Thanh Gươm Bất Khả Chiến Bại
“Bồ có chắc đó là Eric không?”
“Chắc.” Emma thì thầm trả lời câu hỏi của Olivia, giọng khàn đặc. Nó đang nằm trên giường, mắt nhắm lại, cố ngủ, nhưng thừa biết mình sẽ không tài nào ngủ được. Hình ảnh người đàn ông bằng đá, thằng bé phát sáng và thanh gươm sắc cứ chạy loạn xạ trong đầu nó. Nhắm mắt lại để xua chúng đi càng vô ích.
“Cái thần sầu quỷ cái gì đang diễn ra trên đường Piminy vậy ta?” Olivia nói, mà theo quan điểm của Emma thì hơi quá lớn.
“Bồ nghe dì mình nói rồi đấy. Thậm chí cả trận đại hỏa hoạn cũng không phá hủy được những ngôi nhà cổ ở đó kia mà, vì nơi đó có rất nhiều thầy pháp sinh sống.” Emma ngáp. Nó mệt bã người.
“Ừ, nhưng tại sao tất cả những điều ấy lại bắt đầu rục rịch vào lúc này?”
Emma ước ao Olivia cho mình một chút yên tĩnh. Nó không muốn nghĩ về những gì nó vừa thấy. “Có lẽ nó luôn luôn diễn ra như thế nhưng không ai để ý.”
Một tiếng “Hừm!” rõ to vọng từ đầu kia phòng. “Mình không nghĩ thế, Em. Có chuyện gì đã xảy ra. Chuyện đó chắc chắn liên quan tới Charlie.”
“Tại sao là Charlie?”
“Bởi vì ba nó vừa trở về sau mười năm. Điều đó rất có khả năng đánh động đến ai đó, đúng không?”
“Sao vậy?” Emma lè nhè buồn ngủ.
“Tớ không biết rõ,” Olivia thú nhận. “Chỉ linh cảm thôi.”
Cả hai đứa cùng im lặng suy tư một lúc, sau đó, một cách thần kỳ, nó ngủ thiếp đi.
Sáng Chủ Nhật, khi Emma và Olivia xuống ăn sáng, chúng thấy cô Ingledew trong bộ áo choàng ngủ bằng nhung đang vui vẻ đón ông Paton Yewbeam. Chắc hẳn ông đã tới khi trời còn tối. Họ đang uống cà phê đen, và rõ ràng đang nói dở một câu chuyện khá nghiêm trọng.
Hình như cô Ingledew đỏ mặt. Cô đứng bật dậy và đi dọn bữa điểm tâm. Ông cậu Paton cất giọng xa xăm “Chào các cô gái” trong khi nhìn cô Ingledew lướt băng qua phòng.
Olivia hích Emma. “Bồ có định kể chuyện đêm qua không?”
“Đêm qua làm sao?” cô Ingledew đặt kịch một lúc bốn tô cốm bắp lên bàn. “Đêm qua có gì xảy ra vậy?”
Emma ngồi xuống và kể lại chuyện người đàn ông bằng đá, thằng bé phát sáng và thanh gươm sắc.
Hai người lớn trầm ngâm thật lâu để suy gẫm cái tin này. Họ uống sạch cà phê, xong rồi Ông cậu Paton bảo, “Con kể lại lần nữa được không, Emma?”
Emma kể lần nữa.
“Tất cả những chuyện đó có nghĩa là gì vậy, ông Yewbeam?” Olivia hỏi. Nó nghĩ ông Paton Yewbeam biết hầu như tất cả mọi thứ trên đời.
“Có nghĩa là gì ư?” Ông cậu Paton xoa cằm. “Ta không biết, Olivia.”
Olivia không nản chí. “Con cá là ông biết, con bảo đảm ông có biết hơi hướng gì đó về những việc đang diễn ra.”
Ông cậu Paton mỉm cười. “Được rồi. Ta thừa nhận là mình có một ý nhỏ thôi. Thế này. Cha của Charlie…”
“Con biết ngay là dính líu đến Charlie mà,” Olivia hét toáng lên. “Con biết…”
“Làm ơn! Để ông Yewbeam nói,” Emma nhắc.
Olivia ngồi phịch xuống.
“Cám ơn nhé.” Ông cậu Paton nháy mắt với Emma. “Ta đã định nói, cha của Charlie tỉnh khỏi bùa mê, khỏi lời nguyền hay gì gì đó, sau mười năm. Điều đó sẽ khiến cho rất nhiều người nổi tam bành, đặc biệt những người đã kìm giữ chú ấy trong bùa mê thuốc lú. Rất có lý do cho tội ác bọn họ đã gây ra. Chúng ta vốn luôn chắc mẩm đó là do sự trả thù của lão Ezekiel Bloor cho tai nạn khiến lão phải ngồi xe lăn suốt đời. Nhưng do Charlie đã kể cho ta nghe chuyện gia đình Pike sục sạo ngôi nhà cũ của nó để tìm một cái hộp, thì ta tin chắc rằng Lyell Bone bị trừng phạt bởi chú ấy đã biết gì đó, một điều mà trước sau chú ấy nhất định không từ bỏ: cái vật chứa bên trong chiếc hộp.”
“Nhưng tại sao điều đó lại khiến cho nhiều sự việc quái gở xảy ra ở trường Piminy?” Olivia hỏi.
“Có nhiều việc nổi lên, Olivia à, là bởi vì Lyell đã tỉnh lại, như ta đã nói đó. Đường Piminy một thời tập trung toàn thầy pháp. Con có hỏi ta kẻ nào đã đánh thức họ dậy hay là không?”
“D-ạ c-ó.” Olivia đổ cốm bắp vào tô của nó thành một dòng chảy chậm rãi, đầy ưu tư.
“Bọn chúng buộc thằng bé tên là Eric phục dịch cho chúng,” cô Inglegew nói, vừa đẩy bánh mì vô lò nướng. “Bà cô của Charlie, bà Venetia, cưới ông Shellhorn để chạm tay vô thằng cu bé tẹo này.”
“Nhất định cô sẽ điều tra,” Emma tuyên bố. “Con muốn biết tại sao người thợ rèn lại rèn thanh gươm.”
“Cho ngài hiệp sĩ,” Ông cậu Paton bảo nó. “Hiệp Sĩ Đỏ trên cầu.”
“Ông có nghĩ đó là Vua Đỏ không, ông Yewbeam?” Emma hỏi.
“Thật tình ta không thể nói chắc.”
“Con vẫn muốn gặp người thợ rèn.” Emma rất cương quyết. “Bà ấy là người duy nhất trên con đường đó trông có vẻ tốt bụng.”
“Bồ không thể đi mà không có tớ,” Olivia nói.
Cô Inglegew muốn Ông cậu Paton đi với chúng. “Em không thích nghĩ đến việc chúng một thân một mình trên đường Piminy,” cô bảo.
Ông cậu Paton hường nhìn buồn bã ra cửa sổ. “Giờ này quá trễ cho ta rồi. Mặt trời đã lên cao. Vả lại, cho dù người rèn thanh gươm là ai, có lẽ bà ấy chỉ nói chuyện với các cô bé khi chúng đi một mình, hơn là khi đi cùng một gã kỳ quái như ta.”
Cô Inglegew lắc đầu với Ông cậu Paton và bảo cô sẽ tới tận tiệm Ấm Đun nếu bọn trẻ không quay về trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Emma và Olivia vội lùa hết bữa sáng, tất cả thay đồ và rời tiệm sách. Chúng nóng lòng muốn biết về người rèn thanh gươm bí ẩn đến nỗi quên cả chải đầu. Một việc hầu như chưa từng nghe nói về Olivia.
Đường Piminy thinh lặng và hoang vắng. Hai đứa con gái nhắm tiệm Ấm Đun thẳng tiến. Đi chưa được bao xa thì chúng chợt nghe tiếng bước chân đằng sau. Một tiếng nạt lớn. “ Tụi bay làm gì ở đây?”
“Tao chẳng thấy việc gì mắc mớ tới mày,” Olivia nóng nảy.
“Có thể, nhưng tao vẫn muốn biết.” Đôi mắt xanh biển của Dagbert chớp từ Olivia qua Emma. “Hả?”
“Thật ra thì chúng tôi đi mua ấm,” Emma nói, cố ra vẻ tỉnh rụi.
Dagbert nhìn con nhỏ ra chiều thương hại. “Vào ngày Chủ Nhật? Tất cả tiệm đều đóng cửa. Tụi bay phải làm gì hay hơn thế cơ.”
“Tụi này chẳng làm gì hay ho cả,” Olivia quát.
Dagbert trợn mắt nhìn Olivia. “Có muốn đổi ý trước khi việc khó chịu xảy ra không?”
Miệng Olivia mím chặt lại như đường chỉ, căm phẫn.
“Được thôi.” Dagbert nhìn sượt qua chúng tới một nắp cống dưới lòng đường. Vẻ mỉa mai của nó biến thành đanh sắc ớn lạnh. Thình lình, nước bắt đầu kêu ộc ộc bên dưới nắm cống. Nó bật mở tung lên một tiếng cắc, đồng thời nước phun vọt lên thành một vòi nước đen quánh bùn. Bọn con gái bị vây kín trong đó. Thét rầm rĩ, chúng chạy qua nắm cống về hướng tiệm Ấm Đun. Nhưng dòng nước truy đuổi chúng rát rạt, bẻ ngoặt khỏi lộ trình tự nhiên của nó, quét vòng quanh mắt cá chúng lằng ngoằng như rắn. Sức ép mạnh đến độ chúng chúi nhủi xuống đất, không thể ghìm nổi.
Emma là đứa té sấp mặt xuống trước; Olivia chộp giữ cánh tay Emma lại cũng ngã sập theo sau. Trong khi bò lê bò càng về phía tiệm Ấm Đun, lần đầu tiên chúng nghe thấy tiếng cười ghê rợn của Dagbert. Tiếng cười nổ phọt ra nghe thành tràng khặc khặc, sủi bọt.
Olivia bíu cánh cửa tiệm cố đứng lên, bắt đầu dộng ầm ầm vô cửa, bất chấp đang trong cơn hoảng loạn nó nhận ra cái gõ cửa là một chiếc ấm tí hon bằng đồng.
“Cứu tôi với!” Olivia thét. “Có ai làm ơn cứu chúng tôi với!”
Emma đứng bên cạnh nó hùa thêm. “Chúng tôi sắp chết đuối rồi!”
Cánh cửa bất thần mở ra, cả hai đứa con gái nhủi đầu vô trong tiệm, mỗi đứa bắn vèo qua một bên hông của người phụ nữ cao lớn đứng sựng nơi ngưỡng cửa.
Bà Kettle trừng mắt nhìn Dagbert qua dòng nước bùn. “DẸP TRÒ KHỈ NÀY ĐI!”
Dagbert phát ra một âm thanh rột-rột, sâu hút trong họng, tựa như nó đang nốc ực cả một xô nước.
“Ta đã nghi chuyện này rồi mà,” bà Kettle lừ mắt nhìn cháy sém dòng nước uốn éo. “Hừ, hãy giữ nước của mày lại đi, thằng bé người cá kia!”
Dagbert sôi tiết nhìn dòng nước khô đi cấp tập. Hếch cằm lên, nó hùng hổ bước vượt qua tiệm Ấm Đun mà không thèm liếc nhìn bà chủ tiệm.
Bà Kettle đóng sầm cửa lại và nói với tụi con gái. “Nào, nào, mấy cưng vừa mới lâm vào hoàn cảnh tréo ngoe nhỉ, các cô bé?”
“Vâng ạ, hoàn cảnh tréo ngoe thật,” Olivia nói. “Cảm ơn bà cứu tụi cháu. Cháu là Olivia Vertigo và đây là bạn cháu, Emma Tolly.”
“Rất vui gặp mấy cưng, bà là Katya Kettle.” Bà nhìn sát Emma. “Bà đã gặp cưng rồi thì phải?”
“Dạ. Có lẽ vậy,” Emma bối rối.
“Hừm. Cả hai vô đây. Để bà lấy đồ khô cho mấy cưng thay nhé. Mấy cưng ướt đến tận da rồi kìa.” Bà Kettle đi qua ô cửa vòm, vô căn phòng ấm cúng ở đằng sau tiệm. “Cởi đồ ra,” bà thân tình đẩy hai đứa tới bên lò sưởi. “Bà đi tích tắc thôi.” Bà biến mất sau cánh cửa kim loại dày cẩn đầy đinh ốc.
Emma và Olivia cởi vớ, giày, quần jeans và áo khoác ra. Hên là chầu tắm chớp nhoáng vừa rồi chưa thấm ướt chiếc áo hồng pha bạc của Olivia hay chiếc áo len xanh da trời của Emma.
Khi bà Kettle hiện ra trở lại, bà mang theo hai bộ áo liền quần to tổ bố và hai đôi vớ len dày. “Có thể không vừa đâu,” bà cảnh báo. “Cứ xắn chỗ nào quá dài lên là được.”
Cười ngượng nghịu, Emma mặc đồ và đi vớ vào. Olivia lần chần, ướm thử bộ đồ thùng thình vô người và ngẫm nghĩ cách làm thế nào để cải thiện tình hình chút nào hay chút đó. “Bà có trâm cài hay gì không?” nó hỏi bà Kettle.
Người phụ nữ phá lên cười rổn rảng. “Đừng rườm rà cái thứ đó làm gì! Cứ giả bộ cưng là nàng công chúa cải trang đi.” Bà treo đám đồ ướt của bọn chúng lên một cái giá gỗ phía trên bếp lò.
Olivia nhăn nhó chui vô cái áo liền quần, xắn ống tay lên cho tới khi lòi ống tay áo hồng và bạc của nó ra.
“Bà thấy cưng có dáng dấp của một nữ hoàng thời trang đấy,” bà Kettle cười khúc khích. “Một tách trà nhé, các cô bé?”
Trước khi chúng đáp thì có một tiếng gõ khẩn cấp ngoài cửa.
“Bà hy vọng không phải cái thằng cá tép kỳ cục đó nữa,” bà Kettle nói rồi sải bước trở ra tiệm.
“Ồ, ồ, ra là cưng,” chúng nghe tiếng bà vọng vào. “Gì thế, chàng trai?”
Có tiếng lùng bùng đáp lại và một phút sau Charlie Bone bước vô phòng.
“Ối quỷ thần!” Charlie chớp mắt nhìn hai đứa con gái, không tin nổi. “Quần áo bồ sao vậy, Liv. Đó là một mới nhất à?”
“Tớ nghĩ nó hợp với tớ,” Olivia kiêu kì nói.
Emma phá ra cười bò, Charlie cười theo, rồi Olivia cũng cười khúc khích. Bà Kettle cười to nhất. Bà đi qua cánh cửa kim loại để lấy trà trong khi vẫn còn cười phì phì.
Chỉ khi đó Emma mới nhận thấy Charlie đang cầm cái ấm cũ đen sì. “Bồ mang nó đi trả à?” con nhỏ hỏi.
“Ừ.” Charlie đặt cái ấm xuống sàn. “Tớ muốn lời khuyên của bà Kettle.”
“Nó để làm gì vậy?” Olivia hỏi.
“Bà Kettle đã đưa nó cho tớ.” Charlie giải thích nước trong ấm nóng lên thế nào khi sắp sửa có nguy biến. “Đêm qua nó nóng quá trời, gần như sôi luôn vậy đó.”
“Đêm qua à?” Emma nói một cách tư lự.
“Sao cả hai bồ ăn mặc như thợ ống nước vậy?” Charlie hỏi chúng. “Có ống nước bể ở gần đây à?”
“Bồ nói thế cũng đúng đấy.” Olivia kể cho Charlie nghe vụ Dagbert sủi nước lên.
Charlie nhăn mặt, lặng lẽ nói. “Mình đã cầu cho nó đừng dùng tài phép của nó kiểu đó. Nhưng mình không đoán được ý đồ của nó.”
Bà Kettle mang một khay trà tới và khi chúng kéo ghế của chúng lại sát bàn, bà hỏi, “Nào, cái gì mang mấy cưng tới đây, hả các cô bé? Bà biết mấy cưng không chỉ chạy trốn thằng người cá mà tình cờ bắn vô đây. Mấy cưng đến gặp bà phải không?”
Olivia nhìn Emma, và Emma đáp. “Dạ.”
“Thế, có chuyện gì?” bà Kettle rót trà ra đầy bốn cái ca và chuyền quanh, trong khi Emma lóng ngóng, vuốt mũi, hắng cổ họng.
“Ừm… những bộ đồ này là của bà phải không, bà Kettle?” Emma hỏi.
“Dĩ nhiên. Không còn ai khác sống ở đây.”
“Ồ.” Emma nhìn tịt cái ca. “Không một ai ạ?”
“Không một ai,” bà Kettle đáp.
“Ờm,” Emma nhìn quanh căn phòng, lựa lời nói. Xem ra rất lỗ mãng, khi hỏi một người chất phác như bà Kettle rằng bà có phải là thợ rèn không.
Olivia thì không băn khoăn như thế. Mất kiên nhẫn, nó hỏi huỵch toẹt. “Bà có phải là thợ rèn không, bà Kettle?”
“Đúng vậy,” bà Kettle điềm nhiên nói. “Có phải cưng là một con chim không, Emma?”
Emma đỏ mặt. “Dạ. Đúng. Đôi khi.”
“Thì ra cưng đã đậu trên bậu cửa sổ nhà bà, xem bà làm việc đêm qua?”
“Cháu không rình rập,” Emma nói nhanh. “Cháu chỉ… thám hiểm.”
“Dĩ nhiên rồi, cưng. Đừng lo. Xem thợ rèn làm việc chẳng có gì hại cả.”
“Tụi cháu đến đây,” Olivia buột miệng, “để tìm hiều về thanh gươm bà đã rèn.”
“Thanh gươm?” Charlie trố mắt nhìn bà Kettle.
“À, thanh gươm.” Bà bất chợt nghiêm sắc mặt. “Mất cưng không được hở ra lời nào về việc này với bất cứ ai mà mấy cưng không tin bằng cả mạng sống của mình, nghe chưa.” Bà nhìn xoáy từng đứa với vẻ vừa nghiêm khắc vừa dữ tợn.
“Vâng ạ,” Charlie sốt sắng.
Vẻ mặt bà Kettle dịu đi. “Bà được thừa hưởng chút ít tài năng từ tổ tiên mình, Feromel, tuy nhiên, bà rất ít khi dùng đến chúng. Nhờ thế mà bà không phải dùng đến phép thuật của mình, dù bà vẫn rèn công cụ lao động, yên cương, và thậm chí cả bàn ghế sắt. Xưa nay bà chưa bao giờ được yêu cầu rèn gươm – một thanh gươm độc nhất vô nhị, bất khả chiến bại – vì vậy, rất tự nhiên, bà vô cùng vui mừng vì lời đề nghị này.”
Charlie nôn nóng nhoài người về phía bà Kettle, hỏi, “Ai đã yêu cầu bà?”
Bà Kettle mỉm cười. “Một hiệp sĩ có bờm đỏ trên mũ giáp bạc của ngài.”
“Giống người tụi cháu đã thấy trên cầu quá,” Charlie nói.
Đồng thanh nói cùng lúc, hai đứa con gái hỏi bà Kettle, “Ngài ấy đã nói gì?” “Ngài ấy là ai?” “Ngài ấy đã đến lúc nào?”
Bà Kettle giơ một ngón tay lên. “Từ từ, từ từ. Bà không thể trả lời ba câu hỏi một lúc. Ngài đến đây cách đây vài đêm, rất khuya. Mặc áo giáp và đội mũ giáp sáng chói có cài lông chim đỏ thẫm, ngài ùa vô như một cơn gió đẫm ánh trăng. Mặt ngài che kính kín mít, và ngài không nói một lời nào.”
“Làm sao bà biết ngài muốn một thanh gươm?” Charlie chồm tới xa đến nỗi hất đổ một chén đường.
Bà Kettle lật cái chén lại và xúc đường trở vào.
“Cháu xin lỗi,” Charlie nói, “nhưng làm ơn, làm sao bà biết ngài muốn gì?”
Bà Kettle thọc sâu vô túi chiếc áo len của mình, lấy ra một mẩu giấy gấp nếp. Bà mở nó ra và đặt lên bàn. “Do đây này.”
Bọn trẻ trố mắt dòm một từ duy nhất trên tờ giấy:
“Caledfwich”
“Cháu không đọc ra được,” Charlie nói. “Nó không có nghĩa.”
“Với bà thì có. Cái từ đó nói với bà rằng hiệp sĩ này không phải là hiệp sĩ bình thường, lại càng không phải kẻ lừa gạt hay chơi khăm.”
“Nhưng nó có nghĩa là gì?” Charlie hỏi dồn.
“Cưng không biết thật à, Charlie Bone? Nó không hát lên trong đầu cưng sao?” Bà Kettle săm soi nhìn vào mặt nó.
Charlie nhìn con chữ trên tờ giấy. “Không. Cháu xin lỗi. Nó không có nghĩa gì cả, trừ phi… nó là tiếng xứ Wales?”
“Đúng. Thế là cưng biết hết rồi đó. Đúng nó là một từ xứ Wales. Đó là tên thanh gươm của vua Arthur, nhưng chỉ được nhắc đến trong những truyền thuyết cổ của xưa Wales. Đến nay nó vẫn là một mật mã, chỉ được sử dụng bởi những người đáng tin cậy.”
“Oa!” Olivia thở hắt ra. “Cháu cảm thấy mình vinh hạnh quá.”
“Không được hó hé với bất cứ ai.” Bà Kettle đặt một ngón tay lên môi.
Ba đứa trẻ sốt sắng lắc đầu, và Charlie láp nháp, “Chỉ nói với người mà cháu có thể tin cậy bằng cả mạng sống của mình.”
“Khi nào hiệp sĩ trở lại lấy thanh gươm ạ?” Emma hỏi, vừa nghĩ mình có thể thực hiện một chuyến bay đêm nữa.
“Không biết. Bà cứ đợi thôi. Cần phải rèn cán gươm nữa. Bà nghĩ bà sẽ dùng một chút vàng, và bạc.” Bà Kettle ngó đăm đăm qua đầu lũ trẻ. “Thậm chí bà sẽ dùng một, hay hai viên ngọc trai.”
Charlie sực nhớ ra tại sao mình đến đây. “Suýt nữa cháu quên mất.” Nó nhấc cái ấm của Feromel để lên bàn. “Cái này đã sôi nóng lên đêm qua.”
“Vậy ư?” Bà Kettle đặt tay lên cái ấm đen xì. “Giờ nó nguội rồi. Nhưng đêm qua là một thời khắc nguy hiểm. Cách đây vài căn nhà, những tượng đá bắt đầu chuyển động.”
Miêng Emma há hốc ra. “Bà biết việc đó à?”
“Bà luôn theo dõi thằng bé đó. Cả những kẻ đồng lõa đáng sợ của nó. Bà nghĩ cưng cũng đã trông thấy chúng trong khi bay rồi.”
“Cháu không thể tin vô mắt mình,” Emma nói. “Eric nhìn chằm chằm một cánh cửa và thế là người đàn ông đá bước ra. Thật kinh khủng.”
“Cháu đã nghi Eric,” Charlie lầm bầm.
Bà Kettle đứng lên và dọn những cái ca không vào khay. “Đến giờ đi làm. Quần áo mấy cưng khô rồi, các cô bé.”
Charlie quyết định ra về trước khi những bộ áo liền quần được cởi ra. Nó thỏa thuận hẹn gặp bọn con gái ở quán Cà Phê Thú Kiểng vào buổi chiều. Cầm cái ấm lên, nó cảm ơn bà Kettle trong khi rời tiệm.
Charlie vừa quay lại đường Filbert thì thấy Benjamin vừa hộc tốc chạy trên đường về phía nó vừa hỏi.
“Charlie! Charlie! Bồ có thấy Hạt Đậu đâu không?”
“Không.”
“Nó chạy mất tiêu rồi. Nó giật dây xích ra khỏi tay mình và chạy biệt tăm.” Mặt Benjamin nhúm nhíu lại lo lắng. Khi chạy tới bên Charlie, nó khom người xuống, thở như bò. “Mình đau xóc cả hông vì chạy.”
“Hạt Đậu đâu có hay đi kiểu vậy.”
“Không bao giờ, trước giờ đâu có thế. Nó có thể đi đâu, hả Charlie?”
Charlie cố nghĩ đến tất cả những nơi mà Hạt Đậu muốn tới mà không có Benjamin. Chỉ có một nơi bật ra khỏi đầu nó: “Chattypatra.”
Benjamin đứng thẳng phắt lên. “Chattypatra? Ý bồ nói là nó tới Ngách Tối?”
“Đó là nơi bạn gái của Hạt Đậu sống. Không phải nó khoái con chó nhỏ đó tít thò lò sao?”
“Ờ đúng,” Benjamin công nhận.
“Thế thì tụi mình đi mau.”
“Á không, không phải Ngách Tối,” Benjamin rên rỉ, “mình ghét nơi đó.”
“Mình cũng ghét. Nhưng nếu bồ muốn tìm Hạt Đậu thì mình nghĩ nó chỉ ở đó thôi.”
Trong khi chạy lúp xúp đến Ngách Tối, Charlie nhận ra mình vẫn còn câm cái ấm đen. Nó bắt đầu khiến cánh tay Charlie mỏi nhừ và Charlie ước gì mình để nó ở nhà. Charlie kể cho Benjamin nghe mình vừa gặp bọn con gái và chuyện Dagbert nhăm nhe muốn dìm chết chúng. Tuy nhiên nó không đả động đến thanh gươm. Mặc dù nó tin tưởng bạn, nhưng Benjamin không được ban phép thuật.
Nếp nhăn lo âu của Benjamin càng sâu hơn. “Dagbert cũng đã cố dìm chết tụi mình, đúng không.”
“Mình nghĩ vậy.”
Khi đến ngõ hẻm dẫn tới ba căn nhà số 13, hai đứa con trai bước chậm lại. Charlie không ngạc nhiên khi cảm thấy cái ấm đang nóng lên. Nhiệt độ ở Ngách Tối luôn thấp hơn những nơi khác vài độ, và sức nóng của cái ấm hóa ra lại có tác dụng trấn an.
Trước mặt chúng sừng sững dãy nhà cao với những ban công đen xỉn, những mái nhà nhọn hoắt và những con thú bằng đá viền quanh các cửa sổ dài.
“Mình không nghĩ Hạt Đậu ở đây,” Benjamin hạ thấp giọng, “Trừ khi họ bắt nó vô trong rồi.” Nó bất giác rùng mình.
Charlie thoáng thấy một chuyển động nơi khóe mắt. Đó là tấm rèm, hay ngôi nhà hơi chao nghiêng? Benjamin thở hốc lên, nói khản cả giọng, “Charlie, có gì chuyển động. Một trong những sinh vật đá ở cửa sổ đó.”
Chúng đứng đờ ra tại chỗ, sợ sệt nhìn ngôi nhà của bà cô Venetia. Đột nhiên cánh cửa bật mở và Miranda chạy ào xuống những bậc thang, mỗi tay xách một con chó, cả hai đều sủa như điên.
“Hạt Đậu!” Benjamin hét, lao về phía con chó to.
“Em thấy các anh tới,” Miranda nói. “Mờ… mờ… bà ta muốn nhốt con chó của anh trong hầm rượu. Nhưng em đã giữ nó an toàn cho anh. Mờ... bà ta không thích chó.”
Benjamin vòng tay ôm choàng lấy con chó bự, chú ta nồng nhiệt liếm chủ nhân của mình. Gương mặt của Benjamin bắt đầu bừng lên hạnh phúc.
Charlie nhận thấy mắt Miranda sưng bụp, có hai vệt đỏ chạy xuống hai bên má. “Em ỔN chứ, Miranda?” nó hỏi.
Miranda nhìn Charlie tuyệt vọng. “Không. Em nghĩ là không,” con bé thì thào. “Mờ… mờ…” Rõ ràng nó không thể nào phát âm được từ “mẹ”.
“Bà cô của anh thường hay làm gì em?” Charlie nói.
“Bà ta không thích em.” Miranda lấm lét nhìn ra sau một cái. “Bà ta chỉ quan tâm tới Eric thôi. Eric, nó… nó không còn là em trai của em nữa.”
“Sao vậy? Nó làm…?”
Hạt Đậu bất thình lình sủa toáng lên cảnh báo. Khi nó phóng lên những bậc thang, bức tượng thần lùn bên cánh cửa ngoác ra cười hiểm độc và bay bắn lên không trung.
“Coi chừng, Miranda!” Charlie hét. Nó cố đẩy con bé ra khỏi đường bay của thần lùn, nhưng không thể tin nổi, bức tượng đổi hướng trên không trung và nhắm ngay chóc Miranda, nhào trúng lưng con bé.
Con nhỏ gục xuống ngay chân Charlie rồi nằm xoài ra vỉa hè. Mặt nó trắng như tờ giấy.
“Bồ có chắc đó là Eric không?”
“Chắc.” Emma thì thầm trả lời câu hỏi của Olivia, giọng khàn đặc. Nó đang nằm trên giường, mắt nhắm lại, cố ngủ, nhưng thừa biết mình sẽ không tài nào ngủ được. Hình ảnh người đàn ông bằng đá, thằng bé phát sáng và thanh gươm sắc cứ chạy loạn xạ trong đầu nó. Nhắm mắt lại để xua chúng đi càng vô ích.
“Cái thần sầu quỷ cái gì đang diễn ra trên đường Piminy vậy ta?” Olivia nói, mà theo quan điểm của Emma thì hơi quá lớn.
“Bồ nghe dì mình nói rồi đấy. Thậm chí cả trận đại hỏa hoạn cũng không phá hủy được những ngôi nhà cổ ở đó kia mà, vì nơi đó có rất nhiều thầy pháp sinh sống.” Emma ngáp. Nó mệt bã người.
“Ừ, nhưng tại sao tất cả những điều ấy lại bắt đầu rục rịch vào lúc này?”
Emma ước ao Olivia cho mình một chút yên tĩnh. Nó không muốn nghĩ về những gì nó vừa thấy. “Có lẽ nó luôn luôn diễn ra như thế nhưng không ai để ý.”
Một tiếng “Hừm!” rõ to vọng từ đầu kia phòng. “Mình không nghĩ thế, Em. Có chuyện gì đã xảy ra. Chuyện đó chắc chắn liên quan tới Charlie.”
“Tại sao là Charlie?”
“Bởi vì ba nó vừa trở về sau mười năm. Điều đó rất có khả năng đánh động đến ai đó, đúng không?”
“Sao vậy?” Emma lè nhè buồn ngủ.
“Tớ không biết rõ,” Olivia thú nhận. “Chỉ linh cảm thôi.”
Cả hai đứa cùng im lặng suy tư một lúc, sau đó, một cách thần kỳ, nó ngủ thiếp đi.
Sáng Chủ Nhật, khi Emma và Olivia xuống ăn sáng, chúng thấy cô Ingledew trong bộ áo choàng ngủ bằng nhung đang vui vẻ đón ông Paton Yewbeam. Chắc hẳn ông đã tới khi trời còn tối. Họ đang uống cà phê đen, và rõ ràng đang nói dở một câu chuyện khá nghiêm trọng.
Hình như cô Ingledew đỏ mặt. Cô đứng bật dậy và đi dọn bữa điểm tâm. Ông cậu Paton cất giọng xa xăm “Chào các cô gái” trong khi nhìn cô Ingledew lướt băng qua phòng.
Olivia hích Emma. “Bồ có định kể chuyện đêm qua không?”
“Đêm qua làm sao?” cô Ingledew đặt kịch một lúc bốn tô cốm bắp lên bàn. “Đêm qua có gì xảy ra vậy?”
Emma ngồi xuống và kể lại chuyện người đàn ông bằng đá, thằng bé phát sáng và thanh gươm sắc.
Hai người lớn trầm ngâm thật lâu để suy gẫm cái tin này. Họ uống sạch cà phê, xong rồi Ông cậu Paton bảo, “Con kể lại lần nữa được không, Emma?”
Emma kể lần nữa.
“Tất cả những chuyện đó có nghĩa là gì vậy, ông Yewbeam?” Olivia hỏi. Nó nghĩ ông Paton Yewbeam biết hầu như tất cả mọi thứ trên đời.
“Có nghĩa là gì ư?” Ông cậu Paton xoa cằm. “Ta không biết, Olivia.”
Olivia không nản chí. “Con cá là ông biết, con bảo đảm ông có biết hơi hướng gì đó về những việc đang diễn ra.”
Ông cậu Paton mỉm cười. “Được rồi. Ta thừa nhận là mình có một ý nhỏ thôi. Thế này. Cha của Charlie…”
“Con biết ngay là dính líu đến Charlie mà,” Olivia hét toáng lên. “Con biết…”
“Làm ơn! Để ông Yewbeam nói,” Emma nhắc.
Olivia ngồi phịch xuống.
“Cám ơn nhé.” Ông cậu Paton nháy mắt với Emma. “Ta đã định nói, cha của Charlie tỉnh khỏi bùa mê, khỏi lời nguyền hay gì gì đó, sau mười năm. Điều đó sẽ khiến cho rất nhiều người nổi tam bành, đặc biệt những người đã kìm giữ chú ấy trong bùa mê thuốc lú. Rất có lý do cho tội ác bọn họ đã gây ra. Chúng ta vốn luôn chắc mẩm đó là do sự trả thù của lão Ezekiel Bloor cho tai nạn khiến lão phải ngồi xe lăn suốt đời. Nhưng do Charlie đã kể cho ta nghe chuyện gia đình Pike sục sạo ngôi nhà cũ của nó để tìm một cái hộp, thì ta tin chắc rằng Lyell Bone bị trừng phạt bởi chú ấy đã biết gì đó, một điều mà trước sau chú ấy nhất định không từ bỏ: cái vật chứa bên trong chiếc hộp.”
“Nhưng tại sao điều đó lại khiến cho nhiều sự việc quái gở xảy ra ở trường Piminy?” Olivia hỏi.
“Có nhiều việc nổi lên, Olivia à, là bởi vì Lyell đã tỉnh lại, như ta đã nói đó. Đường Piminy một thời tập trung toàn thầy pháp. Con có hỏi ta kẻ nào đã đánh thức họ dậy hay là không?”
“D-ạ c-ó.” Olivia đổ cốm bắp vào tô của nó thành một dòng chảy chậm rãi, đầy ưu tư.
“Bọn chúng buộc thằng bé tên là Eric phục dịch cho chúng,” cô Inglegew nói, vừa đẩy bánh mì vô lò nướng. “Bà cô của Charlie, bà Venetia, cưới ông Shellhorn để chạm tay vô thằng cu bé tẹo này.”
“Nhất định cô sẽ điều tra,” Emma tuyên bố. “Con muốn biết tại sao người thợ rèn lại rèn thanh gươm.”
“Cho ngài hiệp sĩ,” Ông cậu Paton bảo nó. “Hiệp Sĩ Đỏ trên cầu.”
“Ông có nghĩ đó là Vua Đỏ không, ông Yewbeam?” Emma hỏi.
“Thật tình ta không thể nói chắc.”
“Con vẫn muốn gặp người thợ rèn.” Emma rất cương quyết. “Bà ấy là người duy nhất trên con đường đó trông có vẻ tốt bụng.”
“Bồ không thể đi mà không có tớ,” Olivia nói.
Cô Inglegew muốn Ông cậu Paton đi với chúng. “Em không thích nghĩ đến việc chúng một thân một mình trên đường Piminy,” cô bảo.
Ông cậu Paton hường nhìn buồn bã ra cửa sổ. “Giờ này quá trễ cho ta rồi. Mặt trời đã lên cao. Vả lại, cho dù người rèn thanh gươm là ai, có lẽ bà ấy chỉ nói chuyện với các cô bé khi chúng đi một mình, hơn là khi đi cùng một gã kỳ quái như ta.”
Cô Inglegew lắc đầu với Ông cậu Paton và bảo cô sẽ tới tận tiệm Ấm Đun nếu bọn trẻ không quay về trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Emma và Olivia vội lùa hết bữa sáng, tất cả thay đồ và rời tiệm sách. Chúng nóng lòng muốn biết về người rèn thanh gươm bí ẩn đến nỗi quên cả chải đầu. Một việc hầu như chưa từng nghe nói về Olivia.
Đường Piminy thinh lặng và hoang vắng. Hai đứa con gái nhắm tiệm Ấm Đun thẳng tiến. Đi chưa được bao xa thì chúng chợt nghe tiếng bước chân đằng sau. Một tiếng nạt lớn. “ Tụi bay làm gì ở đây?”
“Tao chẳng thấy việc gì mắc mớ tới mày,” Olivia nóng nảy.
“Có thể, nhưng tao vẫn muốn biết.” Đôi mắt xanh biển của Dagbert chớp từ Olivia qua Emma. “Hả?”
“Thật ra thì chúng tôi đi mua ấm,” Emma nói, cố ra vẻ tỉnh rụi.
Dagbert nhìn con nhỏ ra chiều thương hại. “Vào ngày Chủ Nhật? Tất cả tiệm đều đóng cửa. Tụi bay phải làm gì hay hơn thế cơ.”
“Tụi này chẳng làm gì hay ho cả,” Olivia quát.
Dagbert trợn mắt nhìn Olivia. “Có muốn đổi ý trước khi việc khó chịu xảy ra không?”
Miệng Olivia mím chặt lại như đường chỉ, căm phẫn.
“Được thôi.” Dagbert nhìn sượt qua chúng tới một nắp cống dưới lòng đường. Vẻ mỉa mai của nó biến thành đanh sắc ớn lạnh. Thình lình, nước bắt đầu kêu ộc ộc bên dưới nắm cống. Nó bật mở tung lên một tiếng cắc, đồng thời nước phun vọt lên thành một vòi nước đen quánh bùn. Bọn con gái bị vây kín trong đó. Thét rầm rĩ, chúng chạy qua nắm cống về hướng tiệm Ấm Đun. Nhưng dòng nước truy đuổi chúng rát rạt, bẻ ngoặt khỏi lộ trình tự nhiên của nó, quét vòng quanh mắt cá chúng lằng ngoằng như rắn. Sức ép mạnh đến độ chúng chúi nhủi xuống đất, không thể ghìm nổi.
Emma là đứa té sấp mặt xuống trước; Olivia chộp giữ cánh tay Emma lại cũng ngã sập theo sau. Trong khi bò lê bò càng về phía tiệm Ấm Đun, lần đầu tiên chúng nghe thấy tiếng cười ghê rợn của Dagbert. Tiếng cười nổ phọt ra nghe thành tràng khặc khặc, sủi bọt.
Olivia bíu cánh cửa tiệm cố đứng lên, bắt đầu dộng ầm ầm vô cửa, bất chấp đang trong cơn hoảng loạn nó nhận ra cái gõ cửa là một chiếc ấm tí hon bằng đồng.
“Cứu tôi với!” Olivia thét. “Có ai làm ơn cứu chúng tôi với!”
Emma đứng bên cạnh nó hùa thêm. “Chúng tôi sắp chết đuối rồi!”
Cánh cửa bất thần mở ra, cả hai đứa con gái nhủi đầu vô trong tiệm, mỗi đứa bắn vèo qua một bên hông của người phụ nữ cao lớn đứng sựng nơi ngưỡng cửa.
Bà Kettle trừng mắt nhìn Dagbert qua dòng nước bùn. “DẸP TRÒ KHỈ NÀY ĐI!”
Dagbert phát ra một âm thanh rột-rột, sâu hút trong họng, tựa như nó đang nốc ực cả một xô nước.
“Ta đã nghi chuyện này rồi mà,” bà Kettle lừ mắt nhìn cháy sém dòng nước uốn éo. “Hừ, hãy giữ nước của mày lại đi, thằng bé người cá kia!”
Dagbert sôi tiết nhìn dòng nước khô đi cấp tập. Hếch cằm lên, nó hùng hổ bước vượt qua tiệm Ấm Đun mà không thèm liếc nhìn bà chủ tiệm.
Bà Kettle đóng sầm cửa lại và nói với tụi con gái. “Nào, nào, mấy cưng vừa mới lâm vào hoàn cảnh tréo ngoe nhỉ, các cô bé?”
“Vâng ạ, hoàn cảnh tréo ngoe thật,” Olivia nói. “Cảm ơn bà cứu tụi cháu. Cháu là Olivia Vertigo và đây là bạn cháu, Emma Tolly.”
“Rất vui gặp mấy cưng, bà là Katya Kettle.” Bà nhìn sát Emma. “Bà đã gặp cưng rồi thì phải?”
“Dạ. Có lẽ vậy,” Emma bối rối.
“Hừm. Cả hai vô đây. Để bà lấy đồ khô cho mấy cưng thay nhé. Mấy cưng ướt đến tận da rồi kìa.” Bà Kettle đi qua ô cửa vòm, vô căn phòng ấm cúng ở đằng sau tiệm. “Cởi đồ ra,” bà thân tình đẩy hai đứa tới bên lò sưởi. “Bà đi tích tắc thôi.” Bà biến mất sau cánh cửa kim loại dày cẩn đầy đinh ốc.
Emma và Olivia cởi vớ, giày, quần jeans và áo khoác ra. Hên là chầu tắm chớp nhoáng vừa rồi chưa thấm ướt chiếc áo hồng pha bạc của Olivia hay chiếc áo len xanh da trời của Emma.
Khi bà Kettle hiện ra trở lại, bà mang theo hai bộ áo liền quần to tổ bố và hai đôi vớ len dày. “Có thể không vừa đâu,” bà cảnh báo. “Cứ xắn chỗ nào quá dài lên là được.”
Cười ngượng nghịu, Emma mặc đồ và đi vớ vào. Olivia lần chần, ướm thử bộ đồ thùng thình vô người và ngẫm nghĩ cách làm thế nào để cải thiện tình hình chút nào hay chút đó. “Bà có trâm cài hay gì không?” nó hỏi bà Kettle.
Người phụ nữ phá lên cười rổn rảng. “Đừng rườm rà cái thứ đó làm gì! Cứ giả bộ cưng là nàng công chúa cải trang đi.” Bà treo đám đồ ướt của bọn chúng lên một cái giá gỗ phía trên bếp lò.
Olivia nhăn nhó chui vô cái áo liền quần, xắn ống tay lên cho tới khi lòi ống tay áo hồng và bạc của nó ra.
“Bà thấy cưng có dáng dấp của một nữ hoàng thời trang đấy,” bà Kettle cười khúc khích. “Một tách trà nhé, các cô bé?”
Trước khi chúng đáp thì có một tiếng gõ khẩn cấp ngoài cửa.
“Bà hy vọng không phải cái thằng cá tép kỳ cục đó nữa,” bà Kettle nói rồi sải bước trở ra tiệm.
“Ồ, ồ, ra là cưng,” chúng nghe tiếng bà vọng vào. “Gì thế, chàng trai?”
Có tiếng lùng bùng đáp lại và một phút sau Charlie Bone bước vô phòng.
“Ối quỷ thần!” Charlie chớp mắt nhìn hai đứa con gái, không tin nổi. “Quần áo bồ sao vậy, Liv. Đó là một mới nhất à?”
“Tớ nghĩ nó hợp với tớ,” Olivia kiêu kì nói.
Emma phá ra cười bò, Charlie cười theo, rồi Olivia cũng cười khúc khích. Bà Kettle cười to nhất. Bà đi qua cánh cửa kim loại để lấy trà trong khi vẫn còn cười phì phì.
Chỉ khi đó Emma mới nhận thấy Charlie đang cầm cái ấm cũ đen sì. “Bồ mang nó đi trả à?” con nhỏ hỏi.
“Ừ.” Charlie đặt cái ấm xuống sàn. “Tớ muốn lời khuyên của bà Kettle.”
“Nó để làm gì vậy?” Olivia hỏi.
“Bà Kettle đã đưa nó cho tớ.” Charlie giải thích nước trong ấm nóng lên thế nào khi sắp sửa có nguy biến. “Đêm qua nó nóng quá trời, gần như sôi luôn vậy đó.”
“Đêm qua à?” Emma nói một cách tư lự.
“Sao cả hai bồ ăn mặc như thợ ống nước vậy?” Charlie hỏi chúng. “Có ống nước bể ở gần đây à?”
“Bồ nói thế cũng đúng đấy.” Olivia kể cho Charlie nghe vụ Dagbert sủi nước lên.
Charlie nhăn mặt, lặng lẽ nói. “Mình đã cầu cho nó đừng dùng tài phép của nó kiểu đó. Nhưng mình không đoán được ý đồ của nó.”
Bà Kettle mang một khay trà tới và khi chúng kéo ghế của chúng lại sát bàn, bà hỏi, “Nào, cái gì mang mấy cưng tới đây, hả các cô bé? Bà biết mấy cưng không chỉ chạy trốn thằng người cá mà tình cờ bắn vô đây. Mấy cưng đến gặp bà phải không?”
Olivia nhìn Emma, và Emma đáp. “Dạ.”
“Thế, có chuyện gì?” bà Kettle rót trà ra đầy bốn cái ca và chuyền quanh, trong khi Emma lóng ngóng, vuốt mũi, hắng cổ họng.
“Ừm… những bộ đồ này là của bà phải không, bà Kettle?” Emma hỏi.
“Dĩ nhiên. Không còn ai khác sống ở đây.”
“Ồ.” Emma nhìn tịt cái ca. “Không một ai ạ?”
“Không một ai,” bà Kettle đáp.
“Ờm,” Emma nhìn quanh căn phòng, lựa lời nói. Xem ra rất lỗ mãng, khi hỏi một người chất phác như bà Kettle rằng bà có phải là thợ rèn không.
Olivia thì không băn khoăn như thế. Mất kiên nhẫn, nó hỏi huỵch toẹt. “Bà có phải là thợ rèn không, bà Kettle?”
“Đúng vậy,” bà Kettle điềm nhiên nói. “Có phải cưng là một con chim không, Emma?”
Emma đỏ mặt. “Dạ. Đúng. Đôi khi.”
“Thì ra cưng đã đậu trên bậu cửa sổ nhà bà, xem bà làm việc đêm qua?”
“Cháu không rình rập,” Emma nói nhanh. “Cháu chỉ… thám hiểm.”
“Dĩ nhiên rồi, cưng. Đừng lo. Xem thợ rèn làm việc chẳng có gì hại cả.”
“Tụi cháu đến đây,” Olivia buột miệng, “để tìm hiều về thanh gươm bà đã rèn.”
“Thanh gươm?” Charlie trố mắt nhìn bà Kettle.
“À, thanh gươm.” Bà bất chợt nghiêm sắc mặt. “Mất cưng không được hở ra lời nào về việc này với bất cứ ai mà mấy cưng không tin bằng cả mạng sống của mình, nghe chưa.” Bà nhìn xoáy từng đứa với vẻ vừa nghiêm khắc vừa dữ tợn.
“Vâng ạ,” Charlie sốt sắng.
Vẻ mặt bà Kettle dịu đi. “Bà được thừa hưởng chút ít tài năng từ tổ tiên mình, Feromel, tuy nhiên, bà rất ít khi dùng đến chúng. Nhờ thế mà bà không phải dùng đến phép thuật của mình, dù bà vẫn rèn công cụ lao động, yên cương, và thậm chí cả bàn ghế sắt. Xưa nay bà chưa bao giờ được yêu cầu rèn gươm – một thanh gươm độc nhất vô nhị, bất khả chiến bại – vì vậy, rất tự nhiên, bà vô cùng vui mừng vì lời đề nghị này.”
Charlie nôn nóng nhoài người về phía bà Kettle, hỏi, “Ai đã yêu cầu bà?”
Bà Kettle mỉm cười. “Một hiệp sĩ có bờm đỏ trên mũ giáp bạc của ngài.”
“Giống người tụi cháu đã thấy trên cầu quá,” Charlie nói.
Đồng thanh nói cùng lúc, hai đứa con gái hỏi bà Kettle, “Ngài ấy đã nói gì?” “Ngài ấy là ai?” “Ngài ấy đã đến lúc nào?”
Bà Kettle giơ một ngón tay lên. “Từ từ, từ từ. Bà không thể trả lời ba câu hỏi một lúc. Ngài đến đây cách đây vài đêm, rất khuya. Mặc áo giáp và đội mũ giáp sáng chói có cài lông chim đỏ thẫm, ngài ùa vô như một cơn gió đẫm ánh trăng. Mặt ngài che kính kín mít, và ngài không nói một lời nào.”
“Làm sao bà biết ngài muốn một thanh gươm?” Charlie chồm tới xa đến nỗi hất đổ một chén đường.
Bà Kettle lật cái chén lại và xúc đường trở vào.
“Cháu xin lỗi,” Charlie nói, “nhưng làm ơn, làm sao bà biết ngài muốn gì?”
Bà Kettle thọc sâu vô túi chiếc áo len của mình, lấy ra một mẩu giấy gấp nếp. Bà mở nó ra và đặt lên bàn. “Do đây này.”
Bọn trẻ trố mắt dòm một từ duy nhất trên tờ giấy:
“Caledfwich”
“Cháu không đọc ra được,” Charlie nói. “Nó không có nghĩa.”
“Với bà thì có. Cái từ đó nói với bà rằng hiệp sĩ này không phải là hiệp sĩ bình thường, lại càng không phải kẻ lừa gạt hay chơi khăm.”
“Nhưng nó có nghĩa là gì?” Charlie hỏi dồn.
“Cưng không biết thật à, Charlie Bone? Nó không hát lên trong đầu cưng sao?” Bà Kettle săm soi nhìn vào mặt nó.
Charlie nhìn con chữ trên tờ giấy. “Không. Cháu xin lỗi. Nó không có nghĩa gì cả, trừ phi… nó là tiếng xứ Wales?”
“Đúng. Thế là cưng biết hết rồi đó. Đúng nó là một từ xứ Wales. Đó là tên thanh gươm của vua Arthur, nhưng chỉ được nhắc đến trong những truyền thuyết cổ của xưa Wales. Đến nay nó vẫn là một mật mã, chỉ được sử dụng bởi những người đáng tin cậy.”
“Oa!” Olivia thở hắt ra. “Cháu cảm thấy mình vinh hạnh quá.”
“Không được hó hé với bất cứ ai.” Bà Kettle đặt một ngón tay lên môi.
Ba đứa trẻ sốt sắng lắc đầu, và Charlie láp nháp, “Chỉ nói với người mà cháu có thể tin cậy bằng cả mạng sống của mình.”
“Khi nào hiệp sĩ trở lại lấy thanh gươm ạ?” Emma hỏi, vừa nghĩ mình có thể thực hiện một chuyến bay đêm nữa.
“Không biết. Bà cứ đợi thôi. Cần phải rèn cán gươm nữa. Bà nghĩ bà sẽ dùng một chút vàng, và bạc.” Bà Kettle ngó đăm đăm qua đầu lũ trẻ. “Thậm chí bà sẽ dùng một, hay hai viên ngọc trai.”
Charlie sực nhớ ra tại sao mình đến đây. “Suýt nữa cháu quên mất.” Nó nhấc cái ấm của Feromel để lên bàn. “Cái này đã sôi nóng lên đêm qua.”
“Vậy ư?” Bà Kettle đặt tay lên cái ấm đen xì. “Giờ nó nguội rồi. Nhưng đêm qua là một thời khắc nguy hiểm. Cách đây vài căn nhà, những tượng đá bắt đầu chuyển động.”
Miêng Emma há hốc ra. “Bà biết việc đó à?”
“Bà luôn theo dõi thằng bé đó. Cả những kẻ đồng lõa đáng sợ của nó. Bà nghĩ cưng cũng đã trông thấy chúng trong khi bay rồi.”
“Cháu không thể tin vô mắt mình,” Emma nói. “Eric nhìn chằm chằm một cánh cửa và thế là người đàn ông đá bước ra. Thật kinh khủng.”
“Cháu đã nghi Eric,” Charlie lầm bầm.
Bà Kettle đứng lên và dọn những cái ca không vào khay. “Đến giờ đi làm. Quần áo mấy cưng khô rồi, các cô bé.”
Charlie quyết định ra về trước khi những bộ áo liền quần được cởi ra. Nó thỏa thuận hẹn gặp bọn con gái ở quán Cà Phê Thú Kiểng vào buổi chiều. Cầm cái ấm lên, nó cảm ơn bà Kettle trong khi rời tiệm.
Charlie vừa quay lại đường Filbert thì thấy Benjamin vừa hộc tốc chạy trên đường về phía nó vừa hỏi.
“Charlie! Charlie! Bồ có thấy Hạt Đậu đâu không?”
“Không.”
“Nó chạy mất tiêu rồi. Nó giật dây xích ra khỏi tay mình và chạy biệt tăm.” Mặt Benjamin nhúm nhíu lại lo lắng. Khi chạy tới bên Charlie, nó khom người xuống, thở như bò. “Mình đau xóc cả hông vì chạy.”
“Hạt Đậu đâu có hay đi kiểu vậy.”
“Không bao giờ, trước giờ đâu có thế. Nó có thể đi đâu, hả Charlie?”
Charlie cố nghĩ đến tất cả những nơi mà Hạt Đậu muốn tới mà không có Benjamin. Chỉ có một nơi bật ra khỏi đầu nó: “Chattypatra.”
Benjamin đứng thẳng phắt lên. “Chattypatra? Ý bồ nói là nó tới Ngách Tối?”
“Đó là nơi bạn gái của Hạt Đậu sống. Không phải nó khoái con chó nhỏ đó tít thò lò sao?”
“Ờ đúng,” Benjamin công nhận.
“Thế thì tụi mình đi mau.”
“Á không, không phải Ngách Tối,” Benjamin rên rỉ, “mình ghét nơi đó.”
“Mình cũng ghét. Nhưng nếu bồ muốn tìm Hạt Đậu thì mình nghĩ nó chỉ ở đó thôi.”
Trong khi chạy lúp xúp đến Ngách Tối, Charlie nhận ra mình vẫn còn câm cái ấm đen. Nó bắt đầu khiến cánh tay Charlie mỏi nhừ và Charlie ước gì mình để nó ở nhà. Charlie kể cho Benjamin nghe mình vừa gặp bọn con gái và chuyện Dagbert nhăm nhe muốn dìm chết chúng. Tuy nhiên nó không đả động đến thanh gươm. Mặc dù nó tin tưởng bạn, nhưng Benjamin không được ban phép thuật.
Nếp nhăn lo âu của Benjamin càng sâu hơn. “Dagbert cũng đã cố dìm chết tụi mình, đúng không.”
“Mình nghĩ vậy.”
Khi đến ngõ hẻm dẫn tới ba căn nhà số 13, hai đứa con trai bước chậm lại. Charlie không ngạc nhiên khi cảm thấy cái ấm đang nóng lên. Nhiệt độ ở Ngách Tối luôn thấp hơn những nơi khác vài độ, và sức nóng của cái ấm hóa ra lại có tác dụng trấn an.
Trước mặt chúng sừng sững dãy nhà cao với những ban công đen xỉn, những mái nhà nhọn hoắt và những con thú bằng đá viền quanh các cửa sổ dài.
“Mình không nghĩ Hạt Đậu ở đây,” Benjamin hạ thấp giọng, “Trừ khi họ bắt nó vô trong rồi.” Nó bất giác rùng mình.
Charlie thoáng thấy một chuyển động nơi khóe mắt. Đó là tấm rèm, hay ngôi nhà hơi chao nghiêng? Benjamin thở hốc lên, nói khản cả giọng, “Charlie, có gì chuyển động. Một trong những sinh vật đá ở cửa sổ đó.”
Chúng đứng đờ ra tại chỗ, sợ sệt nhìn ngôi nhà của bà cô Venetia. Đột nhiên cánh cửa bật mở và Miranda chạy ào xuống những bậc thang, mỗi tay xách một con chó, cả hai đều sủa như điên.
“Hạt Đậu!” Benjamin hét, lao về phía con chó to.
“Em thấy các anh tới,” Miranda nói. “Mờ… mờ… bà ta muốn nhốt con chó của anh trong hầm rượu. Nhưng em đã giữ nó an toàn cho anh. Mờ... bà ta không thích chó.”
Benjamin vòng tay ôm choàng lấy con chó bự, chú ta nồng nhiệt liếm chủ nhân của mình. Gương mặt của Benjamin bắt đầu bừng lên hạnh phúc.
Charlie nhận thấy mắt Miranda sưng bụp, có hai vệt đỏ chạy xuống hai bên má. “Em ỔN chứ, Miranda?” nó hỏi.
Miranda nhìn Charlie tuyệt vọng. “Không. Em nghĩ là không,” con bé thì thào. “Mờ… mờ…” Rõ ràng nó không thể nào phát âm được từ “mẹ”.
“Bà cô của anh thường hay làm gì em?” Charlie nói.
“Bà ta không thích em.” Miranda lấm lét nhìn ra sau một cái. “Bà ta chỉ quan tâm tới Eric thôi. Eric, nó… nó không còn là em trai của em nữa.”
“Sao vậy? Nó làm…?”
Hạt Đậu bất thình lình sủa toáng lên cảnh báo. Khi nó phóng lên những bậc thang, bức tượng thần lùn bên cánh cửa ngoác ra cười hiểm độc và bay bắn lên không trung.
“Coi chừng, Miranda!” Charlie hét. Nó cố đẩy con bé ra khỏi đường bay của thần lùn, nhưng không thể tin nổi, bức tượng đổi hướng trên không trung và nhắm ngay chóc Miranda, nhào trúng lưng con bé.
Con nhỏ gục xuống ngay chân Charlie rồi nằm xoài ra vỉa hè. Mặt nó trắng như tờ giấy.
Danh sách chương