Nhâm Nhược Tích nghe xong bèn trả lời: 

“Đại vương có điều chưa biết, trong số các binh khí mà nhà Chu sáng chế từ lúc đầu chỉ có đao đồng nhưng không có kiếm đồng. Thanh Đồng đại đao lúc đó, chuôi ngắn đao dài, sống đao dày và lưỡi đao sắc nhọn, ở đầu chuôi đao là một vòng hình tròn, cho nên có tên là “Hoàn Bính Đao”. Đao Trịnh ngày nay do kế thừa từ loại vũ khí không được lợi hại mấy trong số vũ khí trong thiên hạ là Hoàn Bính Đao và Đồng Đao, cho nên trong các loại binh khí thuộc dạng đao này, nước Trịnh rèn có tiếng nhất mà thôi.

Vì Thanh Đồng giòn và cứng, không lợi cho việc bổ và chém, nếu cố dùng sức, đao sẽ gãy đôi. Do vậy tuy đao nặng nề, nhưng lại không thực dụng. Ngay từ lúc ban đầu, kiếm xuất hiện ở bộ lạc Bắc Địch. Kiếm đồng cũng vậy không lợi cho việc bổ và chém, nhưng so với đao đồng, thì linh hoạt và nhẹ hơn nhiều, và rất lợi để đâm thẳng, do đó ưu thế của kiếm dần dần rõ ràng hơn, ở Trung Nguyên cũng rất được ưa chuộng, nên đã được quân tử và võ sĩ trong thiên hạ yêu thích. Nhưng dù là vậy, do đồng dòn và cứng, trong thiên hạ cũng rất ít có những trường kiếm dài ba thước có thể dùng để thực chiến, kiếm dài ba thước, lại có thể dùng để tác chiến được thuộc loại thần kiếm chỉ có thể tình cờ gặp chứ không thể cưỡng cầu.”

Khánh Kỵ thầm nghĩ: 

“Thì ra vào thời đại này kiếm không bán được, là do nguyên nhân này. Sắt vẫn chưa qua được ải, mà đồng thì không thích hợp rèn đao.”

Khánh Kỵ lại nghĩ nói: 

“Theo quả nhân biết, sau này trong thiên hạ, đồ sắt sẽ dần dần thay thế đồ đồng, dùng sắt để rèn binh khí, sẽ ưu việt hơn đồng.”

Nhâm Nhược Tích gật đầu đáp: 

“Đại vương nói chí phải, sư huynh của gia phụ là Âu Trị Tử đại sư đã từng rèn ba thanh bảo kiếm, thanh thứ nhất tên là Long Uyên, thanh thứ hai là Thái A, thanh thứ ba gọi là Công Bố, đều là những bảo kiếm đạt đến độ dài ba thước, trong đó Thái A thần kiếm độ dài đạt đến bốn thước hơn, sắc bén vô cùng, độ dẻo rất tốt, đã dùng sắt lạnh từ trên trời rơi xuống mà rèn thành. Gia phụ từng thỉnh giáo Âu Trị Tử đại sư về cách luyện sắt, trước mắt ở Nhâm gia cũng có vài vị thợ cả kỹ thuật cao siêu đang chuyên tâm nghiên cứu, hy vọng có thể dùng sức người mà luyện được sắt thép cứng như thiên thạch, chỉ là đến nay vẫn chưa có tiến triển gì.”

“Âu Trị Tử ?” 

Thần sắc Khánh Kỵ bỗng thay đổi: 

“Quả nhân cũng từng nghe qua tên của người này, người này hiện đang ở đâu ?”

“Đại sư là người Việt, cả đời chỉ mê rèn kiếm, thường đích thân đi lên rừng xuống biển, tìm vật liệu rèn kiếm. Lúc còn trẻ, bá bá từng đến nhà thiếp làm khách, lúc đó bá nói muốn đến nước Sở để tìm vật liệu thượng đẳng dể làm vật liệu rèn kiếm. Từ đó đến nay vẫn chưa có tin tức gì của bá ấy.”

“Ồ…” 

Khánh Kỵ thở dài, nói: 

“Ứng dụng của đồ sắt, sẽ tốt hơn đồ đồng, điều này là đúng. Quả nhân không hiểu về thuật luyện kim, nên cũng chẳng cách nào giúp nàng, nhưng chất lượng của sắt không được tốt, ta nghĩ nguyên nhân chủ yếu là, do nhiệt độ trong lò rèn chưa đủ cao, sắt được rèn ra lẫn quá nhiều tạp chất, nàng có thể cho những thợ cả lành nghề bắt đầu từ phương diện này mà làm, làm thế nào để nâng nhiệt độ trong lò rèn cao hơn, trở đi trở lại mà rèn, đẩy cao độ thuần khiết của sắt.

Còn nữa, khi luyện đồng cần lẫn một ít khoáng thạch khác, luyện sắt cũng không ngoại lệ, nàng có thể thử thêm các loại khoáng thạch khác nhau, không ngừng điều chỉnh và so sánh sự ảnh hưởng của nó đối với chất lượng sắt, quá trình này tuy phức tạp và lâu dài, nhưng một khi nghiên cứu thành công, thì có thể vượt lên trên những người khác, lúc đó Nhâm gia không còn là một trong những đại gia chế tạo binh khi, mà là đệ nhất gia chế tạo binh khí trong khắp thiên hạ !”

Cái danh thiên hạ đệ nhất này, dù là đối với người theo bất cứ ngành nghề nào mà nói, đều có sức hấp dẫn rất lớn. Nhâm Nhược Tích tuy chỉ là hạng nữ lưu, nhưng lại mang trách nhiệm nặng nề với Nhâm gia, nhất là sau khi phụ thân vì tương lai của gia tộc mà kiên quyết hy sinh thân mình, nàng càng cảm thấy cái nặng của chiếc gánh trên vai mình. Trong lòng nàng cho rằng Khánh Kỵ đã từng đến phủ đệ của thiên thần, những lời hắn nói tất nhiên đều có căn cứ, do vậy đối với những lời mà Khánh Kỵ nói vừa nãy nàng không hề mảy may nghi ngờ, nàng đã quyết tâm tiếp tục đầu tư lớn hơn, để cho một toán người chuyên tâm nghiên cứu việc luyện sắt thuần khiết, giúp cho Nhâm gia luôn giữ vị trí bất bại ngành nghề chế tạo binh khí ở khắp thiên hạ.

Lúc này, tại một ngọn núi thấp ở địa khu Lạp Trạch, một nông phụ hái lá dâu ngưng làm với người bạn trên tay, vén lều nhìn ra xa, đột nhiên khinh ngạc kêu lên: 

“Ồ, các người mau đến xem, đó là đội quân của vị đại nhân nào thế, đại kỳ của nước Ngô ta đã đổi thành Long Phụng kỳ rồi, họ vẫn chưa biết sao, sao họ vẫn còn dùng Long kỳ hả ?”

Kế bên là một thiếu nữ chừng mười bảy hay mười tám buông chiếc giỏ trên tay, gỡ chiếc khăn trên đầu xuống, lau đi mồ hôi trên hai má, híp mắt lại nhìn về phía xa, đột nhiên kinh ngạc kêu lên: 

“Thím ơi, thím xem nhầm rồi, đó không phải là Long kỳ của nước Ngô ta, mà là Xà kỳ của nước Việt.”

“Gì chứ ?” 

Người nông phụ lại nhìn kỹ hơn, khuôn mặt biến sắt: 

“Không xong rồi, mau trở về thôn thôi, nói với mọi người mau chóng lên núi tránh nạn, những người Việt giết người không gớm tay này, nước Ngô ta vừa mới ổn định được vài ngày, sao họ lại giết đến tận đây rồi.”

“Ối dào, chẳng giống người Việt giết đến tận đây đâu, thím xem, bên đó còn có hai cây đại kỳ, chính là Long Phụng kỳ của nước Ngô ta đấy.”

“Đâu, đâu, cho xem với.” 

Vài nông phụ như bầy ong xông lên phía trước, tay vén lều, chen lấn nhau nhìn ra phía xa.

Đoàn người đó đang rầm rộ đi từ xa đến, chính giữa là hơn mười chiếc xe ngựa, chiếc xe ngựa ở phía trước nhất có treo cờ phướn, là Xà kỳ của nước Việt, hai bên có hơn hai trăm võ sĩ mặc giáp cầm mâu hộ tống, cờ mà họ cầm lại là Long Phụng kỳ của nước Ngô, đại kỳ tung bay trong gió, làm phát ra những tiếng phần phật. Đoàn người này chính là đoàn sứ tiết của Việt thái tử Câu Tiễn, còn những võ sĩ hộ tống xung quanh là do Kinh Lâm phái đến.

Câu Tiễn từng gây trọng thương cho Khánh Kỵ, hiểm đến nỗi suýt tý nữa là Khánh Kỵ đã chết dưới kiếm của hắn. Đừng nói là những binh sĩ bình thường này nhìn hắn với ánh mắt căm thù, ngay cả Kinh Lâm khi thấy Câu Tiễn, cũng nông nổi muốn một kiếm cắt lìa cái cổ của hắn. Nhưng hai nước giao tranh không chém sứ giả, trên chiến trường cho dù ai thắng ai thua, đó đều là chuyện đã qua. Chiến sự thì sẽ kết thúc trên chiến trường, nay mọi người đều thiện đãi sứ giả, nếu một kiếm giết chết hắn, loại việc hạ lưu này, ngay cả một người chưa từng đọc qua sách hoặc giả là một sơn tặc có máu mặt cũng không làm được. là tướng lĩnh của một nước, hắn vẫn là phải giữ lấy cái phong thái của quân tử này. Do vậy không những không được động đến Câu Tiễn, mà còn phải phái người hộ tống hắn đến, đương nhiên trong đó còn có mục đích giám sát những từng động tĩnh của hắn nữa.

“Điện hạ, phía trước đã là Lạp Trạch, không lâu sẽ đến được Cô Tô.” 

Phó sứ nước Việt Nhược Thành trèo lên xe ngựa của Câu Tiễn, vén bức màn bước vào trong, bên trong xe, Câu Tiễn đang lim dim đôi mắt.

“Ừm,” 

Câu Tiễn mở mắt. mỉm cười: 

“Mệt mỏi, nghỉ ngơi nhiều hơn đi. Sao, trong lòng bất an à ?”

Nhược Thành chau mày, trong lòng lo lắng nói: 

“Vâng, điện hạ đã từng trọng thương Khánh Kỵ, nay lại đích thân đi vào chỗ hiểm, xuất sứ nước Ngô, việc này quả là hung hiểm, nên quả thật thần có chút không an tâm.”

Câu Tiễn uể oải căng cái lưng ra, đôi mày hơi nhếch lên, cười nhạt nói: 

“Có gì mà phải lo lắng ? Nay nếu ta ở nước Việt, Khánh Kỵ sẽ hận đến nổi muốn một kiếm giết chết ta mới cam tâm. Nhưng ta chủ động đến nước Ngô, dù cho hắn có hận ta đến tận xương tủy, cũng không thể động vào ta, mà còn phải toàn lực bảo vệ sự an toàn của ta, ha ha, ngươi yên tâm đi, ta ở nước Ngô sẽ rất an toàn.”

“Hey, tuy là nói vậy, nhưng việc tranh ngôi ở nước Ngô, chúng ta cũng có phầm tham dự vào, điện hạ cũng đã từng trọng thương Khánh Kỵ, dã tâm muốn thôn tính nước Ngô của nước Việt ta cả thiên hạ đều biết, muốn tránh cũng khó mà tránh được. Khánh Kỵ tất nhiên căm hận trong lòng, cứ cho là hắn không giết điện hạ, nhưng nếu hắn lấy đó làm cớ giam lỏng điện hạ, vậy cũng như là xôi hỏng bỏng không.”

Loading...


“Điều này… ta đã từng nghĩ đến.”

Câu Tiễn chau mày, lại cười: “Nhưng quân Ngô đã đóng quân ngay dưới thành, ta không thể không đi vào hang hùm. Khánh Kỵ vừa nhất thống nước Ngô, quân Ngô khí thế đang thịnh, nếu nước Ngô thừa thắng xông lên, tấn công vào nước Việt ta, nói thật, lực lượng hai bên quả thật khác biệt quá lớn, nước Việt ta sao chịu nổi một đợt tấn công chứ ? Nay thượng tướng Kinh Lâm nước Ngô đóng quân tại Võ Nam, A Cừu và Tái Cừu hai vị tướng lĩnh tâm phúc của Khánh Kỵ đóng quân ở Túy Lý, Ngự Nhi thành, cái thế cục mà hắn bày ra, đã có ý muốn trực tiếp giành lấy nước ta rồi, ta còn có thể làm gì được nữa ? Lại không thể chờ quân Ngô vừa đến, ta lại rút vào chốn thâm sơn đại trạch mà đọ sức với hắn ba năm hay năm năm hử ? Phụ vương những năm gần đây long thể không tốt, thường hay sinh bệnh, sao có thể chịu nổi cảnh bôn ba khốn khổ chứ.” 

Câu Tiễn chậm rãi nói: 

“Ta lấy cương vị là thái tử, đích thân đi sứ nước Ngô, Khánh Kỵ dầu sao cũng phải gặp ta một lần, nghe thử xem ta sẽ nói những gì, như vậy sẽ tranh thủ được thời gian, ừm…, nay ta đã đến Lạp Trạch, tính theo thời gian thì, Cao Như thượng tướng quân lúc này thiết nghĩ đã đến nước Sở rồi, hy vọng tướng quân có thể thuyết phục nước Sở, nếu nước Sở gây áp lực với nước Ngô, Khánh Kỵ nếu muốn động đến nước Việt ta cũng phải cân nhắc cân nhắc.”

Thần sắc của Nhược Thành dịu lại, nói: 

“Cao Như thượng tướng quân chuyến này sang Sở, chắc sẽ không làm điện hạ thất vọng. Nay Phí Vô Kỵ đã một tay nắm hết đại quyền nước Sở, trong triều không ai dám kháng cự. Người này ham mê nữ sắc, lại tham tiền tài, Cao Như thượng tướng quân biết rõ sở thích của hắn, nhất định có thể thuyết phục được hắn. Hơn nữa, Khánh Kỵ đã đoạt lại Cô Tô thành, nhưng lại không hoàn lại số bảo vật cho nước Sở, lại không thả các đại thần của nước Sở, lòng dạ khó lường, nước Sở đang định phái Sứ giả đến chất vấn, lúc đó nước Sở cũng cần sự tồn tại của nước Việt ta, để khống chế nước Ngô vậy.”

Câu Tiễn gật gật đầu: 

“Không sai, cho nên ta giúp họ tranh thủ thời gian, mạo hiểm đi sứ nước Ngô là rất xứng đáng.”

Hắn vén một góc màn xe, nhìn ra bên ngoài một lượt, sau đó ngồi thẳng lại, nhắm mắt, có vẻ như đang cười, nói: 

“Về xe nghỉ ngơi đi, nếu đã đến rồi, thì cứ yên tâm mà nghỉ lại, mọi chuyện chờ khi đến Cô Tô gặp Khánh Kỵ rồi hẵng tính tiếp. Trong lòng ta đã có tính toán, Câu Tiễn ta đâu phải là một con dê chờ bị giết, dù Khánh Kỵ có là một mãnh hổ, nếu cứ cố nuốt chửng miếng mồi khó nhai này, hắn cũng sẽ bị thương tích đầy mình !” 

Biến pháp tân chính của nước Ngô cuối cùng đã chính thức ra đời.

Trước tiên là chế độ tuyển chọn quan lại, nước Ngô đã làm giảm đi việc chế độ thế khanh lấy quan hệ huyết thống tông pháp làm nền móng, từng bước tăng cường cho các tầng lớp trí thức không có cha truyền con nối ra làm quan. Nước Ngô đi đầu trong việc phá bỏ tục cũ, cho tầng lớp này được làm lên địa vị thượng khanh, chế độ tuyển quan mới từng bước được hoàn thiện như những ai hiền lương, có thể nhờ lập công mà tiến vào con đường làm quan, tiến cử để thăng tiến, hiến kế sách để thăng tiến, tin rằng không chỉ riêng trí thức ở nước Ngô, mà các sĩ tử lang thang ở các nơi khác cũng sẽ vì thế mà đến nước Ngô, để mưu cầu tiền đồ của mình.

Cái tiếp theo là chế độ nhậm chức của quan lại. Văn võ phân chức, chính trị và quân sự phân ra. Do văn võ phân chức, quyền lực của đại thần sẽ bị phân tán, bên là thống soái, bên là đại thần, sẽ không thể lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, thuế khoá quân đội ở địa phương và tư pháp dân dịch cũng không thể do một mình hắn thâu tóm hết được, vậy là có thể tạo nên tác dụng khống chế lẫn nhau và giám sát nhau, rất hiệu quả trong đề phòng và khống chế các đại thần lạm quyền tạo nên sự uy hiếp đối với đại quyền của vua, đồng thời, cũng rất thích hợp với như cầu phân công của nền chính trị và quân sự lúc bấy giờ.

Điều thứ ba, lại có quan hệ tương hỗ và phối hợp với các cải cách chính sách trên như làm suy yếu thế khanh, trọng dụng tầng lớp trí thức, văn võ phân quyền. Một là đối với những thế khanh chưa được phong đất, hoặc đất phong của các thế khanh mà trong thời gian xảy ra nội chiến đã bị công tử Quang, Phù Sai giết hết cả nhà, sẽ không tiếp tục phong cho các thế khanh khác nữa, mà sẽ thuộc về quốc hữu, trở thành quận huyện. Hai là đối với các phong quân thế khanh hiện đang tồn tại ở nước Ngô, vẫn tiếp tục cho họ giữ quyền được kế thừa, duy trì chế độ hiện có, nhưng do văn võ đã được phân chức, nên đã chia nhỏ chức quyền cho nhiều quan lại khác nhau, thế nên quyền thống trị của họ trên đất phong sẽ vô cùng yếu ớt, vừa không thể quản quân, lại không thể quản dân, chỉ là có quyền được hưởng các thuế khoá nông nghiệp trong thái ấp mà thôi.

Điều thứ tư, là dân chính. Đã quy định rõ ràng chính sách của các phương diện như dân dịch, thuế dân, quản lý đất đai. Xem trọng việc khai khẩn ruộng đất mới, khen thưởng cho ai canh tác tích cực, giảm nhẹ thuế ruộng.

Điều thứ năm, là thương chính. Cổ vũ thông thương, nhưng đối với các chủng loại mà thương nhân buôn bán, loại nào được phép bán, loại nào không được phép bán, ngay cả ngành nghề, vận chuyển, nạp thuế đều được quy định rõ ràng.

Điều thứ sáu, là lập bộ luật rõ ràng công khai. Đối với quan lại, sĩ dân, thương nhân đã làm ra những hành vi trái pháp luật ở từng phương diện khác nhau đều có giới định và mức độ xử phạt.

Điều thứ bảy. Là cải cách chế độ quân ngũ. Cải cách quân ngũ thành một hệ thống độc lập, trong đó điều chủ yếu quan trọng nhất là lời mà hắn đã từng tuyên bố khi triệu tập binh mã ở nước Lỗ, “Cổ vũ lập quân công, người lập được công, dù là thường dân cũng sẽ được phong quan.”

Biến pháp và tân chính của Khánh Kỵ đã hao phí nhiều tâm huyết của hắn và các đại thần trong triều, bỏ cái nhược giữ cái ưu, tăng thêm ý mới, quả thật đó là một bộ kinh hay. Nhưng nếu người niệm kinh lại không thích hợp, vậy sẽ trở thành tà kinh. Trong quá trình thi hành, năng lực làm việc của các quan viên như thế nào, năng lực ứng biến ra sao, có thể đảm nhận tốt chức vụ hay không, đã trở thành vấn đề quan trọng then chốt quyết định sự thành bại của biến pháp. Điều mà Khánh Kỵ lo lắng nhất chính là phó thác nhầm người.

Những người cũ dưới trướng hắn đa số là võ tướng, hiện những người mới được đề bạt từ tầng lớp trí thức năng lực ra sao còn phải chờ mà quan sát, những sĩ tử hiền năng có thể yên tâm mà dùng đã trở thành vật quý hiếm, sự thiếu thốn nhân tài, đã biến thành tâm bệnh của Khánh Kỵ, đến nỗi khi hắn đã đến tàng bảo khố, đích thân lựa chọn vài món châu báu làm sính lễ chuẩn bị cho sứ giả đem đến cầu thân với nữ nhi của các công thất nước Tần, nước Lỗ, hắn vẫn còn nghĩ đến vấn đề này.

“Phạm Lãi, Văn Chủng… Muốn nói đến vấn đề dân chính, kinh tế, dưới trướng của ta, không một ai có thể rành rẽ hơn họ, nếu hai người này đến nương tựa nước Ngô ta, quả nhân há chẳng là được thêm vây thêm cánh sao. Nay sự phát triển của nước Sở đã khác so với những ghi chép của lịch sử, cũng chẳng biết hai tên này ở nước Sở đã làm nên những gì rồi. Phải tìm một cách, đem họ về nước Ngô ta mới được…”

Khánh Kỵ đứng trong tàng bảo khố, đôi mắt nhìn ngắm những châu báu rực rỡ muôn màu của nước Sở, lại nhớ đến nhân tài của nước Sở…

Phía nam Kỷ sơn, là Dĩnh thành kinh đô nước Sở. Một Sở đô vốn vô cùng ồn ào náo nhiệt, nay lại điêu tàn như thế, đều do quốc khố trống rỗng, thuế phiên trước cửa thành tăng gấp mười lần, nên rất ít người vào thành.

Kinh Sở xưa nay đất đai màu mỡ, nông nghiệp phát đạt, công thương nghiệp cũng rất quy mô, mà nước Sở đất rộng tài nguyên dồi dào, sức nước hùng hậu, nếu được bồi dưỡng phát triển, chắc chắn sẽ thoát cảnh khốn đốn vùng dậy lần nữa, nhưng hiện nay lệnh doãn nước Sở Phí Vô Kỵ háo công háo lợi, chỉ thích mau chóng thỏa mãn những lợi ích trước mắt của hắn, nên muốn đốt cháy giai đoạn, dã tâm của hắn càng khiến cho Dĩnh Đô tiêu điều hơn, các thần tử trong triều đa số đều là người của hắn, Sở vương lại vì tuổi nhỏ nên không thể đích thân xử lý việc triều chính, chỉ đành mặc cho hắn làm xằng làm bậy.

Lệnh doãn phủ, hơn trăm võ sĩ hộ tống một chiếc xe ngựa vừa mới đi vào tiền viện, xe ngựa vừa dừng, bèn có một võ sĩ mang kiếm nhanh chóng bước tới, mở cửa xe ra, bỏ cái bàn đạp xuống.

Phí Vô Kỵ chậm rãi bước từ trong xe bước ra, phủi nhẹ áo bào, hiên ngang bước xuống xe. Sắc mặt hắn hồng hào, trên người hắn phảng phất mùi rượu, hiển nhiên là mới vừa dự yến tiệc về. Phía sau xe có người đang khiêng xuống hai chiếc rương, không cần hắn ra lệnh, như đã quen tay quen chân đưa vào hậu trạch

“Chúc mừng đại nhân, người Việt lại tặng cho ngài thêm một phần hậu lễ.” 

Tên võ sĩ trẻ tuổi chăm chú nhìn chiếc rương nặng nề, cười nói với Phí Vô Kỵ. Phí Vô Kỵ nấc lên một tiếng, vỗ vai tên võ sĩ, cười ha ha nói: 

“Ừ, Lý Hàn này, lão phu quả không dùng sai người, ngươi đúng là rất thông minh, ha ha, Cao Như nước Việt quả nhiên còn giữ lại ít tài sản, lão phu chỉ hơi làm khó một chút, hắn liền ngoan ngoãn dâng lên cho ta một phần đại lễ. Nếu không phải ngươi nhắc nhở ta, lão phu đã thiệt thòi với hắn rồi.”

Thì ra tên võ sĩ trẻ tuổi đó là Lý Hàn, hắn biết đại thế của Phù Sai đã qua, nên khi Chuyên Nghị đơn thân một mình vào doanh trại thích sát Khánh Kỵ, để cho hắn một mình quay về Cô Tô, hắn suy đi nghĩ lại, quyết định không từ mà biệt đi đến nước Sở, nay đang nương tựa Phí Vô Kỵ, dựa vào tài cán hùa theo ý thích người khác của hắn, rất mau chóng đã trở thành tâm phúc không thể thiếu bên cạnh Phí Vô Kỵ.

“Đại nhân quá khen, đại nhân quá khen, đại nhân, Văn Chủng, Phạm Lãi lại có điều muốn tâu với đại nhân, tấu chương lưu loát phong phú đến hơn mấy ngàn chữ, đả kích sách lược trị quốc của đại nhân, yêu cầu đại nhân rộng lượng đãi dân, bồi dưỡng phát triển…”

Lý Hàn chưa kịp nói hết, Phí Vô Kỵ đã nổi nóng, tím mặt nói: 

“Hai tên khốn không biết thức thời đó, lão phu chẳng thấy ở họ có điểm nào tốt cả, còn thưởng cho họ hai chức vị Trung đại phu, hai tên thất phu này, không biết cảm kích, mà còn khăng khăng chống đối với lão phu, có lý nào lại như thế chứ.”

Lý Hàn cười thầm, nói: 

“Hai người này không biết tốt xấu, nếu đại nhân thấy họ chướng tai gai mắt, sao không đuổi cổ họ đi, xem như nhổ được cái gai trong mắt vậy ?”

Phí Vô Kỵ nhổ nước bọt, trầm ngâm nói: 

“Hai người này, ít nhiều gì cũng từng lập được công lao, tiếng tăm cũng không tệ, hơn nữa chức vị họ thấp, nếu lão phu gây chuyện phiền phức với họ, khó tránh tự hủy hoại thân phận của mình, sẽ khiến người đời chê cười…”

Hắn nói đến đây, đột nhiên thấy Lý Hàn che miệng cười, hắn ngẩn người, lập tức chỉ vào Lý Hàn cười lớn nói: 

“Tên tiểu tử này, chắc chắn đã nghĩ ra gian kế gì rồi, mau mau nói ra, đừng có mà phô trương nữa !”

Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện