Bốn người thong thả đi xuống dãy phố đầu làng. Trời lạnh đã dần dịu. Gió thổi chỉ thoáng nhẹ, đẩy dồn những dải sương mỏng phớt trong thung. Từ lối đi trên này trông xuống, thấy mập mờ những lớp nhà nhỏ ở sau những khu vườn lưa thưa. Bên kia xóm làng, vì đồi núi cản đường, lớp sương mù chập chờn bay trở lại.
Bốn người khiến mấy con chó ngồi lại trong xe rồi cùng tiến lên lối đi có những tấm bia mồ xây hai bên cạnh; lối đi dẫn đến cửa nhà thờ. Nhà thờ dựng trên một khu đất cao như gò, cây mọc chung quanh sầm uất và cách xa làng xóm năm trăm thước.
Trong một miền như ở đây, không hiếm gì những cảnh thi nhân đã tả. Người ta thường thấy “những nhà thờ cô tịch, bé nhỏ ở nơi bờ cát, nguyện cầu cùng đấng đã dựng nên các núi non”. Kiến trúc không rõ theo một lối nào, cửa phần nhiều nhà thờ xây kiểu gô-tích, lòng nhà thờ theo kiểu cổ điển bản xứ và những hàng lang trở lại theo kiểu normand.
Nhà thờ Dannow này lại ra vẻ một cái nhà kho nghèo nàn, duy chỉ có những ngôi lăng mộ nguy nga của dòng họ Hammond làm cho có bề thế. Một vùng bóng tối sâu thẳm lạnh lùng. Swanhild thắp đèn lên soi, còn Luna lặng lẽ và trang nghiêm thì khởi công xem xét. Dải ánh sáng mỏng manh ở chiếc đèn chiếu qua một lượt những tên khắc trên đá lấp lánh rồi lại lần lượt biến ngaỵ Và lần lượt hiện lên tượng người Thập tự binh trong khung ổ(#1), rồi những hình tạc ở dưới đất, và trên tường – những tường đá họa chân dung Warlock và bà vợ – hiện lên giữa sự quang vinh lộng lẫy những nét chạm trổ uốn éo cùng những biểu hiện thếp vàng. Rồi đến cái bàn thờ nhỏ trong bóng tối hiện ra với bản chép lai bức tranh dầu của James Clarek cùng một tấm bia ghi nhiều tên họ Ở giữa những sự vinh hạnh của những hình lá kết chung quanh.
Luna không nói qua một tiếng, bao nhiêu chăm chú dồn cả trên đôi mắt mở tọ Cô đi dạo một lượt khắp lòng nhà thờ, dừng gót trước bàn thờ rồi lại đến đứng trước bức hình tạc nổi mà Swanhild đã nói trước. Cô tỉ mỉ đưa ngón tay sờ theo các nét tròn rũa ở mình cái vật nằm dưới chân người Thập tự binh.
Cô thấp tiếng xuống nói:
- Kỳ dị lắm!
Nói rồi Luna lại chăm chú xem xét. Cô trầm ngâm trước tấm biển đồng nhỏ gắn vào mặt tường: trên biển khắc tên Reginald Hammond, mệnh chung năm 1918.
Đoạn cô ta quay lại nói:
- Ta thử đến xem bức chân dung cụ ẩn tu xem có biết thêm được gì về bốn chân của con vật kỳ dị này không, đi!
Bức chân dung khắc trổ trên một phiến đá đóng kháp liền mặt đất. Gođard kéo tấm thảm che trên mặt phiến đồng lên thì thấy lộ ra một người mặc y phục thầy tu; dưới chân người ấy là một con vật dị kỳ không thể mô tả được. Bên dưới đó là một câu giải thích không còn đọc rõ được những gì. Trông con vật thì thì cái đầu gần giống như đầu chó, mõm dãi và hai tai vểnh. Mình nó thon ở phần lưng phía bụng, cái đuôi uốn vòng khúc rắn có một túm lông ở tận cuối như thường thấy ở đuôi những ma quỷ vẽ trong các bức tranh.
Luna quỳ xệp xuống, lấy ngón tay lần theo các đường nét khác. Cô bảo những người đi theo:
- Con vật này xem ra như có bốn chân. Xưa kia, những tài liệu về vạn vật thường thiếu sót, không được rõ rệt, các họa sĩ ngày trước chỉ hay lấy kiểu giống chó dùng vào tác phẩm mình. Song, ở đây, cái đuôi thực lạ lùng, mà những cái chân kia, thì… Hừm! Thực là khó hiểu quá!
Oliver và Swanhild theo cô đến xem chỗ mộ đá táng Warlock. Ở đấy, sừng sững hai bức tượng vị ẩn tu và người vợ, mặt mày nghiêm nghị, y phục cứng thẳng, bàn tay chắp lại trong dáng cầu nguyện đã từ bốn thế kỷ naỵ Swanhild bảo Luna để ý nhìn cái hình một đứa bé nằm trên một cái sọ người chết.
Oliver giảng:
- Theo lời người vùng này, đứa bé là một trong những kẻ bị thí mạng cho quỷ Satan. Nhưng chính thực ra thì đây là một đứa con của Warlock. Kìa, cô đứng dậy đi! (Chàng thấy Luna đang vừa quỳ vừa lê gối để xem kỹ những phiến đá lát dưới phần mồ). Cô đừng quỳ như thế nữa!
Cô ngoảnh lên, mỉm cười:
- Tôi thử tìm xem có một đường nào để trong mồ này được không.
- Trời ơi! Chẳng lẽ cô lại cho rằng ban đêm Magnus ở trong này ra ngoài được sao? - Tôi chỉ không coi thường các điều trong những truyện truyền lại.
Cô gấp gối ngồi tì trên gót rồi mở túi lấy cái cành cây ra. Nhưng không thấy nó động đậy. Cô đứng lên nói:
- Cụ ẩn tu lúc này xem chừng được yên nghỉ.
Swanhild chỉ những hàng chữ trên tấm bia mồ bảo cô:
- Thế kia thì cô có dám chắc ông cụ được yên ổn thực không?
Tấm bia ghi tên Warlock và tên vợ cùng với ngày tháng hai người mệnh chung: ngày 8 và ngày 10 tháng hai năm 1526. Và phía dưới những hàng chữ này:
Ân xá đọc năm kinh Pater (Lạy cha) và năm kinh Ave (Kinh mừng) và một kinh Credo (Tin kính) là hai vạn sáu ngàn năm và hai mươi sáu ngày.
Swanhild cắt nghĩa thêm:
- Hai vạn sáu ngàn năm với hai mươi sáu ngày lửa luyện tội(#2)ân xá cho kẻ nào đọc những kinh này để chỉ cho linh hồn ông cụ bà cụ.
Luna gật đầu:
- Vâng, quả có nhiều ý tứ trong lời đó thực.
Oliver hỏi:
- Nhưng cô có tin rằng cách ấy có được như nguyện gì không?
- Một lòng tin tưởng chí thành bao giờ cũng được như nguyện, nhưng tôi không tin ở hiệu lực cái lời hứa tiền trao cháo múc. Dẫu sao, những lời ghi trên bia này cũng kỳ dị, bởi lẽ rằng hồi ấy, một ân xá lâu dài đến thế là một việc bất thường. Chẳng biết ông cụ Warlock đã phạm một tội ác nào đến nỗi phải dụ người sau bằng một câu hứahẹn tốt đẹp đến thế để mong chuộc tội.
Swanhild nhắc:
- Hay tại cái chết của bà vợ và của đứa con.
Luna bĩu môi lắc đầu. Đôi mắt nàng lại long lanh như trước. Mớ tóc sáng với khuôn mặt linh động của nàng nổi lên trên màu xám mờ của những phiến đá mà nàng đang tựa lên với một vẻ trầm ngâm. Tiếng nàng nói vang lên trong bầu yên lặng.
- Cụ Warlock sinh ra đời, con quái vật cũng đã làm được nhiều tội ác từ trước rồi! Vậy ông cụ không phải chịu trách nhiệm nào về những việc xảy ra sau hồi đó, những việc xem ra không thể nào tránh được. Ông cụ sau này vốn là người có gan khinh thường phép đạo đến nước đã dám học tập làm những tà thuật mà hội thánh vẫn nghiêm cấm; ấy thế mà phải kêu cầu lấy sự ân xá, thì tất nhiên ông cụ tự biết mình đã phạm một thứ tội nào khác, một tội có tính cách khác hẳn kia!
Swanhild vội hỏi:
- Thế, nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là… cái bia này làm chứng rằng, những lời người ta bảo cụ Warlock thí nhiều mạng người để cúng con quái vật, không phải là những lời nói ngoa. Nếu ta cứ chỗ ấy mà tìm được manh mối về việc này thì chắc ta đã dò la được con đường chính của sự bí mật.
Gođard gặng:
- Nếu tìm được?
- Phải, nếu tìm được. Thế mới phiền!… Vì theo những điều các ông cho tôi biết lúc nãy, thì trong cái phòng giữ kín cũng không còn mấy tí những vật giúp ích cho ta, phải không?
- Vâng, tôi tưởng cũng không còn mấy. Nói tóm lại, cô cho rằng con quái vật chính là một con quỷ mà cụ Warlock phụ lên rồi cứ thế mà thành hình sống mãi cả sau khi cụ Warlock chết đi phải không?
- Ấy là theo lời tục truyền thì như thế đấy. Dù sao, sự cầu van xin ân xá ý nghĩa vẫn rành rành ra đấy, mà cái bức ảnh tượng kia thì…
Nàng ngừng lại, đưa mắt về phía giữa nhà thờ.
Sanhild lo ngại hỏi:
- Thì sao kiả Cô thấy điều gì đáng quan tâm trong đó?
- Một điều mà tôi không thể hiểu được. Lúc nãy tôi không muốn bận trí về điều ấy vội, tôi hãy trở lại xét việc cụ Warlock xem đã. Chẳng biết ông cụ đã phạm thứ tội ác quái gở nào đến nỗi phải cần ân xá cứu chuộc? (Vừa lẩm bẩm nói, cô vừa nhìn bức tượng ở ngôi mộ). Ông cụ không có vẻ độc ác, trông chỉ nghiêm nghị là cùng. Dù sao, xem chừng ông cụ vẫn được yên nghỉ, mà đã thế thì…
Swanhild, là người khôn lớn trong cái nơi người ta tin tưởng rằng “người chiến sĩ can trường vẫn được hưởng ít nhiều sự xá tội”, thấy vậy liền cãi:
- Ông cụ đã đánh trận ở Bosworth, giữ chức hiệu cờ cho vua Henry thứ VIII, và được phong hiệp sĩ trên chiến trường. Cô trông kia kìa, mũ giáp và gươm của ông cụ treo trên tường kia.
Oliver ôn tồn:
- Ồ! Swan! (Giọng chàng có ý trách móc) Swan! Miss Bartendale mà đã cho rằng cụ Warlock là người phạm tội ác, thì hẳn sự thực quả có như thế.
Luna cũng cãi:
- Không đâu, tôi có nói thế đâu? Song chắc hẳn trong cái hồi từ lúc chiến đấu oanh liệt ở Bosworth đến ngày ông cụ mất, ông cụ cũng có làm những chuyện phù phép tai hại. Thời đại thứ nhất của triều Tudor, cũng như của triều Windsor, việc đáng ghi nhất trong lịch sử hồi ấy là sự tiến triển trí thức rất mạnh. Nhiều bậc thông thái uyên bác đã khám phá được nhiều cái bí mật của hóa công. Bên họ, có những trí thức khác, trong óc chứa chất những chuyện ma quái, đâm đầu đi làm những việc kinh khủng độc ác của thời đại cổ. Ngày nay ta không thể tưởng tượng được cái học pháp thuật đã quyến rũ những bậc thượng lưu trí thức tới mức nào. Mà một con quái vật do một nhà pháp sư dựng thành hình trên trần gian có thể sống mãi được lắm và có thể quấy nhiễu con cháu nhà pháp sư sau này… Cô vừa bảo rằng cái mũ này là của cụ Warlock phải không? (Cô đến bên, đưa ngón tay lên mặt sắt nổi u và nói tiếp). Mục đích của tôi là tìm thấy chuyện giữ kín của con người đã đội cái mũ này đây.
Oliver :
- Nhưng Warlock chết đã bốn trăm năm rồi kia mà!
Luna đáp:
- Bốn trăm hay bốn ngàn cũng vậy, cũng không có gì đáng ngại khi đã là việc làm cho hai linh hồn người ta giao tiếp với nhau.
Swanhild hỏi:
- Thế ra cô định gọi hồn ông cụ về sao?
- Không đâu, cô em ạ. Tôi không hề bao giờ nhúng tay làm cái trò chơi cổ xưa và nguy hiểm là ngồi trong một buồng tối mà đợi thấy một bóng hiện lên. Bây giờ ta thử vào trong cái phòng bí mật xem có thật quân lính của Cromwel ngày xưa không còn để lại cái gì đáng chú ý nữa không nào.
Lúc đi qua, Luna lại đưa mắt nhìn các bức hình khắc ở giũa nhà thờ rồi để mặc Oliver với Swanhild cứ ra trước, cô quay trở vào xem xét bức hình lại một lần nữa. Được chừng một phút cô cũng ra theo và đi ở giữa hai người. Cô có vẻ mệt nhọc nên hai người không dám hỏi câu nào. Bỗng cô lẩm nhẩm nói:
- Khiếp! Trời rét quá đi mất!
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau. Họ nhận thấy giọng nói Luna nhỏ yếu đi, như là vừa gặp một sự kích động mạnh. Trong cái khoảng mấy giây đồng hồ cô trở lại xem bức hình khắc kia, cô đã nhận rõ những điều gì mà đến nỗi biến đổi hẳn người như thế được?
Chú thích:
(1-) Khung ổ: Một khoảng trống đục vào bề dày của bức tường, để đặt những pho tượng
(2-) Luyện tội: Một nơi hành phạt hữu hạn những linh hồn có tội trước khi được lên thiên đàng, khác với hỏa ngục là nơi hành phạt, vĩnh viễn (Gia tô giáo).
Bốn người khiến mấy con chó ngồi lại trong xe rồi cùng tiến lên lối đi có những tấm bia mồ xây hai bên cạnh; lối đi dẫn đến cửa nhà thờ. Nhà thờ dựng trên một khu đất cao như gò, cây mọc chung quanh sầm uất và cách xa làng xóm năm trăm thước.
Trong một miền như ở đây, không hiếm gì những cảnh thi nhân đã tả. Người ta thường thấy “những nhà thờ cô tịch, bé nhỏ ở nơi bờ cát, nguyện cầu cùng đấng đã dựng nên các núi non”. Kiến trúc không rõ theo một lối nào, cửa phần nhiều nhà thờ xây kiểu gô-tích, lòng nhà thờ theo kiểu cổ điển bản xứ và những hàng lang trở lại theo kiểu normand.
Nhà thờ Dannow này lại ra vẻ một cái nhà kho nghèo nàn, duy chỉ có những ngôi lăng mộ nguy nga của dòng họ Hammond làm cho có bề thế. Một vùng bóng tối sâu thẳm lạnh lùng. Swanhild thắp đèn lên soi, còn Luna lặng lẽ và trang nghiêm thì khởi công xem xét. Dải ánh sáng mỏng manh ở chiếc đèn chiếu qua một lượt những tên khắc trên đá lấp lánh rồi lại lần lượt biến ngaỵ Và lần lượt hiện lên tượng người Thập tự binh trong khung ổ(#1), rồi những hình tạc ở dưới đất, và trên tường – những tường đá họa chân dung Warlock và bà vợ – hiện lên giữa sự quang vinh lộng lẫy những nét chạm trổ uốn éo cùng những biểu hiện thếp vàng. Rồi đến cái bàn thờ nhỏ trong bóng tối hiện ra với bản chép lai bức tranh dầu của James Clarek cùng một tấm bia ghi nhiều tên họ Ở giữa những sự vinh hạnh của những hình lá kết chung quanh.
Luna không nói qua một tiếng, bao nhiêu chăm chú dồn cả trên đôi mắt mở tọ Cô đi dạo một lượt khắp lòng nhà thờ, dừng gót trước bàn thờ rồi lại đến đứng trước bức hình tạc nổi mà Swanhild đã nói trước. Cô tỉ mỉ đưa ngón tay sờ theo các nét tròn rũa ở mình cái vật nằm dưới chân người Thập tự binh.
Cô thấp tiếng xuống nói:
- Kỳ dị lắm!
Nói rồi Luna lại chăm chú xem xét. Cô trầm ngâm trước tấm biển đồng nhỏ gắn vào mặt tường: trên biển khắc tên Reginald Hammond, mệnh chung năm 1918.
Đoạn cô ta quay lại nói:
- Ta thử đến xem bức chân dung cụ ẩn tu xem có biết thêm được gì về bốn chân của con vật kỳ dị này không, đi!
Bức chân dung khắc trổ trên một phiến đá đóng kháp liền mặt đất. Gođard kéo tấm thảm che trên mặt phiến đồng lên thì thấy lộ ra một người mặc y phục thầy tu; dưới chân người ấy là một con vật dị kỳ không thể mô tả được. Bên dưới đó là một câu giải thích không còn đọc rõ được những gì. Trông con vật thì thì cái đầu gần giống như đầu chó, mõm dãi và hai tai vểnh. Mình nó thon ở phần lưng phía bụng, cái đuôi uốn vòng khúc rắn có một túm lông ở tận cuối như thường thấy ở đuôi những ma quỷ vẽ trong các bức tranh.
Luna quỳ xệp xuống, lấy ngón tay lần theo các đường nét khác. Cô bảo những người đi theo:
- Con vật này xem ra như có bốn chân. Xưa kia, những tài liệu về vạn vật thường thiếu sót, không được rõ rệt, các họa sĩ ngày trước chỉ hay lấy kiểu giống chó dùng vào tác phẩm mình. Song, ở đây, cái đuôi thực lạ lùng, mà những cái chân kia, thì… Hừm! Thực là khó hiểu quá!
Oliver và Swanhild theo cô đến xem chỗ mộ đá táng Warlock. Ở đấy, sừng sững hai bức tượng vị ẩn tu và người vợ, mặt mày nghiêm nghị, y phục cứng thẳng, bàn tay chắp lại trong dáng cầu nguyện đã từ bốn thế kỷ naỵ Swanhild bảo Luna để ý nhìn cái hình một đứa bé nằm trên một cái sọ người chết.
Oliver giảng:
- Theo lời người vùng này, đứa bé là một trong những kẻ bị thí mạng cho quỷ Satan. Nhưng chính thực ra thì đây là một đứa con của Warlock. Kìa, cô đứng dậy đi! (Chàng thấy Luna đang vừa quỳ vừa lê gối để xem kỹ những phiến đá lát dưới phần mồ). Cô đừng quỳ như thế nữa!
Cô ngoảnh lên, mỉm cười:
- Tôi thử tìm xem có một đường nào để trong mồ này được không.
- Trời ơi! Chẳng lẽ cô lại cho rằng ban đêm Magnus ở trong này ra ngoài được sao? - Tôi chỉ không coi thường các điều trong những truyện truyền lại.
Cô gấp gối ngồi tì trên gót rồi mở túi lấy cái cành cây ra. Nhưng không thấy nó động đậy. Cô đứng lên nói:
- Cụ ẩn tu lúc này xem chừng được yên nghỉ.
Swanhild chỉ những hàng chữ trên tấm bia mồ bảo cô:
- Thế kia thì cô có dám chắc ông cụ được yên ổn thực không?
Tấm bia ghi tên Warlock và tên vợ cùng với ngày tháng hai người mệnh chung: ngày 8 và ngày 10 tháng hai năm 1526. Và phía dưới những hàng chữ này:
Ân xá đọc năm kinh Pater (Lạy cha) và năm kinh Ave (Kinh mừng) và một kinh Credo (Tin kính) là hai vạn sáu ngàn năm và hai mươi sáu ngày.
Swanhild cắt nghĩa thêm:
- Hai vạn sáu ngàn năm với hai mươi sáu ngày lửa luyện tội(#2)ân xá cho kẻ nào đọc những kinh này để chỉ cho linh hồn ông cụ bà cụ.
Luna gật đầu:
- Vâng, quả có nhiều ý tứ trong lời đó thực.
Oliver hỏi:
- Nhưng cô có tin rằng cách ấy có được như nguyện gì không?
- Một lòng tin tưởng chí thành bao giờ cũng được như nguyện, nhưng tôi không tin ở hiệu lực cái lời hứa tiền trao cháo múc. Dẫu sao, những lời ghi trên bia này cũng kỳ dị, bởi lẽ rằng hồi ấy, một ân xá lâu dài đến thế là một việc bất thường. Chẳng biết ông cụ Warlock đã phạm một tội ác nào đến nỗi phải dụ người sau bằng một câu hứahẹn tốt đẹp đến thế để mong chuộc tội.
Swanhild nhắc:
- Hay tại cái chết của bà vợ và của đứa con.
Luna bĩu môi lắc đầu. Đôi mắt nàng lại long lanh như trước. Mớ tóc sáng với khuôn mặt linh động của nàng nổi lên trên màu xám mờ của những phiến đá mà nàng đang tựa lên với một vẻ trầm ngâm. Tiếng nàng nói vang lên trong bầu yên lặng.
- Cụ Warlock sinh ra đời, con quái vật cũng đã làm được nhiều tội ác từ trước rồi! Vậy ông cụ không phải chịu trách nhiệm nào về những việc xảy ra sau hồi đó, những việc xem ra không thể nào tránh được. Ông cụ sau này vốn là người có gan khinh thường phép đạo đến nước đã dám học tập làm những tà thuật mà hội thánh vẫn nghiêm cấm; ấy thế mà phải kêu cầu lấy sự ân xá, thì tất nhiên ông cụ tự biết mình đã phạm một thứ tội nào khác, một tội có tính cách khác hẳn kia!
Swanhild vội hỏi:
- Thế, nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là… cái bia này làm chứng rằng, những lời người ta bảo cụ Warlock thí nhiều mạng người để cúng con quái vật, không phải là những lời nói ngoa. Nếu ta cứ chỗ ấy mà tìm được manh mối về việc này thì chắc ta đã dò la được con đường chính của sự bí mật.
Gođard gặng:
- Nếu tìm được?
- Phải, nếu tìm được. Thế mới phiền!… Vì theo những điều các ông cho tôi biết lúc nãy, thì trong cái phòng giữ kín cũng không còn mấy tí những vật giúp ích cho ta, phải không?
- Vâng, tôi tưởng cũng không còn mấy. Nói tóm lại, cô cho rằng con quái vật chính là một con quỷ mà cụ Warlock phụ lên rồi cứ thế mà thành hình sống mãi cả sau khi cụ Warlock chết đi phải không?
- Ấy là theo lời tục truyền thì như thế đấy. Dù sao, sự cầu van xin ân xá ý nghĩa vẫn rành rành ra đấy, mà cái bức ảnh tượng kia thì…
Nàng ngừng lại, đưa mắt về phía giữa nhà thờ.
Sanhild lo ngại hỏi:
- Thì sao kiả Cô thấy điều gì đáng quan tâm trong đó?
- Một điều mà tôi không thể hiểu được. Lúc nãy tôi không muốn bận trí về điều ấy vội, tôi hãy trở lại xét việc cụ Warlock xem đã. Chẳng biết ông cụ đã phạm thứ tội ác quái gở nào đến nỗi phải cần ân xá cứu chuộc? (Vừa lẩm bẩm nói, cô vừa nhìn bức tượng ở ngôi mộ). Ông cụ không có vẻ độc ác, trông chỉ nghiêm nghị là cùng. Dù sao, xem chừng ông cụ vẫn được yên nghỉ, mà đã thế thì…
Swanhild, là người khôn lớn trong cái nơi người ta tin tưởng rằng “người chiến sĩ can trường vẫn được hưởng ít nhiều sự xá tội”, thấy vậy liền cãi:
- Ông cụ đã đánh trận ở Bosworth, giữ chức hiệu cờ cho vua Henry thứ VIII, và được phong hiệp sĩ trên chiến trường. Cô trông kia kìa, mũ giáp và gươm của ông cụ treo trên tường kia.
Oliver ôn tồn:
- Ồ! Swan! (Giọng chàng có ý trách móc) Swan! Miss Bartendale mà đã cho rằng cụ Warlock là người phạm tội ác, thì hẳn sự thực quả có như thế.
Luna cũng cãi:
- Không đâu, tôi có nói thế đâu? Song chắc hẳn trong cái hồi từ lúc chiến đấu oanh liệt ở Bosworth đến ngày ông cụ mất, ông cụ cũng có làm những chuyện phù phép tai hại. Thời đại thứ nhất của triều Tudor, cũng như của triều Windsor, việc đáng ghi nhất trong lịch sử hồi ấy là sự tiến triển trí thức rất mạnh. Nhiều bậc thông thái uyên bác đã khám phá được nhiều cái bí mật của hóa công. Bên họ, có những trí thức khác, trong óc chứa chất những chuyện ma quái, đâm đầu đi làm những việc kinh khủng độc ác của thời đại cổ. Ngày nay ta không thể tưởng tượng được cái học pháp thuật đã quyến rũ những bậc thượng lưu trí thức tới mức nào. Mà một con quái vật do một nhà pháp sư dựng thành hình trên trần gian có thể sống mãi được lắm và có thể quấy nhiễu con cháu nhà pháp sư sau này… Cô vừa bảo rằng cái mũ này là của cụ Warlock phải không? (Cô đến bên, đưa ngón tay lên mặt sắt nổi u và nói tiếp). Mục đích của tôi là tìm thấy chuyện giữ kín của con người đã đội cái mũ này đây.
Oliver :
- Nhưng Warlock chết đã bốn trăm năm rồi kia mà!
Luna đáp:
- Bốn trăm hay bốn ngàn cũng vậy, cũng không có gì đáng ngại khi đã là việc làm cho hai linh hồn người ta giao tiếp với nhau.
Swanhild hỏi:
- Thế ra cô định gọi hồn ông cụ về sao?
- Không đâu, cô em ạ. Tôi không hề bao giờ nhúng tay làm cái trò chơi cổ xưa và nguy hiểm là ngồi trong một buồng tối mà đợi thấy một bóng hiện lên. Bây giờ ta thử vào trong cái phòng bí mật xem có thật quân lính của Cromwel ngày xưa không còn để lại cái gì đáng chú ý nữa không nào.
Lúc đi qua, Luna lại đưa mắt nhìn các bức hình khắc ở giũa nhà thờ rồi để mặc Oliver với Swanhild cứ ra trước, cô quay trở vào xem xét bức hình lại một lần nữa. Được chừng một phút cô cũng ra theo và đi ở giữa hai người. Cô có vẻ mệt nhọc nên hai người không dám hỏi câu nào. Bỗng cô lẩm nhẩm nói:
- Khiếp! Trời rét quá đi mất!
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau. Họ nhận thấy giọng nói Luna nhỏ yếu đi, như là vừa gặp một sự kích động mạnh. Trong cái khoảng mấy giây đồng hồ cô trở lại xem bức hình khắc kia, cô đã nhận rõ những điều gì mà đến nỗi biến đổi hẳn người như thế được?
Chú thích:
(1-) Khung ổ: Một khoảng trống đục vào bề dày của bức tường, để đặt những pho tượng
(2-) Luyện tội: Một nơi hành phạt hữu hạn những linh hồn có tội trước khi được lên thiên đàng, khác với hỏa ngục là nơi hành phạt, vĩnh viễn (Gia tô giáo).
Danh sách chương