tới tầng trệt. Làm ra vẻ tỉnh bơ hết sức, Olivia chạy ù ra chỗ mẹ nó. Mặc dù người đông nghìn nghịt nhưng Olivia chẳng khó khăn gì mà không xác định được cái áo khoác đỏ chói lọi của cô Vertigo. Lúc này cô đang bận rộn ở quầy bán đồ trang điểm. Khi Olivia tới nơi, nó thấy trên quầy sáp lủng củng những kem, phấn, bút chải mascara, chổi và chai lọ.
“Mẹ, chúng ta đi thôi,” Olivia giục.
Cô Vertigo quay qua và thấy gương mặt hớt hải của con gái. “Ờ, ờ,” cô nở với người bán hàng một nụ cười thiểu não. “Xin lỗi, chúng không phải là những thứ tôi muốn. Chả có món nào được cả. Cám ơn cô rất nhiều.”
Người bán hang trợn mắt nhìn đống bừa bộn trên quầy khi Olivia lôi mẹ nó đi khỏi.
“Việc có thành không?” Cô Vertigo hỏi.
Olivia gật đầu.
Vừa ra đến ngoài đường, họ va thẳng vào cô Chrystal, cô này, thật không thể tin nổi, đang nắm tay Joshua Tilpin.
“Cô Chrystal đó à?” Cô Vertigo nói bằng giọng xởi lởi, phô trương quá sức. “Cuộc mua sắm này hay quá, cô nhỉ? Ố, ai đây?” Cô mỉm cười với Joshua.
“Một trong những học sinh của tôi,” cô Chrystal đáp nhẹ hều. “Tên cậu ta là Joshua. Nhà trường yêu cầu tôi đi mua cho nó một chiếc áo sơ-mi mới.”
“Một chiếc sơ-mi đắt tiền cho một thằng bé!” Cô Vertigo nhận xét, nháy mắt tới những cây cột cẩm thạch của Vương Quốc.
Cô Chrystal giả tảng ngó lơ lời nhận xét và hối hả lôi Joshua vào trong cửa hàng.
“Tội nghiệp thằng bé,” cô Vertigo xuýt xoa. “Trông nó lẻo khẻo thương tâm quá.”
“Mẹ đừng có tin như thế, mẹ,” Olivia cặp hẳn cánh tay mình vào cánh tay mẹ. “Làm ơn nhanh lên.”
Charlie đang đứng trên những bậc tam cấp nhà cô Verttgo khi Olivia và mẹ về đến nhà. Nó biết sứ mệnh đã thành công ngay khi vừa trông thấy gương mặt cười cười nhưng lo âu của Olivia.
“Hai mẹ con tớ đã đâm sầm vào Joshua va cô Chrystal,” Olivia bảo với Charlie khi tất cả đi vào tiền sảnh rộng thênh thang nhà Vertigo. “Chắc chắn họ sẽ nghi ngờ và tớ nghĩ tên lính gác đã trông thấy tớ.”
“Hãy cứ hy vọng là không nhìn thấy hắn đi.” Charlie nói. “Cho mình xem cái gương được không, Liv?”
“Đúng đấy, chúng ta cùng xem nào. Cô không chờ nổi nữa rồi,” Cô Vertigo quăng áo khoác lên mắc và đẩy bọn trẻ vào phòng khách.
Olivia rút cái gương ra thì bỗng có tiếng nổ lớn ở trước cửa. Ngay lập tức có hai hình hài xuất hiện bên ngoài cửa sổ kiểu Pháp.
Cô Vertigo thét lên.
“Không sao đâu mẹ,” Olivia nói. “Đó là Tancred và Lysander. Các anh ấy đến để trợ giúp đấy.”
“Và chúng ta sẽ cần các anh ấy,” Charlie nói khi một tiếng nổ nữa rung chuyển cả ngôi nhà. “Xem ra bồ có đuôi bám rồi, Liv.”
Danh sách chương