“Em có biết conpanh-goanh không? Biết à? ừ, loài chim cánh cụt ở Bắc Băng Dương ấy, người tabảo rằng nó có một bản năng huyền bí để tìm về tổ cũ.”

Đó là nhũng lời mở đầu của một câu chuyện màanh Ba thủy thủ đã kể cho tôi nghe cách đây hai năm. Giờ đây, giọng nói ấm ápcủa anh lại như văng vẳng bên tai.

Đã mấy hôm liền, chiều nào tôi cũng thấytrong người gai gai sốt. Để được nghỉ ngơi và yên tĩnh một mình, tôi ôm nóp mòvào nằm trong ngôi miếu cô hồn. Tôi chỉ nằm đó từ trưa đến chạng vạng thôi. Banđầu, cũng có hơi rờn rợn. Nhưng qua ngày thứ hai thì tôi đã quen đi, chẳngnhưng không có gì đáng sợ mà lại còn thấy rất dễ chịu.

Trong ngôi miếu vắng vẻ này, tôi không bị aiquấy rầy, tha hồ ngủ, và khi thức dậy, tôi có thể ngồi tự do hàng giờ miên manđắm chìm trong những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn lục ra từ trong mới hồi ức rốitinh của mình.

Lần này, khi tôi cựa mình ngồi dậy, nhìn rangoài thì không thấy bóng mặt trời chiếu đỏ rực hạ xuống bên kia bờ kênh nhưmọi hôm nữa, mà là một bóng trăng xanh lạnh ngắt thấp thoáng sau cành đa, đangchiếu những tia sáng yếu ớt xuống bên thềm miếu.

Có lẽ đã khuya lắm. Đêm vắng vẻ quá. Cơn sốtdữ dội ban chiều đã vật tôi nằm mê man đến tận giờ này. Đầu nhức như búa bổ,miệng đắng ngắt, và một cơn khát cháy khô cổ họng lại bắt đầu đến giày vò hànhhạ tôi. Giá tôi đang nằm ở nhà thì mở mắt ra đã thấy có má tôi ngồi một bên. Cólẽ má tôi sẽ đỡ tôi ngồi dậy, nâng cốc nước chanh đến tận miệng tôi, và tôi cònchờ xem má tôi lo lắng thế nào, còn chờ xem má tôi xuýt xoa an ủi dỗ dành một lúcrồi tôi mới uống cũng nên... Cuộc sống trôi nổi trong mấy tháng gần đây đã dạykhôn cho tôi nhiều rồi.mày hãy tự lo lấy cho mày trước đã: Đừng có nghĩ đếnviệc cậy ai nước rót cơm dâng". Tôi cố sức đứng dậy, lảo đảo đi ra bờkênh. Chao ôi, làn nước lấp loáng ánh trăng lờ đờ trôi nhẹ dưới kênh kia mớitrong và mát làm sao! Tôi cúi xuống vốc những giọt vàng vỡ vụn vào lòng hai bàntay, uống lấy uống để, tưởng chừng như mình có thể uống cạn cả con kênh này thìmới hả được cơn khát. Những làn nước mát vả vào mặt, vào gáy làm cho tôi dầndần tỉnh hẳn.

Tôi lò dò trở vào ngôimiếu, ngồi tựa lưng vào tường, thở dốc.

- Mau mau tìm cách trở lại nhà thôi.

- Thành phố quê hương mày giặc đã chiếm rồi,mày còn về làm sao được chứ? - Ước gì mình có được đôicánh như những con chim.

Những câu tự nhủ và tự hỏi mình cứ vẩn lêntrong đầu óc tôi Đột nhiên, tôi bỗng nhớ tới câu chuyện anh Ba thủy thủ đã kểcho tôi nghe về bản năng huyền bí của loài chim cánh cụt những nhà sinh vật họctrên thế giới đã chứng minh điều đó... “Họ buộc những mảnh đồng nhỏ, ghi ngàytháng và hòn đảo sinh trưởng của những con chim bắt được. Họ mang nó đi rất xa,xuống tận vùng Nam Băng Dương và thả chúng ra. Thế mà một hai năm sau, người talại bắt được những con chim đó ở đúng trên các hòn đảo cũ."

Giọng nói ấm áp, đầy hấp dẫn của người thủythủ vui tính và nhiều mơ mộng xưa kia khiến cho tôi lúc nào cũng hong hóng chờnghe, lại văng vẳng bên tai. Tôi ngồi nhìn ra ánh trăng soi lờ mờ, thấy dần dầnhiện lên quang cảnh nhộn nhịp của các bến vận hà dọc theo đôi bờ sông trắng củacon sông Tiền Giang. Trên cầu tàu lục tỉnh, anh ngồi tựa lưng vào một trụ buộcđỏi (xích), tay cầm tẩu thuốc lá; những làn khói mỏng xanh xanh từ trong tẩuthuốc lá chưa kịp bay lên đã tan mất ngay theo gió. Tôi ngồi bên anh, từ trênsàn cầu qua những khe ván đóng hở, có thể nhìn thấy ngay dưới chỗ mình ngồinhững thanh đà sắt bắt chéo vào nhau trong một màu tối âm u, và sâu hơn mộtchút, dưới kia dòng nước lao nhanh như cắt lúc nào cũng giận dữ réo ào ào,dường như muốn nhổ phăng những chiếc cột tàu bằng thép to tướng mà lôi dìmxuống đáy sâu.

- Sướng nhỉ, anh nhỉ?Được như con chim cánh cụt ấy thì bọn trẻ chúng em không bao giờ sợ lạc! - tôihuơ tay nói như vậy.

- Đó là một con chim đángthương! Vì cánh nó quá ngắn phải không anh?

- Ừ, cũng có thể... Nhưng không hẳn như vậyđâu. Anh muốn nói với em một vấn đề khác kia...

Người thủy thủ trẻ có khuôn mặt sạm nắng rấtđẹp, mái tóc lúc nào cũng bồng lên vì sóng gió đại dương, đăm đăm nhìn về chỗvạch ngang của dòng sông Cửu Long lòa nhòa gắn liền mặt nước với chân trời. Anhim lặng một lúc; sau khi đã hút mấy hơi khói thuốc dài, giọng anh bắt đầu trầmhẳn xuống, như nói với mình:

Cuộc sống của con người phải đâu chỉ thu hẹptrên mảnh đất vùng quê? Đã đành quê hương là nơi gắn bó với cuộc đời mình nhất,nhưng khi người ta còn trẻ tráng, phải bay nhảy hoạt động, đi đây đi đó chứ.Lúc nào cũng chạnh nghĩ về quê hương, đó là báo hiệu của tuổi già...

Không phải vì có dôi chim cánh cụt mà conpanh-goanh không đi xa được đâu. Nó là một con chim không có cánh ở tâm hồn. Nónhư một ông cụ già lưng mỏi gối chùn, lúc nào cũng muốn tìm về nằm xuống ở quêhương!

Chiều chiều, sau giờ học, thầy giáo tôithương dắt học trò ra sông Cửu Long tập bơi. Trên cầu tàu lục tỉnh ấy, tôi đãgặp và quen anh. Anh làm thủy thủ trên một chiếc tàu rất lớn, có ba ống khói totướng sơn màu xanh da trời. Lâu lâu, tàu anh lại cặp bến một lần. Gặp anh vàibận, tôi đã thấy gắn bó với anh rồi. Mà anh thì cũng rất mến tôi. Bởi tôi hayhỏi đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, lung tung, mà anh cũng lấy làm thíchthú một thằng bé tò mò, lúc nào gặp anh cũng đặt ra nhũng câu hỏi, khiến anhphải nhồi rất nhiều thuốc lá vào tẩu mới tìm ra lời giải đáp. Tôi mời anh vềnhà tôi chơi. Ba má tôi cũng rất quý anh thủy thủ vui tính, biết nhiều chuyệnlạ này. Lần nào anh đến chơi, ba má tôi giữ anh ở lại ăn cơm. Nhũng hôm ấy, nhàtôi rộn lên tiếng nói, tiếng cười, vui như có cỗ. Quan hệ mật thiết giữa anh vàtôi khiến ba má tôi xem anh như người trong họ hàng.

Cuộc đời anh lênh đênh nhiều năm khắp các mặtbiển, trên nhiều chiếc tàu của những công ty hàng hải khác nhau. Anh đã đi quaẤn Độ Dương, vượt kênh đào Xuy-ê ra Địa Trung Hải, men theo bờ Đại Tây Dươnglên tận cảng Lơ Ha-vrơ... Gần khắp mặt biển Thái Bình Dương, cảng nào anh cũngcó tới. Anh biết rất nhiều thành phố, nhiều giống người... Chỉ có những xứ ởbên kia tây bán cầu là anh chưa đặt chân tới thôi. Trong những mẩu chuyện anhkể, tôi nghe quen nhiều tên giống người, tên vùng đất, hải cảng, tên thủ đô,thành phố quan trọng trên hầu khắp các lục địa mà tôi đã học say mê trong cácbài địa dư ở trường...

- Em coi bộ thích phiêu lưu lắm hả? - có lầnanh hỏi tôi như vậy.

- Phiêu lưu là sao, anh?

Anhnhoẻn miệng chơi, bập bập cái tẩu thuốc lá làm cho khói bốc xanh um như một ốngkhói tàu, hạ thấp giọng:

-Ờ phiêu lưu là nay đây mai đó. Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao... bấtcứ chỗ nào mình cũng đi tới. Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến chomình say mê... Thôi, bao giờ em lớn lên, em sẽ biết.

Nămngoái, anh đi đâu bên Thái Lan về, mang cho gia đình tôi nhiều thứ. Quà tặng batôi là chiếc hộp thuốc bằng bạc chạm: quà tặng má tôi là một ông Phật bằng đồngto lối nắm tay, ngồi dim mắt trên tòa sen...

Vàsuy đi nghĩ lại chẳng biết gì hơn - anh vỗ vỗ vai tôi - anh mua tặng em mộtchiếc địa bàn Chiếc địa bàn bé bằng quả trứng, có cây kim đồng quay quay chỉ vềphương bắc, giờ đây lại hiện ra to tướng, lồng vào khung trăng vành vạnh đangtreo lơ lưng giữa trời kia. Nó là điềm báo như lời má tôi thường nói chăng? Haycái vật bé nhỏ, xinh xắn mang trong lòng nó mũi tên chỉ đường cho những kẻ viễndu không may lạc lối trong sương mù, bão tố, giữa rừng rậm, đồng hoang... từkhi cầm nó vào tay, số mệnh đã khiến cho tôi phải rơi vào cuộc sống lênh đênhnày chăng? Tôi nghẹo đầu vào vách, nhắm mắt lại, tưởng như nghe lại giọng hátquen thuộc của người thủy thủ trẻ đang vẳng đến từ một chỗ thẳm xa nào:

“Xưa kia có một con tàu nhỏ

Nó chưa hề lướt sóng ra khơi...

Này hỡi những chàng thuỷ thủ

Đang xông pha trên ngọn sóng cao vời.”

Chà,tôi lại khát nữa đây... Tiếng mạch đập trong tai tôi ù ù hay tiếng gió thổigiữa trùng dương. Tôi chóng mặt quá, cứ buồn nôn. Tôi đang nằm đây hay đangđứng trên con tàu lắc lư nhồi theo sóng? Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ cứdập dềnh đưa tiếng hát bè cao cua tôi chồm chồm bay vút ra xa... "Xưa kiacó một con tàu nhỏ... Nó chưa hề lướt sóng ra khơ... ơ...i.” Một lượn sóng thầncao vút như núi hiện lên ở chân trời, băng băng chạy tới trong tốc độ nhanhkhủng khiếp, rồi chồm qua phủ mất con tàu và cuốn tôi đi... trôi mãi... trôimãi.. Tôi càng vùng vẫy thì càng thấy bị chìm sâu xuống đáy, mỗi lúc một ngạtthở đến không còn đủ sức chịu đựng được. Rồi tôi không còn biết gì nữa...

-Thằng bé tỉnh dậy rồi! - giọng mừng rỡ của một chị nào đó dịu dàng nói bên taitôi.

-Tôi từ từ mở mắt ra, thấy mình còn đang nằm trong ngôi miếu. Một chị cứu thươngmặc chiếc áo bà ba màu lục đang ngồi bên cạnh, bàn tay mát rượi của chị hãy cònđặt trên vầng trán nóng như lửa đốt của tôi. Chung quanh tôi, la liệt nhữngthương binh. Một anh bị thương ở đầu quấn đầy băng trắng, đang tựa lưng vàochân bệ thờ hút thuốc lá, mỉm cười nhìn tôi. ánh nắng trời chiếu rọi nghiêngbên mặt anh một quầng sáng lóa. Tiếng súng nổ ran xa xa. Lâu lâu, một tràng đạibác không biết từ đâu bắn tới ùng oang... ùng oang... nổ dữ dội ngoài Ngã BaKênh. Không khí sặc sụa mùi lửa cháy nhà và mùi thuốc súng cay nồng nồng.

-Tây đến rồi hả anh? - Tôi hỏi anh thương binh đang mỉm cười nhìn tôi. Tôi cốchống tay ngồi dậy, nhưng lại run run khuỵu xuống.

Cảngười tôi rã rời mệt mỏi như vừa qua một trận ốm lâu ngày. Qua lời kể của chịcứu thương tôi mới hay rằng giặc Pháp bắt đầu tấn công vào vùng này từ sángsớm.

Chúngcho quân xích hầu (trinh sát) ăn mặc giả thường dân mò vào, toan bắt sống mấyanh tự vệ ở đầu trạm canh, nhưng ta đã cảnh giác phát hiện kịp. Tàu bày giặcném bom đốt cháy xóm chợ từ lúc giữa trưa. Hiện giờ, chúng còn đang ở bên đầucầu con lộ Cái Chanh...

-Cha chả? Lúc khiêng các anh bị thương vào đây, thấy chú nằm mê man, thỉnhthoảng cứ hét lên, tôi lo quá... Cạy mồm cạy miệng mãi mới nhét được mấy viênthuốc cảm cho chú đấy. Lại hát lảm nhảm những gì gì... Này, nhà chú ở đâu?

-Em không có nhà! - tôi đáp.

Coibộ thằng bé này chưa tỉnh hẳn đâu. Xem như nó còn mê đấy! Anh thương binh bannãy thong thả nói như vậy và cầm điếu thuốc lá hít một hơi dài, thản nhiên như mộtngười nhàn nhã đang ở nhà mình. Rồi anh lại nói: - Chị pha cho nó một cốc sữađi, nó sẽ tỉnh ngay. Lấy hộp sữa trong ba-lô tôi đấy. Tôi chưa cần đến...

Chịcứu thương loay hoay đèn cồn đun nước. Tôi ngồi dậy, đưa đôi mắt mệt mỏi nhìncác anh thương binh đang nằm thiêm thiếp trên nhưng tấm đệm bê bết dấu máu chưakhô. Một anh bị mảnh đạn đại bác cắt giập ống chân, những bắp thịt đùi cứ giậtgiật khiến anh cựa người nhăn nhó theo, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe anh rênmột tiếng.

Tôiuống hết cốc sữa. Quả thấy người tỉnh táo lại ngay, nhưng miệng hãy còn khô vàđắng lắm, cứ thèm uống nước. Vào lúc gần tối thì giặc Pháp đã vượt được sôngCái Chanh. Đạn súng máy bắn vào khu chợ bay vèo vèo trên nóc miếu. Người ta bắtđầu đưa thương binh xuống xuồng chuyển đi từ lúc ngớt tiếng tàu bay.

Tôingỏ ý muốn theo xuồng đưa các anh thương binh đi. Nhưng các ông cụ già bơixuồng không cho. Và chị cứu thương cũng bảo rằng tôi chưa khỏe hẳn. Chị cho tôimột gói độ mươi viên thuốc cảm và một đòn bánh tét, lại ân cần khuyên tôi nênvề nhà mà nghỉ, muốn theo các anh thì còn nhiều dịp, lúc nào chả được. Rõ rànglà không ai ngờ rằng tôi là một thằng bé sống không nhà. Chả nhẽ mỗi chốc lạiđem chuyện mình ra kể lể với mọi người sao? Nhất là để cầu lấy một lòng thương?

Không!Tôi không thể làm như vậy được. Mà ngươi ta đang bận tíu tít kia, bao nhiênchiến sĩ bị thương phải chuyển đi, giặc dã đổ bộ qua sông, xóm chợ cũng cháyrồi. Một thằng bé lưu lạc như tôi, đâu phải là đáng bận tâm đối với họ?

Sựtình đã đến nước này thì tôi cũng mặc, tới đâu hay đó Tôi bẻ một số cành câylàm gậy cầm tay, đi dọc theo bờ kênh. Con dao găm còn nằm gọn trong chiếc túida đeo cồm cộm, ló cán ra bên trong túi áo vét-tông của tôi đây.

Haibờ kênh, nhà nào cũng đóng chặt cửa. Bàn ghế, lu mái (chum vại ) nhận lổm ngổmdưới mương. Một con chó đứng giữa đường thấy tôi đi tới, cụp đuôi lủi vào bờdậu. Khi tôi qua rồi, con vật vắng chủ bèn chạy sủa duỗi theo ăng ẳng sau lưngtôi một lúc.

Đêmđó, tôi vào nằm trong một chòi rẫy bỏ hoang giữa đồng. Kinh nghiệm đã dạy tôinên tránh các đường giao thông thủy bộ quan trọng trong khi giặc sắp tấn côngđến nơi. Cả ngày hôm sau, tôi cứ nhằm về hướng những chòm cây có nhà ở mà đitới. Bây giờ, cơn sốt đã lui rồi. Nhờ mấy viên thuốc cảm và đòn bánh tét củachị cứu thương, tôi đã có thể tiếp tục đi được từ sáng đến chiều, cho tới khigặp một dòng sông nước đặc như màu cà phê chắn ngang trước mắt.

Tôikhông biết mình đang đi tới chốn nào đây? Dọc bờ sông xa xa, người ta bắt đầuđốt lên nhiều đống lửa. Trời không gió. những ngọn lửa cháy thẳng, trông nhưmàu trắng, rực rỡ giữa cảnh trời tà. Một làn ánh sáng tai tái, lờ mờ phảng phấttrên mặt nước. Cây cối ngả dần sang màu đen, biến thành những hình thù kỳ dị,như những con quái vật dưới sông trèo lên chồm chỗm ngồi bên bờ.

Trênmột doi đất, có đám người xúm xít ngồi dưới chòm cây khô ánh lửa chiếu qua vainhững cái bóng quay lưng về mé sông, vờn qua vờn lại trên những chiếc xuồng ghếchmũi kéo lên bãi bùn bên dưới chỗ họ ngồi khiến cho những chiếc xuồng kia trôngnhư động đậy muốn bò lên bãi. Hình như những người ngồi đó đang bàn cãi về chuyệngiặc Pháp có dám tiến sâu vào vùng này hay không. Tôi bước đến gần, nhìn vào họxem họ đang làm gì. Đột nhiên, hai chân tôi bỗng khựng lại... Kìa! ông cụ giàbán rắn đang ngồi dạng chân bên đống lửa. Con chó săn nằm sát bên chân chủ, mõmngóc lên, đuôi vẫy qua vẫy lại. Thằng bé đen trũi cầm sào nhảy lên bờ dạo trướcthì ngồi đối diện với bố, đang dùng những đầu ngón chân lật ngựa một con rùanhỏ. Con rùa bị hất vào lửa, bốn chân bơi bơi trong không khí, cổ vươn ra dàingoẵng. Mấy người đàn ông cởi trần, vận quần đùi đen, cao to như ông cụ già bánrắn, người nào người nấy mặt đỏ lựng ngồi bình thản, ngắm con rùa lắc lư cáimai, cố dịch ra xa luồng nóng hừng hực từ trong đống lửa phả ra. Một người rungrung đôi vai cười hé… hé... hơi rượu từ cái mồm há hốc bay ra nồng nặc. Haingười đàn bà mặc quần áo đen, ngồi xế bên ngoài một chút, như hai cái bóng, mắtâu sầu nhìn ra sông.

Tôiđánh bạo bước tới một bước nữa. Con chó săn tức thời chồm lên, sủa oang oang.Mọi người chưa kịp ngẩng lên thì con vật tinh khôn đã phóng tới ngoạm vào túiáo vét tông của tôi.

- Luốc? Yên nào! - Ông cụ già quát lên.

Conchó săn buông túi áo tôi ra, lùi về bên chân chủ nhưng mõm vẫn nghếch lên hướngvề phía tôi, hai cánh mũi bóng nhẫy luôn luôn động dậy.

-Ông ơi? Có phải cái này của ông không? - Tôi móc chiếc túi da beo ra, chìa vềphía ông cụ già bán rắn.

Ôngcụ già ngước nhìn lên, sửng sốt. Hai mắt ông dán chặt vào chiếc túi vằn hoatrên tay tôi. Thằng bé bỏ con rùa nằm đấy, nhẩy đến chộp ngay chiếc túi tưởngđã mất rồi. Nó nhe răng, cười như mếu:

-Biết thế nào cũng có người nhặt được mà? Tía cứ bảo rơi dưới kênh!

Tôiđang nhìn ông lão hay nhìn vào ngọn lửa, tôi cũng không biết nữa. Tôi bắt đầukể:

-Hôm trời nổi dông, khi ông xuống thuyền chèo đi rồi, cháu bắt gặp cái túi nàynằm ở chỗ gốc cây bã đậu. Cháu nghĩ là của ông. Cháu nhặt lên, chạy theo gọimãi mà gió lớn quá, ông không nghe...

Ôngcụ già bán rắn lặng lẽ đứng lên. Tôi hơi lùi chân lại một bước. Nhũng ngườingồi chung quanh đống lửa cùng đưa mắt nhìn ông. Không thấy ông nói gì. Độtnhiên ông xốc tới, dang hai cánh tay đại bàng ra, cắp lấy hai chân tôi, nângbổng cả người tôi đưa lên ngang mặt ông.

Đầulắc qua lắc lại, hàm râu cọ vào bắp vế tôi sào sạo, ông cất tiếng cười ha hả.Con chó săn nhẩy cỡn chung quanh đống lửa, sủa ăng ẳng mấy tiếng, lại lao tớiliếm chiếc túi da beo trên tay thằng bé.

-Tốt lắm, chú em! Qua cám ơn chú em đã! - Giọng mừng rỡ của ông lão vang âm rấtxa trong đêm tối. Ông ôm tôi quay một vòng rồi mới chịu buông tôi ra, đỡ tôivào ngồi cạnh đống lửa.

Ônggiật chiếc túi da beo trên tay thằng bé, tung lên tung xuống mấy cái trong lòngbàn tay to lớn của mình, đoạn nghiêng người vào gần đống lửa, tháo miệng túicầm ra từng món, săm soi mãi.

Mộtngười đàn ông vỗ đánh bốp vào vai ông cụ già:

- Bác Hai? Vật đã tìm chủ trở về thì ta phải làmmột cái gì chứ.

Ônglão cười khà khà:

-Rồi khắc có ngay! Khắc có ngay mà?

Haingười đàn bà ngồi nhích lên bên tôi. Một bà hỏi:

-Em từ ngoài chợ Thới Bình vô đây à?

-Cháu không biết Thới Bình. Cháu từ trên Chắc Băng xuống đây...

-Ủa, vậy em đi đường nào?

-Cháu cũng không biết... Cháu cứ theo đường mòn lội qua rẫy, lần mò đi mãi vậythôi?

Nghe nói Tây vô Chắc Băng rồi phải không? Đằngmình bỏ trống cho nó vô à?

-Có đánh chứ! Đánh nhau suốt ngày...

Tôilần lượt kể lại chuyển những người thương binh trong miếu và chị cứu thương mặcchiếc áo bà ba màu lục Những người ngồi xung quanh đống lửa vừa hút thuốc lávừa lắng nghe chăm chú. Thỉnh thoáng họ lại à lên một tiếng và đưa mắt nhìnnhau, mỉm cười. Không biết họ trao đổi với nhau những ý nghĩ gì.

-Thế ba má chú em đâu rồi? Ông cụ già gõ cái nõ tẩu vào gót chân để trút tànthuốc lá ra, chợt hỏi tôi.

- Nhà cháu ở tận bên kia sông Tiền Giang. Cháu lạcmất ba má cháu đã lâu rồi.

-Ở Tiền Giang à? Vùng xã nào? - ông trố mắt hỏi.

-Dạ, ở Mỹ Tho?

-Ờ Mỹ Thon qua cũng có biết...

Ngườiđàn bà ngồi cạnh tôi chép miệng:

-Khổ thân thằng bé! Bây giờ em tính đi dâu?

Tôicầm vỏ cây khô ném nhẹ vào đống lửa. Tôi lúng túng không biết đáp ra sao. Nhưngtự nhiên tôi bỗng ngước lên, nói rắn rỏi:

-Đi đâu cũng được. Cháu không sợ gì cả. Cháu còn trẻ tráng... đi được tới đâu,cháu đi tới đó? Ơ đâu mà chả thích...

Tôikhông biết chính tôi đang nói, hay anh Ba thủy thủ hóa thân vào tôi thốt ra câuấy. Chắc là bộ mặt ngênh nghênh làm ra vẻ tự hào của tôi có gì buồn cười lắmhay sao, mà khi tôi vừa dứt tiếng, mọi người ngồi chung quanh tôi đều cười rộlên.

- Đưa tay chú em cho quacoi nào.

Một người đàn ông chụp phăng bàn tay tôi, nắnnắn các ngón tay và kề vào đống lửa ngắm ngiá bàn tay tôi.

- Chú mày có số lênh đênh... và sẽ chịu khổnhiều. Nhưng rồi tất sau này sẽ khá. Lần đầu tiên tao mới nghe một thằng nhócnói y như giọng người lớn đấy! Khá lắm. Khá lắm.

Ông cụ già bán rắn hơi ngửa đầu ra, mắt nhìnvào khoảng không trước mặt, miệng ngậm tẩu thở ra những hơi khói thuốc lá đặcsệt. ông khẽ gật gù, quay lại ngó vào tay tôi. Tôi cảm thấy rân rân, dường nhưđang bị những tia mắt của ông sờ vào khắp người mình vậy.

Thằng bé đen trũi đã chạy xuống mé sông, mòvào thuyền cầm lên chai rượu tổ bố và cái bát sành to tướng.

Đám đàn ông nhịp nhịp đùi, vung tay lên nhaonhao:

- Nào, chúng ta mừng chobác Hai.

- Vô tửu bất thành lễ!

- Lễ gì vậy?

- Lễ ra mắt của chú bénày... Chúng ta đều cùng họ "lênh đênh".

Cả ông cụ già bán rắn rót rượu ra bát, đưa mắthỏi tôi:

- Nhấp môi một tí, được chứ.

Tôi cười và lắc đầu. Ông nâng bát rượu lên,tợp một ngụm nhỏ (Theo tục lệ vùng này bao giờ chủ mời cũng uống trước để chứngtỏ trong rượu không có độc) rồi trao chuyền tay cho những người ngồi quanh đốnglửa.

Thằng Cò - tôi còn nhớ tên nó trong lần gặptrước, cầm tay tôi kéo lại gần nó. Nó rủ rỉ nói vào tai tôi:

- Mày ăn gì chưa.

- Ăn rồi - tôi đáp.

- Có rùa vàng ngon lắm?Còn mấy con dưới thuyền. Chốc nữa nướng cho mày ăn.

Vừa lúc đó, con chó bỗng chồm lên sủa oangoang. Trong tiếng chó sủa dữ dội bất thình lình, tôi nghe có tiếng con vật gìkêu "ché... ét... ché... ét " ở ngoài bóng tối.

- A ha, Võ Tòng? Cả thángnay không gặp!

Một người đàn ông búng đầu ngón tay canh cáchvào cổ chai rượu, lắc lắc đôi vai, khề khà hát:

“Võ Tòng mà đả hổ

Tại Kiến Dương Cang

Gặp anh thời giữa đàng..."

Con chó nhe nanh, lônggáy dựng lên, hai chân trước chồm chồm ra bóng tối sủa dữ dội.

- Luốc? Yên nào?

Ông cụ già quát một tiếng. Con chó săn tiunghỉu lùi lại ngoan ngoãn nằm xuống bên chân chủ.

Tôi nắm chặt tay thằng Cò, hãi quá. Một ngườiđàn ông cổ lộ hầu, đen như cột nhà cháy, cởi trần, cao cao lêu nghêu đang hiện ratrong ánh lửa. Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, mộtcặp tròng mắt trắng dã, long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung nhưbờm ngựa phủ dài xuống gáy. Bộ ngực chắc nịch của ông ta ướt đẫm mồ hôi. Dướilớp mồ hôi bóng như mỡ đó, có hình một con rồng cuộn khúc xanh lè thích chàmbằng những nét tinh vi, phập phồng theo hơi thở của ông ta. Con rồng xanh vươnvây ôm chặt một quả tim, giữa có những chữ gì lấp loáng mồ hôi trông không rõ.Chỗ gò má bên phải, năm cáí sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầumóng cọp cào. Một con gì giống như khỉ, hai tay dài nguều ngào, sắc lông đentuyền, chỉ trừ chỗ hai gò má là có mọc hai chòm lông trắng, đang ngồi vắt vẻotrên vai con người kinh dị ấy.

- Lâu nay có làm dược con thịt nào khá không,ông chúa sơn lâm? - Một người quay mặt ra, hỏi.

Người đàn ông mới đến thở phào một tiếng, thảcon vật xuống đất, tháo cánh nỏ đeo bên lưng ra, ngồi vào bên đống lửa nóitrống không:

- Tàm tạm vài con heo rừng. Hơn tháng nay cònphơi cái da beo đóng mốc ở lều. Tây đánh gần tới, thiên hạ chạy tứ tán, bán choai?

- Làm một hớp rượu đón gió đi, chú! - Ông cụgià bán rắn nghếch râu lên mời.

- Không bán được da thì ta phơi thịt nhậu. Logì.

- Bảo Tiểu đồng hầu rượu xem? Cho nó hầu rượuđi, Võ Tòng!.

Võ Tòng búng vào miệng bát một cái, tức thờicon vật đưa hai tay dài nguều ngào ra bưng cái bát nâng lên ngang mặt lắc lư điđến chìa ra trước mặt ông cụ già ông cụ già cầm chai róc thêm rượu vào đầy bátvà hất hàm về phía Võ Tòng.

Tôi hỏi thằng Cò:

- Con gì lạ vậy?

- Con vượn bạc má. Khônlắm. Nó tên là Tiểu Đồng.

ThằngCò cứ ngó chăm chăm vào con vật, coi bộ thích lắm. Con vượn bạc má đứng thẳnghai chân sau lên như người. Hai tay nó bưng bát rượu đi thẳng đến chỗ Võ Tòng,đưa lên mời chủ. Tiểu Đồng nhe răng kêu "ché... ét, ché...ét", rồibắt đầu đi vòng quanh đống lửa mời rượu từng người. Con chó săn gừ từ mấytiếng, vì sợ chủ nên phải nằm yên chứ coi bộ như nó chỉ chực chạy ra cắn mộtmiếng vào đùi con vượn thì mới hả. Đến chỗ hai người đàn bà mặc quần áo đen,Tiểu Đồng nghiêng dầu cúi xuống chào, làm cho những người đàn ông thích chícười rộ lên. Hai người đàn bà lắc đầu quầy quậy, xua tay từ chối, nhưng convượn bạc má không chịu đi, cứ đứng giậm chân kêu "Ché~ét, ché...ét".Cho đến khi mỗi bà phải cầm bát rượu lên nhấp môi một ít, Tiểu Đồng mới chịubưng bát đi mời người khác.

- Chúđịnh đi đâu mà thả ngược lên vùng này vậy? - Ông cụ già bán rắn hỏi Võ Tòng.

- Quầnáo rách hết rồi. Nghe Tây sắp đến, đi đón kiếm một bộ ka-ki mặc chơi. - Võ Tòngđáp chậm rãi.

Mộtngười đàn ông vỗ tay đánh bốp:

-Này? Lấy được súng về bán cho anh em đi săn kiếm thịt ăn với nhé?

VõTòng nhếch môi cười. Những vết sẹo ở gò má bên phải nhăn nhúm lại, thấy rất dễsợ.

- Súng để bắn giặc chứ có súng đâu thừa mà đi săn!

- Nhấtđịnh là tôi sẽ kiếm được. Chỉ lấy quần áo thôi. Còn súng thì phải để cho anh emtự vệ chứ.

Chợtthấy tôi gật đầu tỏ ý đồng tình, Võ Tòng dừng lại chỉ vào tôi:

- Chú bé này, xem không phải là người cánh ta?

Ôngcụ già bán rắn gật gù, thò tay cầm một cái que khô cời vào đống lửa:

- Nhưngnó sẽ là người cánh ta. Chốc nữa, tôi sẽ đưa nó theo tôi... Bà nhà tôi hẳn làphải mừng lắm?

Một bầy chim đêm bay vút qua trên đầu chúng tôi.

Tiếng đập cánh rào rào mất hút trong vòm trời nhấpnháy những vì sao xanh biếc.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện