- Dậy đi! Bé con! Dậy đi!
Một tên lính thúc báng súng vào cạnh sườn Wladek. Chú giật mình ngồi dậy, nhìn vào nấm mộ của chị chú, của Leon và của Nam tước. Rồi chú ngước lên nhìn tên lính. Chú không còn giọt nước mắt nào nữa.
- Tôi sẽ sống. Anh không giết tôi được, - chú nói bằng tiếng Ba Lan. – Đây là nhà tôi, Các anh đang ở trên đất của tôi.
Tên lính nhổ toẹt vào Wladek một cái và đẩy chú về bên bãi cỏ đang có tất cả đám người hầu ở đó, người nào cũng mặc áo ngủ màu xám trên lưng đều có ghi số. Vừa trông thấy thế Wladek đã khiếp sơ. Chú biết là mình sẽ không tránh khỏi số phận ấy. Tên lính dẫn chú về phía sau lâu đài và bảo quỳ xuống. Chú nghe có tiếng dao trên đầu và thấy mớ tóc đen rậm của chú rụng xuống cỏ. Chỉ độ mười nhát như thế là họ đã cạo sạch tóc trên đầu chú, chẳng khác gì người ra cắt lông cừu. Sau đó chú được lệnh mặc vào người bộ đồng phục mới, tức bộ áo ngủ màu xám gồm một chiếc sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần. Wladek cố giấu chiếc vòng bạc đeo ở cổ tay. Rồi chú được dẫn ra nhập bọn với đám người hầu ở phía trước lâu đài.
Họ đứng chờ trên bãi cỏ. Bây giờ không ai còn tên gì nữa, chỉ có số. Wladek bỗng nghe xa xa có tiếng ì ầm rất lạ tai. Chú quay về hướng có tiếng ghê rợn ấy. Một chiếc xe từ ngoài cổng sắt lớn tiến vào. Xe này có bốn bánh, không có ngựa hay bò kéo mà nó di chuyển được. Tất cả tù nhân đều nhìn vào đó mà không tin ở mắt mình. Khi chiếc xe đã dừng lại, bọn lính kéo đám tù nhân đến gần và bắt trèo lên xe. Rồi chiếc xe không có ngựa kéo ấy quay đầu đi ra ngoài những hàng cổng sắt. Không một ai dám mở miệng nói gì. Wladek ngồi phía sau xe, đăm đăm nhìn lại tòa lâu đài của chú cho đến lúc không còn nhìn thấy những tháp gôtích trên nóc nó nữa.
Chiếc xe không có ngựa kéo chạy về phía làm Slonim. Wladek vừa không hiểu sao chiếc xe đó chạy được, vừa không biết nó đưa mọi người đi đâu. Chú bắt đầu nhận ra những con đường chú đã từng đi học trước đây. Ba năm sống dưới hầm lâu đài khiến chú không còn nhớ được những con đường ấy đi đến tận nơi nào. Đi được mấy dặm thì chiếc xe dừng lại và mọi người bị xua xuống. Ra đây là nhà ga xe lửa. Wladek chỉ mới trông thấy chỗ này một lần trong đời, tức là khi chú cùng Leon ra đón Nam tước ở Warsaw về. Chú còn nhớ là khi họ bước vào sân ga thì người lính gác ở đó đã giơ tay chào. Lần này không có ai chào, và tù nhân thì chỉ được uống sữa dê, ăn súp củ cải và bánh mì đen. Wladek lại được đứng ra nhận thức ăn về đem chia cho mười ba người còn lại với chú. Chú ngồi trên một chiếc xe ghê gỗ và đoán rằng họ đang chờ một chuyến xe lửa. Đêm đó, mọi người nằm ngủ trên đất nhìn trời sao. Nếu so với căn hầm thì đây đã là thiên đường rồi. Chú cảm ơn Chúa là mùa đông này không lấy gì làm rét lắm.
Đến sáng hôm sau, mọi người vẫn chờ đợi. Wladek hướng dẫn mọi người vận động một chút, nhưng chỉ được vài phút thì phần lớn đã gục xuống. Chú bắt đầu nhẩm trong bụng để nhớ tên những người cho đến hôm nay còn sống sót. Tất cả còn lại có mười hai người đàn ông, hai người đàn bà, trong số hai mươi bảy người đã bị giam trong hầm trước đây. Cả ngày hôm ấy họ vẫn cứ phải ngồi chờ chuyến xe lửa mà không thấy nó đến. Có một chuyến tàu đến nhưng chỉ thả thêm lính xuống đây, rồi lại đi mà không chở đám người của Wladek. Họ lại ngủ một đêm nữa trên đất.
Wladek nằm nhìn lên trời cao trong bụng nghĩ không biết có thể làm thế nào để trốn đi được. Trong đêm, một trong số mười ba người của chú bỏ chạy sang bên kia đường xe lửa, nhưng chưa sang được đến nơi đã bị lính bắn chết. Wladek chăm chăm nhìn vào chỗ đồng bào của chú vừa ngã xuống. Chú sợ không dám chạy ra cứu vì rất có thể lại cùng chịu số phận ấy. Sáng hôm sau, bọn lính gác cứ để xác chết đó nằm trên đường để đe những người khác đừng có bắt chước chạy mà chết.
Không ai nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng suốt ngày hôm đó mắt Wladek không rời được người đã chết. Người đó chính là Ludwik, một trong hai người đã đến làm chứng lúc Nam tước dặn dò để lại gia tài cho Wladek.
Vào buổi tối ngày thứ bà, một chiếc xe lửa khác từ từ lăn bánh vào ga. Một chiếc đầu tàu rất to chạy bằng hơi nước kéo theo một lô toa chở hàng và chở hành khách. Những toa chở hàng chất đầy rơm và hai bên sườn có viêt chữ Gia Súc. Một số toa khác đã chở toàn những tù nhân mà Wladek trông họ cũng nhem nhuốc như đám người của chú vậy. Chú và tốp người của chú bị vứt lên một trong những toa đó để bắt đầu một cuộc hành trình. Phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa đoàn tàu mới bắt đầu ra khỏi ga và đi về một hướng mà Wladek đoán là hướng Đông vì mặt trời đang lặn phía sau.
Cứ ba toa lộ thiên thì có một lính gác ngồi bắt chéo chân ở toa bên trên có mái. Suốt dọc đường tưởng như không bao giờ hết ấy, thỉnh thoảng lại có tiếng súng bắn trên tàu, khiến Wladek nghĩ có muốn chạy trốn cũng vô ích.
Lúc tàu đỗ lại ở Minsk, họ được cho ăn một bữa đầu tiên gồm bánh mì đen, nước uống, lạc và kê. Rồi lại đi tiếp. Có khi họ đi đến ba ngày trời mà chẳng thấy một ga nào. Rất nhiều người trên tàu này bị đói lả và chết. Họ bị vứt xuống đường trong khi tàu đang chạy. Khi tàu dừng lại, có khi họ phải chờ đến hai ngày để nhường đường cho tàu khác đi về phía Tây. Những chuyến tàu ấy thường là chở lính. Wladek hiểu ra là tàu chở quân đội bao giờ cũng được ưu tiên đi trước. Trong đầu Wladek lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện trốn, nhưng có hai điều khiến chú chưa dám thực hiện tham vọng ấy. Thứ nhất chú thấy hai bên đường chỉ toàn là rừng thẳm không biết đến đâu mới hết, và thứ hai là tất cả những người còn sống sót ở nhà hầm ra đây đều chỉ biết dựa vào chú. Chính Wladek là người lo ăn uống cho họ và cố động viên cho họ còn muốn sống. Chú là người trẻ nhất trong cả bọn và cũng là người cuối cùng tin ở cuộc sống.
Từ đấy trở đi, đêm nào cũng rất lạnh, có khi lạnh tới 30 độ dưới không. Họ phải năm sát vào nhau trên sàn để người nọ truyền hơi ấm cho người kia. Wladek thầm đọc lại những đoạn Aeneid để cố ngủ cho được. Nếu một người muốn trở mình thì tất cả những người khác đều phải đồng ý giở mình một lượt mới được. Wladek nằm ở đằng đầu và cứ qua mỗi giờ đồng hồ, chú đoán như vậy vì chỉ có thể căn cứ vào bọn lính đổi gác, thì chú lại lấy tay gõ vào thành xe và mọi người lại cứ thế trở mình quay sang phía kia. Một đêm, có một người không trở mình nữa. Họ báo cho Wladek biết và chú báo lại cho tên lính gác biết. Đó là một người đàn bà trong nhóm, và ba ta đã chết. Phải bốn người mới nhấc được xác bà lên và vứt xuống cạnh đường trong khi tàu vẫn đang chạy. Tên lính gác còn bắn theo xác chết một loạt đạn nữa để biết chắc rằng đó không phải là người định trốn.
Đi qua Minsk hai trăm dặm, họ đến một thị trấn tên là Smolenski. Ở đây họ được ăn súp củ cải nóng hơn với bánh mì đen. Trong toa xe của Wladek có thêm mấy tù nhân nữa, và mấy người này nói cùng một thứ tiếng với bọn lính gác. Người cầm đầu nhóm mới này hình cũng cùng tuổi với Wladek. Wladek với mười một người còn lại trong nhóm đã thấy nghi ngờ ngay bọn mới lên này, Họ chia toa xe ra làm hai nửa, mỗi nhóm ở một bên toa.
Một đêm trong khi Wladek đang nằm thức và ngắm nhìn trời sao, chờ cho người nóng lên, chú bỗng thấy tên cầm đầu của nhóm người mới lên ở Smolenski bò đến chỗ người nằm ngoài của nhóm chú, tay hắn cầm một sợi dây thừng. Chú trông rõ thấy hắn luồn sợi dây và cổ Alfons lúc này đang ngủ. Alfons là người hầu cận của Nam tước trước đây. Wladek biết rằng nếu mình nhổm dậy ngay thì hắn sẽ nghe thấy và chạy về đầu toa bên kia, vì thế chú khẽ bò dọc theo nhóm người của chú. Họ biết chú bò qua mình nhưng không ai lên tiếng. Đến cuối hàng, chú nhảy chồm lên người tên kia. Mọi người trong toa thức dậy ngay. Ai nấy kéo dồn về một đầu toa, trừ có Alfons nằm lại đó không động đậy.
Tên cầm đầu đám Smolenski cao lớn và nhanh nhẹn hơn Wladek. Nhưng vật nhau trên sàu toa thì cũng như nhau cả. Cuộc đấu diễn ra đến mấy phút. Bọn gác nhìn cười và đánh cuộc xem ai được. Một tên thấy đánh nhau mà không có máu thì không thích, bèn quẳng một chiếc lưỡi lê xuống giữa sàn tàu. Cả hai tranh nhau giành lấy lưỡi lê sáng loáng. Tên Smolenski vớ được trước. Hắn đâm một nhát vào cạnh chân Wladek tóe máu. Bọn người Smolenski thấy thế hoan hô. Nhát đâm thứ hai trượt qua tai Wladek cắm xuống sàn tàu. Hắn chưa kịp rút lưỡi lê được thì Wladek đã dùng hết sức mình thúc một cái thật mạnh vào dái hắn. Hắn ngửa người ra sau và phải rời tay khỏi lưỡi lê. Wladek chồm lên, nắm lấy cán lưỡi lê và đè lên người tên Smolenski, thọc một nhát vào miệng hắn. Hắn thét lên một tiếng làm náo động cả đoàn tàu. Wladek rút lưỡi lê ra rồi lại liên tiếp thọc xuống mấy nhát nữa cho đến khi tên kia hết cựa quậy. Wladek quỳ lên người hắn thở dốc rồi lát sau nhác người hắn lên vứt ra ngoài tàu, Chú nghe rõ tiếng xác hắn rơi đành huỵch xuống cạnh đường tàu và cả tiếng súng của bọn gác bắn theo.
Wladek loạng choạng đi đến chỗ Alfons còn nằm đó. Chú quỳ xuống bên cạnh. Anh ta chết thật rồi. Thế là người làm chứng thứ hai của chú cũng chết nốt. Bây giờ còn ai tin được Wladek là người Nam tước đã chọn ra để thừa kế tài sản của ông nữa? Cuộc đời thế là không còn mục đích gì nữa rồi.
Chú cúi gục xuống, nắm chặt hai tay vào cán và xoay mũi lưỡi lê vào bụng. Bỗng một tên lính gác nhảu xuống giằng lưỡi lê ra khỏi tay chú.
- Ô, không được, không được, - hắn càu nhàu. – Chúng tao cần có những người sống như mày ở trong trại giam. Đừng hòng chúng tao làm mọi việc, nghe không.
Wladek ôm hai tay lên đầu. Bây giờ chú mới thấy đau buốt ở chỗ chân bị lưỡi lê đâm lúc nãy. Chú đã mất hết cả gia tài, để bây giờ cầm đầu luôn cả lũ người Smolenski kia nữa. Cả toa tàu bây giờ là giang sơn của chú, và chú phải quản hai chục tù nhânh. Chú lập tức chia họ ra để mỗi người Ba Lan bao giờ cũng phải nằm kề với một người Smolenski, và như vậy giữa hai nhóm không còn có chuyện lục đục với nhau được nữa.
Wladek bỏ thì giờ ra để học cái ngôn ngữ quái lạ của họ. Mãi sau chú mới biết đó chính là tiêng Nga, rất khác với thứ tiếng Nga cổ điển mà Nam tước đã dạy cho chú. Và bây giờ thì chú biết là đoàn tàu đi về hướng nào.
Ban ngày, chú lấy ra hai người Smolenski để dạy tiếng của họ cho chú. Khi nào hai người đó mệt quá rồi, chú lại lấy hai người khác, cứ thế cho đến lúc cả bọn người đó mệt rũ.
Dần dần chú đã có thể nói chuyện dễ dàng với bọn người mới phụ thuộc vào chú. Chú phát hiện ra một số trong bọn đó là lính Nga, sau khi về nước bị đi đày ngay về cái tội đã để cho bọn Đức bắt làm tù bình. Số còn lại toàn là dân làm ruộng, làm mỏ và lao động bình thường nhưng đều là những người rất chống đối cách mạng.
Đoàn tàu đi tiếp đến những vùng đất trơ trụi mà Wladek chưa hề thấy bao giờ. Họ đi qua những thị trấn mà chú cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, như Omsk, Novosbirsk, Krasnoyarsk. Chỉ những nghe đến tên thôi chú cũng đã thấy sợ. Cuối cùng, sau hai tháng trời và qua hơn ba ngàn dặm họ đến được Irkutsk, và đến đây là hết đường sắt.
Họ bị xua ra khỏi tàu, được cho ăn uống và được phát những đôi giày bằng da thô, và những chiếc áo choàng rất nặng. Họ phải tranh nhau để giành lấy áo ấm những cũng chẳng có thứ áo nào chống nổi cái lạnh mỗi lúc một ghê gớm hơn.
Lúc sau thấy xuất hiện những chiếc xe không có ngựa kéo, giống như loại xe Wladek đã thấy lúc rời khỏi lâu đài. Họ quẳng xuống một loạt dây xích. Các tù nhân bị khóa một tay vào dây xích dài ấy, mỗi bên hai mươi lăm người. Bọn lính gác trèo lên xe, còn đám tù nhân đi theo với dây xích buộc vào xe. Họ cứ đi bộ như thế liền trong mười hai tiếng đồng hồ, được nghỉ lại hai tiếng rồi lại đi tiếp. Sau ba ngày, Wladek tưởng mình sẽ chết vì lạnh và mệt, nhưng ra khỏi những vùng có dân cư rồi, họ chỉ phải đi ban ngày, còn ban đêm được nghỉ. Một bếp lưu động của tù nhân trong trại cứ sáng ra và tối trước khi nghỉ cho họ ăn súp củ cải và bánh mì. Wladek hỏi những tù nhân trong trại thì được biết rằng tình hình ở đó còn tệ hơn.
Trong tuần đầu, họ không được tháo ra khỏi xích nhưng dần dà thấy không ai có thể nghĩ đến trốn chạy được nữa, họ phải tháo xích vào ban đêm để ngủ. Tù nhân phải tự đào hố trong tuyết để tìm chỗ ấm. Đôi khi vào những ngày nắng ráo họ tìm được một khu rừng để ngả lưng, nằm ngổn ngang khắp chỗ. Họ vẫn tiếp tục đi, qua những hồ nước rất rộng và những con sông băng giá. Họ đi mãi về phía bắc, gió càng lạnh, tuyết càng dầy. Chỗ chân bị thương của Wladek luôn luôn đau buốt, nhưng đến giờ thì hai tai và các đầu ngón tay bị giá lạnh còn buốt hơn nữa. Chung quanh là cả một khoảng mênh mông trắng toát, không có dấu hiệu gì của sự sống và thứ gì ăn được. Wladek biết rằng ban đêm có trốn đi đâu thì cũng chỉ chết mòn vì đói. Những người già yêu ốm đau thì đêm đêm chết dần, và như thế họ cũng còn là may mắn. Còn những người không may, không bước đi được nữa, thì được tháo ra khỏi xích và bỏ lại một mình trong bãi tuyết vô tận. Những người còn sống sót với dây xích lại đi tiếp, đi mãi về phía Bắc, cho đến lúc Wladek hoàn toàn không còn khái niệm gì về thời gian nữa, chỉ còn biết tay mình vẫn bị khóa vào xích. Chú cũng không còn nhớ là mình đã đào hố vào trong tuyết để ngủ đêm và sáng hôm sau tỉnh dậy như thế nào nữa. Những ai không còn biết được như vậy coi như đã sắp đào mồ để chôn chính mình rồi.
Sau một chặng dài chín trăm dặm, những người nào còn sống sót thì được dân Ostyak đem xe trượt do hươu kéo ra đón. Ostyak là dân du mục trên thảo nguyên Nga. Bây giờ tù nhân lại bị xích vào những xe trượt ấy và được dẫn đi tiếp. Gặp một trận bão tuyết lớn, đoàn tù phải dừng lại mất hai ngày. Wladek tranh thủ nói chuyện được với một tay Ostyak trẻ trên chiếc xe trượt mà chú đang bị xích vào đó. Chú dùng thứ tiếng Nga cổ với giọng Ba Lan để nói lõm bõm với anh ta được ít câu. Chú phát hiện ra một điều là dân Ostyak cũng rất ghét những người Nga ở phía Nam, vì họ đối đãi với dân này tồi tệ chẳng khác gì các tù nhân. Dân Ostyak do đó có phần nào cảm tình với những người tù tội nghiệp không có tương lai này. Họ gọi tù nhân là những người bất hạnh.
Chín ngày sau, trong ánh sáng mờ của đêm mùa đông Bắc Cực, họ đến được trại 201. Wladek không thể nào ngờ được rằng mình còn có cái may mắn mà trông thấy chỗ này. Trước mắt chú là một dãy những căn lều bằng gỗ và một khoảng không gian mênh mông trống rỗng. Những căn lều cũng được đánh số như tù nhân vậy. Lều của Wladek số 33. Giữa căn lều có một chiếc lò đen sì. Chung quanh là những dãy giường ván có đệm rơm ở trên với chiếc chăn mỏng. Trong đêm đầu không có mấy tù nhân ngủ được. Tiếng gào tiếng khóc trong lều 33 có khi còn to hơn cả tiếng gầm rú của chó sói ở bên ngoài.
Sáng hôm sau, ngay từ lúc mặt trời chưa mọc, họ đã bị tiếng gõ vào thanh sắt tam giác đánh thức dậy. Sương giá đóng đầy cả mặt cửa sổ khiến Wladek nghĩ thế nào mình cũng chết rét. Ăn sáng chỉ được kéo dài mười phút trong một gian chung lạnh buốt với một bát cháo kê hơi âm ấm trong có vài miếng cá mòi và một cọng rau cải nổi lềnh bềnh. Những người mới đến bỏ xương cá lên bàn, nhưng những tù nhân đã quen với cảnh ở đây rồi thì ăn hết xương và cả mắt cá nữa.
Ăn sáng xong, họ được giao nhiệm vụ. Wladek trở thành anh chặt củi. Anh được dẫn đi bảy dặm đến một khu rừng hoang và được lệnh phải chặt được một số cây nhất định. Tên lính gác bỏ anh lại đó với nhóm sáu người và suất ăn của họ gồm có một ít cháo kê vàng nhạt nhẽo và bánh mì. Bọn lính gác không sợ tù nhân nào dám trốn, vì đến được thị trấn gần đó nhất cũng phải một nghìn dặm và dù có biết hướng đi cũng không đi nổi.
Đến cuối ngày tên lính gác sẽ quay lại đếm số củi đã chặt được. Anh ta cũng đã nói trước với tù nhân là nếu chặt không dủ số củi đã quy định thì anh ta sẽ giữ thức ăn lại đến hôm sau mới phát. Nhưng lúc anh ta quay lại thì đã bảy giờ tối, chỉ còn thu thập được cho đầy đủ tù nhân thôi, chứ không nhìn được xem họ đã chặt bao nhiêu củi. Wladek bày cho những người trong nhóm biết cách để một phần thời gian buổi chiều quýet dọn tuyết trên đống củi đã chặt hôm trước và xếp vào cùng với củi chặt hôm sau. Cách đó của anh rất có hiệu quả, vì vậy nhóm của Wladek không ngày nào bị cắt suất ăn cả. Đôi khi họ cố gắng đem theo một ít củi về trại bằng cách buộc nó vào chân ở trong quần, để đến đêm có thể cho vào lò mà sưởi. Nhưng họ cũng phải rất cẩn thận vì mỗi lần ra vào đều bị khám xét kỹ lưỡng. Nếu chẳng may bị bắt mang theo gì trong người, họ có thể bị phạt ba ngày không được ăn.
Qua mấy tuần nữa, cái chân của Wladek bị cứng ra và rất đau. Anh mong cho có những ngày cực rét, vì khi nào thời tiết xuống tới 40 độ dưới không thì họ không phải đi làm ở ngoài trại, mặc dầu ngày ở nhà ấy sẽ phải thế bằng một ngày chủ nhật khác, mà chủ nhật thì họ thường được phép nằm nghỉ cả ngày trên giường.
Một buổi tối trong khi Wladek đang vác củi, anh bỗng thấy vết sẹo do tên Smolenski gây ra, anh thấy nó sưng vù lên và bóng đỏ. Đêm đó anh giơ vết thương cho tên lính gác xem. Hắn bảo anh đến sáng mai sớm phải báo cho bác sĩ của trại biết. Wladek ngồi suốt đêm áp chân vào gần lò. Chung quanh lò toàn những ủng ướt. Lửa trong lò quá yếu nên không làm cho anh bớt đau tí nào.
Hôm sau Wladek dậy sớm hơn bình thường một giờ, vì anh nghĩ nếu không gặp được bác sĩ trước giờ làm việc thì sẽ lại phải để đến ngày hôm sau nữa. Nếu để qua một ngày nữa thì Wladek không thể chịu đau nổi. Anh đến báo cáo với bác sĩ, ghi tên và số tù của anh. Pierre Dubien hóa ra là một ông bác sĩ dễ tính. Ông ta hói đầu, hơi gù lưng. Wladek nghĩ có lẽ ông ta còn già hơn cả Nam tước trước khi qua đời. Bác sĩ khám chân Wladek và không nói gì.
- Vết thương có việc gì không, thưa bác sĩ? – Wladek hỏi.
- Anh nói tiếng Nga được hả? - Thưa được.
- Mặc dầu, anh sẽ bị thọt, nhưng chân anh rồi sẽ khỏi. Nhưng khỏi để làm gì? Để suốt đời đi chặt củi ư?
- Không, thưa bác sĩ, cháu có ý muốn trốn và trở về Ba Lan. - Wladek nói.
Bác sĩ chằm chằm nhìn anh.
- Nói khẽ chứ, ngốc ở đâu... Đến bây giờ thì anh biết là không trốn được chứ. Chính tôi đã bị bắt ở đây mười lăm năm nay rồi, và không một ngày nào là tôi không nghĩ đến trốn. Nhưng không có cách nào được. Chưa hề có ai trốn mà lại sống được, mà chỉ nói đến chuyện trốn không thôi cũng đã bị phạt giam mười ngày dưới xà lim, mà ở đó ba ngày người ta mới cho anh ăn một lần, còn lò thì đốt chỉ đủ để tan giá ở trên tường thôi. Qua được cái đoạn trừng phạt ấy mà anh còn sống là may lắm rồi đấy.
- Cháu sẽ trốn, nhất định trốn, - Wladek nhìn ông già nói.
Bác sĩ nhìn vào mắt Wladek và mỉm cười.
- Này anh bạn ơi, chớ có nhắc đến chuyện trốn nữa, kẻo họ có thể giết anh đấy. Anh trở về làm việc đi, cố giữ cho cái chân tiếp tục vận động, rồi mỗi sáng đến đây tôi xem.
Wladek trở về rừng chặt củi, nhưng anh thấy bây giờ mình chỉ kéo được gỗ đi mấy bước thôi. Chân đau đến mức anh tưởng như nớ sắp rụng ra. Sáng hôm sau trở lại chỗ bác sĩ, ông ta khám chân anh cẩn thận hơn.
- Chà gay go đây, - bác sĩ nói. – Anh bao nhiêu tuổi rồi?
- Có lẽ cháu mười ba rồi, - Wladek nói. – Năm nay là năm bao nhiêu ạ?
- Một nghìn chín trăm mười chín. – Bác sĩ đáp.
- Vâng mười ba ạ. Còn ông bao nhiêu? – Wladek hỏi.
Ông ta nhìn xuống đôi mắt xanh của cậu thanh niên, hơi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi.
- Ba mươi tám, - ông khẽ nói.
- Ôi, lạy chúa. – Wladek nói.
- Nếu anh bị tù mười lăm năm thì cũng sẽ già như tôi thôi, - bác sĩ nói với một giọng bình thản.
- Nhưng tại sao ông lại ở đây chứ? – Wladek nói. - Tại sao đã bao nhiêu lâu thế mà họ không để cho ông đi?
- Tôi bị bắt ở Moscow năm 1904, ngay sau khi tôi có danh nghĩa bác sĩ. Tôi làm việc cho sứ quán Pháp ở đó. Họ bảo tôi là gián điệp nên bỏ tôi vào tù ở Moscow. Tôi nghĩ cho đến sau cách mạng cũng vậy. Họ tống tôi vào cái địa ngục này đây. Ngay cả đến những người Pháp cũng quên rằng tôi còn sống. Cả thế giới chả ai tin được là có một chỗ như thế này. Ở cái trại 201 này chưa từng có ai ở cho đến hết hạn được, vì vậy tôi sẽ chết ở đây như một người khác mà thôi. Có điều chưa chết ngay được thôi.
- Không, ông không nên mất hy vọng, bác sĩ ạ.
- Hy vọng? Tôi đã mất hết hy vọng từ lâu rồi. Có lẽ anh thì không, nhưng anh nên nhớ là đứng có nhắc đến hy vọng ấy với bất cứ ai. Ở đây có những tù nhân họ chỉ nghe nói thế là đi báo cáo ngay, để nhận về một phần thưởng hoặc đó là thêm một miếng bánh hoặc một chiếc khăn mà thôi. Bây giờ thế này nhé Wladek. Tôi sẽ cho anh làm việc phụ bếp trong một tháng, và suốt thời gian đó sáng nào anh cũng phải đến báo cáo. Đó là cơ hội duy nhất để anh khỏi phải mất cái chân kia, mà tôi có cưa chân của anh đi thì cũng chẳng sung sướng gì. Ở đây chúng tôi không có những dụng cụ giải phẫu tốt lắm đâu, - ông vừa nói vừa nhìn lên một con dao to.
Wladek rùng mình sợ hãi.
Bác sĩ Budien viết tên Wladek lên một mẩu giấy. Sáng hôm sau Wladek xuống trình diện dưới nhà bếp. Anh được giao việc rửa bát đĩa trong nước lạnh cóng và chuẩn bị thức ăn không cần phải ướp lạnh. Sau một thời gian phải chặt củi suốt ngày, anh thấy đây là một sự thay đổi đáng mừng. Được ăn thêm súp cá, thêm bánh mì đen, và nhất là được ở trong nhà ấm áp. Có hôm anh được nhà bếp chia cho một nửa quả trứng, mà không ai biết rằng đó là trứng con gì. Chân anh đã dần dần khỏi, tuy phải hơi chịu thọt một chút. Bác sĩ Dubien không thể có được thứ thuốc gì tử tế mà chữa cho anh, chỉ biết theo dõi từng ngày vậy thôi. Ngày giờ trôi qua, bác sĩ trở thành người bạn của Wladek, thậm chí còn tin ở hy vọng của tuổi trẻ đối với tương lai. Mỗi sáng hai người thường nói chuyện với nhau bằng các thứ ngôn ngữ, nhưng người bạn mới kia thích nhất là được nói tiếng Pháp vì đó là tiếng mẹ đẻ.
- Trong bảy ngày nữa, Wladek, anh sẽ phải trở lại với nhiệm vụ ở trong rừng. Bọn lính gác sẽ khám phá cái chân của anh, và tôi không thể giữ anh ở lại trong bếp nữa. Vậy anh nghe kỹ tôi nói đây nhé, vì tôi đã có một kế hoạch cho anh trốn đi.
- Cùng trốn, bác sĩ. – Wladek nói. – Chúng tôi cùng trốn.
- Không, chỉ mình anh thôi. Tôi nhiều tuổi rồi, không đi được xa như thế, mặc dầu hơn mười lăm năm nay lúc nào tôi cũng mơ đến chuyện trốn. Tôi sẽ chỉ làm vướng chân anh thôi. Biết có ai trốn đi được là tôi đủ hài lòng rồi, và anh là con người đầu tiên tôi gặp khiến tôi tin rằng anh có thể thành công được.
Wladek yên lặng ngồi trên sàn nghe bác sĩ nói kế hoạch của ông.
- Trong mười lăm năm qua, tôi đã dành dụm được hai trăm rúp. Đây là tiền làm "ngoài giờ" nhưng không phải như một tù nhân Nga đâu, - Wladek nhăn nhó cười. – Tôi giấu tiền trong một chai thuốc. Có bốn tờ, mỗi tờ năm mươi rúp. Khi nào anh đi thì phải khâu tiền đó vào trong áo. Tôi sẽ làm việc đó cho anh.
- Áo nào? – Wladek hỏi.
- Tôi có một bộ quần áo và một sơ mi trước đây mười hai năm tôi đã mua lại được của một tên lính gác, và hồi đó tôi còn tin ở chuyện trốn được. Bộ quần áo không mới lắm, nhưng có thể phục vụ cho mục đích của anh được.
Mười lăm năm dành dụm được hai trăm rúp, một chiếc áo sơ mi và một bộ quần áo, thế mà bác sĩ sẵn sàng chỉ trong chốc lát hy sinh tất cả nhưng cái đó cho Wladek. Suốt đời mình, Wladek sẽ chẳng còn bao giờ được thấy một hành động quên mình như thế nữa.
- Thứ năm tới sẽ là cơ hội duy nhất của anh, - bác sĩ nói tiếp. – Tù nhân mới sẽ đến Irkutsk bằng xe lửa. Bọn lính gác bao giờ cũng lấy bốn người của nhà bếp để tổ chức những chuyến xe thức ăn cho bọn người mới đến. Tôi đã thu xếp với bếp trưởng để anh được lên xe thức ăn. Tôi đem một ít thuốc đánh đổi cho anh ta đấy. Không khó khăn gì lắm đâu. Thực ra không ai muốn đi một chuyến đến tận đó rồi lại quay về đây, nhưng anh thì chỉ đi một lượt ra đến đó thôi.
Wladek vân nghe rất kỹ.
- Ra đến ga, anh hãy chờ cho đến khi nào tàu chở tù nhân vào ga. Một khi họ xuống ga cả rồi thì anh chạy qua đường sắt rồi nhảy lên chuyến tàu sẽ đi Moscow, mà chỉ sau khi tàu chở tù nhân đến rồi thì tàu đó mới khởi hành được vì bên ngoài ga chỉ có một đường tàu thôi. Anh phải mong làm sao cho đến lúc có hàng trăm tù nhân mới chạy đi chạy lại như thế thì bọn gác mới không để ý đến chuyện anh biến mất được. Từ lúc đó trở đi là tùy anh định liệu. Nên nhớ rằng nếu chúng trông thấy anh là chúng bắn liền chứ không cần hỏi han gì hết. Tôi chỉ có thể giúp anh được một điều này nữa. Mười lăm năm trước khi tôi bị đưa đến đây, tôi đã vẽ trong đầu óc một bản đồ con đường đi từ Moscow đến Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ đến bây giờ nó không còn chính xác nữa nhưng có thể đáp ứng cho mục đích của anh được. Anh phải tìm hiểu cho chắc chắn xem người Nga họ đã chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ chưa. Có trời mà biết được cho đến nay họ đã làm những gì. Theo tôi biết thì có thể họ cũng đã kiểm soát được cả nước Pháp nữa.
Bác sĩ bước vào phòng thuốc và lấy ra một cái chai lớn trông như đựng một chất gì đó màu nâu. Ông mở nút lấy ra một tấm da khô đã cũ. Nét mực đen qua năm tháng đã bị nhạt màu, mang chữ "Tháng mười 1904". Trên mảng da vẽ con đường từ Moscow đến Odessa và từ Odessa đến Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả 1500 dặm đường đi đến tự do.
- Trong tuần này, mỗi sáng anh cứ phải đến đây và chúng ta sẽ lại bàn thêm về kế hoạch này. Nếu như không thành công thì đó không phải là do thiếu chuẩn bị.
Mỗi đêm, Wladek thức giấc nhìn ra ánh sáng mờ mờ ngoài cửa sổ, thử nghĩ trước những tình huống bất ngờ xem mình sẽ đối phó như thế nào. Đến sáng, anh lại đem bàn thêm với bác sĩ. Vào tối thứ tư trước ngày Wladek định trốn, bác sĩ gấp mảnh bản đồ đó làm tám, cùng để với bốn tờ bạc 50 rúp vào một gói nhỏ và ghim nó vào bên trong tay áo của bộ đò. Wladek cởi bộ quần áo cũ, mặc chiếc sơ mi vào người rồi mặc quần áo tù ra ngoài. Lúc anh mặc lại thì cặp mắt bác sĩ bỗng trông thấy chiếc vòng bạc của Nam tước.
Từ khi mặc áo tù, anh vẫn luôn luôn đeo nó lên trên khuỷu tay vì sợ bọn lích gác trông thấy sẽ cướp mất của quý duy nhất còn lại đó của anh.
- Cái gì thế?- bác sĩ hỏi. – Trông rất đẹp đấy.
- Đây là quà tặng của cha tôi, - Wladek nói. Tôi có thể tặng lại ông để tỏ lòng cảm tạ của tôi được không? – Anh trút chiéc vòng xuống cổ tay và đưa cho bác sĩ.
Bác sĩ nhìn chiếc vòng bạc một lúc lâu rồi cúi đầu nói:
- Không nên. Thứ này chỉ có thể thuộc về một người thôi. – Ông im lặng nhìn anh. - Hẳn cha anh là một người cao quý lắm.
Bác sĩ đeo trả lại chiếc vòng bạc vào cổ tay Wladek, rồi bắt tay anh nồng nhiệt.
- Chúc anh may mắn, Wladek. Có lẽ chúng ta không bao giờ còn gặp nhau nữa.
Họ ôm chầm lấy nhau và bước ra ngoài. Anh cầu cho đây là đêm cuối cùng của mình ở trong lều trại giam. Anh không sao ngủ được suốt đêm đó, chỉ sợ một trong những tên lính gác phát hiện ra bộ quần áo mặc dưới áo tù. Tiếng chuông buổi sáng vừa vang lên, anh đã mặc xong quần áo và xuống bếp sớm. Tù nhân bếp trưởng đẩy Wladek đi lên trước khi bọn lính gác kiểm soát xe thức ăn. Tổ phục vụ chọn ra có bốn người tất cả. Wladek là trẻ nhất trong đám.
- Tại sao lại thằng này? - một tên lính gác chỉ tay vào Wladek hỏi.
Wladek như chết đứng và khắp người lạnh run. Kế hoạch của bác sĩ thế là hỏng, và phải ba tháng nữa mới lại có một đợt tù nhân nữa đến trại. Đến lúc đó thì anh sẽ không còn ở bếp nữa.
- Nó nấu bếp rất giỏi, - tù nhân bếp trưởng nói. – Nó được rèn luyện trong lâu đài của một Nam tước đấy. Chỉ có nó mới nấu ăn được ngon lành cho lính gác thôi.
- À, thế đấy, - tên lính gác nói, nghi ngờ không bằng tham ăn. - Vậy thì nhanh lên.
Cả bốn người chạy ra xe, rồi đoàn xe lên đường. Cuộc hành trình lại một lần nữa chậm chạp, vất vả, nhưng lần này ít nhất anh không phải đi bộ và cũng không lạnh chết người vì bây giờ đang là mùa hè. Wladek làm việc cật lực để chuẩn bị thức ăn. Anh không muốn ai chú ý đến mình. Suốt dọc đường anh chỉ nói vài câu với bếp trưởng là Atanislaw.
Cuối cùng, sau khi họ đã đến được Irkutsk tính ra gần hết mười sáu ngày. Chuyến tàu chờ đi Moscow đã nằm sẵn ở ga. Nó đã đến đây mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không thể bắt đầu cuộc hành trình quay trở về Moscow chừng nào chuyến tàu chở tù nhân mới chưa đến được. Wladek cùng với mấy người làm bếp ngồi chờ ở sân ga bên này, ba người không quan tâm đến gì khác chung quanh, còn một người chú ý theo dõi đoàn tàu ở bên kia sân ga. Có nhiều cửa lên tàu, nhưng Wladek đã ngắm trước một cửa để đến lúc là anh sẽ nhảy lên đó.
- Anh có định trốn không? – Atanislaw chợt hỏi.
Wladek toát mồ hôi nhưng không trả lời.
- Đúng là anh định trốn rồi. – Atanislaw chăm chăm nhìn anh.
Wladek vẫn không nói gì.
Ông bếp trưởng già nhìn anh thanh niên mười ba tuổi, rồi ông gật đầu ra vẻ tán thành. Giá như anh có cái đuôi thì nó đã vẫy ngay rồi.
- Chúc anh may mắn. Tôi sẽ cố làm cho họ không để ý đến chuyện anh vắng mặt, được chừng nào hay chừng đó.
Atanislaw nắm lấy tay anh. Wladek nhìn thấy đoàn tàu chở tù nhân ở ngoài xa đang từ từ tiến đến chỗ họ ngồi. Anh cảm thấy căng thẳng, tim dồn dập, mắt theo dõi cử chỉ của từng tên lính. Anh chờ cho đến khi đoàn tàu kia dừng hẳn, nhìn theo đám tù nhân trên tàu đổ xuống sân ga. Họ có hàng trăm người, dáng mệt mỏi, không tên tuổi gì. Trong lúc sân ga đang bề bộn một đống người và bọn lính gác bận rộn, Wladek chui xuống dưới gầm đoàn tàu chở tù nhân rồi nhảu lên đoàn tàu sẽ đi Moscow. Không một ai trên tàu để ý đến anh lúc đó vào phòng vệ sinh ở cuối toa. Anh cài cửa lại rồi đứng bên trong chờ, bụng lâm râm cầu nguyện, chỉ sợ có ai gõ cửa. Wladek cứ đứng như thế không biết bao nhiêu lâu rồi mới thấy đoàn tàu bắt đầu lăn bánh ra khỏi ga. Thực ra, chỉ có mười bảy phút.
- Thế là xong, thế là xong, - anh thốt lên. Anh nhìn qua khung cửa sổ con của buồng vệ sinh, thấy nhà ga nhỏ dần và xa dần, đám tù nhân mới đã bị xích tay vào nhau sắp sửa lên đường về trại 201, và bọn lính gác vừa cười vừa xích họ lại. Không biết sẽ có bao nhiêu người sống sót khi về đến trại? Bao nhiêu người sẽ làm mồi cho chó sói? Bao lâu nữa thì họ biết là thấy thiếu anh?
Wladek ngồi trong buồng vệ sinh thêm mấy phút nữa, không dám động đậy và không biết bây giờ mình phải làm gì. Bỗng có tiếng đập cửa, Wladek nghĩ ngay, không biết đó là tên lính gác hay người soát vé? Bao nhiêu hình ảnh diễn ra trong óc anh, mỗi hình ảnh một ghê sợ hơn. Anh thấy cần phải sử dụng buồng vệ sinh một lần xem sao. Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
- Nhanh lên, nhanh lên, - một giọng Nga ồm ồm lên tiếng.
Wladek không chần chừ được nữa. Nếu là một tên lính thì anh sẽ không có lối thoát. Cửa sổ nhỏ thì đến một chú bé tí hon cũng không chui lọt qua được. Nhưng nếu không phải là một tên lính thì việc anh ở lâu trong này chỉ khiến người ta chú ý. Anh cởi bỏ bộ áo tù, cuộn nó lại thành một túm nhỏ rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Sau đó anh lấy ra một cái mũ mềm để sẵn trong túi bộ đồ đội lên đầu bị cạo trọc và mở cửa bước ra. Một người đàn ông sốt ruột đẩy cửa bước vào. Wladek chưa bước ra khỏi thì thấy ông ta tụt quần ngồi xuống.
Ra đến hành lang rồi, Wladek thấy mình bơ vơ ghê gớm, lại thêm nỗi khiếp sợ đối với bộ đồ lạc hậu mình đang mặc trên người, khác nào như một quả táo nằm giữa đống cam. Anh lập tức lại đi tìm ngay một chỗ nào khác có buồng vệ sinh. TÌm được một chỗ không có người, anh chui tọt ngay vào đó, khóa cửa lại, rồi tháo gỡ mấy tờ bạc 50 rúp giấu ở trong tay áo ra. Anh giấu trở lại ba tờ rồi quay ra hành lang. Anh tìm đến một toa nào đông người nhất rồi rúc vào ngồi trong một góc toa. Mấy người ngồi giữa toa đang đánh súc sắc ăn tiền. Wladek đã quen chơi trò này với Leon ở lâu đài và lần nào cũng được, nên anh rất muốn nhập vào đám người kia nhưng lại sợ đánh được thì họ chú ý đến mình ngay. Họ vẫn ngồi đánh rất lâu, và Wladek dần dần nhớ lại những thủ thuật của mình. Anh chợt thấy thèm đem 200 rúp của mình ra mà sử dụng lúc này.
Một tay chơi bị thua khá nhiều tiền bỗng rút ra và ngồi xuống bên cạnh Wladek, miệng chửi thề.
- Số ông không may rồi, - Wladek lên tiếng. Anh cũng muốn nói xem giọng mình thế nào.
- À, đúng là không may, - tay kia nói. – Ngày nào tớ cũng đánh với bọn nông dân ấy, nhưng tớ cạn mất tiền rồi.
- Ông có muốn bán áo cáo của ông không? – Wladek hỏi.
Tay chơi này là một trong số ít hành khách trên toa khoác chiếc áo lông cừu dày đẹp và ấm như vậy. Ông ta nhìn cậu thanh niên.
- Cậu không mua nổi đâu. – Wladek nghe giọng của ông ta thì biết là mình sẽ có thể mua được. - Tớ sẽ đòi bảy mươi lăm rúp.
- Tôi trả ông bốn chục, - Wladek nói.
- Sáu chục, - tay chơi kia nói.
- Năm chục, - Wladek nói.
- Không. Sáu chục là ít nhất thì tớ mới bán được. Chiếc áo này giá hơn một trăm rúp kia đấy, - tay chơi nói.
- Áo cũ rồi, - Wladek nói và nghĩ bụng sẽ lấy tiền trong tay áo ra cho đủ, nhưng rồi anh lại thôi vì sợ làm người ta chú ý đến mình. Anh đành chờ một dịp khác vậy. Wladek không muốn tỏ ra mình có thể mua được chiếc áo. Anh sờ tay vào cái cổ và nói với một giọng khinh khỉnh. – Ông bạn ơi, đắt quá đấy! Thôi, năm chục rúp, không thêm một xu nào nữa. – Wladek đứng dậy làm như sắp bỏ đi chỗ khác.
- Khoan, khoan, - tay chơi kia nói. - Tớ đã cho cậu năm chục rúp vậy.
Wladek móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi rúp và tay chơi kia cũng cở tấm áo đổi lấy tờ bạc đỏ đã cũ. Chiếc áo đối với Wladek quá rộng và dài gần chấm đất, nhưng chính anh đang cần như thế để che bộ đồ bên trong hơi lộ liễu. Anh nhìn tay chơi trở lại chỗ đánh bạc và thấy ông ta lại thua nữa. Từ ông thầy mới trước đây, anh đã học được hai điều, đó là: chớ bao giờ đánh bạc trừ phi anh có thủ thuật giỏi và chắc ăn, và khi đã mặc cả đến mức nhất định nào đó thì nên bỏ đi là vừa.
Wladek bỏ sang ngồi toa khác, trong bụng cảm thấy yên tâm hơn với chiếc áo mới mua được. Anh bắt đầu nhìn ngắm toa tàu để tìm hiểu. Hình như các toa chia làm hai hạng, hạng phổ thông trong đó hành khách chỉ có đứng hoặc ngồi trên những dãy ghế gỗ, và hạng đặc biệt trong đó anh rất lấy làm lạ chỉ thấy có một người đàn bà ngồi mà thôi. Bà ta cỡ trung niên và ăn mặc có vẻ sang trọng hơn mọi hành khách khác trên tàu. Bà ta mặc chiếc áo xanh thẫm và quàng một tấm khăn trên đầu. Wladek nhìn bà ta ngập ngừng. Bà ta mỉm cười, khiến anh yên tâm bước vào trong toa.
- Tôi ngồi được không?
- Xin mời, - người đàn bà nhìn anh nói.
Wladek không nói gì nữa. Anh để ý nhìn người đàn bà và những đồ đạc chung quanh. Bà ta có nước da nhợt và hơi nhăn nheo, to béo quá khổ, có lẽ vì ăn quá nhiều. Mớ tóc ngắn và đen, mắt nâu, có thể như đã từng một thời hấp dẫn. Bà có hai chiếc túi to bằng vải để ở giá trên đầu với một chiếc vali con để bên cạnh. Mặc dầu đang trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, nhưng Wladek thấy mình đã mệt quá không chịu nổi nữa. Anh đang nghĩ không biết mình có dám đi ngủ ở đây không, thì người đàn bà lên tiếng.
- Anh đi đâu?
Câu hỏi bất chợt làm Wladek giật mình.
- Moscow, - anh nói và nín thở.
- Tôi cũng đi Moscow, - bà ta nói.
Wladek bắt đầu cảm thấy toa xe này vắng vẻ quá và lấy làm chột dạ về điều mình vừa nói ra, dù chỉ là một câu. Anh nhớ là bác sĩ đã dặn: "Chớ nói chuyện với ai. Nhớ đừng có tin ai hết."
Nhưng Wladek cũng yên tâm thấy bà ta không hỏi gì thêm nữa. Anh vừa cảm thấy thế thì người soát vé đến. Wladek bắt đầu toát mồ hôi, mặc dầu lúc đó thời tiết là hai mươi độ âm. Người soát vé cầm lấy tấm vé của người đàn bà, xé một đoạn rồi trả lại cho bà ta và quay sang Wladek.
- Vé, anh bạn, - ông ta nói gọn lỏn, bằng một giọng trầm buồn.
Wladek không biết nói gì, chỉ sở vào túi áo để tìm ít tiền.
- Nó là con tôi, - người đàn bà nói ngay.
Người soát vé quay lại nhìn bà ta, rồi lại nhìn Wladek, cúi đầu chào bà ta rồi bỏ đi không nói câu gì.
Wladek ngước nhìn bà ta.
- Cảm ơn bà – anh khẽ nói, và không biết làm gì hơn nữa.
- Tôi đã trông thấy anh chui dưới gầm đoàn xe tù, - người đàn bà bình thản nói. Wladek cảm thấy rụng rời. – Nhưng tôi không tố giác anh đâu. Tôi cũng có một người anh họ ở trong cái trại khủng khiếp ấy, và tất cả chúng tôi cũng biết về những trại ấy đều sợ rằng sẽ có một ngày mình phải vào đấy. Anh mặc đồ gì dưới chiếc áo này?
Wladek định bụng chạy ra ngoài cởi chiếc áo lông, nhưng nếu chạy ra ngoài kia thì trên tàu không còn chỗ nào khác mà trốn được. Anh đành chỉ cởi khuy ngoài.
- Thế này cũng không có gì đáng ngại lắm đâu, - bà ta nói. - Vậy còn bộ áo tù anh để đâu?
- Tôi vứt ra ngoài cửa sổ.
- Mong rằng họ không tìm thấy nó trước khi anh đến Moscow.
- Anh có chỗ nào ở Moscow không?
Anh lại nghĩ đến lời dặn của bác sĩ là đừng có tin ai, nhưng anh nghĩ tin bà này thôi.
- Tôi không có chỗ nào cả.
- Vậy anh có thể ở với tôi đến khi nào anh tìm được một chỗ khác. Chồng tôi là trưởng ga ở Moscow, và toa này chỉ dành cho những quan chức chính phủ thôi, - bà ta giải thích. - Nếu anh lại nhầm một lần như thế nữa thì họ cho anh ngồi xe trở về Irkutsk ngay.
- Bây giờ tôi có nên đi không? – Wladek hồi hộp.
- Không, vì người soát vé đã trông thấy anh rồi. Lúc này anh ở đây với tôi thì được yên. Anh có giấy tờ gì không?
- Không. Giấy tờ như thế nào?
- Từ sau cách mạng, mỗi công dân Nga đều phải có giấy chứng minh để người ta biết mình là ai, ở đâu, làm gì, nếu không sẽ phải ngồi tù cho đến khi có được những giấy tờ ấy. Nếu không có được thì sẽ ngồi tù mãi, - bà ta thủng thẳng nói. - Vậy đến Moscow, anh phải đi sát bên tôi, và nhớ là đứng có mở miệng.
- Bà đối với tôi tốt quá, - Wladek nói với vẻ ngờ vực.
- Bây giờ Nga hoàng đã chết rồi, trong chúng ta đây chẳng có ai yên thân được đâu. Tôi may mắn mà lấy được một người có quyền thế, - bà ta nói tiếp. – Còn không có người dân nào ở nước Nga này, kể cả các quan chức chính phủ, mà lại không sống trong nỗi lo sợ là có thể bị bắt đưa vào trại giam. Tên anh là gì?
- Wladek.
- Tốt. Bây giờ anh ngủ đi Wladek, vì trông thấy anh mệt mỏi lắm. Đường thì còn rất xa, mà anh thì cũng chưa an toàn được đâu.
Wladek ngủ ngay. Lúc anh tỉnh dậy thì mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua nhưng trời bên ngoài đã tối. Anh nhìn người đàn bà đã che chở cho mình, bà ta mỉm cười nhìn lại.
Wladek thầm mong có thể tin được bà ta, đừng có nói với các quan chức rằng anh là ai. Hay bà ta đã nói rồi? Bà ta lấy ra ít thức ăn trong gói đưa cho Wladek. Anh yên lặng ăn. Tàu đến ga sau, hầu hết hành khách bước xuống. Một số xuống hẳn, một số chỉ để ruỗi chân ruỗi tay, nhưng phần lớn là tìm xem có gì uống được không.
Người đàn bà trung niên đứng dậy nhìn Wladek:
- Đi theo tôi.
Anh đứng dậy theo bà ta xuống sân ga. Bà ta đem anh nộp lại chăng? Nhưng không, bà ta giơ tay ra và anh cầm lấy tay bà như bất cứ đứa trẻ mười ba tuổi nào đi theo mẹ vậy. Bà ta đi đến một nhà vệ sinh dành cho nữ. Wladek ngập ngừng đứng lại. Bà cứ bảo anh vào. Vào đến bên trong rồi, bà bảo Wladek cởi bỏ quần áo ra. Anh ngoan ngoãn nghe theo. Từ sao khi Nam tước qua đời, anh chưa nghe theo ai như vậy. Trong khi anh cởi quần áo, bà mở vòi nước gần đó. Một làn nước vừa lạnh vừa đục chầm chậm chảy ra. Bà thấy kinh tởm, nhưng với Wladek thì nước này còn khá hơn nhiều so với nước ở trong trại giam. Người đàn bà bắt đầu lấy một mảnh khăn ướt lau những vết xây xát trên người anh. Bà nhăn mặt khi trông thấy vết thương xù xì ở chân. Wladek đau nhưng không xuýt xoa tí nào, và bà lau rất nhẹ.
- Về đến nhà, tôi sẽ chữa chạy cho anh tử tế, - bà nói. – Còn ở đây hãy tạm thế này đã.
Bà trông thấy chiếc vòng bạc ở tay anh. Bà đọc những chữ trên đó rồi nhìn kỹ Wladek, và hỏi:
- Cái này có phải của anh không? Anh lấy nói của ai thế?
Wladek hơi giận.
- Tôi không lấy của ai. Bố tôi cho tôi trước khi ông chết.
Bà ta lại chăm chăm nhìn anh, nhưng cái nhìn lần này khác. Không biết đó là sợ hay tôn kính. Bà ta cúi đầu nói:
- Anh phải cẩn thận đấy, Wladek. Người ta có thể giết anh vì cái của quý này đấy.
Anh gật đầu và bắt đầu mặc vội quần áo vào. Họ quay trở lại toa xe. Tàu chậm lại ở ga một giờ đồng hồ là chuyện thường. Đến khi đoàn tàu lại bắt đầu lăn bánh, Wladek cảm thấy mừng lại được nghe tiếng bánh xe lửa lạch cạch ở dưới. Tàu đi mất mười hai ngày rưỡi thì đến Moscow. Khi người soát vé mới xuất hiện, Wladek và người đàn bà lại diễn lại những động tác cũ. Wladek thì tỏ ra còn rất nhỏ dại và người đàn bà thì tỏ ra là một người mẹ. Người soát vé cúi chào người đàn bà trung niên ấy, và Wladek bắt đầu nghĩ rằng ở nước Nga thì những người trưởng ga hẳn phải là những người rất quan trọng.
Sau khi đã hoàn thành chuyến đi một ngàn dặm đến Moscow, Wladek coi như đã tin hẳn người đàn bà và mau chóng được trông thấy ngôi nhà của bà ta.
Tàu đến ga vào đầu buổi chiều. Mặc dầu đã trải qua một đoạn đường dài như thế. Wladek vẫn thấy khiếp sợ, không hiểu tình hình sẽ ra sao. Anh chưa được thấy một thành phố lớn nào bao giờ, nói gì đến thủ đô của toàn nước Nga. Anh cũng chưa được thấy nhiều người như thế bao giờ, và ai cũng đi lại vội vã. Người đàn bà hiểu được tâm trạng của anh lúc này.
- Đi theo tôi, đừng nói gì và đừng có bỏ mũ ra.
Wladek lấy hai cái túi của bà ở trên giá xuống, kéo chặt cái mũ lên đầu lúc này đã lởm chởm ít tóc đen, rồi bước theo bà xuống sân ga. Một đống người đang nối nhau ở trước thang chắn để chờ ra khỏi một cánh cửa rất nhỏ.
Họ ùn lại vì mỗi người phải xuất trình giấy tờ cho lính gác. Bước đến cái thang chắn ấy, Wladek thấy tim mình đập thình thình như trống trận. Nhưng đến lượt họ thì nỗi sợ lại tan biến đi rất nhanh. Người lính gác chỉ liếc nhìn vào giấy tờ của người đàn bà.
- Đồng chí, - anh ta nói và giơ tay chào. Rồi nhìn Wladek.
- Con tôi, - bà nói.
- À vâng, mời đồng chí. - Anh ta lại chào.
Thế là Wladek đã ở Moscow.
Mặc dầu đã đặt hết lòng tin vào người đồng hành mới này, linh tính đầu tiên của Wladek là muốn bỏ chạy. Nhưng với 150 rúp thì không thể sống được nên anh quyết định hãy chờ đã, để khi nào có dịp sẽ chạy. Một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn ở ngoài ga để đưa người đàn bà với đứa con mới của bà ta về nhà. Ông trưởng ga không có đấy, nên bà đã tranh thủ xếp ngay một cái giường cho Wladek nằm. Rồi bà đun nước đổ vào một chiếc thùng kẽm lớn và bảo anh ngồi vào đó. Đây là lần tắm đầu tiên của anh sau hơn bốn năm, trừ lần hụp xuống sông trước đây. Bà lại đun thêm nước nóng nữa và bảo anh tắm với xà phòng. Bà cọ lưng cho anh. Nước tắm dần dần đục ngầu. Wladek lau khô người rồi, bà bôi thuốc lên chân tay cho anh và băng bó vào những chỗ bị nặng. Bà nhìn vào bộ ngực chỉ có một bên vú và lấy làm lạ. Anh mặc vội quần áo và theo bà vào bếp. Bà đã chuẩn bị một bát súp nước với đậu. Wladek háo hức ăn như ăn tiệc. Hai người không ai nói gì. Anh ăn xong rồi, bà khuyên anh tốt nhất là lên giường ngủ một giấc.
- Tôi không muốn cho ông nhà tôi trông thấy anh trước khi tôi cho ông ấy biết tại sao anh ở đây, - bà ta giải thích. – Anh có muốn ở đây với chúng tôi không, Wladek, nếu chồng tôi đồng ý?
Wladek gật đầu cảm ơn.
- Vậy anh đi ngủ ngay đi, - bà nói.
Wladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to ở bếp. Anh không biết là mình đi ngủ được bao lâu. Bên ngoài đã tối, anh bò ra khỏi giường, bước đến mở hé và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.
- Bà thật ngốc, - Wladek nghe một giọng hơi gắt. – Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư? Có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy.
- Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy.
- Thế là bà muốn bản thân mình chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, - người đàn ông nói. – Có ai trông thấy nó không?
- Không, không có ai đâu, - người đàn bà nói.
- Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi.
- Nhưng đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, - người đàn bà nói. – Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.
- Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.
- Nhưng Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ...
- Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.
- Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?
- Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi ngay.
Wladek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là biến hẳn vào đêm tối. Anh mặc vội quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm trên một chiếc giường như thế. Anh đang tìm cách mở cửa sổ thì cửa ra vào bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào. Người ông nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả. Ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông cầm một chiếc đèn nến. Ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.
- Đi xuống dưới này, - ông ta ra lệnh.
Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.
- Bây giờ chú em nghe đây nhé, - ông ta nói.
- Tên nó là Wladek, - người đàn bà chen vào.
- Bây giờ chú bé nghe đây, - ông ta nhắc lại. – Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt. Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế nào để giúp anh nhé.
Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.
- Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?
- Odessa, - Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.
- Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hợp đấy, - ông trưởng ga cười khẩy. - Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.
- Thế thì để nó ở lại đây, Poitr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ...
- Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.
- Nhưng làm sao nó đi lọt được? - Người đàn bà van nài.
- Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở Odessa. – Ông ta quay sang Wladek. – Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh nghe nói đến anh ở Moscow, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào đó gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.
Ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp: đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.
- Có chuyến tàu đi Odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscow rồi. Anh có hành lý gì không?
Wladek vừa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:
- Có, để tôi đi lấy cho nó.
Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học. Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wladek. Bà vợ ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc cẩn thận. Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:
- Cảm ơn bà.
- Hãy ăn cái này đi đã, - bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.
Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.
- Súc vật, - người đàn ông nói.
Wladek ngước nhìn ông, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.
- Đi thôi chú bé, - ông trưởng ga nói. – Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.
Wladek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ ta ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscow và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến Odessa và đưa cho Wladek.
- Còn giấy thông hành của tôi đâu? – Wladek hỏi.
Ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lắm rồi. Đó là đôi mắt của những thằng hèn.
- Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, - ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.
Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscow có một lúc ngắn ngủi, và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng tốt của người đàn bà vợ ông trưởng ga. Đồng chí gì nhỉ... Anh cũng không biết đến cả tên bà ta nữa.
Wladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscow hơn nhiều so với Irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.
Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thì anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi đế Odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại chỗ đánh bạc và sẵn sàng theo đuổi cái mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bị đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.
- Mày nghe tao nói không hả thằng nhóc?
- Dạ, - Wladek hoảng sợ đáp.
- Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?
- Vâng ạ, - Wladek nói.
Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.
- Tao cảnh cáo cho mày biết thế.
Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp vừa kiếm được.
- Tiền của tao, - hắn nói.
Máu vẫn chảy ra ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi.
Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo, bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.
Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn bánh vào ga Odessa. Ở cửa chắn vẫn hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này chở đi, anh phải tự lo lấy hết. Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.
Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào. Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bên cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, không hợp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ dài bên đường cái. Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc long giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được.
- Mày là ai? – giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được.
- Wladek Koskiewicz.
- Mày ở đâu đến?
- Moscow. – Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.
- Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscow đến, - tên kia nói.
- Xin lỗi, - Wladek nói. – Tôi không biết.
- Mày có tiền không? – Hai ngón tay cái của tên kia ấn chặt xuống cổ họng anh.
- Ít thôi. – Wladek nói.
- Bao nhiêu?
- Bảy rúp. – Đưa đây.
Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mở vào túi áo khoác. Còn một tay hắn bỏ lỏng.
Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam mà anh vừa trải qua.
Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, không cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.
- Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy, - Wladek nói. – Mày mà động đậy nữa tao giết.
- Vâng, vâng, - tên kia cố bò đi.
Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.
Lúc anh tình dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ ở đầu toa đằng kia.
- Lại đây. – Wladek ra lệnh.
Tên kia từ từ thức dậy.
- Lại đây, - Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước.
Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek nhìn kỹ hắn. Hai người trạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.
- Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, - Wladek nói.
- Anh theo tôi, - tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.
Kể từ sau những bữa ăn tuyện vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đống trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
- Bây giờ chúng mình làm như thế này nhé, - tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. – Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to: Bắt lấy thằng ăn cắp! Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?
- Có lẽ thế, - Wladek nói.
- Để xem dân Moscow như anh có làm được chuyện đó không. - Hắn nhìn theo anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói "Bắt lấy thằng ăn cắp", nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm tay lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.
Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai. Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.
- Anh có vớ được gì không, anh Moscow, hay chỉ đứng đó xem thôi?
Wladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai. Tên kia cũng cười theo.
- Tên cậu là gì? – Wladek hỏi.
- Stefan.
- Stefan này, mình lại làm một lần nữa đi.
- Thôi di anh Moscow, anh đừng tưởng thế là khôn nhé. Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyện làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.
Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ. Stefan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stefan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được: sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stefan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được. Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được câu chuyện ấy.
- Ăn được, - Wladek cắn vào củ khoai và nói.
- Cậu ăn được cả vỏ ư? – Stefan ngạc nhiên nói.
- Mình đã ở những chỗ mà được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, - Wladek nói.
Stefan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.
- Vấn đề nữa là chúng ta làm thế nào để có tiền đây! – Wladek nói.
- Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? – Stefan nói. - Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscow ạ.
- Cậu chỉ cho tớ xem. – Wladek nói.
Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stefan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.
Stefan nói làm sực tỉnh.
- Cậu thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặntiền của cậu đấy.
Cả buổi chiều, Stefan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.
Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stefan thấy anh ngồi xem bản đồ.
- Cái gì thế? – Stefan hỏi.
- Đây là bản đồ vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga.
- Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? – Stefan nói. – Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ?
- Không, tớ phải đi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stefan?
- Tớ chả bao giờ có thể bỏ được Odessa được. Đây là nhà tớ. Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đây chẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ Nhĩ Kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.
- Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ Nhĩ Kỳ? – Wladek hỏi.
- Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu. Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.
- Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?
- Mỗi người một nửa. – Stefan nói. - Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscow ạ. – Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.
Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stefan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách.
- Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.
- Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây Joe. Chuyến tàu sắp tới đi Thổ Nhĩ Kỳ là bao giờ đấy?
- Bỏ tiền ra đã, - một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.
- Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, - Stefan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.
- Đừng nói lôi thôi mày. Một rúp đâu?
- Ông bạn tôi cầm tiền, - Stefan nói. – Wladek, cậu đưa đồng rúp cho ông ấy.
Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ sách rút ra một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.
- Thứ năm sau, tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ bảy. Nếu nó lấy được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.
- Cảm ơn ông Một Răng nhé, - Wladek nói. - Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.
Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stefan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.
Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiêp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ Nhĩ Kỳ đến cảng thì Stefan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại Odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh nên anh thấy cuộc sống mới với Stefan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.
Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.
- Mình làm thế nào để lên tàu được? – Wladek hỏi.
- Dễ thôi, - Stefan nói, - Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.
- Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, - Wladek nói.
- Tất nhiên, - Stefan đáp. - Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?
Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đổ than, nhưng than đổ xuống chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stefan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.
- Lần sau nhé, cậu Moscow, - hắn nói.
Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhảy xuống đống than. Stefan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.
- Tạm biệt anh bạn nhé, - Stefan nói. – Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ Nhĩ Kỳ nhé.
Wladek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố chịu đựng không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stefan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn, thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.
Một lát sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than ném vào con vật khủng khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau vừa mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra, vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở nắp trên cửa khoang. Ánh mắt rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở lại trại giam 201 của bọn Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắp cho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được.
Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu. Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống boong tàu.
Lúc Wladek tỉnh lại anh không biết mình ở đâu, và sau đó bao lâu thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe bao giờ. Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ? Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu. Ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử hỏi là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.
- Anh nói được tiếng Đức?
- Vâng.
- A, thế ra anh không phải người Nga?
- Vâng.
- Vậy anh làm gì ở Nga?
- Tôi trốn.
- À ra thế. – Ông ta quay lại nói với những người ngoài kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba người đi ra ngoài.
Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ xem sẽ làm gì.
Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ ở Odessa, chỉ trừ có những người ở dây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông như những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép. Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.
Lát sau anh nhìn thấy bên cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất. Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Quần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất. Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.
Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẩn vào đám đông trong chợ.
Wladek nhìn vào những thứ bày trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo. Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đòi cái di sản ấy nhưng nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh cho tay vào túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và mộ tít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó. Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận khuỷu tay.
Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc. Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu. Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông hiểu được là đưa tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ tay lên trời.
- Lạy Thánh Allah! – Ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Nếu có anh phải ăn cắp một quả cam thôi, nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stefan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang duổi theo anh.
Một người to lớn nhảy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi túm lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh. Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng. Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.
Sáng hôm sau có hai người lính gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đấy. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại. Tên tù đầu tiên được cởi trói và dẫn ra giữa chợ. Ở đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời.
Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đó. Một người đàn bà khóc lóc, - Wladek đoán đó là vợ anh ta, - và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết. Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ vủa hắn. Hắn được trả lương để chuyện chặt tay những người khác.
Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cái gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nên định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm nhưn kiểu châu Âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, người Đức, người Anh, hoặc có thể là người Ba Lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưng ông ta không để ý. Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung lên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa.
Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu Âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.
Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưng tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ từ trên khuỷu tay của anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngưng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với những chữ viết trên đó rồi chạy đến người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba Lan.
- Tôi không nói được tiếng của ông.
Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét lên một tiếng:
- Allah!
Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu "Lạy Chúa". Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ châu Âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người châu Âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng. Và anh thầm ông ta sẽ nói được một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người Âu châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những hoa quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người Âu châu quay sang nhìn Wladek.
- Anh nói được tiếng Anh không?
Wladek thở dài nhẹ người.
- Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba Lan.
- Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy.
- Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba Lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngay nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.
Người Anh kia từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.
- Đi theo tôi, - người Anh nói. – Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến.
Wladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vơ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm ban đầu chỉ chặt đi một ngón cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.
Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng đi theo.
- Chuyện gì thế, Edward?
- Chú bé này nói là người Ba Lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta. Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.
Wladek chỵa theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bảy Ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.
Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề Đại Sứ Quán Anh. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ. Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của người đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.
- Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.
- Thưa vâng, - ông cai nói và lại giơ tay chào.
- Cậu bé, đi theo tôi.
Ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một cằn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông bảo anh cởi quần áo rồi chờ đó. Lát sau ông vẫn xoay nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.
- Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh đâu nhé.
- Xin lỗi ngài ạ. – Wladek nói.
- Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi.
- Còn tôi là Wladek Koskiewicz. Ông gọi tôi là Wladek.
- Này đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa.
Wladek không hiểu ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.
- Theo tôi nhanh lên.
Wladek lại được tắm một lần tuyệt vời với xà phòng và nước nóng. Wladek nghĩ đến người đàn bà Nga đã che chở cho anh. Suýt nữa thì anh đã trở thành con trai bà ta, nếu như không có chồng bà ta. Và lại bộ quần áo mới nữa, lạ nhưng sạch sẽ thơm tho. Không biết nó là của con ai thế nhỉ. Nhưng kia, ông ấy đã đến rồi kìa.
Ông cai Smithers dẫn Wladek vào bếp và giao cho anh một bà làm bếp to béo có bộ mặt hồng hào, một bộ mặt dễ thương nhất kể từ khi anh rời đất Ba Lan đến giờ. Bà ta khiến anh nhớ đến mẹ nuôi nhưng không biết bây giờ bà đã ra sao?
- Chào chú, - bà ta tươi cười nói, - Tên chú là gì nào?
Wladek xưng tên.
- Này chú, tôi sẽ cho chú ăn một bữa đàng hoàng của người Anh, chứ những cái món Thổ Nhĩ Kỳ ở đây là không ăn được đâu. Bắt đầu bằng súp nóng với thịt bò. Trước khi đi gặp ông Prendergast, thì chú phải chén cho đã vào chứ. – Bà ta cười. – Chú nhớ là đừng có sợ ông ấy, nghe không. Mặc dù ông ấy là người Anh, nhưng ông ấy cũng tốt đấy.
- Thế bà không phải là người Anh ư? – Wladek ngạc nhiên hỏi.
- Trời ơi, không đâu chú ạ. Tôi là người Scotland, khác lắm chứ. Người Scotland chúng tôi ghét người Anh hơn cả bọn Đức ghét người Anh nữa kia, - bà ta vừa nói vừa cười.
Bà đặt xuống trước mặt Wladek một đĩa súp nóng có rất nhiều thịt và rau trong đó. Anh đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn có thể thơm ngon như vậy. Anh ăn từ từ, trong bụng chỉ sợ rằng có thể còn rất lâu nữa mới lại được ăn như thế này.
Ông cai xuất hiện.
- Cậu bé đã no chưa?
- Dạ no lắm rồi, cảm ơn ông lắm.
Ông cai nhìn Wladek với vẻ nghi hoặc, nhưng thấy Wladek không có vẻ đùa, bèn nói:
- Tốt. Bây giờ đi thôi. Phải lên trình diện với ông Prendergast cho sớm.
Ông Cai đi khuất sau cửa bếp nhưng Wladek còn nán lại nhìn bà bếp. Anh rất không thích chia tay với người nào mới gặp, nhất là người đó lại tốt với mình.
- Thôi, chú đi đi, chúc chú gặp nhiều may mắn nhé.
- Cảm ơn bà, - Wladek nói. Thức ăn của bà là ngon nhất. Tôi sẽ nhớ mãi.
Bà bếp nhìn anh mỉm cười. Anh lại phải nhảy cà nhắc để chạy theo ông cai có những bước đi rất dài. Ông ta dừng lại bất ngờ trước một khung cửa khiến Wladek suýt đâm sầm vào.
- Nào cậu bé cẩn thận đấy, phải nhìn chứ.
Ông ta đưa tay lên gõ cửa.
- Vào, - một giọng nói bên trong vẳng ra.
Ông cai mở cửa và chào.
- Cậu bé Ba Lan, thưa ngài. Đã tắm rửa ăn uống tử tế rồi.
- Cảm ơn ông Cai. Có lẽ nhờ ông nói giùm với ông Grant bảo ông ấy cùng đến đây cho.
Edward Prendergast ngồi phía sau bàn giấy nhìn lên. Ông ta ra hiệu cho Wladek ngồi xuống. Ông không nói gì và lại tiếp tục xem giấy tờ. Wladek ngồi nhìn ông ta rồi lại nhìn lên những bức chân dung trên tường. Lại thấy những ông tướng và đô đốc và cả ông có râu anh đã thấy lúc trước, nhưng trong tranh này ông ta mặc quần áo ka ki của quân đội. Vài phút sau một người Anh khác mà anh nhớ là đã thấy ở ngoài chợ bước vào phòng.
- Cảm ơn anh cùng đến, Harry. Mời anh ngồi. – Ông Prendergast quay sang Wladek. – Nào chú bé, giờ chú nói từ đầu đi xem nào. Chú phải nói đúng sự thật, không được nói quá, hiểu không?
- Thưa ông, vâng.
Wladek bắt đầu câu chuyện từ những ngày sống ở Ba Lan. Anh phải dừng lại một đôi chỗ để tìm cho đúng từ tiếng Anh. Cứ xem nét mặt hai người Anh này, Wladek cũng thấy là lúc đầu họ tỏ ra không tin. Thỉnh thoảng họ ngắt lời và hỏi anh vài câu hỏi, rồi nhìn nhau gật đầu sau khi anh trả lời. Sau một giờ nói chuyện, những điều Wladek kể mới đi đến chỗ lúc này anh đang ngồi trong cơ quan lãnh sự của Nữ hoàng Anh tại Thổ Nhĩ Kỳ.
- Harry ạ, - ông Prendergast, phó lãnh sự nói, - tôi nghĩ bổn phận chúng ta là báo ngay cho đoàn Ba Lan biết rồi trao chú Koskiewicz này lại cho họ. Tôi thấy trong trường hợp này thì dứt khoát đó là trách nhiệm của họ.
- Đồng ý, - người có tên là Harry nói. – Chú bé này, hôm nay chỉ suýt nữa là chú chết ở ngoài chợ. Cái luật Hồi giáo đã cũ này, người ta gọi là Sher, quy định hễ ai ăn cắp là phải chặt một tay, về lý thuyết mà nói, đã bị chính thức bãi bỏ từ lâu rồi. Thực ra, trong bộ luật hình Ottman thì xử như thế là phạm tội ác rồi. Tuy nhiên, trên thực tế thì bọn man rợ vẫn tiếp tục thực hiện điều đó. – Ông ta nhún vai.
- Tại sao họ không chặt tay tôi? – Wladek hỏi và ôm lấy cổ tay.
- Tôi bảo họ là muốn chặt tay tất cả những người Hồi giáo thì tùy, không được chặt tay người Anh, - Edward Prendergast nói.
- Ôi, tạ ơn Chúa, - Wladek nói.
- Tạ ơn Edward Prendergast chứ, - ông phó lãnh sự nói và bây giờ ông ta mới mỉm cười. – Đêm nay chú có thể nghỉ lại đây, rồi mai chúng tôi sẽ đưa sang đoàn đại diện bên đó. Người Ba Lan không có sứ quán ở Constantinople, - ông ta nói bằng một giọng hơi khinh thường, - nhưng ông bạn đồng sự của tôi bên đó là một người tốt, vì là người ngoại quốc.
Ông ta bấm chuông và ông cai xuất hiện ngay.
- Ngài gọi gì ạ.
- Ông Cai, ông đưa chú bé Koskiewicz này về phòng. Sáng mai cho chú ấy ăn sáng rồi chín giờ đúng đưa đến chỗ tôi.
- Vâng. Đi lối này cậu bé, mau lên.
Wladek đi theo ông cai. Anh không kịp cám ơn hai người Anh đã cứu cho bàn tay của anh, có lẽ cứu cả mạng sống của anh nữa. Trở về văn phòng nhỏ có chiếc giường sạch sẽ chẳng khác gì như anh là khách danh dự ở đây, anh cởi quần áo ra, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ một mạch cho đến tận sáng hôm sau khi mặt trời chiếu qua khung cửa sổ nhỏ tí.
- Dậy rửa mặt cậu bé, mau lên.
Đó là ông cai, mặc bộ quân phục trắng bong và là thẳng tắp như ông ta không nằm giường bao giờ. Trong khoảnh khắc bừng tỉnh dậy, Wladek tưởng như mình đang còn ở trong trại 201, vì tiếng đập bằng gậy của ông cai vào khung giường sắt giống như tiếng gõ cửa thanh sắt tam giác mà Wladek vẫn nghe quen trong trại. Anh trườn xuống giường và vơ lấy quần áo.
- Đi rửa mặt mũi đã cậu bé. Chúng ta không nên để ông Prendergast sáng sớm ra phải ngửi cái mùi của cậu, phải thế không nào?
Wladek không phải là mình phải rửa ráy như thế nào nữa, vì anh thấy đã sạch lắm rồi. Ông cai chăm chú nhìn anh.
- Chân cậu làm sao thế?
- Không sao, không sao, - Wladek nói và quay mặt đi chỗ khác.
- Thôi được, ba phút sau tôi trở lại. Ba phút đấy, nghe không? Phải sửa soạn cho xong đấy.
Wladek rửa tay rửa mặt thật nhanh rồi mặc quần áo. Anh phải ở đầu giường ôm chiếc áo lông cừu chờ ông cai đưa anh đi gặp ông phó lãnh sự. Ông Prendergast tỏ ra ôn hòa hơn hôm qua rất nhiều.
- Chào chú Koskiewicz.
- Dạ thưa chào ông.
- Chú ăn sáng ngon không?
- Dạ tôi không ăn sáng, thưa ông?
- Tại sao không? – ông phó lãnh sự nói, và quay nhìn ông cai.
- Ngủ quá giờ, thưa ngài. Nếu ăn sẽ đến muộn.
- Ồ, thế thì ta phải làm thế nào chú nhỉ. Ông cai, nhờ ông nói với bà Henderson cho đem một quả táo hay cái gì đó.
- Vâng, thưa ngài.
Wladek cùng ông phó lãnh sự chầm chạp bước theo hành lang đi ra phía cửa sứ quán, rồi đi tiếp qua sân rải sỏi ra một chiếc xe đỗ bên ngoài. Đó là chiếc xe Austin, một trong những chiếc xe hiếm có ở Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là lần đầu tiên Wladek được ngồi trên một chiếc xe riêng. Anh lấy làm tiếc phải rời sứ quán Anh. Đây là nơi an toàn đầu tiên mà từ bao nhiêu năm nay anh mới cảm thấy được. Anh không biết là suốt đời mình còn có dịp nào được ngủ một đêm nữa trên chiếc giường như ở đó nữa không. Ông cai chạy xuống ngồi vào tay lái. Ông đưa Wladek một quả táo với vài tấm bánh còn nóng.
- Cậu ăn đi và đừng để vãi ra xe nhé. Bà bếp gửi lời chào cậu đấy.
Chiếc xe từ từ chạy qua những phố đông đúc và nóng nực. Tốc độ như người đi bộ. Người Thổ Nhĩ Kỳ luôn luôn cho rằng chẳng có gì có thể đi nhanh hơn một con lạc đà, vì vậy họ cũng không tránh đường cho chiếc xe Austin đi lên làm gì. Xe mở tất cả các cửa kính mà Wladek vẫn thấy nóng đến ngạt thở, nhưng ông Prendergast thì vẫn cứ tỉnh như không, không hề tỏ ra khó chịu gì. Wladek chúi người vào sau xe, sợ có ai đã chứng kiến sự việc hôm trước và nhận ra trong xe có thể lại hô hoán lên chăng. Chiếc xe Austin nhỏ và sơn đen đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ có biển đề Lãnh Sự Quán Ba Lan. Wladek cảm thấy xúc động pha lẫn với thất vọng.
Cả ba người bước xuống xe.
- Hạt táo đâu, cậu bé,- ông cai hỏi.
- Tôi ăn rồi.
Ông cai cười rồi gõ cửa. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc đen, cằm vuông và có vẻ thân mật ra mở cửa. Ông ta mặc áo sơ mi ngắn tay, người sạm đen, rõ ràng là do cái nắng Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói tiếng Ba Lan. Đây là những tiếng mẹ đẻ đầu tiên Wladek được nghe thấy kể từ hôm rời trại giam đến nay.
Wladek nhanh chóng trả lời ngay và giải thích tại sao anh đến đây. Ông ta quay sang ông phó lãnh sự Anh.
- Xin mời ông đi lối này, ông Prendergast, - ông ta nói tiếng Anh rất thạo. – Ông đích thân đưa cậu bé đến đây, thật là quý hóa quá.
Họ trao đổi với nhau vài câu ngoại ngữ lịch sự rồi ông Prendergast và ông cai ra về. Wladek nhìn theo họ, cố nghĩ ra xem câu tiếng Anh nào đầy đủ hơn chữ "cảm ơn" không.
Ông Prendergast thân mật xoa lên đầu Wladek. Ông ra theo ông Cai rồi nháy mắt nói với Wladek.
- Chúc chú may mắn nhé. Chúa phù hộ cho chú được hưởng may mắn đấy.
Ông lãnh sự Ba Lan tự giới thiệu tên mình là Pawel Zeleski. Wladek lại một lần nữa kể lại câu chuyện của mình và anh thấy mô tả bằng tiếng Ba Lan dễ hơn tiếng Anh nhiều. Pawel Zeleski yên lặng nghe anh nói, và lắc đầu buồn bã.
- Tội nghiệp chú quá, - ông khẽ nói. – Chú còn trẻ thế mà đã phải chịu đựng quá nhiều cái đau khổ của đất nước ta. Bây giờ phải làm gì cho chú đây?
- Tôi phải trở về Ba Lan để đòi lại cái lâu đài của tôi, - Wladek nói
- Ba Lan ư? – Pawel Zeleski nói. – Đó là đâu? Mảnh đất chú đã sống ấy hiện nay còn đang tranh chấp, và chiến sự còn đang nổ ra giữa người Ba Lan với người Nga. Tướng Pilsudski còn đang làm mọi cách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc chúng ta. Nhưng nếu chúng ta lạc quan thì sẽ là điên rồ. Ở Ba Lan bây giờ chẳng còn mấy chút gì cho chú đâu. Không, điều tốt nhất cho chú bây giờ là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc ở Anh hoặc ở Mỹ.
- Nhưng tôi không muốn sang Anh hay Mỹ. Tôi là người Ba Lan.
- Chú vẫn cứ là người Ba Lan, Wladek ạ. Dù chú quyết định sống ở đâu thì cũng chẳng ai lấy đi được cái danh nghĩa đó của chú. Nhưng chú phải thực tế đối với cuộc sống của mình, mà cuộc sống ấy bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi.
Wladek cúi đầu thất vọng. Anh đã phải trải qua tất cả những điều trên đây để rồi bây giờ được nghe nói là sẽ chẳng bao giờ trở lại với quê cha đất tổ nữa hay sao? Anh cố nín khóc.
Pawel Zaleski quàng tay ôm lấy vai anh.
- Chú đừng bao giờ quên rằng chú là một trong những người may mắn đã có thể trốn thoát và sống sót được. Chú chỉ cần nhớ đến ông bạn bác sĩ Dubien để thấy rằng cuộc sống có thể như thế nào.
Wladek không nói gì.
- Bây giờ chú phải gạt bỏ tất cả những chuyện quá khứ lại phía sau, và chỉ nên nghĩ đến tương lai thôi. Có thể, trong đời chú, một ngày kia lại trông thấy đất nước Ba Lan đứng dậy, mà điều đó thì ai cũng mong muốn lắm.
Wladek vẫn im lặng, không nói gì.
- Nhưng thôi, chú không cần phải có ngay một quyết định gì, - ông lãnh sự thân mật nói. – Chú có thể ở lại đây muốn bao lâu cũng được, rồi sẽ tính đến tương lai của chú sau.
Một tên lính thúc báng súng vào cạnh sườn Wladek. Chú giật mình ngồi dậy, nhìn vào nấm mộ của chị chú, của Leon và của Nam tước. Rồi chú ngước lên nhìn tên lính. Chú không còn giọt nước mắt nào nữa.
- Tôi sẽ sống. Anh không giết tôi được, - chú nói bằng tiếng Ba Lan. – Đây là nhà tôi, Các anh đang ở trên đất của tôi.
Tên lính nhổ toẹt vào Wladek một cái và đẩy chú về bên bãi cỏ đang có tất cả đám người hầu ở đó, người nào cũng mặc áo ngủ màu xám trên lưng đều có ghi số. Vừa trông thấy thế Wladek đã khiếp sơ. Chú biết là mình sẽ không tránh khỏi số phận ấy. Tên lính dẫn chú về phía sau lâu đài và bảo quỳ xuống. Chú nghe có tiếng dao trên đầu và thấy mớ tóc đen rậm của chú rụng xuống cỏ. Chỉ độ mười nhát như thế là họ đã cạo sạch tóc trên đầu chú, chẳng khác gì người ra cắt lông cừu. Sau đó chú được lệnh mặc vào người bộ đồng phục mới, tức bộ áo ngủ màu xám gồm một chiếc sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần. Wladek cố giấu chiếc vòng bạc đeo ở cổ tay. Rồi chú được dẫn ra nhập bọn với đám người hầu ở phía trước lâu đài.
Họ đứng chờ trên bãi cỏ. Bây giờ không ai còn tên gì nữa, chỉ có số. Wladek bỗng nghe xa xa có tiếng ì ầm rất lạ tai. Chú quay về hướng có tiếng ghê rợn ấy. Một chiếc xe từ ngoài cổng sắt lớn tiến vào. Xe này có bốn bánh, không có ngựa hay bò kéo mà nó di chuyển được. Tất cả tù nhân đều nhìn vào đó mà không tin ở mắt mình. Khi chiếc xe đã dừng lại, bọn lính kéo đám tù nhân đến gần và bắt trèo lên xe. Rồi chiếc xe không có ngựa kéo ấy quay đầu đi ra ngoài những hàng cổng sắt. Không một ai dám mở miệng nói gì. Wladek ngồi phía sau xe, đăm đăm nhìn lại tòa lâu đài của chú cho đến lúc không còn nhìn thấy những tháp gôtích trên nóc nó nữa.
Chiếc xe không có ngựa kéo chạy về phía làm Slonim. Wladek vừa không hiểu sao chiếc xe đó chạy được, vừa không biết nó đưa mọi người đi đâu. Chú bắt đầu nhận ra những con đường chú đã từng đi học trước đây. Ba năm sống dưới hầm lâu đài khiến chú không còn nhớ được những con đường ấy đi đến tận nơi nào. Đi được mấy dặm thì chiếc xe dừng lại và mọi người bị xua xuống. Ra đây là nhà ga xe lửa. Wladek chỉ mới trông thấy chỗ này một lần trong đời, tức là khi chú cùng Leon ra đón Nam tước ở Warsaw về. Chú còn nhớ là khi họ bước vào sân ga thì người lính gác ở đó đã giơ tay chào. Lần này không có ai chào, và tù nhân thì chỉ được uống sữa dê, ăn súp củ cải và bánh mì đen. Wladek lại được đứng ra nhận thức ăn về đem chia cho mười ba người còn lại với chú. Chú ngồi trên một chiếc xe ghê gỗ và đoán rằng họ đang chờ một chuyến xe lửa. Đêm đó, mọi người nằm ngủ trên đất nhìn trời sao. Nếu so với căn hầm thì đây đã là thiên đường rồi. Chú cảm ơn Chúa là mùa đông này không lấy gì làm rét lắm.
Đến sáng hôm sau, mọi người vẫn chờ đợi. Wladek hướng dẫn mọi người vận động một chút, nhưng chỉ được vài phút thì phần lớn đã gục xuống. Chú bắt đầu nhẩm trong bụng để nhớ tên những người cho đến hôm nay còn sống sót. Tất cả còn lại có mười hai người đàn ông, hai người đàn bà, trong số hai mươi bảy người đã bị giam trong hầm trước đây. Cả ngày hôm ấy họ vẫn cứ phải ngồi chờ chuyến xe lửa mà không thấy nó đến. Có một chuyến tàu đến nhưng chỉ thả thêm lính xuống đây, rồi lại đi mà không chở đám người của Wladek. Họ lại ngủ một đêm nữa trên đất.
Wladek nằm nhìn lên trời cao trong bụng nghĩ không biết có thể làm thế nào để trốn đi được. Trong đêm, một trong số mười ba người của chú bỏ chạy sang bên kia đường xe lửa, nhưng chưa sang được đến nơi đã bị lính bắn chết. Wladek chăm chăm nhìn vào chỗ đồng bào của chú vừa ngã xuống. Chú sợ không dám chạy ra cứu vì rất có thể lại cùng chịu số phận ấy. Sáng hôm sau, bọn lính gác cứ để xác chết đó nằm trên đường để đe những người khác đừng có bắt chước chạy mà chết.
Không ai nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng suốt ngày hôm đó mắt Wladek không rời được người đã chết. Người đó chính là Ludwik, một trong hai người đã đến làm chứng lúc Nam tước dặn dò để lại gia tài cho Wladek.
Vào buổi tối ngày thứ bà, một chiếc xe lửa khác từ từ lăn bánh vào ga. Một chiếc đầu tàu rất to chạy bằng hơi nước kéo theo một lô toa chở hàng và chở hành khách. Những toa chở hàng chất đầy rơm và hai bên sườn có viêt chữ Gia Súc. Một số toa khác đã chở toàn những tù nhân mà Wladek trông họ cũng nhem nhuốc như đám người của chú vậy. Chú và tốp người của chú bị vứt lên một trong những toa đó để bắt đầu một cuộc hành trình. Phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa đoàn tàu mới bắt đầu ra khỏi ga và đi về một hướng mà Wladek đoán là hướng Đông vì mặt trời đang lặn phía sau.
Cứ ba toa lộ thiên thì có một lính gác ngồi bắt chéo chân ở toa bên trên có mái. Suốt dọc đường tưởng như không bao giờ hết ấy, thỉnh thoảng lại có tiếng súng bắn trên tàu, khiến Wladek nghĩ có muốn chạy trốn cũng vô ích.
Lúc tàu đỗ lại ở Minsk, họ được cho ăn một bữa đầu tiên gồm bánh mì đen, nước uống, lạc và kê. Rồi lại đi tiếp. Có khi họ đi đến ba ngày trời mà chẳng thấy một ga nào. Rất nhiều người trên tàu này bị đói lả và chết. Họ bị vứt xuống đường trong khi tàu đang chạy. Khi tàu dừng lại, có khi họ phải chờ đến hai ngày để nhường đường cho tàu khác đi về phía Tây. Những chuyến tàu ấy thường là chở lính. Wladek hiểu ra là tàu chở quân đội bao giờ cũng được ưu tiên đi trước. Trong đầu Wladek lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện trốn, nhưng có hai điều khiến chú chưa dám thực hiện tham vọng ấy. Thứ nhất chú thấy hai bên đường chỉ toàn là rừng thẳm không biết đến đâu mới hết, và thứ hai là tất cả những người còn sống sót ở nhà hầm ra đây đều chỉ biết dựa vào chú. Chính Wladek là người lo ăn uống cho họ và cố động viên cho họ còn muốn sống. Chú là người trẻ nhất trong cả bọn và cũng là người cuối cùng tin ở cuộc sống.
Từ đấy trở đi, đêm nào cũng rất lạnh, có khi lạnh tới 30 độ dưới không. Họ phải năm sát vào nhau trên sàn để người nọ truyền hơi ấm cho người kia. Wladek thầm đọc lại những đoạn Aeneid để cố ngủ cho được. Nếu một người muốn trở mình thì tất cả những người khác đều phải đồng ý giở mình một lượt mới được. Wladek nằm ở đằng đầu và cứ qua mỗi giờ đồng hồ, chú đoán như vậy vì chỉ có thể căn cứ vào bọn lính đổi gác, thì chú lại lấy tay gõ vào thành xe và mọi người lại cứ thế trở mình quay sang phía kia. Một đêm, có một người không trở mình nữa. Họ báo cho Wladek biết và chú báo lại cho tên lính gác biết. Đó là một người đàn bà trong nhóm, và ba ta đã chết. Phải bốn người mới nhấc được xác bà lên và vứt xuống cạnh đường trong khi tàu vẫn đang chạy. Tên lính gác còn bắn theo xác chết một loạt đạn nữa để biết chắc rằng đó không phải là người định trốn.
Đi qua Minsk hai trăm dặm, họ đến một thị trấn tên là Smolenski. Ở đây họ được ăn súp củ cải nóng hơn với bánh mì đen. Trong toa xe của Wladek có thêm mấy tù nhân nữa, và mấy người này nói cùng một thứ tiếng với bọn lính gác. Người cầm đầu nhóm mới này hình cũng cùng tuổi với Wladek. Wladek với mười một người còn lại trong nhóm đã thấy nghi ngờ ngay bọn mới lên này, Họ chia toa xe ra làm hai nửa, mỗi nhóm ở một bên toa.
Một đêm trong khi Wladek đang nằm thức và ngắm nhìn trời sao, chờ cho người nóng lên, chú bỗng thấy tên cầm đầu của nhóm người mới lên ở Smolenski bò đến chỗ người nằm ngoài của nhóm chú, tay hắn cầm một sợi dây thừng. Chú trông rõ thấy hắn luồn sợi dây và cổ Alfons lúc này đang ngủ. Alfons là người hầu cận của Nam tước trước đây. Wladek biết rằng nếu mình nhổm dậy ngay thì hắn sẽ nghe thấy và chạy về đầu toa bên kia, vì thế chú khẽ bò dọc theo nhóm người của chú. Họ biết chú bò qua mình nhưng không ai lên tiếng. Đến cuối hàng, chú nhảy chồm lên người tên kia. Mọi người trong toa thức dậy ngay. Ai nấy kéo dồn về một đầu toa, trừ có Alfons nằm lại đó không động đậy.
Tên cầm đầu đám Smolenski cao lớn và nhanh nhẹn hơn Wladek. Nhưng vật nhau trên sàu toa thì cũng như nhau cả. Cuộc đấu diễn ra đến mấy phút. Bọn gác nhìn cười và đánh cuộc xem ai được. Một tên thấy đánh nhau mà không có máu thì không thích, bèn quẳng một chiếc lưỡi lê xuống giữa sàn tàu. Cả hai tranh nhau giành lấy lưỡi lê sáng loáng. Tên Smolenski vớ được trước. Hắn đâm một nhát vào cạnh chân Wladek tóe máu. Bọn người Smolenski thấy thế hoan hô. Nhát đâm thứ hai trượt qua tai Wladek cắm xuống sàn tàu. Hắn chưa kịp rút lưỡi lê được thì Wladek đã dùng hết sức mình thúc một cái thật mạnh vào dái hắn. Hắn ngửa người ra sau và phải rời tay khỏi lưỡi lê. Wladek chồm lên, nắm lấy cán lưỡi lê và đè lên người tên Smolenski, thọc một nhát vào miệng hắn. Hắn thét lên một tiếng làm náo động cả đoàn tàu. Wladek rút lưỡi lê ra rồi lại liên tiếp thọc xuống mấy nhát nữa cho đến khi tên kia hết cựa quậy. Wladek quỳ lên người hắn thở dốc rồi lát sau nhác người hắn lên vứt ra ngoài tàu, Chú nghe rõ tiếng xác hắn rơi đành huỵch xuống cạnh đường tàu và cả tiếng súng của bọn gác bắn theo.
Wladek loạng choạng đi đến chỗ Alfons còn nằm đó. Chú quỳ xuống bên cạnh. Anh ta chết thật rồi. Thế là người làm chứng thứ hai của chú cũng chết nốt. Bây giờ còn ai tin được Wladek là người Nam tước đã chọn ra để thừa kế tài sản của ông nữa? Cuộc đời thế là không còn mục đích gì nữa rồi.
Chú cúi gục xuống, nắm chặt hai tay vào cán và xoay mũi lưỡi lê vào bụng. Bỗng một tên lính gác nhảu xuống giằng lưỡi lê ra khỏi tay chú.
- Ô, không được, không được, - hắn càu nhàu. – Chúng tao cần có những người sống như mày ở trong trại giam. Đừng hòng chúng tao làm mọi việc, nghe không.
Wladek ôm hai tay lên đầu. Bây giờ chú mới thấy đau buốt ở chỗ chân bị lưỡi lê đâm lúc nãy. Chú đã mất hết cả gia tài, để bây giờ cầm đầu luôn cả lũ người Smolenski kia nữa. Cả toa tàu bây giờ là giang sơn của chú, và chú phải quản hai chục tù nhânh. Chú lập tức chia họ ra để mỗi người Ba Lan bao giờ cũng phải nằm kề với một người Smolenski, và như vậy giữa hai nhóm không còn có chuyện lục đục với nhau được nữa.
Wladek bỏ thì giờ ra để học cái ngôn ngữ quái lạ của họ. Mãi sau chú mới biết đó chính là tiêng Nga, rất khác với thứ tiếng Nga cổ điển mà Nam tước đã dạy cho chú. Và bây giờ thì chú biết là đoàn tàu đi về hướng nào.
Ban ngày, chú lấy ra hai người Smolenski để dạy tiếng của họ cho chú. Khi nào hai người đó mệt quá rồi, chú lại lấy hai người khác, cứ thế cho đến lúc cả bọn người đó mệt rũ.
Dần dần chú đã có thể nói chuyện dễ dàng với bọn người mới phụ thuộc vào chú. Chú phát hiện ra một số trong bọn đó là lính Nga, sau khi về nước bị đi đày ngay về cái tội đã để cho bọn Đức bắt làm tù bình. Số còn lại toàn là dân làm ruộng, làm mỏ và lao động bình thường nhưng đều là những người rất chống đối cách mạng.
Đoàn tàu đi tiếp đến những vùng đất trơ trụi mà Wladek chưa hề thấy bao giờ. Họ đi qua những thị trấn mà chú cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, như Omsk, Novosbirsk, Krasnoyarsk. Chỉ những nghe đến tên thôi chú cũng đã thấy sợ. Cuối cùng, sau hai tháng trời và qua hơn ba ngàn dặm họ đến được Irkutsk, và đến đây là hết đường sắt.
Họ bị xua ra khỏi tàu, được cho ăn uống và được phát những đôi giày bằng da thô, và những chiếc áo choàng rất nặng. Họ phải tranh nhau để giành lấy áo ấm những cũng chẳng có thứ áo nào chống nổi cái lạnh mỗi lúc một ghê gớm hơn.
Lúc sau thấy xuất hiện những chiếc xe không có ngựa kéo, giống như loại xe Wladek đã thấy lúc rời khỏi lâu đài. Họ quẳng xuống một loạt dây xích. Các tù nhân bị khóa một tay vào dây xích dài ấy, mỗi bên hai mươi lăm người. Bọn lính gác trèo lên xe, còn đám tù nhân đi theo với dây xích buộc vào xe. Họ cứ đi bộ như thế liền trong mười hai tiếng đồng hồ, được nghỉ lại hai tiếng rồi lại đi tiếp. Sau ba ngày, Wladek tưởng mình sẽ chết vì lạnh và mệt, nhưng ra khỏi những vùng có dân cư rồi, họ chỉ phải đi ban ngày, còn ban đêm được nghỉ. Một bếp lưu động của tù nhân trong trại cứ sáng ra và tối trước khi nghỉ cho họ ăn súp củ cải và bánh mì. Wladek hỏi những tù nhân trong trại thì được biết rằng tình hình ở đó còn tệ hơn.
Trong tuần đầu, họ không được tháo ra khỏi xích nhưng dần dà thấy không ai có thể nghĩ đến trốn chạy được nữa, họ phải tháo xích vào ban đêm để ngủ. Tù nhân phải tự đào hố trong tuyết để tìm chỗ ấm. Đôi khi vào những ngày nắng ráo họ tìm được một khu rừng để ngả lưng, nằm ngổn ngang khắp chỗ. Họ vẫn tiếp tục đi, qua những hồ nước rất rộng và những con sông băng giá. Họ đi mãi về phía bắc, gió càng lạnh, tuyết càng dầy. Chỗ chân bị thương của Wladek luôn luôn đau buốt, nhưng đến giờ thì hai tai và các đầu ngón tay bị giá lạnh còn buốt hơn nữa. Chung quanh là cả một khoảng mênh mông trắng toát, không có dấu hiệu gì của sự sống và thứ gì ăn được. Wladek biết rằng ban đêm có trốn đi đâu thì cũng chỉ chết mòn vì đói. Những người già yêu ốm đau thì đêm đêm chết dần, và như thế họ cũng còn là may mắn. Còn những người không may, không bước đi được nữa, thì được tháo ra khỏi xích và bỏ lại một mình trong bãi tuyết vô tận. Những người còn sống sót với dây xích lại đi tiếp, đi mãi về phía Bắc, cho đến lúc Wladek hoàn toàn không còn khái niệm gì về thời gian nữa, chỉ còn biết tay mình vẫn bị khóa vào xích. Chú cũng không còn nhớ là mình đã đào hố vào trong tuyết để ngủ đêm và sáng hôm sau tỉnh dậy như thế nào nữa. Những ai không còn biết được như vậy coi như đã sắp đào mồ để chôn chính mình rồi.
Sau một chặng dài chín trăm dặm, những người nào còn sống sót thì được dân Ostyak đem xe trượt do hươu kéo ra đón. Ostyak là dân du mục trên thảo nguyên Nga. Bây giờ tù nhân lại bị xích vào những xe trượt ấy và được dẫn đi tiếp. Gặp một trận bão tuyết lớn, đoàn tù phải dừng lại mất hai ngày. Wladek tranh thủ nói chuyện được với một tay Ostyak trẻ trên chiếc xe trượt mà chú đang bị xích vào đó. Chú dùng thứ tiếng Nga cổ với giọng Ba Lan để nói lõm bõm với anh ta được ít câu. Chú phát hiện ra một điều là dân Ostyak cũng rất ghét những người Nga ở phía Nam, vì họ đối đãi với dân này tồi tệ chẳng khác gì các tù nhân. Dân Ostyak do đó có phần nào cảm tình với những người tù tội nghiệp không có tương lai này. Họ gọi tù nhân là những người bất hạnh.
Chín ngày sau, trong ánh sáng mờ của đêm mùa đông Bắc Cực, họ đến được trại 201. Wladek không thể nào ngờ được rằng mình còn có cái may mắn mà trông thấy chỗ này. Trước mắt chú là một dãy những căn lều bằng gỗ và một khoảng không gian mênh mông trống rỗng. Những căn lều cũng được đánh số như tù nhân vậy. Lều của Wladek số 33. Giữa căn lều có một chiếc lò đen sì. Chung quanh là những dãy giường ván có đệm rơm ở trên với chiếc chăn mỏng. Trong đêm đầu không có mấy tù nhân ngủ được. Tiếng gào tiếng khóc trong lều 33 có khi còn to hơn cả tiếng gầm rú của chó sói ở bên ngoài.
Sáng hôm sau, ngay từ lúc mặt trời chưa mọc, họ đã bị tiếng gõ vào thanh sắt tam giác đánh thức dậy. Sương giá đóng đầy cả mặt cửa sổ khiến Wladek nghĩ thế nào mình cũng chết rét. Ăn sáng chỉ được kéo dài mười phút trong một gian chung lạnh buốt với một bát cháo kê hơi âm ấm trong có vài miếng cá mòi và một cọng rau cải nổi lềnh bềnh. Những người mới đến bỏ xương cá lên bàn, nhưng những tù nhân đã quen với cảnh ở đây rồi thì ăn hết xương và cả mắt cá nữa.
Ăn sáng xong, họ được giao nhiệm vụ. Wladek trở thành anh chặt củi. Anh được dẫn đi bảy dặm đến một khu rừng hoang và được lệnh phải chặt được một số cây nhất định. Tên lính gác bỏ anh lại đó với nhóm sáu người và suất ăn của họ gồm có một ít cháo kê vàng nhạt nhẽo và bánh mì. Bọn lính gác không sợ tù nhân nào dám trốn, vì đến được thị trấn gần đó nhất cũng phải một nghìn dặm và dù có biết hướng đi cũng không đi nổi.
Đến cuối ngày tên lính gác sẽ quay lại đếm số củi đã chặt được. Anh ta cũng đã nói trước với tù nhân là nếu chặt không dủ số củi đã quy định thì anh ta sẽ giữ thức ăn lại đến hôm sau mới phát. Nhưng lúc anh ta quay lại thì đã bảy giờ tối, chỉ còn thu thập được cho đầy đủ tù nhân thôi, chứ không nhìn được xem họ đã chặt bao nhiêu củi. Wladek bày cho những người trong nhóm biết cách để một phần thời gian buổi chiều quýet dọn tuyết trên đống củi đã chặt hôm trước và xếp vào cùng với củi chặt hôm sau. Cách đó của anh rất có hiệu quả, vì vậy nhóm của Wladek không ngày nào bị cắt suất ăn cả. Đôi khi họ cố gắng đem theo một ít củi về trại bằng cách buộc nó vào chân ở trong quần, để đến đêm có thể cho vào lò mà sưởi. Nhưng họ cũng phải rất cẩn thận vì mỗi lần ra vào đều bị khám xét kỹ lưỡng. Nếu chẳng may bị bắt mang theo gì trong người, họ có thể bị phạt ba ngày không được ăn.
Qua mấy tuần nữa, cái chân của Wladek bị cứng ra và rất đau. Anh mong cho có những ngày cực rét, vì khi nào thời tiết xuống tới 40 độ dưới không thì họ không phải đi làm ở ngoài trại, mặc dầu ngày ở nhà ấy sẽ phải thế bằng một ngày chủ nhật khác, mà chủ nhật thì họ thường được phép nằm nghỉ cả ngày trên giường.
Một buổi tối trong khi Wladek đang vác củi, anh bỗng thấy vết sẹo do tên Smolenski gây ra, anh thấy nó sưng vù lên và bóng đỏ. Đêm đó anh giơ vết thương cho tên lính gác xem. Hắn bảo anh đến sáng mai sớm phải báo cho bác sĩ của trại biết. Wladek ngồi suốt đêm áp chân vào gần lò. Chung quanh lò toàn những ủng ướt. Lửa trong lò quá yếu nên không làm cho anh bớt đau tí nào.
Hôm sau Wladek dậy sớm hơn bình thường một giờ, vì anh nghĩ nếu không gặp được bác sĩ trước giờ làm việc thì sẽ lại phải để đến ngày hôm sau nữa. Nếu để qua một ngày nữa thì Wladek không thể chịu đau nổi. Anh đến báo cáo với bác sĩ, ghi tên và số tù của anh. Pierre Dubien hóa ra là một ông bác sĩ dễ tính. Ông ta hói đầu, hơi gù lưng. Wladek nghĩ có lẽ ông ta còn già hơn cả Nam tước trước khi qua đời. Bác sĩ khám chân Wladek và không nói gì.
- Vết thương có việc gì không, thưa bác sĩ? – Wladek hỏi.
- Anh nói tiếng Nga được hả? - Thưa được.
- Mặc dầu, anh sẽ bị thọt, nhưng chân anh rồi sẽ khỏi. Nhưng khỏi để làm gì? Để suốt đời đi chặt củi ư?
- Không, thưa bác sĩ, cháu có ý muốn trốn và trở về Ba Lan. - Wladek nói.
Bác sĩ chằm chằm nhìn anh.
- Nói khẽ chứ, ngốc ở đâu... Đến bây giờ thì anh biết là không trốn được chứ. Chính tôi đã bị bắt ở đây mười lăm năm nay rồi, và không một ngày nào là tôi không nghĩ đến trốn. Nhưng không có cách nào được. Chưa hề có ai trốn mà lại sống được, mà chỉ nói đến chuyện trốn không thôi cũng đã bị phạt giam mười ngày dưới xà lim, mà ở đó ba ngày người ta mới cho anh ăn một lần, còn lò thì đốt chỉ đủ để tan giá ở trên tường thôi. Qua được cái đoạn trừng phạt ấy mà anh còn sống là may lắm rồi đấy.
- Cháu sẽ trốn, nhất định trốn, - Wladek nhìn ông già nói.
Bác sĩ nhìn vào mắt Wladek và mỉm cười.
- Này anh bạn ơi, chớ có nhắc đến chuyện trốn nữa, kẻo họ có thể giết anh đấy. Anh trở về làm việc đi, cố giữ cho cái chân tiếp tục vận động, rồi mỗi sáng đến đây tôi xem.
Wladek trở về rừng chặt củi, nhưng anh thấy bây giờ mình chỉ kéo được gỗ đi mấy bước thôi. Chân đau đến mức anh tưởng như nớ sắp rụng ra. Sáng hôm sau trở lại chỗ bác sĩ, ông ta khám chân anh cẩn thận hơn.
- Chà gay go đây, - bác sĩ nói. – Anh bao nhiêu tuổi rồi?
- Có lẽ cháu mười ba rồi, - Wladek nói. – Năm nay là năm bao nhiêu ạ?
- Một nghìn chín trăm mười chín. – Bác sĩ đáp.
- Vâng mười ba ạ. Còn ông bao nhiêu? – Wladek hỏi.
Ông ta nhìn xuống đôi mắt xanh của cậu thanh niên, hơi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi.
- Ba mươi tám, - ông khẽ nói.
- Ôi, lạy chúa. – Wladek nói.
- Nếu anh bị tù mười lăm năm thì cũng sẽ già như tôi thôi, - bác sĩ nói với một giọng bình thản.
- Nhưng tại sao ông lại ở đây chứ? – Wladek nói. - Tại sao đã bao nhiêu lâu thế mà họ không để cho ông đi?
- Tôi bị bắt ở Moscow năm 1904, ngay sau khi tôi có danh nghĩa bác sĩ. Tôi làm việc cho sứ quán Pháp ở đó. Họ bảo tôi là gián điệp nên bỏ tôi vào tù ở Moscow. Tôi nghĩ cho đến sau cách mạng cũng vậy. Họ tống tôi vào cái địa ngục này đây. Ngay cả đến những người Pháp cũng quên rằng tôi còn sống. Cả thế giới chả ai tin được là có một chỗ như thế này. Ở cái trại 201 này chưa từng có ai ở cho đến hết hạn được, vì vậy tôi sẽ chết ở đây như một người khác mà thôi. Có điều chưa chết ngay được thôi.
- Không, ông không nên mất hy vọng, bác sĩ ạ.
- Hy vọng? Tôi đã mất hết hy vọng từ lâu rồi. Có lẽ anh thì không, nhưng anh nên nhớ là đứng có nhắc đến hy vọng ấy với bất cứ ai. Ở đây có những tù nhân họ chỉ nghe nói thế là đi báo cáo ngay, để nhận về một phần thưởng hoặc đó là thêm một miếng bánh hoặc một chiếc khăn mà thôi. Bây giờ thế này nhé Wladek. Tôi sẽ cho anh làm việc phụ bếp trong một tháng, và suốt thời gian đó sáng nào anh cũng phải đến báo cáo. Đó là cơ hội duy nhất để anh khỏi phải mất cái chân kia, mà tôi có cưa chân của anh đi thì cũng chẳng sung sướng gì. Ở đây chúng tôi không có những dụng cụ giải phẫu tốt lắm đâu, - ông vừa nói vừa nhìn lên một con dao to.
Wladek rùng mình sợ hãi.
Bác sĩ Budien viết tên Wladek lên một mẩu giấy. Sáng hôm sau Wladek xuống trình diện dưới nhà bếp. Anh được giao việc rửa bát đĩa trong nước lạnh cóng và chuẩn bị thức ăn không cần phải ướp lạnh. Sau một thời gian phải chặt củi suốt ngày, anh thấy đây là một sự thay đổi đáng mừng. Được ăn thêm súp cá, thêm bánh mì đen, và nhất là được ở trong nhà ấm áp. Có hôm anh được nhà bếp chia cho một nửa quả trứng, mà không ai biết rằng đó là trứng con gì. Chân anh đã dần dần khỏi, tuy phải hơi chịu thọt một chút. Bác sĩ Dubien không thể có được thứ thuốc gì tử tế mà chữa cho anh, chỉ biết theo dõi từng ngày vậy thôi. Ngày giờ trôi qua, bác sĩ trở thành người bạn của Wladek, thậm chí còn tin ở hy vọng của tuổi trẻ đối với tương lai. Mỗi sáng hai người thường nói chuyện với nhau bằng các thứ ngôn ngữ, nhưng người bạn mới kia thích nhất là được nói tiếng Pháp vì đó là tiếng mẹ đẻ.
- Trong bảy ngày nữa, Wladek, anh sẽ phải trở lại với nhiệm vụ ở trong rừng. Bọn lính gác sẽ khám phá cái chân của anh, và tôi không thể giữ anh ở lại trong bếp nữa. Vậy anh nghe kỹ tôi nói đây nhé, vì tôi đã có một kế hoạch cho anh trốn đi.
- Cùng trốn, bác sĩ. – Wladek nói. – Chúng tôi cùng trốn.
- Không, chỉ mình anh thôi. Tôi nhiều tuổi rồi, không đi được xa như thế, mặc dầu hơn mười lăm năm nay lúc nào tôi cũng mơ đến chuyện trốn. Tôi sẽ chỉ làm vướng chân anh thôi. Biết có ai trốn đi được là tôi đủ hài lòng rồi, và anh là con người đầu tiên tôi gặp khiến tôi tin rằng anh có thể thành công được.
Wladek yên lặng ngồi trên sàn nghe bác sĩ nói kế hoạch của ông.
- Trong mười lăm năm qua, tôi đã dành dụm được hai trăm rúp. Đây là tiền làm "ngoài giờ" nhưng không phải như một tù nhân Nga đâu, - Wladek nhăn nhó cười. – Tôi giấu tiền trong một chai thuốc. Có bốn tờ, mỗi tờ năm mươi rúp. Khi nào anh đi thì phải khâu tiền đó vào trong áo. Tôi sẽ làm việc đó cho anh.
- Áo nào? – Wladek hỏi.
- Tôi có một bộ quần áo và một sơ mi trước đây mười hai năm tôi đã mua lại được của một tên lính gác, và hồi đó tôi còn tin ở chuyện trốn được. Bộ quần áo không mới lắm, nhưng có thể phục vụ cho mục đích của anh được.
Mười lăm năm dành dụm được hai trăm rúp, một chiếc áo sơ mi và một bộ quần áo, thế mà bác sĩ sẵn sàng chỉ trong chốc lát hy sinh tất cả nhưng cái đó cho Wladek. Suốt đời mình, Wladek sẽ chẳng còn bao giờ được thấy một hành động quên mình như thế nữa.
- Thứ năm tới sẽ là cơ hội duy nhất của anh, - bác sĩ nói tiếp. – Tù nhân mới sẽ đến Irkutsk bằng xe lửa. Bọn lính gác bao giờ cũng lấy bốn người của nhà bếp để tổ chức những chuyến xe thức ăn cho bọn người mới đến. Tôi đã thu xếp với bếp trưởng để anh được lên xe thức ăn. Tôi đem một ít thuốc đánh đổi cho anh ta đấy. Không khó khăn gì lắm đâu. Thực ra không ai muốn đi một chuyến đến tận đó rồi lại quay về đây, nhưng anh thì chỉ đi một lượt ra đến đó thôi.
Wladek vân nghe rất kỹ.
- Ra đến ga, anh hãy chờ cho đến khi nào tàu chở tù nhân vào ga. Một khi họ xuống ga cả rồi thì anh chạy qua đường sắt rồi nhảy lên chuyến tàu sẽ đi Moscow, mà chỉ sau khi tàu chở tù nhân đến rồi thì tàu đó mới khởi hành được vì bên ngoài ga chỉ có một đường tàu thôi. Anh phải mong làm sao cho đến lúc có hàng trăm tù nhân mới chạy đi chạy lại như thế thì bọn gác mới không để ý đến chuyện anh biến mất được. Từ lúc đó trở đi là tùy anh định liệu. Nên nhớ rằng nếu chúng trông thấy anh là chúng bắn liền chứ không cần hỏi han gì hết. Tôi chỉ có thể giúp anh được một điều này nữa. Mười lăm năm trước khi tôi bị đưa đến đây, tôi đã vẽ trong đầu óc một bản đồ con đường đi từ Moscow đến Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ đến bây giờ nó không còn chính xác nữa nhưng có thể đáp ứng cho mục đích của anh được. Anh phải tìm hiểu cho chắc chắn xem người Nga họ đã chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ chưa. Có trời mà biết được cho đến nay họ đã làm những gì. Theo tôi biết thì có thể họ cũng đã kiểm soát được cả nước Pháp nữa.
Bác sĩ bước vào phòng thuốc và lấy ra một cái chai lớn trông như đựng một chất gì đó màu nâu. Ông mở nút lấy ra một tấm da khô đã cũ. Nét mực đen qua năm tháng đã bị nhạt màu, mang chữ "Tháng mười 1904". Trên mảng da vẽ con đường từ Moscow đến Odessa và từ Odessa đến Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả 1500 dặm đường đi đến tự do.
- Trong tuần này, mỗi sáng anh cứ phải đến đây và chúng ta sẽ lại bàn thêm về kế hoạch này. Nếu như không thành công thì đó không phải là do thiếu chuẩn bị.
Mỗi đêm, Wladek thức giấc nhìn ra ánh sáng mờ mờ ngoài cửa sổ, thử nghĩ trước những tình huống bất ngờ xem mình sẽ đối phó như thế nào. Đến sáng, anh lại đem bàn thêm với bác sĩ. Vào tối thứ tư trước ngày Wladek định trốn, bác sĩ gấp mảnh bản đồ đó làm tám, cùng để với bốn tờ bạc 50 rúp vào một gói nhỏ và ghim nó vào bên trong tay áo của bộ đò. Wladek cởi bộ quần áo cũ, mặc chiếc sơ mi vào người rồi mặc quần áo tù ra ngoài. Lúc anh mặc lại thì cặp mắt bác sĩ bỗng trông thấy chiếc vòng bạc của Nam tước.
Từ khi mặc áo tù, anh vẫn luôn luôn đeo nó lên trên khuỷu tay vì sợ bọn lích gác trông thấy sẽ cướp mất của quý duy nhất còn lại đó của anh.
- Cái gì thế?- bác sĩ hỏi. – Trông rất đẹp đấy.
- Đây là quà tặng của cha tôi, - Wladek nói. Tôi có thể tặng lại ông để tỏ lòng cảm tạ của tôi được không? – Anh trút chiéc vòng xuống cổ tay và đưa cho bác sĩ.
Bác sĩ nhìn chiếc vòng bạc một lúc lâu rồi cúi đầu nói:
- Không nên. Thứ này chỉ có thể thuộc về một người thôi. – Ông im lặng nhìn anh. - Hẳn cha anh là một người cao quý lắm.
Bác sĩ đeo trả lại chiếc vòng bạc vào cổ tay Wladek, rồi bắt tay anh nồng nhiệt.
- Chúc anh may mắn, Wladek. Có lẽ chúng ta không bao giờ còn gặp nhau nữa.
Họ ôm chầm lấy nhau và bước ra ngoài. Anh cầu cho đây là đêm cuối cùng của mình ở trong lều trại giam. Anh không sao ngủ được suốt đêm đó, chỉ sợ một trong những tên lính gác phát hiện ra bộ quần áo mặc dưới áo tù. Tiếng chuông buổi sáng vừa vang lên, anh đã mặc xong quần áo và xuống bếp sớm. Tù nhân bếp trưởng đẩy Wladek đi lên trước khi bọn lính gác kiểm soát xe thức ăn. Tổ phục vụ chọn ra có bốn người tất cả. Wladek là trẻ nhất trong đám.
- Tại sao lại thằng này? - một tên lính gác chỉ tay vào Wladek hỏi.
Wladek như chết đứng và khắp người lạnh run. Kế hoạch của bác sĩ thế là hỏng, và phải ba tháng nữa mới lại có một đợt tù nhân nữa đến trại. Đến lúc đó thì anh sẽ không còn ở bếp nữa.
- Nó nấu bếp rất giỏi, - tù nhân bếp trưởng nói. – Nó được rèn luyện trong lâu đài của một Nam tước đấy. Chỉ có nó mới nấu ăn được ngon lành cho lính gác thôi.
- À, thế đấy, - tên lính gác nói, nghi ngờ không bằng tham ăn. - Vậy thì nhanh lên.
Cả bốn người chạy ra xe, rồi đoàn xe lên đường. Cuộc hành trình lại một lần nữa chậm chạp, vất vả, nhưng lần này ít nhất anh không phải đi bộ và cũng không lạnh chết người vì bây giờ đang là mùa hè. Wladek làm việc cật lực để chuẩn bị thức ăn. Anh không muốn ai chú ý đến mình. Suốt dọc đường anh chỉ nói vài câu với bếp trưởng là Atanislaw.
Cuối cùng, sau khi họ đã đến được Irkutsk tính ra gần hết mười sáu ngày. Chuyến tàu chờ đi Moscow đã nằm sẵn ở ga. Nó đã đến đây mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không thể bắt đầu cuộc hành trình quay trở về Moscow chừng nào chuyến tàu chở tù nhân mới chưa đến được. Wladek cùng với mấy người làm bếp ngồi chờ ở sân ga bên này, ba người không quan tâm đến gì khác chung quanh, còn một người chú ý theo dõi đoàn tàu ở bên kia sân ga. Có nhiều cửa lên tàu, nhưng Wladek đã ngắm trước một cửa để đến lúc là anh sẽ nhảy lên đó.
- Anh có định trốn không? – Atanislaw chợt hỏi.
Wladek toát mồ hôi nhưng không trả lời.
- Đúng là anh định trốn rồi. – Atanislaw chăm chăm nhìn anh.
Wladek vẫn không nói gì.
Ông bếp trưởng già nhìn anh thanh niên mười ba tuổi, rồi ông gật đầu ra vẻ tán thành. Giá như anh có cái đuôi thì nó đã vẫy ngay rồi.
- Chúc anh may mắn. Tôi sẽ cố làm cho họ không để ý đến chuyện anh vắng mặt, được chừng nào hay chừng đó.
Atanislaw nắm lấy tay anh. Wladek nhìn thấy đoàn tàu chở tù nhân ở ngoài xa đang từ từ tiến đến chỗ họ ngồi. Anh cảm thấy căng thẳng, tim dồn dập, mắt theo dõi cử chỉ của từng tên lính. Anh chờ cho đến khi đoàn tàu kia dừng hẳn, nhìn theo đám tù nhân trên tàu đổ xuống sân ga. Họ có hàng trăm người, dáng mệt mỏi, không tên tuổi gì. Trong lúc sân ga đang bề bộn một đống người và bọn lính gác bận rộn, Wladek chui xuống dưới gầm đoàn tàu chở tù nhân rồi nhảu lên đoàn tàu sẽ đi Moscow. Không một ai trên tàu để ý đến anh lúc đó vào phòng vệ sinh ở cuối toa. Anh cài cửa lại rồi đứng bên trong chờ, bụng lâm râm cầu nguyện, chỉ sợ có ai gõ cửa. Wladek cứ đứng như thế không biết bao nhiêu lâu rồi mới thấy đoàn tàu bắt đầu lăn bánh ra khỏi ga. Thực ra, chỉ có mười bảy phút.
- Thế là xong, thế là xong, - anh thốt lên. Anh nhìn qua khung cửa sổ con của buồng vệ sinh, thấy nhà ga nhỏ dần và xa dần, đám tù nhân mới đã bị xích tay vào nhau sắp sửa lên đường về trại 201, và bọn lính gác vừa cười vừa xích họ lại. Không biết sẽ có bao nhiêu người sống sót khi về đến trại? Bao nhiêu người sẽ làm mồi cho chó sói? Bao lâu nữa thì họ biết là thấy thiếu anh?
Wladek ngồi trong buồng vệ sinh thêm mấy phút nữa, không dám động đậy và không biết bây giờ mình phải làm gì. Bỗng có tiếng đập cửa, Wladek nghĩ ngay, không biết đó là tên lính gác hay người soát vé? Bao nhiêu hình ảnh diễn ra trong óc anh, mỗi hình ảnh một ghê sợ hơn. Anh thấy cần phải sử dụng buồng vệ sinh một lần xem sao. Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
- Nhanh lên, nhanh lên, - một giọng Nga ồm ồm lên tiếng.
Wladek không chần chừ được nữa. Nếu là một tên lính thì anh sẽ không có lối thoát. Cửa sổ nhỏ thì đến một chú bé tí hon cũng không chui lọt qua được. Nhưng nếu không phải là một tên lính thì việc anh ở lâu trong này chỉ khiến người ta chú ý. Anh cởi bỏ bộ áo tù, cuộn nó lại thành một túm nhỏ rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Sau đó anh lấy ra một cái mũ mềm để sẵn trong túi bộ đồ đội lên đầu bị cạo trọc và mở cửa bước ra. Một người đàn ông sốt ruột đẩy cửa bước vào. Wladek chưa bước ra khỏi thì thấy ông ta tụt quần ngồi xuống.
Ra đến hành lang rồi, Wladek thấy mình bơ vơ ghê gớm, lại thêm nỗi khiếp sợ đối với bộ đồ lạc hậu mình đang mặc trên người, khác nào như một quả táo nằm giữa đống cam. Anh lập tức lại đi tìm ngay một chỗ nào khác có buồng vệ sinh. TÌm được một chỗ không có người, anh chui tọt ngay vào đó, khóa cửa lại, rồi tháo gỡ mấy tờ bạc 50 rúp giấu ở trong tay áo ra. Anh giấu trở lại ba tờ rồi quay ra hành lang. Anh tìm đến một toa nào đông người nhất rồi rúc vào ngồi trong một góc toa. Mấy người ngồi giữa toa đang đánh súc sắc ăn tiền. Wladek đã quen chơi trò này với Leon ở lâu đài và lần nào cũng được, nên anh rất muốn nhập vào đám người kia nhưng lại sợ đánh được thì họ chú ý đến mình ngay. Họ vẫn ngồi đánh rất lâu, và Wladek dần dần nhớ lại những thủ thuật của mình. Anh chợt thấy thèm đem 200 rúp của mình ra mà sử dụng lúc này.
Một tay chơi bị thua khá nhiều tiền bỗng rút ra và ngồi xuống bên cạnh Wladek, miệng chửi thề.
- Số ông không may rồi, - Wladek lên tiếng. Anh cũng muốn nói xem giọng mình thế nào.
- À, đúng là không may, - tay kia nói. – Ngày nào tớ cũng đánh với bọn nông dân ấy, nhưng tớ cạn mất tiền rồi.
- Ông có muốn bán áo cáo của ông không? – Wladek hỏi.
Tay chơi này là một trong số ít hành khách trên toa khoác chiếc áo lông cừu dày đẹp và ấm như vậy. Ông ta nhìn cậu thanh niên.
- Cậu không mua nổi đâu. – Wladek nghe giọng của ông ta thì biết là mình sẽ có thể mua được. - Tớ sẽ đòi bảy mươi lăm rúp.
- Tôi trả ông bốn chục, - Wladek nói.
- Sáu chục, - tay chơi kia nói.
- Năm chục, - Wladek nói.
- Không. Sáu chục là ít nhất thì tớ mới bán được. Chiếc áo này giá hơn một trăm rúp kia đấy, - tay chơi nói.
- Áo cũ rồi, - Wladek nói và nghĩ bụng sẽ lấy tiền trong tay áo ra cho đủ, nhưng rồi anh lại thôi vì sợ làm người ta chú ý đến mình. Anh đành chờ một dịp khác vậy. Wladek không muốn tỏ ra mình có thể mua được chiếc áo. Anh sờ tay vào cái cổ và nói với một giọng khinh khỉnh. – Ông bạn ơi, đắt quá đấy! Thôi, năm chục rúp, không thêm một xu nào nữa. – Wladek đứng dậy làm như sắp bỏ đi chỗ khác.
- Khoan, khoan, - tay chơi kia nói. - Tớ đã cho cậu năm chục rúp vậy.
Wladek móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi rúp và tay chơi kia cũng cở tấm áo đổi lấy tờ bạc đỏ đã cũ. Chiếc áo đối với Wladek quá rộng và dài gần chấm đất, nhưng chính anh đang cần như thế để che bộ đồ bên trong hơi lộ liễu. Anh nhìn tay chơi trở lại chỗ đánh bạc và thấy ông ta lại thua nữa. Từ ông thầy mới trước đây, anh đã học được hai điều, đó là: chớ bao giờ đánh bạc trừ phi anh có thủ thuật giỏi và chắc ăn, và khi đã mặc cả đến mức nhất định nào đó thì nên bỏ đi là vừa.
Wladek bỏ sang ngồi toa khác, trong bụng cảm thấy yên tâm hơn với chiếc áo mới mua được. Anh bắt đầu nhìn ngắm toa tàu để tìm hiểu. Hình như các toa chia làm hai hạng, hạng phổ thông trong đó hành khách chỉ có đứng hoặc ngồi trên những dãy ghế gỗ, và hạng đặc biệt trong đó anh rất lấy làm lạ chỉ thấy có một người đàn bà ngồi mà thôi. Bà ta cỡ trung niên và ăn mặc có vẻ sang trọng hơn mọi hành khách khác trên tàu. Bà ta mặc chiếc áo xanh thẫm và quàng một tấm khăn trên đầu. Wladek nhìn bà ta ngập ngừng. Bà ta mỉm cười, khiến anh yên tâm bước vào trong toa.
- Tôi ngồi được không?
- Xin mời, - người đàn bà nhìn anh nói.
Wladek không nói gì nữa. Anh để ý nhìn người đàn bà và những đồ đạc chung quanh. Bà ta có nước da nhợt và hơi nhăn nheo, to béo quá khổ, có lẽ vì ăn quá nhiều. Mớ tóc ngắn và đen, mắt nâu, có thể như đã từng một thời hấp dẫn. Bà có hai chiếc túi to bằng vải để ở giá trên đầu với một chiếc vali con để bên cạnh. Mặc dầu đang trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, nhưng Wladek thấy mình đã mệt quá không chịu nổi nữa. Anh đang nghĩ không biết mình có dám đi ngủ ở đây không, thì người đàn bà lên tiếng.
- Anh đi đâu?
Câu hỏi bất chợt làm Wladek giật mình.
- Moscow, - anh nói và nín thở.
- Tôi cũng đi Moscow, - bà ta nói.
Wladek bắt đầu cảm thấy toa xe này vắng vẻ quá và lấy làm chột dạ về điều mình vừa nói ra, dù chỉ là một câu. Anh nhớ là bác sĩ đã dặn: "Chớ nói chuyện với ai. Nhớ đừng có tin ai hết."
Nhưng Wladek cũng yên tâm thấy bà ta không hỏi gì thêm nữa. Anh vừa cảm thấy thế thì người soát vé đến. Wladek bắt đầu toát mồ hôi, mặc dầu lúc đó thời tiết là hai mươi độ âm. Người soát vé cầm lấy tấm vé của người đàn bà, xé một đoạn rồi trả lại cho bà ta và quay sang Wladek.
- Vé, anh bạn, - ông ta nói gọn lỏn, bằng một giọng trầm buồn.
Wladek không biết nói gì, chỉ sở vào túi áo để tìm ít tiền.
- Nó là con tôi, - người đàn bà nói ngay.
Người soát vé quay lại nhìn bà ta, rồi lại nhìn Wladek, cúi đầu chào bà ta rồi bỏ đi không nói câu gì.
Wladek ngước nhìn bà ta.
- Cảm ơn bà – anh khẽ nói, và không biết làm gì hơn nữa.
- Tôi đã trông thấy anh chui dưới gầm đoàn xe tù, - người đàn bà bình thản nói. Wladek cảm thấy rụng rời. – Nhưng tôi không tố giác anh đâu. Tôi cũng có một người anh họ ở trong cái trại khủng khiếp ấy, và tất cả chúng tôi cũng biết về những trại ấy đều sợ rằng sẽ có một ngày mình phải vào đấy. Anh mặc đồ gì dưới chiếc áo này?
Wladek định bụng chạy ra ngoài cởi chiếc áo lông, nhưng nếu chạy ra ngoài kia thì trên tàu không còn chỗ nào khác mà trốn được. Anh đành chỉ cởi khuy ngoài.
- Thế này cũng không có gì đáng ngại lắm đâu, - bà ta nói. - Vậy còn bộ áo tù anh để đâu?
- Tôi vứt ra ngoài cửa sổ.
- Mong rằng họ không tìm thấy nó trước khi anh đến Moscow.
- Anh có chỗ nào ở Moscow không?
Anh lại nghĩ đến lời dặn của bác sĩ là đừng có tin ai, nhưng anh nghĩ tin bà này thôi.
- Tôi không có chỗ nào cả.
- Vậy anh có thể ở với tôi đến khi nào anh tìm được một chỗ khác. Chồng tôi là trưởng ga ở Moscow, và toa này chỉ dành cho những quan chức chính phủ thôi, - bà ta giải thích. - Nếu anh lại nhầm một lần như thế nữa thì họ cho anh ngồi xe trở về Irkutsk ngay.
- Bây giờ tôi có nên đi không? – Wladek hồi hộp.
- Không, vì người soát vé đã trông thấy anh rồi. Lúc này anh ở đây với tôi thì được yên. Anh có giấy tờ gì không?
- Không. Giấy tờ như thế nào?
- Từ sau cách mạng, mỗi công dân Nga đều phải có giấy chứng minh để người ta biết mình là ai, ở đâu, làm gì, nếu không sẽ phải ngồi tù cho đến khi có được những giấy tờ ấy. Nếu không có được thì sẽ ngồi tù mãi, - bà ta thủng thẳng nói. - Vậy đến Moscow, anh phải đi sát bên tôi, và nhớ là đứng có mở miệng.
- Bà đối với tôi tốt quá, - Wladek nói với vẻ ngờ vực.
- Bây giờ Nga hoàng đã chết rồi, trong chúng ta đây chẳng có ai yên thân được đâu. Tôi may mắn mà lấy được một người có quyền thế, - bà ta nói tiếp. – Còn không có người dân nào ở nước Nga này, kể cả các quan chức chính phủ, mà lại không sống trong nỗi lo sợ là có thể bị bắt đưa vào trại giam. Tên anh là gì?
- Wladek.
- Tốt. Bây giờ anh ngủ đi Wladek, vì trông thấy anh mệt mỏi lắm. Đường thì còn rất xa, mà anh thì cũng chưa an toàn được đâu.
Wladek ngủ ngay. Lúc anh tỉnh dậy thì mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua nhưng trời bên ngoài đã tối. Anh nhìn người đàn bà đã che chở cho mình, bà ta mỉm cười nhìn lại.
Wladek thầm mong có thể tin được bà ta, đừng có nói với các quan chức rằng anh là ai. Hay bà ta đã nói rồi? Bà ta lấy ra ít thức ăn trong gói đưa cho Wladek. Anh yên lặng ăn. Tàu đến ga sau, hầu hết hành khách bước xuống. Một số xuống hẳn, một số chỉ để ruỗi chân ruỗi tay, nhưng phần lớn là tìm xem có gì uống được không.
Người đàn bà trung niên đứng dậy nhìn Wladek:
- Đi theo tôi.
Anh đứng dậy theo bà ta xuống sân ga. Bà ta đem anh nộp lại chăng? Nhưng không, bà ta giơ tay ra và anh cầm lấy tay bà như bất cứ đứa trẻ mười ba tuổi nào đi theo mẹ vậy. Bà ta đi đến một nhà vệ sinh dành cho nữ. Wladek ngập ngừng đứng lại. Bà cứ bảo anh vào. Vào đến bên trong rồi, bà bảo Wladek cởi bỏ quần áo ra. Anh ngoan ngoãn nghe theo. Từ sao khi Nam tước qua đời, anh chưa nghe theo ai như vậy. Trong khi anh cởi quần áo, bà mở vòi nước gần đó. Một làn nước vừa lạnh vừa đục chầm chậm chảy ra. Bà thấy kinh tởm, nhưng với Wladek thì nước này còn khá hơn nhiều so với nước ở trong trại giam. Người đàn bà bắt đầu lấy một mảnh khăn ướt lau những vết xây xát trên người anh. Bà nhăn mặt khi trông thấy vết thương xù xì ở chân. Wladek đau nhưng không xuýt xoa tí nào, và bà lau rất nhẹ.
- Về đến nhà, tôi sẽ chữa chạy cho anh tử tế, - bà nói. – Còn ở đây hãy tạm thế này đã.
Bà trông thấy chiếc vòng bạc ở tay anh. Bà đọc những chữ trên đó rồi nhìn kỹ Wladek, và hỏi:
- Cái này có phải của anh không? Anh lấy nói của ai thế?
Wladek hơi giận.
- Tôi không lấy của ai. Bố tôi cho tôi trước khi ông chết.
Bà ta lại chăm chăm nhìn anh, nhưng cái nhìn lần này khác. Không biết đó là sợ hay tôn kính. Bà ta cúi đầu nói:
- Anh phải cẩn thận đấy, Wladek. Người ta có thể giết anh vì cái của quý này đấy.
Anh gật đầu và bắt đầu mặc vội quần áo vào. Họ quay trở lại toa xe. Tàu chậm lại ở ga một giờ đồng hồ là chuyện thường. Đến khi đoàn tàu lại bắt đầu lăn bánh, Wladek cảm thấy mừng lại được nghe tiếng bánh xe lửa lạch cạch ở dưới. Tàu đi mất mười hai ngày rưỡi thì đến Moscow. Khi người soát vé mới xuất hiện, Wladek và người đàn bà lại diễn lại những động tác cũ. Wladek thì tỏ ra còn rất nhỏ dại và người đàn bà thì tỏ ra là một người mẹ. Người soát vé cúi chào người đàn bà trung niên ấy, và Wladek bắt đầu nghĩ rằng ở nước Nga thì những người trưởng ga hẳn phải là những người rất quan trọng.
Sau khi đã hoàn thành chuyến đi một ngàn dặm đến Moscow, Wladek coi như đã tin hẳn người đàn bà và mau chóng được trông thấy ngôi nhà của bà ta.
Tàu đến ga vào đầu buổi chiều. Mặc dầu đã trải qua một đoạn đường dài như thế. Wladek vẫn thấy khiếp sợ, không hiểu tình hình sẽ ra sao. Anh chưa được thấy một thành phố lớn nào bao giờ, nói gì đến thủ đô của toàn nước Nga. Anh cũng chưa được thấy nhiều người như thế bao giờ, và ai cũng đi lại vội vã. Người đàn bà hiểu được tâm trạng của anh lúc này.
- Đi theo tôi, đừng nói gì và đừng có bỏ mũ ra.
Wladek lấy hai cái túi của bà ở trên giá xuống, kéo chặt cái mũ lên đầu lúc này đã lởm chởm ít tóc đen, rồi bước theo bà xuống sân ga. Một đống người đang nối nhau ở trước thang chắn để chờ ra khỏi một cánh cửa rất nhỏ.
Họ ùn lại vì mỗi người phải xuất trình giấy tờ cho lính gác. Bước đến cái thang chắn ấy, Wladek thấy tim mình đập thình thình như trống trận. Nhưng đến lượt họ thì nỗi sợ lại tan biến đi rất nhanh. Người lính gác chỉ liếc nhìn vào giấy tờ của người đàn bà.
- Đồng chí, - anh ta nói và giơ tay chào. Rồi nhìn Wladek.
- Con tôi, - bà nói.
- À vâng, mời đồng chí. - Anh ta lại chào.
Thế là Wladek đã ở Moscow.
Mặc dầu đã đặt hết lòng tin vào người đồng hành mới này, linh tính đầu tiên của Wladek là muốn bỏ chạy. Nhưng với 150 rúp thì không thể sống được nên anh quyết định hãy chờ đã, để khi nào có dịp sẽ chạy. Một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn ở ngoài ga để đưa người đàn bà với đứa con mới của bà ta về nhà. Ông trưởng ga không có đấy, nên bà đã tranh thủ xếp ngay một cái giường cho Wladek nằm. Rồi bà đun nước đổ vào một chiếc thùng kẽm lớn và bảo anh ngồi vào đó. Đây là lần tắm đầu tiên của anh sau hơn bốn năm, trừ lần hụp xuống sông trước đây. Bà lại đun thêm nước nóng nữa và bảo anh tắm với xà phòng. Bà cọ lưng cho anh. Nước tắm dần dần đục ngầu. Wladek lau khô người rồi, bà bôi thuốc lên chân tay cho anh và băng bó vào những chỗ bị nặng. Bà nhìn vào bộ ngực chỉ có một bên vú và lấy làm lạ. Anh mặc vội quần áo và theo bà vào bếp. Bà đã chuẩn bị một bát súp nước với đậu. Wladek háo hức ăn như ăn tiệc. Hai người không ai nói gì. Anh ăn xong rồi, bà khuyên anh tốt nhất là lên giường ngủ một giấc.
- Tôi không muốn cho ông nhà tôi trông thấy anh trước khi tôi cho ông ấy biết tại sao anh ở đây, - bà ta giải thích. – Anh có muốn ở đây với chúng tôi không, Wladek, nếu chồng tôi đồng ý?
Wladek gật đầu cảm ơn.
- Vậy anh đi ngủ ngay đi, - bà nói.
Wladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to ở bếp. Anh không biết là mình đi ngủ được bao lâu. Bên ngoài đã tối, anh bò ra khỏi giường, bước đến mở hé và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.
- Bà thật ngốc, - Wladek nghe một giọng hơi gắt. – Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư? Có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy.
- Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy.
- Thế là bà muốn bản thân mình chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, - người đàn ông nói. – Có ai trông thấy nó không?
- Không, không có ai đâu, - người đàn bà nói.
- Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi.
- Nhưng đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, - người đàn bà nói. – Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.
- Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.
- Nhưng Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ...
- Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.
- Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?
- Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi ngay.
Wladek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là biến hẳn vào đêm tối. Anh mặc vội quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm trên một chiếc giường như thế. Anh đang tìm cách mở cửa sổ thì cửa ra vào bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào. Người ông nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả. Ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông cầm một chiếc đèn nến. Ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.
- Đi xuống dưới này, - ông ta ra lệnh.
Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.
- Bây giờ chú em nghe đây nhé, - ông ta nói.
- Tên nó là Wladek, - người đàn bà chen vào.
- Bây giờ chú bé nghe đây, - ông ta nhắc lại. – Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt. Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế nào để giúp anh nhé.
Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.
- Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?
- Odessa, - Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.
- Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hợp đấy, - ông trưởng ga cười khẩy. - Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.
- Thế thì để nó ở lại đây, Poitr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ...
- Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.
- Nhưng làm sao nó đi lọt được? - Người đàn bà van nài.
- Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở Odessa. – Ông ta quay sang Wladek. – Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh nghe nói đến anh ở Moscow, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào đó gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.
Ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp: đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.
- Có chuyến tàu đi Odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscow rồi. Anh có hành lý gì không?
Wladek vừa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:
- Có, để tôi đi lấy cho nó.
Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học. Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wladek. Bà vợ ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc cẩn thận. Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:
- Cảm ơn bà.
- Hãy ăn cái này đi đã, - bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.
Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.
- Súc vật, - người đàn ông nói.
Wladek ngước nhìn ông, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.
- Đi thôi chú bé, - ông trưởng ga nói. – Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.
Wladek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ ta ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscow và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến Odessa và đưa cho Wladek.
- Còn giấy thông hành của tôi đâu? – Wladek hỏi.
Ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lắm rồi. Đó là đôi mắt của những thằng hèn.
- Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, - ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.
Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscow có một lúc ngắn ngủi, và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng tốt của người đàn bà vợ ông trưởng ga. Đồng chí gì nhỉ... Anh cũng không biết đến cả tên bà ta nữa.
Wladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscow hơn nhiều so với Irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.
Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thì anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi đế Odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại chỗ đánh bạc và sẵn sàng theo đuổi cái mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bị đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.
- Mày nghe tao nói không hả thằng nhóc?
- Dạ, - Wladek hoảng sợ đáp.
- Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?
- Vâng ạ, - Wladek nói.
Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.
- Tao cảnh cáo cho mày biết thế.
Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp vừa kiếm được.
- Tiền của tao, - hắn nói.
Máu vẫn chảy ra ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi.
Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo, bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.
Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn bánh vào ga Odessa. Ở cửa chắn vẫn hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này chở đi, anh phải tự lo lấy hết. Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.
Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào. Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bên cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, không hợp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ dài bên đường cái. Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc long giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được.
- Mày là ai? – giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được.
- Wladek Koskiewicz.
- Mày ở đâu đến?
- Moscow. – Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.
- Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscow đến, - tên kia nói.
- Xin lỗi, - Wladek nói. – Tôi không biết.
- Mày có tiền không? – Hai ngón tay cái của tên kia ấn chặt xuống cổ họng anh.
- Ít thôi. – Wladek nói.
- Bao nhiêu?
- Bảy rúp. – Đưa đây.
Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mở vào túi áo khoác. Còn một tay hắn bỏ lỏng.
Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam mà anh vừa trải qua.
Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, không cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.
- Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy, - Wladek nói. – Mày mà động đậy nữa tao giết.
- Vâng, vâng, - tên kia cố bò đi.
Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.
Lúc anh tình dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ ở đầu toa đằng kia.
- Lại đây. – Wladek ra lệnh.
Tên kia từ từ thức dậy.
- Lại đây, - Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước.
Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek nhìn kỹ hắn. Hai người trạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.
- Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, - Wladek nói.
- Anh theo tôi, - tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.
Kể từ sau những bữa ăn tuyện vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đống trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
- Bây giờ chúng mình làm như thế này nhé, - tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. – Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to: Bắt lấy thằng ăn cắp! Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?
- Có lẽ thế, - Wladek nói.
- Để xem dân Moscow như anh có làm được chuyện đó không. - Hắn nhìn theo anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói "Bắt lấy thằng ăn cắp", nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm tay lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.
Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai. Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.
- Anh có vớ được gì không, anh Moscow, hay chỉ đứng đó xem thôi?
Wladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai. Tên kia cũng cười theo.
- Tên cậu là gì? – Wladek hỏi.
- Stefan.
- Stefan này, mình lại làm một lần nữa đi.
- Thôi di anh Moscow, anh đừng tưởng thế là khôn nhé. Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyện làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.
Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ. Stefan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stefan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được: sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stefan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được. Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được câu chuyện ấy.
- Ăn được, - Wladek cắn vào củ khoai và nói.
- Cậu ăn được cả vỏ ư? – Stefan ngạc nhiên nói.
- Mình đã ở những chỗ mà được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, - Wladek nói.
Stefan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.
- Vấn đề nữa là chúng ta làm thế nào để có tiền đây! – Wladek nói.
- Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? – Stefan nói. - Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscow ạ.
- Cậu chỉ cho tớ xem. – Wladek nói.
Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stefan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.
Stefan nói làm sực tỉnh.
- Cậu thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặntiền của cậu đấy.
Cả buổi chiều, Stefan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.
Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stefan thấy anh ngồi xem bản đồ.
- Cái gì thế? – Stefan hỏi.
- Đây là bản đồ vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga.
- Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? – Stefan nói. – Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ?
- Không, tớ phải đi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stefan?
- Tớ chả bao giờ có thể bỏ được Odessa được. Đây là nhà tớ. Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đây chẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ Nhĩ Kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.
- Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ Nhĩ Kỳ? – Wladek hỏi.
- Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu. Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.
- Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?
- Mỗi người một nửa. – Stefan nói. - Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscow ạ. – Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.
Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stefan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách.
- Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.
- Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây Joe. Chuyến tàu sắp tới đi Thổ Nhĩ Kỳ là bao giờ đấy?
- Bỏ tiền ra đã, - một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.
- Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, - Stefan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.
- Đừng nói lôi thôi mày. Một rúp đâu?
- Ông bạn tôi cầm tiền, - Stefan nói. – Wladek, cậu đưa đồng rúp cho ông ấy.
Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ sách rút ra một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.
- Thứ năm sau, tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ bảy. Nếu nó lấy được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.
- Cảm ơn ông Một Răng nhé, - Wladek nói. - Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.
Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stefan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.
Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiêp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ Nhĩ Kỳ đến cảng thì Stefan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại Odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh nên anh thấy cuộc sống mới với Stefan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.
Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.
- Mình làm thế nào để lên tàu được? – Wladek hỏi.
- Dễ thôi, - Stefan nói, - Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.
- Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, - Wladek nói.
- Tất nhiên, - Stefan đáp. - Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?
Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đổ than, nhưng than đổ xuống chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stefan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.
- Lần sau nhé, cậu Moscow, - hắn nói.
Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhảy xuống đống than. Stefan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.
- Tạm biệt anh bạn nhé, - Stefan nói. – Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ Nhĩ Kỳ nhé.
Wladek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố chịu đựng không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stefan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn, thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.
Một lát sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than ném vào con vật khủng khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau vừa mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra, vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở nắp trên cửa khoang. Ánh mắt rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở lại trại giam 201 của bọn Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắp cho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được.
Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu. Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống boong tàu.
Lúc Wladek tỉnh lại anh không biết mình ở đâu, và sau đó bao lâu thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe bao giờ. Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ? Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu. Ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử hỏi là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.
- Anh nói được tiếng Đức?
- Vâng.
- A, thế ra anh không phải người Nga?
- Vâng.
- Vậy anh làm gì ở Nga?
- Tôi trốn.
- À ra thế. – Ông ta quay lại nói với những người ngoài kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba người đi ra ngoài.
Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ xem sẽ làm gì.
Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ ở Odessa, chỉ trừ có những người ở dây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông như những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép. Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.
Lát sau anh nhìn thấy bên cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất. Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Quần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất. Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.
Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẩn vào đám đông trong chợ.
Wladek nhìn vào những thứ bày trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo. Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đòi cái di sản ấy nhưng nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh cho tay vào túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và mộ tít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó. Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận khuỷu tay.
Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc. Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu. Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông hiểu được là đưa tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ tay lên trời.
- Lạy Thánh Allah! – Ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Nếu có anh phải ăn cắp một quả cam thôi, nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stefan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang duổi theo anh.
Một người to lớn nhảy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi túm lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh. Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng. Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.
Sáng hôm sau có hai người lính gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đấy. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại. Tên tù đầu tiên được cởi trói và dẫn ra giữa chợ. Ở đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời.
Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đó. Một người đàn bà khóc lóc, - Wladek đoán đó là vợ anh ta, - và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết. Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ vủa hắn. Hắn được trả lương để chuyện chặt tay những người khác.
Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cái gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nên định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm nhưn kiểu châu Âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, người Đức, người Anh, hoặc có thể là người Ba Lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưng ông ta không để ý. Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung lên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa.
Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu Âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.
Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưng tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ từ trên khuỷu tay của anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngưng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với những chữ viết trên đó rồi chạy đến người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba Lan.
- Tôi không nói được tiếng của ông.
Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét lên một tiếng:
- Allah!
Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu "Lạy Chúa". Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ châu Âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người châu Âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng. Và anh thầm ông ta sẽ nói được một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người Âu châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những hoa quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người Âu châu quay sang nhìn Wladek.
- Anh nói được tiếng Anh không?
Wladek thở dài nhẹ người.
- Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba Lan.
- Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy.
- Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba Lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngay nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.
Người Anh kia từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.
- Đi theo tôi, - người Anh nói. – Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến.
Wladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vơ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm ban đầu chỉ chặt đi một ngón cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.
Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng đi theo.
- Chuyện gì thế, Edward?
- Chú bé này nói là người Ba Lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta. Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.
Wladek chỵa theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bảy Ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.
Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề Đại Sứ Quán Anh. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ. Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của người đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.
- Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.
- Thưa vâng, - ông cai nói và lại giơ tay chào.
- Cậu bé, đi theo tôi.
Ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một cằn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông bảo anh cởi quần áo rồi chờ đó. Lát sau ông vẫn xoay nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.
- Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh đâu nhé.
- Xin lỗi ngài ạ. – Wladek nói.
- Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi.
- Còn tôi là Wladek Koskiewicz. Ông gọi tôi là Wladek.
- Này đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa.
Wladek không hiểu ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.
- Theo tôi nhanh lên.
Wladek lại được tắm một lần tuyệt vời với xà phòng và nước nóng. Wladek nghĩ đến người đàn bà Nga đã che chở cho anh. Suýt nữa thì anh đã trở thành con trai bà ta, nếu như không có chồng bà ta. Và lại bộ quần áo mới nữa, lạ nhưng sạch sẽ thơm tho. Không biết nó là của con ai thế nhỉ. Nhưng kia, ông ấy đã đến rồi kìa.
Ông cai Smithers dẫn Wladek vào bếp và giao cho anh một bà làm bếp to béo có bộ mặt hồng hào, một bộ mặt dễ thương nhất kể từ khi anh rời đất Ba Lan đến giờ. Bà ta khiến anh nhớ đến mẹ nuôi nhưng không biết bây giờ bà đã ra sao?
- Chào chú, - bà ta tươi cười nói, - Tên chú là gì nào?
Wladek xưng tên.
- Này chú, tôi sẽ cho chú ăn một bữa đàng hoàng của người Anh, chứ những cái món Thổ Nhĩ Kỳ ở đây là không ăn được đâu. Bắt đầu bằng súp nóng với thịt bò. Trước khi đi gặp ông Prendergast, thì chú phải chén cho đã vào chứ. – Bà ta cười. – Chú nhớ là đừng có sợ ông ấy, nghe không. Mặc dù ông ấy là người Anh, nhưng ông ấy cũng tốt đấy.
- Thế bà không phải là người Anh ư? – Wladek ngạc nhiên hỏi.
- Trời ơi, không đâu chú ạ. Tôi là người Scotland, khác lắm chứ. Người Scotland chúng tôi ghét người Anh hơn cả bọn Đức ghét người Anh nữa kia, - bà ta vừa nói vừa cười.
Bà đặt xuống trước mặt Wladek một đĩa súp nóng có rất nhiều thịt và rau trong đó. Anh đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn có thể thơm ngon như vậy. Anh ăn từ từ, trong bụng chỉ sợ rằng có thể còn rất lâu nữa mới lại được ăn như thế này.
Ông cai xuất hiện.
- Cậu bé đã no chưa?
- Dạ no lắm rồi, cảm ơn ông lắm.
Ông cai nhìn Wladek với vẻ nghi hoặc, nhưng thấy Wladek không có vẻ đùa, bèn nói:
- Tốt. Bây giờ đi thôi. Phải lên trình diện với ông Prendergast cho sớm.
Ông Cai đi khuất sau cửa bếp nhưng Wladek còn nán lại nhìn bà bếp. Anh rất không thích chia tay với người nào mới gặp, nhất là người đó lại tốt với mình.
- Thôi, chú đi đi, chúc chú gặp nhiều may mắn nhé.
- Cảm ơn bà, - Wladek nói. Thức ăn của bà là ngon nhất. Tôi sẽ nhớ mãi.
Bà bếp nhìn anh mỉm cười. Anh lại phải nhảy cà nhắc để chạy theo ông cai có những bước đi rất dài. Ông ta dừng lại bất ngờ trước một khung cửa khiến Wladek suýt đâm sầm vào.
- Nào cậu bé cẩn thận đấy, phải nhìn chứ.
Ông ta đưa tay lên gõ cửa.
- Vào, - một giọng nói bên trong vẳng ra.
Ông cai mở cửa và chào.
- Cậu bé Ba Lan, thưa ngài. Đã tắm rửa ăn uống tử tế rồi.
- Cảm ơn ông Cai. Có lẽ nhờ ông nói giùm với ông Grant bảo ông ấy cùng đến đây cho.
Edward Prendergast ngồi phía sau bàn giấy nhìn lên. Ông ta ra hiệu cho Wladek ngồi xuống. Ông không nói gì và lại tiếp tục xem giấy tờ. Wladek ngồi nhìn ông ta rồi lại nhìn lên những bức chân dung trên tường. Lại thấy những ông tướng và đô đốc và cả ông có râu anh đã thấy lúc trước, nhưng trong tranh này ông ta mặc quần áo ka ki của quân đội. Vài phút sau một người Anh khác mà anh nhớ là đã thấy ở ngoài chợ bước vào phòng.
- Cảm ơn anh cùng đến, Harry. Mời anh ngồi. – Ông Prendergast quay sang Wladek. – Nào chú bé, giờ chú nói từ đầu đi xem nào. Chú phải nói đúng sự thật, không được nói quá, hiểu không?
- Thưa ông, vâng.
Wladek bắt đầu câu chuyện từ những ngày sống ở Ba Lan. Anh phải dừng lại một đôi chỗ để tìm cho đúng từ tiếng Anh. Cứ xem nét mặt hai người Anh này, Wladek cũng thấy là lúc đầu họ tỏ ra không tin. Thỉnh thoảng họ ngắt lời và hỏi anh vài câu hỏi, rồi nhìn nhau gật đầu sau khi anh trả lời. Sau một giờ nói chuyện, những điều Wladek kể mới đi đến chỗ lúc này anh đang ngồi trong cơ quan lãnh sự của Nữ hoàng Anh tại Thổ Nhĩ Kỳ.
- Harry ạ, - ông Prendergast, phó lãnh sự nói, - tôi nghĩ bổn phận chúng ta là báo ngay cho đoàn Ba Lan biết rồi trao chú Koskiewicz này lại cho họ. Tôi thấy trong trường hợp này thì dứt khoát đó là trách nhiệm của họ.
- Đồng ý, - người có tên là Harry nói. – Chú bé này, hôm nay chỉ suýt nữa là chú chết ở ngoài chợ. Cái luật Hồi giáo đã cũ này, người ta gọi là Sher, quy định hễ ai ăn cắp là phải chặt một tay, về lý thuyết mà nói, đã bị chính thức bãi bỏ từ lâu rồi. Thực ra, trong bộ luật hình Ottman thì xử như thế là phạm tội ác rồi. Tuy nhiên, trên thực tế thì bọn man rợ vẫn tiếp tục thực hiện điều đó. – Ông ta nhún vai.
- Tại sao họ không chặt tay tôi? – Wladek hỏi và ôm lấy cổ tay.
- Tôi bảo họ là muốn chặt tay tất cả những người Hồi giáo thì tùy, không được chặt tay người Anh, - Edward Prendergast nói.
- Ôi, tạ ơn Chúa, - Wladek nói.
- Tạ ơn Edward Prendergast chứ, - ông phó lãnh sự nói và bây giờ ông ta mới mỉm cười. – Đêm nay chú có thể nghỉ lại đây, rồi mai chúng tôi sẽ đưa sang đoàn đại diện bên đó. Người Ba Lan không có sứ quán ở Constantinople, - ông ta nói bằng một giọng hơi khinh thường, - nhưng ông bạn đồng sự của tôi bên đó là một người tốt, vì là người ngoại quốc.
Ông ta bấm chuông và ông cai xuất hiện ngay.
- Ngài gọi gì ạ.
- Ông Cai, ông đưa chú bé Koskiewicz này về phòng. Sáng mai cho chú ấy ăn sáng rồi chín giờ đúng đưa đến chỗ tôi.
- Vâng. Đi lối này cậu bé, mau lên.
Wladek đi theo ông cai. Anh không kịp cám ơn hai người Anh đã cứu cho bàn tay của anh, có lẽ cứu cả mạng sống của anh nữa. Trở về văn phòng nhỏ có chiếc giường sạch sẽ chẳng khác gì như anh là khách danh dự ở đây, anh cởi quần áo ra, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ một mạch cho đến tận sáng hôm sau khi mặt trời chiếu qua khung cửa sổ nhỏ tí.
- Dậy rửa mặt cậu bé, mau lên.
Đó là ông cai, mặc bộ quân phục trắng bong và là thẳng tắp như ông ta không nằm giường bao giờ. Trong khoảnh khắc bừng tỉnh dậy, Wladek tưởng như mình đang còn ở trong trại 201, vì tiếng đập bằng gậy của ông cai vào khung giường sắt giống như tiếng gõ cửa thanh sắt tam giác mà Wladek vẫn nghe quen trong trại. Anh trườn xuống giường và vơ lấy quần áo.
- Đi rửa mặt mũi đã cậu bé. Chúng ta không nên để ông Prendergast sáng sớm ra phải ngửi cái mùi của cậu, phải thế không nào?
Wladek không phải là mình phải rửa ráy như thế nào nữa, vì anh thấy đã sạch lắm rồi. Ông cai chăm chú nhìn anh.
- Chân cậu làm sao thế?
- Không sao, không sao, - Wladek nói và quay mặt đi chỗ khác.
- Thôi được, ba phút sau tôi trở lại. Ba phút đấy, nghe không? Phải sửa soạn cho xong đấy.
Wladek rửa tay rửa mặt thật nhanh rồi mặc quần áo. Anh phải ở đầu giường ôm chiếc áo lông cừu chờ ông cai đưa anh đi gặp ông phó lãnh sự. Ông Prendergast tỏ ra ôn hòa hơn hôm qua rất nhiều.
- Chào chú Koskiewicz.
- Dạ thưa chào ông.
- Chú ăn sáng ngon không?
- Dạ tôi không ăn sáng, thưa ông?
- Tại sao không? – ông phó lãnh sự nói, và quay nhìn ông cai.
- Ngủ quá giờ, thưa ngài. Nếu ăn sẽ đến muộn.
- Ồ, thế thì ta phải làm thế nào chú nhỉ. Ông cai, nhờ ông nói với bà Henderson cho đem một quả táo hay cái gì đó.
- Vâng, thưa ngài.
Wladek cùng ông phó lãnh sự chầm chạp bước theo hành lang đi ra phía cửa sứ quán, rồi đi tiếp qua sân rải sỏi ra một chiếc xe đỗ bên ngoài. Đó là chiếc xe Austin, một trong những chiếc xe hiếm có ở Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là lần đầu tiên Wladek được ngồi trên một chiếc xe riêng. Anh lấy làm tiếc phải rời sứ quán Anh. Đây là nơi an toàn đầu tiên mà từ bao nhiêu năm nay anh mới cảm thấy được. Anh không biết là suốt đời mình còn có dịp nào được ngủ một đêm nữa trên chiếc giường như ở đó nữa không. Ông cai chạy xuống ngồi vào tay lái. Ông đưa Wladek một quả táo với vài tấm bánh còn nóng.
- Cậu ăn đi và đừng để vãi ra xe nhé. Bà bếp gửi lời chào cậu đấy.
Chiếc xe từ từ chạy qua những phố đông đúc và nóng nực. Tốc độ như người đi bộ. Người Thổ Nhĩ Kỳ luôn luôn cho rằng chẳng có gì có thể đi nhanh hơn một con lạc đà, vì vậy họ cũng không tránh đường cho chiếc xe Austin đi lên làm gì. Xe mở tất cả các cửa kính mà Wladek vẫn thấy nóng đến ngạt thở, nhưng ông Prendergast thì vẫn cứ tỉnh như không, không hề tỏ ra khó chịu gì. Wladek chúi người vào sau xe, sợ có ai đã chứng kiến sự việc hôm trước và nhận ra trong xe có thể lại hô hoán lên chăng. Chiếc xe Austin nhỏ và sơn đen đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ có biển đề Lãnh Sự Quán Ba Lan. Wladek cảm thấy xúc động pha lẫn với thất vọng.
Cả ba người bước xuống xe.
- Hạt táo đâu, cậu bé,- ông cai hỏi.
- Tôi ăn rồi.
Ông cai cười rồi gõ cửa. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc đen, cằm vuông và có vẻ thân mật ra mở cửa. Ông ta mặc áo sơ mi ngắn tay, người sạm đen, rõ ràng là do cái nắng Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói tiếng Ba Lan. Đây là những tiếng mẹ đẻ đầu tiên Wladek được nghe thấy kể từ hôm rời trại giam đến nay.
Wladek nhanh chóng trả lời ngay và giải thích tại sao anh đến đây. Ông ta quay sang ông phó lãnh sự Anh.
- Xin mời ông đi lối này, ông Prendergast, - ông ta nói tiếng Anh rất thạo. – Ông đích thân đưa cậu bé đến đây, thật là quý hóa quá.
Họ trao đổi với nhau vài câu ngoại ngữ lịch sự rồi ông Prendergast và ông cai ra về. Wladek nhìn theo họ, cố nghĩ ra xem câu tiếng Anh nào đầy đủ hơn chữ "cảm ơn" không.
Ông Prendergast thân mật xoa lên đầu Wladek. Ông ra theo ông Cai rồi nháy mắt nói với Wladek.
- Chúc chú may mắn nhé. Chúa phù hộ cho chú được hưởng may mắn đấy.
Ông lãnh sự Ba Lan tự giới thiệu tên mình là Pawel Zeleski. Wladek lại một lần nữa kể lại câu chuyện của mình và anh thấy mô tả bằng tiếng Ba Lan dễ hơn tiếng Anh nhiều. Pawel Zeleski yên lặng nghe anh nói, và lắc đầu buồn bã.
- Tội nghiệp chú quá, - ông khẽ nói. – Chú còn trẻ thế mà đã phải chịu đựng quá nhiều cái đau khổ của đất nước ta. Bây giờ phải làm gì cho chú đây?
- Tôi phải trở về Ba Lan để đòi lại cái lâu đài của tôi, - Wladek nói
- Ba Lan ư? – Pawel Zeleski nói. – Đó là đâu? Mảnh đất chú đã sống ấy hiện nay còn đang tranh chấp, và chiến sự còn đang nổ ra giữa người Ba Lan với người Nga. Tướng Pilsudski còn đang làm mọi cách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc chúng ta. Nhưng nếu chúng ta lạc quan thì sẽ là điên rồ. Ở Ba Lan bây giờ chẳng còn mấy chút gì cho chú đâu. Không, điều tốt nhất cho chú bây giờ là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc ở Anh hoặc ở Mỹ.
- Nhưng tôi không muốn sang Anh hay Mỹ. Tôi là người Ba Lan.
- Chú vẫn cứ là người Ba Lan, Wladek ạ. Dù chú quyết định sống ở đâu thì cũng chẳng ai lấy đi được cái danh nghĩa đó của chú. Nhưng chú phải thực tế đối với cuộc sống của mình, mà cuộc sống ấy bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi.
Wladek cúi đầu thất vọng. Anh đã phải trải qua tất cả những điều trên đây để rồi bây giờ được nghe nói là sẽ chẳng bao giờ trở lại với quê cha đất tổ nữa hay sao? Anh cố nín khóc.
Pawel Zaleski quàng tay ôm lấy vai anh.
- Chú đừng bao giờ quên rằng chú là một trong những người may mắn đã có thể trốn thoát và sống sót được. Chú chỉ cần nhớ đến ông bạn bác sĩ Dubien để thấy rằng cuộc sống có thể như thế nào.
Wladek không nói gì.
- Bây giờ chú phải gạt bỏ tất cả những chuyện quá khứ lại phía sau, và chỉ nên nghĩ đến tương lai thôi. Có thể, trong đời chú, một ngày kia lại trông thấy đất nước Ba Lan đứng dậy, mà điều đó thì ai cũng mong muốn lắm.
Wladek vẫn im lặng, không nói gì.
- Nhưng thôi, chú không cần phải có ngay một quyết định gì, - ông lãnh sự thân mật nói. – Chú có thể ở lại đây muốn bao lâu cũng được, rồi sẽ tính đến tương lai của chú sau.
Danh sách chương