Trước khi tới đây, An Tranh vẫn tưởng rằng Huyễn Thế Trường Cư là nơi nhân loại sinh sống duy nhất trong Thương Man Sơn. Nếu không phải cùng đường hoặc là tránh họa mới bất đắc dĩ chạy tới thành trì này, bằng không ai tới nơi khỉ ho cò gáy này làm gì. Dân chúng của U Yến Thập Lục Quốc tránh chiến loạn hoặc là ác đồ bị đuổi giết tiến vào Thương Man Sơn đều có chung một suy nghĩ, dù sao ở đâu cũng là chết, không bằng liều mạng tiến vào Thương Man Sơn, có lẽ còn có cơ hội sống sót.
Địa thế chỗ này hiểm ác cằn cỗi, vì sao lại có người xây dựng đường đi? Hơn nữa vách núi bóng loáng, thậm chí xuất hiện bích họa?
Sự xuất hiện của bích họa cũng không có gì đặc biệt. Ở Nam Cương hoặc Tây Vực, nơi mà tồn tại Thiền Tông chính thống, bích họa khá là phát triển. Nhưng ở Bắc Cương, vùng đất hỗn loạn, rất ít khi xuất hiện. Nội dung của bích họa thường là miêu tả điển cố của tông môn, hoặc là ghi lại phong thổ, hoặc là ghi lại những chuyện quan trọng.
Mà bích họa An Tranh đang nhìn, miêu tả một trận chiến.
Vài bích họa đều vẽ cảnh chém giết máu tanh. Những người xuất hiện trên bức họa giống như là nô lệ, đang đào móc cái gì đó. Sau đó những thứ đen sì từ trong núi lao ra, giết sạch những nô lệ này. Tiếp theo hình như có quân đội vào núi, còn có người tu hành ngự kiếm bay lượn. Cuối cùng quân đội và người tu hành hình như dành được thắng lợi, những thứ đen sì kia bị bắt hoặc là bị giết.
Nhưng bích họa đằng sau có lẽ vì niên đại quá lâu, đã tróc mảng, nên không nhìn thấy gì. Ở sau lưng An Tranh, Lân Dực Điêu vẫn chưa chịu từ bỏ, vẫn dùng mỏ của mình đập vỡ vách núi, cho nên An Tranh không dám dừng bước. Hắn theo con đường một mực đi về phía trước, chỗ nào đứt đoạn thì theo vách hang trèo sang. Đi chừng hơn mười dặm, cái hang càng thêm rộng lớn.
Phía trước nứt ra một cái cái khe lớn, tạo thành hạp cốc. Từ chỗ cao nhìn xuống, cửa vào hai bên hạp cốc đều rất nhỏ. An Tranh là từ phía nam tiến vào, nhìn về phương bắc xa xa, có thể lờ mờ chứng kiến biên giới phía bắc của hạp cốc co lại, tạo thành một chỗ uốn lượn.
Tiến vào hạp cốc, mèo con liền chui ra khỏi ngực An Tranh, ánh sao trong mắt chuyển động rất nhanh. Nó hướng hạp cốc kêu vài tiếng, tựa hồ có chút hưng phấn.
An Tranh theo vách đá trèo xuống, phát hiện thực vật mọc ở hạp cốc khác với bên ngoài. Hắn kinh hỉ phát hiện, thực vật ở đây đều là dược thảo, hơn nữa không thiếu bạch phẩm và hồng phẩm. Khó trách bên ngoài lại có một con Lân Dực Điêu, hóa ra bên trong núi có một vườn dược thảo. Từ quy mô của vườn dược thảo này, hẳn là do người trồng, nhưng đã quá lâu rồi không có ai quản lý, cho nên dược thảo mọc rất loạn.
Từ chỗ này An Tranh có thể thấy được những viên đá nhỏ xếp thành bờ, nhưng đa số bị thảo dược bao phủ.
Hắn theo con đường nhỏ tiến về phía trước, càng xem càng kinh hãi. Do vườn thảo dược này đã quá lâu rồi không có ai hái, cho nên sinh trưởng rất tốt. Nhân sâm tứ phẩm khó gặp ở bên ngoài, trong này có ít nhất vài mẫu. Có nhân sâm, có Đại Ngọc Linh Chi, có Xà Cốt Thảo…nơi này chính là bảo tàng lớn.
Nếu có người phát hiện ra nơi này, đủ để dẫn tới một hồi chiến tranh cướp đoạt. Quân đội của U Yến Thập Lục Quốc sẽ vì nơi này mà ra sức. Nếu như người giang hồ biết, nơi này sẽ thành phần mộ của người tu hành.
Một số dược thảo phổ thông, do sinh trưởng trong điều kiện hoàn mỹ, đã tiến hỏa thành dược thảo thúy phẩm, thậm chí là bạch phẩm. Cho nên An Tranh bắt đầu hoài nghi, đất của nơi này thuộc về loại đất hiếm.
Đi được chừng ba dặm, An Tranh thấy một ngôi nhà tranh.
-Có ai không?
An Tranh thử gọi một tiếng, nhưng không có ai trả lời.
Hắn cẩn thận tiến lên phía trước, sau đó lờ mờ thấy có người ngồi ở sau cửa sổ. Hắn vội vàng dừng lại, chắp tay nói:
-Vãn bối ngộ nhập nơi này, thực sự không có ý quấy rồi tiền bối thanh tu, mong tiền bối thứ lỗi.
Đây không phải là nơi vô chủ, cho nên nếu An Tranh muốn xin một ít dược thảo mà chủ nhân không cho, vậy thì hắn chỉ định hỏi đường ra ngoài. Nhưng hỏi vài câu, người nọ đều không đáp. An Tranh nói một tiếng ‘Mạo phạm’, liền tiếp tục đi về phía trước. Đợi tới gần cửa sổ, hắn mới phát hiện người nọ đã thành thây khô, không biết đã chết bao lâu rồi.
Do dược thảo nơi này mọc tươi tốt, dược khí nồng đậm, nên thi thể của người này không bị thối rữa. Đó là một lão già khoảng bảy mươi tuổi, ngồi ở bên cửa sổ nhìn ra ngoài, hai mắt chưa bị hủy, nên có thể nhìn thấy vẻ cô đơn vô hạn của ông ta. Tuy thi thể đã già nua khô quắt, nhưng vẫn có thể nhìn ra được lúc còn sống người này có khuôn mặt không tầm thường, ẩn hiện khí phách.
-Hẳn là một vị tiền bối đại đức ẩn cư.
An Tranh trịnh trọng hướng thây khô cúi người:
-Vãn bối chỉ cầu một ít dược thảo, sẽ không phá hủy nơi này. Đây là tâm huyết nhiều năm của tiền bối, vãn bối không dám hủy.
Sau khi lạy xong, hắn nhìn xung quanh:
-Tuy không biết tiền bối là ai, nhưng nếu có người khác tới đây, có lẽ sẽ bất kính với tiền bối. Cho nên vãn bối muốn mang thi thể của tiền bối đi chôn, dựng một phần mộ cho ngài.
Hắn đánh giá căn phòng, nhà tranh này đã cực kỳ rách nát, tùy lúc có thể sụp đổ.
Tới gần thi thể, An Tranh phát hiện trên mặt bàn có chữ viết, hẳn là lão già viết xuống trước khi chết.
Thủ mộ năm trăm năm,
Cuối cùng không thấy tiên.
Nhìn lại chốn phàm trần,
Là ai có cơ duyên?
Bài thơ này có ý gì, An Tranh không thể nào biết được. Từ mặt chữ để lý giải, vị tiền bối này đã sống hơn năm trăm năm, thậm chí lâu hơn. Ông ta một mực lẻ loi ở chỗ này, để trông coi một tòa cổ mộ? Nhưng vì sao lại nói Cuối cùng không thấy tiên’, lại hỏi ‘Là ai có cơ duyên’? Nếu như không biết tâm cảnh của vị tiền bối này vào lúc ấy, thì vĩnh viễn không thể hiểu được hàm nghĩa của câu thơ.
An Tranh quỳ một gối xuống:
Vô tình mạo phạm, cầu cho tiền bối nhập thổ vi an.
Sau khi nói xong, hắn đứng dậy nâng thây khô ra ngoài. Mới ra khỏi cửa, nhà tranh liền đổ sụp xuống, chỉ còn một đống rơm rạ.
An Tranh âm thầm hoảng sợ, trong lòng tự nhủ, nhà tranh này bị sụp sau khi chủ nhân của nó rời khỏi, coi như là trung thành bảo vệ chủ.
Cách nhà tranh không xa là một ngọn đồi, trên ngọn đồi mọc một cây tùng lẻ loi. An Tranh bế thây khô tới đó, nhẹ nhàng buông xuống, sau đó dùng hai tay của mình đào một cái hố bên cạnh cây tùng. Đợi hắn đứng dậy nhìn, sắc mặt bỗng nhiên thay đổi, hai mắt trợn tròn.
Thây khô kia khoanh chân ngồi ở đó, hình dáng đoan chính.
An Tranh bị dọa cho sắc mặt tái nhợt, đứng đó không biết phải làm gì.
Thây khô một mực duy trì tư thế hơi nghiêng dựa vào cửa sổ, lúc An Tranh bế thây khô lên, cảm giác cứng rắn như đá. Trong khoảng thời gian hắn đào hố, rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Tuy An Tranh là người có kinh nghiệm đầy mình, nhưng chưa từng thấy một thi thể đã chết hàng trăm năm đột nhiên ngồi thẳng dậy. Chuyện này thật quỷ dị.
Thây khô tuy vẫn bảo tồn tốt, nhưng dù sao máu đã khô cạn, cho nên hình dáng khá là dáng sợ. Lúc này thây khô ngồi nghiêm chỉnh, hai tay chập lại, giống như đang mỉm cười nhìn An Tranh. Ngay cả biểu lộ cũng thay đổi, chuyện như vậy, cho dù An Tranh có lớn gan hơn nữa cũng cảm thấy hoảng hốt, tim đập thình thịch.
-Tiền bối…ngài…ngài..
An Tranh nuốt nước bọt nói, âm thầm cầu nguyện, ngươi đừng trả lời ta.
May mắn thây khô không nói gì, bằng không có thể dọa An Tranh nhảy dựng. Nhưng mặc dù không nói, nhưng hình thái của thây khô lại thay đổi. Hai tay chập lại, hơi gật đầu, thật giống như cảm ơn An Tranh. An Tranh giật mình, sau đó cũng chập tay lại:
-Tiền bối không cần cảm ơn vãn bối, đây chỉ là việc mà vãn bối nên làm. Nếu tiền bối còn chuyện gì chưa hoàn thành được, nếu nằm trong khả năng của vãn bối, vãn bối sẽ không chối từ.
An Tranh hơi sợ hãi nên có chút hồ ngôn loạn ngữ, sau khi nói xong liền hối hận. Vạn nhất thây khô này bảo hắn đi giết ai đó, thì phải làm sao? Người này chết đã lâu, chỉ sợ kẻ thù cũng đã mất sớm.
Thây khô chậm rãi giơ tay lên, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. An Tranh sửng sốt, hỏi một câu, ý của tiền bối, ngài từng lên trời xuống đất, duy ngã độc tôn?
Thây khô bảo trì tư thế này khá lâu, An Tranh liền tỉnh ngộ, ông ta chỉ trời, ý hẳn là ông ta muốn hồn quy thiên quốc. Mà một tay chỉ đất, là vì lúc này bọn họ đang đứng trên ngọn đồi. Ông ta chỉ đất, kỳ thực là chỉ vườn thảo dược.
-Tiền bối yên tâm, vãn bối tuyệt sẽ không nói ra nơi này cho bất kỳ ai, không để cho tâm huyết của tiền bối bị hủy hoại.
An Tranh chắp tay thi lễ, sau đó phát hiện ngón tay của thây khô chỉ về hướng khác. Hắn theo hướng của ngón tay nhìn sang, phát hiện một ngọn núi đằng sau hạp cốc. Ngọn núi này cao ngất sắc bén, giống như một thanh thần kiếm tuyệt thế cắm ở đó. An Tranh nghĩ tới câu, thủ mộ năm trăm năm, trong lòng tự nhủ, chẳng lẽ ở đó có một tòa cổ mộ? An Tranh trầm tư một lát, hỏi:
-Ý của tiền bối là, để vãn bối chôn cất ngài ở đó?
Thây khô đột nhiên hạ tay xuống, đầu cũng cúi xuống, không còn giơ lên.
An Tranh quay đầu nhìn ngọn núi lớn kia, còn hiểm trở hơn cả khi leo vách đá. Nhưng nếu đã đáp ứng chuyện này, An Tranh tất nhiên sẽ không đổi ý. Hắn nói một tiếng ‘đắc tội’, sau đó dùng dây thừng buộc thây khô vào sau lưng. Cõng theo thây khô, An Tranh bắt đầu đi về hướng ngọn núi. Càng đi về phía trước, càng cảm thấy thân thể lạnh lẽo.
Lúc đầu An Tranh tưởng là mình bị dọa, dù sao cõng một thây khô sau lưng cũng không phải chuyện bình thường gì. Nhưng càng tới gần ngọn núi kia, hắn cảm thấy lạnh ở đây là lạnh thấu xương. Ở nhiệt độ này, nước đã đóng thành băng, nhưng thực vật xung quanh không có bất kỳ thay đổi gì, vẫn xanh biêng biếc.
Chờ tới chân núi, An Tranh phát hiện đằng sau bãi cỏ rậm rạp là một cánh cửa.
Cánh cửa làm bằng gỗ, đã hư hại nặng nề. An Tranh thử đẩy ra, một cỗ bụi bặm thổi tới. An Tranh cẩn thận đi về phía trước, chỉ thấy trong này ngoại trừ tối tăm và lạnh lẽo ra, căn bản không có nguy hiểm gì cả.
Sau đó hắn thấy mấy thây khô khác…
An Tranh đếm được có bảy thây khô đang khoanh chân ngồi. Vị tiền bối ở vườn thảo dược không bị hủ hóa thi thể, là vì có dược khí nồng đậm. Mà những thi thể trong hang động này không hủ hóa, là vì nhiệt độ thấp hơn bên ngoài rất nhiều. Cho nên bảy người này, ngay cả mặt mũi cũng không thay đổi, nói là chết, không bằng nói là bị đông cứng.
An Tranh chắp tay nói một tiếng ‘đắc tội’ với mấy thây khô, lúc đứng dậy phát hiện bảy người này ngồi quanh một bệ đá cổ quái. Bảy người ngồi quanh bệ đá, mỗi người đeo một thanh trường kiếm tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo sau lưng. Từ quần áo của bọn họ, An Tranh nhìn không ra bọn họ tới từ đâu, kiểu dáng của nó An Tranh cũng chưa từng thấy.
Đúng lúc này, một cơn gió không biết từ chỗ nào tới thổi qua, thổi bay bụi bặm trên bệ đá. Bụi bặm thổi hết, hóa ra bệ đá là một quan tài thủy tinh.
An Tranh tự nhủ, có lẽ đây là quan tài mà vị tiền bối này chuẩn bị sẵn, chắc ông ta chướng mắt mình đào hố chôn ông ta. Nhưng An Tranh không dám nói ra thành tiếng vì sợ thây khô sau lưng đột nhiên tát mình một cái.
Hắn gỡ thây khô xuống, sau đó nhẹ nhàng đặt vào quan tài thủy tinh.
Đúng vào lúc này, một thứ từ trên người thây khô rơi xuống kêu cạch một cái, lăn tới chân An Tranh.
Địa thế chỗ này hiểm ác cằn cỗi, vì sao lại có người xây dựng đường đi? Hơn nữa vách núi bóng loáng, thậm chí xuất hiện bích họa?
Sự xuất hiện của bích họa cũng không có gì đặc biệt. Ở Nam Cương hoặc Tây Vực, nơi mà tồn tại Thiền Tông chính thống, bích họa khá là phát triển. Nhưng ở Bắc Cương, vùng đất hỗn loạn, rất ít khi xuất hiện. Nội dung của bích họa thường là miêu tả điển cố của tông môn, hoặc là ghi lại phong thổ, hoặc là ghi lại những chuyện quan trọng.
Mà bích họa An Tranh đang nhìn, miêu tả một trận chiến.
Vài bích họa đều vẽ cảnh chém giết máu tanh. Những người xuất hiện trên bức họa giống như là nô lệ, đang đào móc cái gì đó. Sau đó những thứ đen sì từ trong núi lao ra, giết sạch những nô lệ này. Tiếp theo hình như có quân đội vào núi, còn có người tu hành ngự kiếm bay lượn. Cuối cùng quân đội và người tu hành hình như dành được thắng lợi, những thứ đen sì kia bị bắt hoặc là bị giết.
Nhưng bích họa đằng sau có lẽ vì niên đại quá lâu, đã tróc mảng, nên không nhìn thấy gì. Ở sau lưng An Tranh, Lân Dực Điêu vẫn chưa chịu từ bỏ, vẫn dùng mỏ của mình đập vỡ vách núi, cho nên An Tranh không dám dừng bước. Hắn theo con đường một mực đi về phía trước, chỗ nào đứt đoạn thì theo vách hang trèo sang. Đi chừng hơn mười dặm, cái hang càng thêm rộng lớn.
Phía trước nứt ra một cái cái khe lớn, tạo thành hạp cốc. Từ chỗ cao nhìn xuống, cửa vào hai bên hạp cốc đều rất nhỏ. An Tranh là từ phía nam tiến vào, nhìn về phương bắc xa xa, có thể lờ mờ chứng kiến biên giới phía bắc của hạp cốc co lại, tạo thành một chỗ uốn lượn.
Tiến vào hạp cốc, mèo con liền chui ra khỏi ngực An Tranh, ánh sao trong mắt chuyển động rất nhanh. Nó hướng hạp cốc kêu vài tiếng, tựa hồ có chút hưng phấn.
An Tranh theo vách đá trèo xuống, phát hiện thực vật mọc ở hạp cốc khác với bên ngoài. Hắn kinh hỉ phát hiện, thực vật ở đây đều là dược thảo, hơn nữa không thiếu bạch phẩm và hồng phẩm. Khó trách bên ngoài lại có một con Lân Dực Điêu, hóa ra bên trong núi có một vườn dược thảo. Từ quy mô của vườn dược thảo này, hẳn là do người trồng, nhưng đã quá lâu rồi không có ai quản lý, cho nên dược thảo mọc rất loạn.
Từ chỗ này An Tranh có thể thấy được những viên đá nhỏ xếp thành bờ, nhưng đa số bị thảo dược bao phủ.
Hắn theo con đường nhỏ tiến về phía trước, càng xem càng kinh hãi. Do vườn thảo dược này đã quá lâu rồi không có ai hái, cho nên sinh trưởng rất tốt. Nhân sâm tứ phẩm khó gặp ở bên ngoài, trong này có ít nhất vài mẫu. Có nhân sâm, có Đại Ngọc Linh Chi, có Xà Cốt Thảo…nơi này chính là bảo tàng lớn.
Nếu có người phát hiện ra nơi này, đủ để dẫn tới một hồi chiến tranh cướp đoạt. Quân đội của U Yến Thập Lục Quốc sẽ vì nơi này mà ra sức. Nếu như người giang hồ biết, nơi này sẽ thành phần mộ của người tu hành.
Một số dược thảo phổ thông, do sinh trưởng trong điều kiện hoàn mỹ, đã tiến hỏa thành dược thảo thúy phẩm, thậm chí là bạch phẩm. Cho nên An Tranh bắt đầu hoài nghi, đất của nơi này thuộc về loại đất hiếm.
Đi được chừng ba dặm, An Tranh thấy một ngôi nhà tranh.
-Có ai không?
An Tranh thử gọi một tiếng, nhưng không có ai trả lời.
Hắn cẩn thận tiến lên phía trước, sau đó lờ mờ thấy có người ngồi ở sau cửa sổ. Hắn vội vàng dừng lại, chắp tay nói:
-Vãn bối ngộ nhập nơi này, thực sự không có ý quấy rồi tiền bối thanh tu, mong tiền bối thứ lỗi.
Đây không phải là nơi vô chủ, cho nên nếu An Tranh muốn xin một ít dược thảo mà chủ nhân không cho, vậy thì hắn chỉ định hỏi đường ra ngoài. Nhưng hỏi vài câu, người nọ đều không đáp. An Tranh nói một tiếng ‘Mạo phạm’, liền tiếp tục đi về phía trước. Đợi tới gần cửa sổ, hắn mới phát hiện người nọ đã thành thây khô, không biết đã chết bao lâu rồi.
Do dược thảo nơi này mọc tươi tốt, dược khí nồng đậm, nên thi thể của người này không bị thối rữa. Đó là một lão già khoảng bảy mươi tuổi, ngồi ở bên cửa sổ nhìn ra ngoài, hai mắt chưa bị hủy, nên có thể nhìn thấy vẻ cô đơn vô hạn của ông ta. Tuy thi thể đã già nua khô quắt, nhưng vẫn có thể nhìn ra được lúc còn sống người này có khuôn mặt không tầm thường, ẩn hiện khí phách.
-Hẳn là một vị tiền bối đại đức ẩn cư.
An Tranh trịnh trọng hướng thây khô cúi người:
-Vãn bối chỉ cầu một ít dược thảo, sẽ không phá hủy nơi này. Đây là tâm huyết nhiều năm của tiền bối, vãn bối không dám hủy.
Sau khi lạy xong, hắn nhìn xung quanh:
-Tuy không biết tiền bối là ai, nhưng nếu có người khác tới đây, có lẽ sẽ bất kính với tiền bối. Cho nên vãn bối muốn mang thi thể của tiền bối đi chôn, dựng một phần mộ cho ngài.
Hắn đánh giá căn phòng, nhà tranh này đã cực kỳ rách nát, tùy lúc có thể sụp đổ.
Tới gần thi thể, An Tranh phát hiện trên mặt bàn có chữ viết, hẳn là lão già viết xuống trước khi chết.
Thủ mộ năm trăm năm,
Cuối cùng không thấy tiên.
Nhìn lại chốn phàm trần,
Là ai có cơ duyên?
Bài thơ này có ý gì, An Tranh không thể nào biết được. Từ mặt chữ để lý giải, vị tiền bối này đã sống hơn năm trăm năm, thậm chí lâu hơn. Ông ta một mực lẻ loi ở chỗ này, để trông coi một tòa cổ mộ? Nhưng vì sao lại nói Cuối cùng không thấy tiên’, lại hỏi ‘Là ai có cơ duyên’? Nếu như không biết tâm cảnh của vị tiền bối này vào lúc ấy, thì vĩnh viễn không thể hiểu được hàm nghĩa của câu thơ.
An Tranh quỳ một gối xuống:
Vô tình mạo phạm, cầu cho tiền bối nhập thổ vi an.
Sau khi nói xong, hắn đứng dậy nâng thây khô ra ngoài. Mới ra khỏi cửa, nhà tranh liền đổ sụp xuống, chỉ còn một đống rơm rạ.
An Tranh âm thầm hoảng sợ, trong lòng tự nhủ, nhà tranh này bị sụp sau khi chủ nhân của nó rời khỏi, coi như là trung thành bảo vệ chủ.
Cách nhà tranh không xa là một ngọn đồi, trên ngọn đồi mọc một cây tùng lẻ loi. An Tranh bế thây khô tới đó, nhẹ nhàng buông xuống, sau đó dùng hai tay của mình đào một cái hố bên cạnh cây tùng. Đợi hắn đứng dậy nhìn, sắc mặt bỗng nhiên thay đổi, hai mắt trợn tròn.
Thây khô kia khoanh chân ngồi ở đó, hình dáng đoan chính.
An Tranh bị dọa cho sắc mặt tái nhợt, đứng đó không biết phải làm gì.
Thây khô một mực duy trì tư thế hơi nghiêng dựa vào cửa sổ, lúc An Tranh bế thây khô lên, cảm giác cứng rắn như đá. Trong khoảng thời gian hắn đào hố, rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Tuy An Tranh là người có kinh nghiệm đầy mình, nhưng chưa từng thấy một thi thể đã chết hàng trăm năm đột nhiên ngồi thẳng dậy. Chuyện này thật quỷ dị.
Thây khô tuy vẫn bảo tồn tốt, nhưng dù sao máu đã khô cạn, cho nên hình dáng khá là dáng sợ. Lúc này thây khô ngồi nghiêm chỉnh, hai tay chập lại, giống như đang mỉm cười nhìn An Tranh. Ngay cả biểu lộ cũng thay đổi, chuyện như vậy, cho dù An Tranh có lớn gan hơn nữa cũng cảm thấy hoảng hốt, tim đập thình thịch.
-Tiền bối…ngài…ngài..
An Tranh nuốt nước bọt nói, âm thầm cầu nguyện, ngươi đừng trả lời ta.
May mắn thây khô không nói gì, bằng không có thể dọa An Tranh nhảy dựng. Nhưng mặc dù không nói, nhưng hình thái của thây khô lại thay đổi. Hai tay chập lại, hơi gật đầu, thật giống như cảm ơn An Tranh. An Tranh giật mình, sau đó cũng chập tay lại:
-Tiền bối không cần cảm ơn vãn bối, đây chỉ là việc mà vãn bối nên làm. Nếu tiền bối còn chuyện gì chưa hoàn thành được, nếu nằm trong khả năng của vãn bối, vãn bối sẽ không chối từ.
An Tranh hơi sợ hãi nên có chút hồ ngôn loạn ngữ, sau khi nói xong liền hối hận. Vạn nhất thây khô này bảo hắn đi giết ai đó, thì phải làm sao? Người này chết đã lâu, chỉ sợ kẻ thù cũng đã mất sớm.
Thây khô chậm rãi giơ tay lên, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. An Tranh sửng sốt, hỏi một câu, ý của tiền bối, ngài từng lên trời xuống đất, duy ngã độc tôn?
Thây khô bảo trì tư thế này khá lâu, An Tranh liền tỉnh ngộ, ông ta chỉ trời, ý hẳn là ông ta muốn hồn quy thiên quốc. Mà một tay chỉ đất, là vì lúc này bọn họ đang đứng trên ngọn đồi. Ông ta chỉ đất, kỳ thực là chỉ vườn thảo dược.
-Tiền bối yên tâm, vãn bối tuyệt sẽ không nói ra nơi này cho bất kỳ ai, không để cho tâm huyết của tiền bối bị hủy hoại.
An Tranh chắp tay thi lễ, sau đó phát hiện ngón tay của thây khô chỉ về hướng khác. Hắn theo hướng của ngón tay nhìn sang, phát hiện một ngọn núi đằng sau hạp cốc. Ngọn núi này cao ngất sắc bén, giống như một thanh thần kiếm tuyệt thế cắm ở đó. An Tranh nghĩ tới câu, thủ mộ năm trăm năm, trong lòng tự nhủ, chẳng lẽ ở đó có một tòa cổ mộ? An Tranh trầm tư một lát, hỏi:
-Ý của tiền bối là, để vãn bối chôn cất ngài ở đó?
Thây khô đột nhiên hạ tay xuống, đầu cũng cúi xuống, không còn giơ lên.
An Tranh quay đầu nhìn ngọn núi lớn kia, còn hiểm trở hơn cả khi leo vách đá. Nhưng nếu đã đáp ứng chuyện này, An Tranh tất nhiên sẽ không đổi ý. Hắn nói một tiếng ‘đắc tội’, sau đó dùng dây thừng buộc thây khô vào sau lưng. Cõng theo thây khô, An Tranh bắt đầu đi về hướng ngọn núi. Càng đi về phía trước, càng cảm thấy thân thể lạnh lẽo.
Lúc đầu An Tranh tưởng là mình bị dọa, dù sao cõng một thây khô sau lưng cũng không phải chuyện bình thường gì. Nhưng càng tới gần ngọn núi kia, hắn cảm thấy lạnh ở đây là lạnh thấu xương. Ở nhiệt độ này, nước đã đóng thành băng, nhưng thực vật xung quanh không có bất kỳ thay đổi gì, vẫn xanh biêng biếc.
Chờ tới chân núi, An Tranh phát hiện đằng sau bãi cỏ rậm rạp là một cánh cửa.
Cánh cửa làm bằng gỗ, đã hư hại nặng nề. An Tranh thử đẩy ra, một cỗ bụi bặm thổi tới. An Tranh cẩn thận đi về phía trước, chỉ thấy trong này ngoại trừ tối tăm và lạnh lẽo ra, căn bản không có nguy hiểm gì cả.
Sau đó hắn thấy mấy thây khô khác…
An Tranh đếm được có bảy thây khô đang khoanh chân ngồi. Vị tiền bối ở vườn thảo dược không bị hủ hóa thi thể, là vì có dược khí nồng đậm. Mà những thi thể trong hang động này không hủ hóa, là vì nhiệt độ thấp hơn bên ngoài rất nhiều. Cho nên bảy người này, ngay cả mặt mũi cũng không thay đổi, nói là chết, không bằng nói là bị đông cứng.
An Tranh chắp tay nói một tiếng ‘đắc tội’ với mấy thây khô, lúc đứng dậy phát hiện bảy người này ngồi quanh một bệ đá cổ quái. Bảy người ngồi quanh bệ đá, mỗi người đeo một thanh trường kiếm tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo sau lưng. Từ quần áo của bọn họ, An Tranh nhìn không ra bọn họ tới từ đâu, kiểu dáng của nó An Tranh cũng chưa từng thấy.
Đúng lúc này, một cơn gió không biết từ chỗ nào tới thổi qua, thổi bay bụi bặm trên bệ đá. Bụi bặm thổi hết, hóa ra bệ đá là một quan tài thủy tinh.
An Tranh tự nhủ, có lẽ đây là quan tài mà vị tiền bối này chuẩn bị sẵn, chắc ông ta chướng mắt mình đào hố chôn ông ta. Nhưng An Tranh không dám nói ra thành tiếng vì sợ thây khô sau lưng đột nhiên tát mình một cái.
Hắn gỡ thây khô xuống, sau đó nhẹ nhàng đặt vào quan tài thủy tinh.
Đúng vào lúc này, một thứ từ trên người thây khô rơi xuống kêu cạch một cái, lăn tới chân An Tranh.
Danh sách chương