Emma đi ngủ mà long dạ thấp tha thấp thỏm. Cô bé nằm trằn trọc mãi, ý nghĩ cứ lẩn vẩn về Olivia và Tancred. Sau đó cô bé lại lo lắng cho dì của mình. Ông Paton Yewbeam đã hờ hững với dì một cách tội nghiệp bằng những thay đổi đột ngột trong kế hoạch của ông và bằng sự đãng trí, hay quên của ông. Còn về phần lão thầy bùa, liệu quyển sách cổ có ghi đúng? Lẽ nào bá tước Haken có thể bao vây thành phố bằng màn sương mù yêu thuật rồi kéo nó về quá khứ? Thành phố đã rục rịch thay đổi. Nhiều khu trở nên hoang vắng, trong khi cư dân của đường Primini xem lại tăng gấp đôi trong vòng một tuần.
Emma nghĩ về Billy, lẻ loi ở cái xứ thê lương đầy hiểm họa ấy, và đột nhiên cô bé ngồi bật dậy. Mình có thể làm gì đó. Mình có thể giúp Charlie cứu Billy trước khi quá trễ. Cả hai phải hợp sức cùng nhau thì cơ hội làm được điều đó sẽ khả quan hơn. Cô bé quyết tâm sẽ thức dậy thật sớm và lên đường tới Ngách Tối. Tancred đã đoán bức tranh xứ Badlock có thể ở đó. Mà Tancred thì luôn đúng. Emma cố lờ đi những lần anh ấy sai lè.
Tâm trí đã quyết, Emma ngủ ngon lành mấy tiếng liền, sau đó thức giấc lúc bình minh, tỉnh táo và kiên quyết. Cô bé quyết định diện đồ đẹp rồi mới đi, cho dù mình sẽ đi theo cách của chim. Khi cô bé mở cửa sổ ra, mùi sình lầy ngai ngái ùa vào phòng. Một đám mây xám rêu dày đặc lơ lửng bên kia rìa thành phố. Phải đó là sương mù mà radio đã dự báo?
Emma leo lên bậu cửa sổ và nhắm mắt lại. Cô bé nghĩ tới một con chim nhỏ lông màu nâu cho kín đáo. Lông chim phụt ra từ những đầu ngón tay, và cô bé cảm thấy mình teo rúm lại. Nhỏ và nhỏ nữa. Lớp lông tơ phủ khắp cánh tay và đầu. Trong vài giây, một con chim hồng tước đậu trên bậu cửa sổ. Nó dang cánh tay vào bầu trời mới rạng đông.
Thành phố bên dưới tĩnh lặng và bất động. Vài chiếc xe đậu trên những con đường hẻo lánh, nhưng còn những nơi khác thì hoang vu. Không có xe giao sữa, không có xe đưa thư, không có người lao công. Không có gì chuyển động ngoài lũ chim trên trời và vài con mèo đang rình mồi trong công viên hay trong vườn.
Emma chao liệng về phía Vòng Cung Ụ Xám và lướt dọc theo ngõ cụt gọi là Ngách Tối. Hình thù ba ngôi nhà luôn khiến Emma rùng mình. Mình sẽ chọn thám thính căn nào trước đây? Có lẽ bà cô Venetia của Charlie đang cất giữ bức tranh. Mụ này có nhiều điểm giống với mụ Tilpin. Đúng, Emma hình dung một kẻ đầu độc và một mụ tiểu phù thủy sống phởn phơ cạnh nhau tại nơi u ám, ít người lai vãng kia.
Con chim nhỏ quần tới quần lui bên ngoài ba ngôi nhà, mọi cửa sổ đều che rèm kín mít và cô bé không thể thấy cửa sổ nào mở. Có thể mình sẽ may mắn hơn ở nhà sau, cô bé nghĩ. Nhưng cả sau nhà cũng rèm che và cửa sổ đóng. Không chịu bỏ cuộc, Emma bay vô vườn nhà bà cô Venetia. Nhìn là biết chẳng ai chịu xén cỏ ở đây – cỏ khô cao đến tận thắt lưng, che khuất toàn bộ phần phía dưới của ngôi nhà. Với một con chim tí xíu thì điều này không thành vấn đề. Nhảy len lỏi qua những cuống cây, cô bé tới cửa sổ tầng hầm. Cái này tuy không có rèm nhưng cũng không mở.
Emma bay tới bậu cửa sổ, ngó nghiêng vô căn phòng. Tấm kính bám kít bụi và mạng nhện, nhưng cô bé có thể nhìn thấy một chiếc bàn dài chất vô số các thứ phụ liệu. Chai lọ đựng chất lỏng đủ màu để ở một bên đầu bàn – thuốc độc đó mà, Emma nghĩ, nghiêng đầu bên này bên kia hầu nhìn cho rõ hơn. Bây giờ cô bé có thể nhận ra những đống kim sa ở đầu bàn bên kia, xếp cạnh những cuộn chỉ màu, kim và kéo kích cỡ khác nhau. Những bó thảo dược treo thòng từ trần nhà và những loại cây đen bóng bò ngoằn nghèo trên các bức tường. Nhưng không thấy bức tranh đâu.
Có vật gì chiếu sang ở cuối phòng. Đôi mắt chim tinh tường lục lọi một chiếc bàn khác, cái này nhỏ hơn và hình tròn. Ở đó, đặt bên trên một đống vải lụa, là một tấm gương. Dù nhìn từ xa Emma vẫn có thể thấy rằng nó tuyệt đẹp. Vòng gương được ốp trong khung vàng, tay cầm là một hình ovan dát vàng, bạc. Những hoa văn cầu kỳ được khảm chen những hạt ngọc li ty trên khung, và cho dù nằm trong bóng tối nhưng tấm gương tỏa ra một thứ ánh sáng chói lọi. Chắc chắn đó là Gương Thần Amoret, bị mụ Tilpin đánh cắp và bị Joshua làm bể. Xem ra bà cô Venetia đang cố hàn gắn lại nó.
Làm sao mình có thể tới được đó? Emma nhảy lách chách dọc theo bậu cửa sổ. Cô bé quá nhỏ để mổ vỡ kính. Phải chi mình chọn biến thành một con đại bang hay một con kền kền nhỉ. Cô bé thầm nghĩ. Ước thì sẽ thấy thôi. Và thế là cô bé thấy một con chim đại bang xòe đôi cánh đen rộng như một tấm áo chùng in trên nền trời, với một cái đầu trắng và một cặp chân vàng sắc như lưỡi dao.
Emma rùng mình vươn rộng cánh. Có thể nghe thấy tiếng lông của mình kêu lắc rắc trong lúc chúng mọc và lan rộng ra chóng mặt. Giờ cô bé đã cao đến mức có thể nhìn xa hơn vào phòng làm việc của bà cô Venetia và đã to ngang đến độ không còn đậu được trên bậu cửa sổ chật hẹp nữa. Một tiếng kêu khốc phọt ra từ cái cổ họng trắng của cô bé đưa con chim bay vút lên không. Liệng quanh một thoáng, ở cao tít bên trên khu vườn bên cạnh, cô bé ước lượng khung kính cửa sổ bằng thị lực tuyêt hảo của mình, và rồi xà xuống, nhanh đến mức tưởng như nín thở. Một tiếng đoàng, vang dội tựa như tiếng súng trường khi đôi chân chim đạp bể kính.
Gập cánh lại, Emma lướt qua khung cửa sổ bể nát, vươn chân ra quặp lấy tấm gương. Rồi ngoặt một phát nhanh như tia chớp, cô bé lại bay chíu qua căn phòng vút ra ngoài trời. Thành công khiến cô bé vuột lên một tiếng reo đắc thắng, và trong khi bay lấy độ cao cô bé thấy cửa sổ của cả ba ngôi nhà số 13 đồng loạt mở tung.
“Đại bàng!” bà cô Venetia thét lạc giọng từ tầng trên cùng của ngôi nhà kiêu sa của mụ. “Nó lấy tấm gương của Titania.”
“Đại bàng cướp!” Eric hét từ cửa sổ bên dưới của mụ. “Giết nó!’
“Để ta!” bà cô Eustacia thét, xuất hiện với một chiếc nỏ ở một cửa sổ của ngôi nhà chính giữa. Một tia chớp bằng sắt rít sượt qua đầu Emma. Cô bé rú lên khiếp đảm, suýt nữa thì đánh rơi tấm gương.
“Hụt!” bà cô Lucretia gào rống từ cửa sổ ngôi nhà thứ ba.
Trước khi có thể bị tia chớp sắt thứ hai đâm trúng, Emma đã vụt ra khỏi tầm bắn và bay tít trên bầu trời thành phố. Ngôi nhà của Charlie rất dễ nhận ra nhờ có cây dè ở trước nhà. Emma xé không khí hạ xuống đúng ngọn cây. Đại bàng là loài chim to nặng và cành cây mà Emma đáp xuống kêu răng rắc dưới trọng lượng của cô bé và nhún bập bênh bên cửa sổ dưới mái hiên.
Áp chặt vô kính cửa sổ là một bàn tay. Đằng sau bàn tay ấy là Charlie Bone. Thằng này đang ngồi trong một cái ghế, trông hình như đang ngủ gà gật. Emma dùng mỏ gõ tấm kính và mắt Charlie choàng mở ra. Nó ngó chối chết vô con chim khổng lồ lọt vô khung cửa kính, lông chim vương đầy vụn thủy tinh, và nó nhín thấy tấm gương thần quặp chặt trong những móng vuốt bàn chân trái của con vật.
Charlie thận trọng mở cánh cửa sổ ra, để con chim không rớt ra khỏi cành cây. “Em, phải bồ không?” nó nói, kinh ngạc trước kích cỡ hoành tráng của cô bạn.
Emma thò bàn chân qua khung cửa sổ mở và Charlie e ngại nhận lấy tấm gương từ những móng vuốt trông gớm chết kia. Trước khi nó kịp cảm ơn con chim, cô bạn đã bay vụt đi khỏi ngọn cây lắc lư, phóng vút lên trời cao.
Charlie ngồi lại vô ghế, dòm sựng vô tấm gương. Nó tự hỏi không biết Emma đã xoay sở lấy được nó bằng cách nào. Con chim đại bàng đó lông dính đầy miếng kính. Hay là cô bạn đã liều mạng đi lấy tấm gương này? Nó hi vọng là không phải, bởi vì tấm gương vẫn còn bị nứt, vẫn còn vô dụng. Nó sẽ không bao giờ đi vô được xứ Badlock bằng tấm gương bể này.
Từ ngoài đường có tiếng gọi. “Charlie, cho mình vô.” Nó nhìn ra cửa sổ còn để mở và thấy Emma đang đứng dưới vỉa hè, đã gần hoàn hình xong, có điều tóc tai còn rối bời.
“Chờ chút.” Charlie nói. Nó chạy vù xuống tầng trệt của ngôi nhà và mở cửa trước ra.
Emma lật đật bước vô. Những mảnh kính nhỏ còn vương trên mái tóc dài và có vài vết xước trên trán cô bé.
“Bồ bình yên chứ. Em?” Charlie hỏi, vẫn còn bàng hoàng trước những gì cô bé vừa làm.
“Mình đã định là sẽ tìm bức tranh cho bồ,” cô bé vừa nói vừa hớp không khí. “Phù, xin lỗi, không thể lấy lại hơi.”
“Rất... è, cảm ơn, Em.” Nó không biết làm thế nào để nói với cô bạn rằng tấm gương vô dụng. “Chưa ai dậy đâu, bồ muốn lên gác xép không?”
“Gác xép? Bồ đã ngủ trên đấy à, Charlie?”
Nó đỏ mặt. " Chắc vậy. "
" Sao kỳ vậy? Có gì cho mình uống với được không? "
" Ừm, ừ. " Charlie ngọ nguậy chân này chân kia. " Bồ tự pha lấy đi nha, mình phải trở lại trên lầu đây. "
" Kỳ vậy? " Emma thất vọng. Charlie có vẻ không hồ hởi với tấm gương.
" Bởi vì mình đang đợi một người. " Charlie nói trong khi đã vù lên lầu. " Mình xin lỗi, rất khó giải thích. Gặp lại bồ ở trên đó nhé. "
Không hiểu nổi, Emma vô nhà bếp tự pha cho mình chút sô cô la nóng thay vì trà. Dậy sớm quá khiến cô bé cảm thấy đói kinh khủng nên tự lấy vài cái bánh quy trong hộp thiếc để trên nóc chạn.
Đến lúc Emma lên gác xép, Charlie đã ngồi lại hẳn hỏi trên ghế bập bênh và đặt bàn tay lên cửa sổ. Đúng chính xác ở vị trí như trước, tất cả năm ngón xòe bẹt ra trên tấm kính. Tấm gương đặt trên bàn bên cạnh nó.
" Charlie, bồ đang làm gì đó? " Emma hỏi, càng lúc càng thắc mắc hơn.
" Cô Alice đã khởi động đó, " Charlie nói, để lộ vẻ bồn chồn. " Cô ấy đã cảm nhận được bàn tay của Matilda ở ngay chỗ này, và đã nghe được giọng nói của bạn ấy. "
" Matilda? " Emma chẳng biết ai có tên như thế.
" Bé gái ở xứ Badlock.” Charlie nói với vẻ hơi thiếu kiên nhẫn.
“Xin lỗi, mình quên bạn ấy rồi.” Emma thú nhận.
Charlie rõ ràng chưa quên.
“Ý mình là hình như mình chưa bao giờ gặp bạn ấy,” Emma chống chế. “Nhưng sao bồ cứ phải áp tay ở đó? Nó tím tái rồi kìa.”
“Bạn ấy muốn nói chuyện với mình,” Charlie giải thích, “Với lại, Em, mình thật sự muốn gặp lại bạn ấy.”
“Usuuuu.” Cuối cùng Emma đã hiểu ra. “Chính vi vậy bồ muốn trở lại xứ Badlock chứ gì?”
“Mình muốn cứu Billy,” Charlie nhấn mạnh, “Nhưng mình cũng hy vọng gặp được Matilda.”
“Thử dùng tấm gương coi.”
“Nó nứt rồi, Em, mình xin lỗi, nhưng mình không nghĩ là nó linh nghiệm.”
Vẻ mặt đau khổ của Emma khiến Charlie thấy hối hận, nhưng đột nhiên, mặt cô bé sáng rỡ lên và chỉ vô tấm gương, “Charlie, coi kìa.”
Suốt cả đêm, Claerwen đã đồng hành cùng Charlie, nằm ổ trong miếng giẻ lau mà cô Alice đã để lại trên kệ. Bây giờ con bướm trắng đang cuồng nhiệt bay xà quần bên trên tấm gương bể. CHuyển động nhanh của đôi cánh bạc bắt đầu tạo ra những luồng ánh sáng phản chiếu với ánh sáng tỏa ra từ tấm gương. Mặt gương trở nên sáng đến nỗi bọn chúng không thể nhìn vô đó được.
“Nó đang chữa gương đó!” Tức thời quên phéng tấm kính cửa sổ, Charlie nheo mắt nhìn chằm chằm vô mặt gương. Nhưng nó sáng quá. Charlie phải đứng lên, dụi mắt.
Thị lực của Emma vẫn còn tinh tường như thị lực của chim. Cô bé không thể ngoảnh ánh nhìn ra khỏi tấm gương đang chói lọi. “Nó đang mờ dần, Charlie.” Emma nói, “Đường nứt. Vết nứt đang biến mất dần.”
“Claerwen, bồ làm được rồi,” Charlie trầm trồ tán thưởng con bướm trắng. Khi xứ mệnh đã xong, cô nàng liền rời tấm gương đến đậu trên vai Charlie.
Ánh sáng chói lòa trở nên dịu bớt và cuối cùng mắt Charlie có thể nhìn vô tấm gương. Dĩ nhiên, không có gì trong đấy. Không có hình phản chiếu gương mặt nó hay bức tường đằng sau nó. Gương thần Amoret vốn không vận hành kiểu như thế.
“Bây giờ nó có thể giúp bồ chu du không, Charlie?” Emma hỏi, khấp khởi hy vọng. “Giống kiểu chu du của bà Amoret ấy?”
Charlie gật đầu. “ Mình đã sử dụng tấm gương một lần và đã nhìn thấy ba mình rồi. Lúc đó mình đã sắp tới được chỗ ba, nhưng vì có bùa yểm ba mình nên mình không thể. Sau đó Olivia giật tấm gương khỏi tay mình vì mình la thét khủng khiếp đến nỗi Olivia cứ tưởng là mình sắp chết.”
“Mình sẽ không giật ra đâu,” Emma hứa. “Trừ phi bồ thấy mình cần phải.”
“Không, đừng. Đừng chạm vô tấm gương, cho dù có gì xảy ra. Claerwen sẽ mang tụi mình, mình với Billy, trở về.”
Emma nhìn xoáy vô mặt Charlie. Nếu như trông có ai bị ếm bùa thì đúng là thằng bạn Charlie đây. Cô bé dằn vặt không biết mình có nên để Charlie đi vô xứ Badlock hay không, khi nhìn bộ dạng thẳng bạn mình mất hồn và sắp đi tới nơi như thế kia.
“Hãy nhìn vô tấm gương,” Charlie nói đều đều, nhớ lại những lời của Ông cậu Paton. “Nhìn vô tấm gương, và người mà ta ước ao gặp sẽ hiện ra. Nếu ta muốn tìm người đó, hãy nhìn một lần nữa, và tấm gương sẽ mang ta tới chỗ họ, cho dù ta đang ở đâu.”
“Vậy tất cả những gì bồ cần làm là nghĩ vể Billy, và bồ sẽ thấy nó trong gương và rồi thì...” Emma nín thở, “ Và rồi thì bồ sẽ chu du.”
“Đúng.” Giọng Charlie trượt đi, đến nỗi Emma hầu như không nghe thấy.
Charlie không nghĩ về Billy. Nó luôn thấy gương mặt mà nó muốn gặp lại kể từ khi nó trở về từ cuộc hành trình đầu tiên vô quá khứ.
“Nó có ở đó không?” Emma hỏi, cô bé đã trông thấy một màn sương bốc lên trên bề mặt tấm gương.
“Hừm,” Charlie lầm bầm lơ đãng, nhưng gương mặt bắt đầu hiện ra trong tấm gương không phải là Billy. Mà là một bé gái – một cô bé có đôi mắt màu nâu đậm và những lọn tóc đen mềm mại.
“Matilda.” Charlie lầm bầm.
Một luồng điện truyền qua những ngón tay của Charlie và nó suýt làm rơi tấm gương. Đoạn tay cầm trở nên nóng đỏ và Charlie phải dùng cả hai tay mà cầm chắc lấy.
“Cái gì đó?” Emma hét, hoảng sợ trước nét mặt nhăn vật vã của Charlie.
Và rồi nó chu du.
Emma ngó trơ khấc vô khoảng không gian Charlie vừa chiếm giữ cách đây vài phút. Cô bé không ngờ Charlie lại biến mất hoàn toàn như vậy. Có một lần cô bé thấy Charlie chu du, thì lần đó thân xác nó vẫn ở nguyên chỗ nó đứng, chỉ có tâm trí nó chu du mà thôi.
Charile đã tiến bộ. Hẳn là tài phép của nó đã mạnh lên, Emma nghĩ, bởi vì hành trình chu du của nó bây giờ diễn ra cực nhanh.
Nhưng đối với Charlie thì sự việc không hề như thế chút nào.
Emma nghĩ về Billy, lẻ loi ở cái xứ thê lương đầy hiểm họa ấy, và đột nhiên cô bé ngồi bật dậy. Mình có thể làm gì đó. Mình có thể giúp Charlie cứu Billy trước khi quá trễ. Cả hai phải hợp sức cùng nhau thì cơ hội làm được điều đó sẽ khả quan hơn. Cô bé quyết tâm sẽ thức dậy thật sớm và lên đường tới Ngách Tối. Tancred đã đoán bức tranh xứ Badlock có thể ở đó. Mà Tancred thì luôn đúng. Emma cố lờ đi những lần anh ấy sai lè.
Tâm trí đã quyết, Emma ngủ ngon lành mấy tiếng liền, sau đó thức giấc lúc bình minh, tỉnh táo và kiên quyết. Cô bé quyết định diện đồ đẹp rồi mới đi, cho dù mình sẽ đi theo cách của chim. Khi cô bé mở cửa sổ ra, mùi sình lầy ngai ngái ùa vào phòng. Một đám mây xám rêu dày đặc lơ lửng bên kia rìa thành phố. Phải đó là sương mù mà radio đã dự báo?
Emma leo lên bậu cửa sổ và nhắm mắt lại. Cô bé nghĩ tới một con chim nhỏ lông màu nâu cho kín đáo. Lông chim phụt ra từ những đầu ngón tay, và cô bé cảm thấy mình teo rúm lại. Nhỏ và nhỏ nữa. Lớp lông tơ phủ khắp cánh tay và đầu. Trong vài giây, một con chim hồng tước đậu trên bậu cửa sổ. Nó dang cánh tay vào bầu trời mới rạng đông.
Thành phố bên dưới tĩnh lặng và bất động. Vài chiếc xe đậu trên những con đường hẻo lánh, nhưng còn những nơi khác thì hoang vu. Không có xe giao sữa, không có xe đưa thư, không có người lao công. Không có gì chuyển động ngoài lũ chim trên trời và vài con mèo đang rình mồi trong công viên hay trong vườn.
Emma chao liệng về phía Vòng Cung Ụ Xám và lướt dọc theo ngõ cụt gọi là Ngách Tối. Hình thù ba ngôi nhà luôn khiến Emma rùng mình. Mình sẽ chọn thám thính căn nào trước đây? Có lẽ bà cô Venetia của Charlie đang cất giữ bức tranh. Mụ này có nhiều điểm giống với mụ Tilpin. Đúng, Emma hình dung một kẻ đầu độc và một mụ tiểu phù thủy sống phởn phơ cạnh nhau tại nơi u ám, ít người lai vãng kia.
Con chim nhỏ quần tới quần lui bên ngoài ba ngôi nhà, mọi cửa sổ đều che rèm kín mít và cô bé không thể thấy cửa sổ nào mở. Có thể mình sẽ may mắn hơn ở nhà sau, cô bé nghĩ. Nhưng cả sau nhà cũng rèm che và cửa sổ đóng. Không chịu bỏ cuộc, Emma bay vô vườn nhà bà cô Venetia. Nhìn là biết chẳng ai chịu xén cỏ ở đây – cỏ khô cao đến tận thắt lưng, che khuất toàn bộ phần phía dưới của ngôi nhà. Với một con chim tí xíu thì điều này không thành vấn đề. Nhảy len lỏi qua những cuống cây, cô bé tới cửa sổ tầng hầm. Cái này tuy không có rèm nhưng cũng không mở.
Emma bay tới bậu cửa sổ, ngó nghiêng vô căn phòng. Tấm kính bám kít bụi và mạng nhện, nhưng cô bé có thể nhìn thấy một chiếc bàn dài chất vô số các thứ phụ liệu. Chai lọ đựng chất lỏng đủ màu để ở một bên đầu bàn – thuốc độc đó mà, Emma nghĩ, nghiêng đầu bên này bên kia hầu nhìn cho rõ hơn. Bây giờ cô bé có thể nhận ra những đống kim sa ở đầu bàn bên kia, xếp cạnh những cuộn chỉ màu, kim và kéo kích cỡ khác nhau. Những bó thảo dược treo thòng từ trần nhà và những loại cây đen bóng bò ngoằn nghèo trên các bức tường. Nhưng không thấy bức tranh đâu.
Có vật gì chiếu sang ở cuối phòng. Đôi mắt chim tinh tường lục lọi một chiếc bàn khác, cái này nhỏ hơn và hình tròn. Ở đó, đặt bên trên một đống vải lụa, là một tấm gương. Dù nhìn từ xa Emma vẫn có thể thấy rằng nó tuyệt đẹp. Vòng gương được ốp trong khung vàng, tay cầm là một hình ovan dát vàng, bạc. Những hoa văn cầu kỳ được khảm chen những hạt ngọc li ty trên khung, và cho dù nằm trong bóng tối nhưng tấm gương tỏa ra một thứ ánh sáng chói lọi. Chắc chắn đó là Gương Thần Amoret, bị mụ Tilpin đánh cắp và bị Joshua làm bể. Xem ra bà cô Venetia đang cố hàn gắn lại nó.
Làm sao mình có thể tới được đó? Emma nhảy lách chách dọc theo bậu cửa sổ. Cô bé quá nhỏ để mổ vỡ kính. Phải chi mình chọn biến thành một con đại bang hay một con kền kền nhỉ. Cô bé thầm nghĩ. Ước thì sẽ thấy thôi. Và thế là cô bé thấy một con chim đại bang xòe đôi cánh đen rộng như một tấm áo chùng in trên nền trời, với một cái đầu trắng và một cặp chân vàng sắc như lưỡi dao.
Emma rùng mình vươn rộng cánh. Có thể nghe thấy tiếng lông của mình kêu lắc rắc trong lúc chúng mọc và lan rộng ra chóng mặt. Giờ cô bé đã cao đến mức có thể nhìn xa hơn vào phòng làm việc của bà cô Venetia và đã to ngang đến độ không còn đậu được trên bậu cửa sổ chật hẹp nữa. Một tiếng kêu khốc phọt ra từ cái cổ họng trắng của cô bé đưa con chim bay vút lên không. Liệng quanh một thoáng, ở cao tít bên trên khu vườn bên cạnh, cô bé ước lượng khung kính cửa sổ bằng thị lực tuyêt hảo của mình, và rồi xà xuống, nhanh đến mức tưởng như nín thở. Một tiếng đoàng, vang dội tựa như tiếng súng trường khi đôi chân chim đạp bể kính.
Gập cánh lại, Emma lướt qua khung cửa sổ bể nát, vươn chân ra quặp lấy tấm gương. Rồi ngoặt một phát nhanh như tia chớp, cô bé lại bay chíu qua căn phòng vút ra ngoài trời. Thành công khiến cô bé vuột lên một tiếng reo đắc thắng, và trong khi bay lấy độ cao cô bé thấy cửa sổ của cả ba ngôi nhà số 13 đồng loạt mở tung.
“Đại bàng!” bà cô Venetia thét lạc giọng từ tầng trên cùng của ngôi nhà kiêu sa của mụ. “Nó lấy tấm gương của Titania.”
“Đại bàng cướp!” Eric hét từ cửa sổ bên dưới của mụ. “Giết nó!’
“Để ta!” bà cô Eustacia thét, xuất hiện với một chiếc nỏ ở một cửa sổ của ngôi nhà chính giữa. Một tia chớp bằng sắt rít sượt qua đầu Emma. Cô bé rú lên khiếp đảm, suýt nữa thì đánh rơi tấm gương.
“Hụt!” bà cô Lucretia gào rống từ cửa sổ ngôi nhà thứ ba.
Trước khi có thể bị tia chớp sắt thứ hai đâm trúng, Emma đã vụt ra khỏi tầm bắn và bay tít trên bầu trời thành phố. Ngôi nhà của Charlie rất dễ nhận ra nhờ có cây dè ở trước nhà. Emma xé không khí hạ xuống đúng ngọn cây. Đại bàng là loài chim to nặng và cành cây mà Emma đáp xuống kêu răng rắc dưới trọng lượng của cô bé và nhún bập bênh bên cửa sổ dưới mái hiên.
Áp chặt vô kính cửa sổ là một bàn tay. Đằng sau bàn tay ấy là Charlie Bone. Thằng này đang ngồi trong một cái ghế, trông hình như đang ngủ gà gật. Emma dùng mỏ gõ tấm kính và mắt Charlie choàng mở ra. Nó ngó chối chết vô con chim khổng lồ lọt vô khung cửa kính, lông chim vương đầy vụn thủy tinh, và nó nhín thấy tấm gương thần quặp chặt trong những móng vuốt bàn chân trái của con vật.
Charlie thận trọng mở cánh cửa sổ ra, để con chim không rớt ra khỏi cành cây. “Em, phải bồ không?” nó nói, kinh ngạc trước kích cỡ hoành tráng của cô bạn.
Emma thò bàn chân qua khung cửa sổ mở và Charlie e ngại nhận lấy tấm gương từ những móng vuốt trông gớm chết kia. Trước khi nó kịp cảm ơn con chim, cô bạn đã bay vụt đi khỏi ngọn cây lắc lư, phóng vút lên trời cao.
Charlie ngồi lại vô ghế, dòm sựng vô tấm gương. Nó tự hỏi không biết Emma đã xoay sở lấy được nó bằng cách nào. Con chim đại bàng đó lông dính đầy miếng kính. Hay là cô bạn đã liều mạng đi lấy tấm gương này? Nó hi vọng là không phải, bởi vì tấm gương vẫn còn bị nứt, vẫn còn vô dụng. Nó sẽ không bao giờ đi vô được xứ Badlock bằng tấm gương bể này.
Từ ngoài đường có tiếng gọi. “Charlie, cho mình vô.” Nó nhìn ra cửa sổ còn để mở và thấy Emma đang đứng dưới vỉa hè, đã gần hoàn hình xong, có điều tóc tai còn rối bời.
“Chờ chút.” Charlie nói. Nó chạy vù xuống tầng trệt của ngôi nhà và mở cửa trước ra.
Emma lật đật bước vô. Những mảnh kính nhỏ còn vương trên mái tóc dài và có vài vết xước trên trán cô bé.
“Bồ bình yên chứ. Em?” Charlie hỏi, vẫn còn bàng hoàng trước những gì cô bé vừa làm.
“Mình đã định là sẽ tìm bức tranh cho bồ,” cô bé vừa nói vừa hớp không khí. “Phù, xin lỗi, không thể lấy lại hơi.”
“Rất... è, cảm ơn, Em.” Nó không biết làm thế nào để nói với cô bạn rằng tấm gương vô dụng. “Chưa ai dậy đâu, bồ muốn lên gác xép không?”
“Gác xép? Bồ đã ngủ trên đấy à, Charlie?”
Nó đỏ mặt. " Chắc vậy. "
" Sao kỳ vậy? Có gì cho mình uống với được không? "
" Ừm, ừ. " Charlie ngọ nguậy chân này chân kia. " Bồ tự pha lấy đi nha, mình phải trở lại trên lầu đây. "
" Kỳ vậy? " Emma thất vọng. Charlie có vẻ không hồ hởi với tấm gương.
" Bởi vì mình đang đợi một người. " Charlie nói trong khi đã vù lên lầu. " Mình xin lỗi, rất khó giải thích. Gặp lại bồ ở trên đó nhé. "
Không hiểu nổi, Emma vô nhà bếp tự pha cho mình chút sô cô la nóng thay vì trà. Dậy sớm quá khiến cô bé cảm thấy đói kinh khủng nên tự lấy vài cái bánh quy trong hộp thiếc để trên nóc chạn.
Đến lúc Emma lên gác xép, Charlie đã ngồi lại hẳn hỏi trên ghế bập bênh và đặt bàn tay lên cửa sổ. Đúng chính xác ở vị trí như trước, tất cả năm ngón xòe bẹt ra trên tấm kính. Tấm gương đặt trên bàn bên cạnh nó.
" Charlie, bồ đang làm gì đó? " Emma hỏi, càng lúc càng thắc mắc hơn.
" Cô Alice đã khởi động đó, " Charlie nói, để lộ vẻ bồn chồn. " Cô ấy đã cảm nhận được bàn tay của Matilda ở ngay chỗ này, và đã nghe được giọng nói của bạn ấy. "
" Matilda? " Emma chẳng biết ai có tên như thế.
" Bé gái ở xứ Badlock.” Charlie nói với vẻ hơi thiếu kiên nhẫn.
“Xin lỗi, mình quên bạn ấy rồi.” Emma thú nhận.
Charlie rõ ràng chưa quên.
“Ý mình là hình như mình chưa bao giờ gặp bạn ấy,” Emma chống chế. “Nhưng sao bồ cứ phải áp tay ở đó? Nó tím tái rồi kìa.”
“Bạn ấy muốn nói chuyện với mình,” Charlie giải thích, “Với lại, Em, mình thật sự muốn gặp lại bạn ấy.”
“Usuuuu.” Cuối cùng Emma đã hiểu ra. “Chính vi vậy bồ muốn trở lại xứ Badlock chứ gì?”
“Mình muốn cứu Billy,” Charlie nhấn mạnh, “Nhưng mình cũng hy vọng gặp được Matilda.”
“Thử dùng tấm gương coi.”
“Nó nứt rồi, Em, mình xin lỗi, nhưng mình không nghĩ là nó linh nghiệm.”
Vẻ mặt đau khổ của Emma khiến Charlie thấy hối hận, nhưng đột nhiên, mặt cô bé sáng rỡ lên và chỉ vô tấm gương, “Charlie, coi kìa.”
Suốt cả đêm, Claerwen đã đồng hành cùng Charlie, nằm ổ trong miếng giẻ lau mà cô Alice đã để lại trên kệ. Bây giờ con bướm trắng đang cuồng nhiệt bay xà quần bên trên tấm gương bể. CHuyển động nhanh của đôi cánh bạc bắt đầu tạo ra những luồng ánh sáng phản chiếu với ánh sáng tỏa ra từ tấm gương. Mặt gương trở nên sáng đến nỗi bọn chúng không thể nhìn vô đó được.
“Nó đang chữa gương đó!” Tức thời quên phéng tấm kính cửa sổ, Charlie nheo mắt nhìn chằm chằm vô mặt gương. Nhưng nó sáng quá. Charlie phải đứng lên, dụi mắt.
Thị lực của Emma vẫn còn tinh tường như thị lực của chim. Cô bé không thể ngoảnh ánh nhìn ra khỏi tấm gương đang chói lọi. “Nó đang mờ dần, Charlie.” Emma nói, “Đường nứt. Vết nứt đang biến mất dần.”
“Claerwen, bồ làm được rồi,” Charlie trầm trồ tán thưởng con bướm trắng. Khi xứ mệnh đã xong, cô nàng liền rời tấm gương đến đậu trên vai Charlie.
Ánh sáng chói lòa trở nên dịu bớt và cuối cùng mắt Charlie có thể nhìn vô tấm gương. Dĩ nhiên, không có gì trong đấy. Không có hình phản chiếu gương mặt nó hay bức tường đằng sau nó. Gương thần Amoret vốn không vận hành kiểu như thế.
“Bây giờ nó có thể giúp bồ chu du không, Charlie?” Emma hỏi, khấp khởi hy vọng. “Giống kiểu chu du của bà Amoret ấy?”
Charlie gật đầu. “ Mình đã sử dụng tấm gương một lần và đã nhìn thấy ba mình rồi. Lúc đó mình đã sắp tới được chỗ ba, nhưng vì có bùa yểm ba mình nên mình không thể. Sau đó Olivia giật tấm gương khỏi tay mình vì mình la thét khủng khiếp đến nỗi Olivia cứ tưởng là mình sắp chết.”
“Mình sẽ không giật ra đâu,” Emma hứa. “Trừ phi bồ thấy mình cần phải.”
“Không, đừng. Đừng chạm vô tấm gương, cho dù có gì xảy ra. Claerwen sẽ mang tụi mình, mình với Billy, trở về.”
Emma nhìn xoáy vô mặt Charlie. Nếu như trông có ai bị ếm bùa thì đúng là thằng bạn Charlie đây. Cô bé dằn vặt không biết mình có nên để Charlie đi vô xứ Badlock hay không, khi nhìn bộ dạng thẳng bạn mình mất hồn và sắp đi tới nơi như thế kia.
“Hãy nhìn vô tấm gương,” Charlie nói đều đều, nhớ lại những lời của Ông cậu Paton. “Nhìn vô tấm gương, và người mà ta ước ao gặp sẽ hiện ra. Nếu ta muốn tìm người đó, hãy nhìn một lần nữa, và tấm gương sẽ mang ta tới chỗ họ, cho dù ta đang ở đâu.”
“Vậy tất cả những gì bồ cần làm là nghĩ vể Billy, và bồ sẽ thấy nó trong gương và rồi thì...” Emma nín thở, “ Và rồi thì bồ sẽ chu du.”
“Đúng.” Giọng Charlie trượt đi, đến nỗi Emma hầu như không nghe thấy.
Charlie không nghĩ về Billy. Nó luôn thấy gương mặt mà nó muốn gặp lại kể từ khi nó trở về từ cuộc hành trình đầu tiên vô quá khứ.
“Nó có ở đó không?” Emma hỏi, cô bé đã trông thấy một màn sương bốc lên trên bề mặt tấm gương.
“Hừm,” Charlie lầm bầm lơ đãng, nhưng gương mặt bắt đầu hiện ra trong tấm gương không phải là Billy. Mà là một bé gái – một cô bé có đôi mắt màu nâu đậm và những lọn tóc đen mềm mại.
“Matilda.” Charlie lầm bầm.
Một luồng điện truyền qua những ngón tay của Charlie và nó suýt làm rơi tấm gương. Đoạn tay cầm trở nên nóng đỏ và Charlie phải dùng cả hai tay mà cầm chắc lấy.
“Cái gì đó?” Emma hét, hoảng sợ trước nét mặt nhăn vật vã của Charlie.
Và rồi nó chu du.
Emma ngó trơ khấc vô khoảng không gian Charlie vừa chiếm giữ cách đây vài phút. Cô bé không ngờ Charlie lại biến mất hoàn toàn như vậy. Có một lần cô bé thấy Charlie chu du, thì lần đó thân xác nó vẫn ở nguyên chỗ nó đứng, chỉ có tâm trí nó chu du mà thôi.
Charile đã tiến bộ. Hẳn là tài phép của nó đã mạnh lên, Emma nghĩ, bởi vì hành trình chu du của nó bây giờ diễn ra cực nhanh.
Nhưng đối với Charlie thì sự việc không hề như thế chút nào.
Danh sách chương