Mỗi ngày ở bên Thanh, tôi đều cảm thấy vui vẻ và chân thực, thế nhưng lần nào cũng thế, tôi luôn đi vào giấc ngủ giữa những sự mâu thuẫn và dằn vặt, tôi thầm nghĩ tôi và Thanh dường như không có tương lai. Tất cả mọi thứ bây giờ đúng như câu hát của Cận Tịch, “lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt”, cũng là một sự nóng bỏng và tuyệt vọng khi “bỏ hết kiếp sống này, đến cùng chàng khoái lạc[1]”. Đặc biệt là mỗi lần Phương Nhược tới thăm tôi, kể với tôi bất cứ chuyện gì có liên quan tới cuộc sống của tôi trong cung đình thuở trước, tôi đều giật mình phát hiện, toàn thân tôi đều đã in hằn dấu ấn của quá khứ rồi.

[1] Trích Bồ tát man, Ngưu Kiều – ND.

Tôi không biết mình nên làm thế nào để thoát khỏi thân phận của bản thân, cái thân phận đáng giận bây giờ khiến tôi cảm thấy vừa khó xử vừa nhục nhã.

Nhưng mỗi ngày tỉnh dậy, nhìn những tia nắng bình minh dìu dịu xuyên qua khe cửa sổ chiếu vào phòng, nghĩ tới việc ngày hôm nay mình có lẽ sẽ lại được gặp y, tâm trạng tôi liền lập tức ngập chìm trong nỗi mừng vui và ngọt ngào to lớn.

Đó là sự ngọt ngào như thế nào đây? Mỗi khoảnh khắc ở bên cạnh Thanh, lòng tôi đều nhẹ nhõm, vui tươi, cảm thấy tất cả mọi sự phiền não trên thế gian này sẽ chẳng bao giờ tới tìm mình cả.

Có lúc, tôi sẵn lòng biến thành một nữ tử vô tri, vô đạo đức, không biết liêm sỉ, không có quan niệm thị phi, thậm chí là… không có ký ức. Như thế, tôi sẽ không còn đau khổ nữa, không còn khó chịu nữa.

Nếu có thể, tôi sẵn lòng dùng tất cả mọi thứ mà mình đang có để đổi lấy những khoảng thời gian vui vẻ bên Thanh.

Tôi sẵn lòng.

Hôm ấy, tôi cùng y ra ngoài đi dạo, lòng nhẹ nhõm, thảnh thơi, cảm thấy được y dắt tay như thế này đã là một niềm hạnh phúc hết sức lớn lao rồi.

Đường núi gồ ghề khó đi, lại quanh co xuyên qua một khu rừng nhỏ. Những phiến đá lát trên mặt đường do lâu ngày không có ai đi lại nên đã mọc một lớp rêu xanh rất dày, chỉ sơ sẩy một chút thôi cũng có thể trượt ngã. Trên đỉnh đầu chúng tôi là vô số cành cây đan xen nhau một cách hỗn loạn, những cái bóng lờ mờ chiếu xuống nhìn như cánh tay đáng sợ của đám yêu ma quỷ quái, chỉ là trên những cánh tay ấy mọc đầy những chiếc lá non màu vàng tơ, khiến vẻ ma mị dịu đi và được thay bằng mấy phần tươi mới. Có chú chim không rõ tên gọi đậu trên cành cây cất tiếng hót líu lo, khiến buổi hoàng hôn trong khu rừng tịch mịch bất giác tràn ngập một luồng sức sống khó mà miêu tả bằng lời. Trên núi có mấy gốc phụng tiên vừa nở hoa, nửa kín nửa hở nép mình vào lùm cỏ dại, nhìn rực rỡ như ngọn đuốc.

Lúc này mặt trời đã ngả về tây, tà dương lay lắt, những ánh ráng chiều rực rỡ đủ màu phủ khắp nửa bầu trời, tựa bức tranh gấm rực rỡ và hoa lệ nhất giữa nhân gian… Trên đỉnh núi trước mặt y có một quầng ráng chiều rực rỡ tụ lại, chừng như chỉ cần thò tay ra là có thể với tới, còn sau lưng tôi là một khoảng không âm u vô tận, những đám mây màu mực như làn khói sương cuốn tới, chuẩn bị cuộn phăng mọi ánh sáng.

Ánh ráng chiều màu vàng cuối cùng bao trùm quanh người y, y ngoảnh lại nhìn tôi, vì khuôn mặt đang ngược sáng nên không thể nhìn rõ lắm. Y chậm rãi đưa tay về phía tôi. “Đường núi khó đi, để ta dắt tay nàng nào.”

Dưới ánh ráng chiều, thân thể y toát ra một vẻ trang nghiêm, thanh khiết như thiên thần, từng làn gió núi thổi vun vút qua chỗ chúng tôi, khiến đôi ống tay áo rộng của y lất phất bay.

Lúc này tôi cảm thấy tim mình cứ đập thình thịch không ngừng, trong lòng tràn ngập cảm giác ngọt ngào nhưng đồng thời cũng rất do dự, hai bàn tay chẳng đưa ra mà cứ nắm chặt nhau, nơi lòng bàn tay đã lấm tấm mồ hôi.

Nơi dòng sông dưới núi loáng thoáng vọng lại tiếng hát, dần trở nên rõ ràng, thì ra là A Nô, lời ca vẫn không có gì thay đổi so với trước đây: “Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…”

Tiếng ca ấy như đã khắc ghi vào trái tim tôi, lúc này nghe thấy liền không kìm được thầm xao động, nhất thời chẳng nói được gì.

Đôi mắt y trong veo như mặt nước hồ thu phẳng lặng, giọng nói dịu dàng, ấm áp như làn gió tháng Tư: “Nàng nghe kìa!”

Tôi thấp giọng đáp: “Muội nghe thấy rồi.”

Y đưa bàn tay tới gần hơn, chỉ thiếu chút nữa là đã chạm vào ống tay áo tôi rồi. Trầm ngâm một chút, y khẽ nói: “Lòng ta với nàng cũng hệt như vậy đấy.” Thấy tôi không nói gì, sắc mặt y thoáng trở nên buồn bã. “Ngày đó nàng viết cho ta bài Bích Ngọc ca, tạ ơn chàng hữu ý, thẹn không sắc khuynh thành. Mở hết cả cuốn Nhạc phủ, ta chưa từng sợ một câu thơ nào như vậy.”

Tôi ngẩng đầu nhìn y, chậm rãi thò bàn tay từ trong ống tay áo ni cô màu xám ra. Do ăn chay lâu ngày, hai tay tôi đều nhợt nhạt, làn da mỏng tang để lộ những mạch máu màu xanh yếu ớt, lấp lánh phản chiếu lại những tia ráng chiều dìu dịu.

Tôi nhìn thẳng vào mắt y, trái tim vốn loạn nhịp dần bình tĩnh trở lại, một nụ cười mỉm rạng rỡ xuất hiện trên khóe môi, giọng nói vang lên mềm mại như cỏ bồ: “Lần này thì để muội nói, điều muội muốn nói là: Đã thấy quân tử, cớ gì chẳng yêu[2].”

[2]Phong vũ, Kinh Thi. Nguyên văn Hán Việt: Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ – ND.

Một làn gió thổi tới khiến chiếc áo ni cô màu sắc ảm đạm của tôi khẽ tung bay, tự nơi đáy lòng bất giác trào dâng mấy tia mừng rỡ. Tình yêu của tôi với Huyền Thanh xưa nay luôn ẩn sâu trong huyết quản, và bây giờ, những lời vốn phải cố sức kìm nén ấy đã bật ra ngoài, khiến tôi có cảm giác mừng vui và nhẹ nhõm khó tả, cứ thế cười tủm tỉm, chăm chú nhìn y.

Trên mặt y lộ ra nét dịu dàng, ấm áp cùng thần sắc vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, giữa sắc trời dần trở nên u ám, trông y lúc này tựa như một ánh dương rạng rỡ nhất mùa hè, khiến người ta bất giác vui lây.

Nụ cười của tôi trào lên tự đáy lòng, dần lan tỏa khắp từng tấc da thịt.

Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, mừng rỡ đến nỗi chẳng nói nổi một lời, chỉ biết cười mà nhìn tôi không chớp.

Bàn tay y rất ấm áp, rất lớn, nắm trọn lấy bàn tay nhỏ nhắn của tôi.

Từng làn hơi thở quen thuộc của y như bao bọc lấy tôi, đột nhiên người tôi bị kéo về phía trước, mặt vùi vào vạt áo trước ngực y. Y ôm tôi rất chặt, lại cọ nhẹ cằm vào mái tóc của tôi, ghé sát miệng vào tai tôi, nói: “Chúng ta cùng đi thôi.”

Trái tim tôi như bị thứ gì va phải, thoáng nhói đau, sống mũi cay cay như muốn khóc.

Kỳ thực tôi cũng không biết chúng tôi có thể đi tới nơi nào. Tôi là phế phi bị trục xuất khỏi cung, để tóc tu hành, y là thân vương hoàng tộc địa vị cao quý, thân phận cách biệt có thể nói là một trời một vực. Đúng như lời Cận Tịch nói, chẳng qua là “lửa cháy ngang mày, hãy nhìn trước mắt” mà thôi.

Nhưng lúc này, nghe y nói năng trịnh trọng như thế, lòng tôi liền thấy thư thái và dễ chịu hơn nhiều, đối với tương lai mờ mịt kia cũng có thể sinh ra một tia tưởng tượng.

Những làn gió núi không ngừng thổi qua chỗ chúng tôi, khiến mấy gốc phụng tiên đung đưa nhẹ nhàng. Y dắt tay tôi bước dần lên đỉnh núi, cứ đi được một bước lại ngoảnh đầu nhìn tôi một lần.

Y đột nhiên dừng chân, tách từng ngón tay của tôi ra, đặt những ngón tay của mình vào giữa, cuối cùng mười ngón tay của chúng tôi đan xen nhau. Tôi cảm thấy hơi nghi hoặc nhưng chỉ im lặng nhìn y. Huyền Thanh khẽ mỉm cười, cất giọng vô cùng kiên định: “Tư thế dắt tay này có tên gọi Đồng tâm khấu, nghe đồn cặp nam nữ nào dắt tay nhau như thế này, cả đời sẽ không bao giờ ly biệt.”

Lòng tôi trào dâng muôn vàn cảm giác phức tạp nhưng nổi lên trên hết là một nỗi mừng vui và xao xuyến tột cùng, hết sức khó tả. Lúc này tôi thấy mình như đang ở trong giấc mộng, nhưng lại là một giấc mộng chân thực vô cùng, không có vẻ gì là xa xôi thăm thẳm, chỉ cần đưa tay ra là có thể với tới.

Rồi tim tôi bỗng máy động, tôi đột nhiên cất tiếng: “Thanh, muội cứ có cảm giác như đang nằm mơ vậy, huynh cắn hoặc véo muội một cái đi được không? Để muội biết rằng muội thực sự không phải đang nằm mơ.”

Huyền Thanh cúi đầu, khẽ hôn một cái lên mũi tôi, thấp giọng cười, nói: “Ta không nỡ.” Tôi chợt thấy mình ngốc nghếch, sao tôi lại có thể ngốc đến thế cơ chứ, ngay đến bản thân tôi bây giờ cũng không kìm được mà muốn tự cười mình. Hai bờ má tôi đỏ bừng, tựa như quầng mây màu rực rỡ đằng xa, đi kèm theo đó là sự thẹn thùng khôn xiết.

Y vẫn một mực mỉm cười hòa nhã. Nụ cười của y trông đẹp biết mấy, hệt như tiếng hát trong veo giữa mây xanh, vang đi khắp muôn dặm đất trời. Mặt tôi bỗng đỏ bừng, nói năng lại càng không biết lựa lời: “Thanh, nụ cười của huynh đẹp quá!”

Trước đây tôi cũng cảm thấy như vậy nhưng chưa từng dám thừa nhận. Ôi, bây giờ đứng trước mặt y tôi trở nên ngốc nghếch quá chừng, lời gì cũng nói ra được.

Huyền Thanh nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười, thở dài nói: “Nụ cười của ta, đều là vì nàng nên mới có!”

Nụ cười của y là vì tôi nên mới có, còn nụ cười thật lòng của tôi lúc này há cũng chẳng thế hay sao? Tôi thoáng cảm thấy thẹn thùng, cúi xuống nhìn đôi giày cỏ mộc mạc mà mình đang đi, thấy chúng chậm rãi bước đi trên lớp rêu xanh dày, mỗi bước chân đều tràn ngập nét mừng vui.

Tôi chợt nhớ đến đôi giày được Huyền Lăng ban cho khi còn đắc sủng năm xưa. Đôi giày đó có đế làm bằng ngọc thạch, bên trong lót hương liệu, mũi giày có đính một viên minh châu Hợp Phố vô cùng bắt mắt. Trên mặt giày làm bằng gấm Thục thêu hình uyên ương bằng chỉ vàng, gấm Thục xưa nay vốn vang danh thiên hạ, huống chi còn là loại gấm thêu tinh tế như thế, các nữ tử Thục Trung phải cần trăm người thêu suốt ba năm mới xong một xấp, mỗi tấc đều có giá không dưới một đấu vàng, các nữ tử trong cung xưa nay đến nhìn thấy còn chẳng dễ, đừng nói là xa xỉ đến mức dùng để làm giày.

Nhưng lúc này được cùng y dắt tay dạo bước, dù dưới chân là đôi giày cỏ giản đơn tôi cũng vẫn mừng rỡ và cảm động vô cùng, cảm giác khi nhận được đôi giày quý báu năm xưa căn bản không thể so sánh được.

Y cùng tôi ngắm cảnh chiều tà, lại khẽ vuốt ve mái tóc tôi, dịu dàng nói: “Đi cả ngày rồi, nàng có mệt không?”

Nơi đáy mắt tôi bất giác dâng trào một nét cười vui vẻ. “Không mệt.”

“Vậy…” Y chợt nói: “Nàng cùng ta đến An Tê quán thăm mẫu phi nhé?”

Tôi thoáng sững người, khuôn mặt không khỏi ửng hồng, thẹn thùng nói: “Vậy đâu có tiện chứ.”

Y nắm lấy bàn tay tôi, khẽ nở nụ cười. “Mẫu phi xưa nay vẫn luôn thích nàng mà.” Thấy tôi xấu hổ, y lại nói thêm: “Mẫu phi là người sảng khoái, ắt sẽ không ngăn cấm chúng ta. Huống chi, Hoàn Nhi, có được nàng rồi ta mừng rỡ vô cùng, chỉ muốn nói ngay với mẫu phi ta rằng con của bà đã có được người mà nó muốn có nhất trên đời này rồi!”

Tôi khẽ cười một tiếng, dù không biết chuyện sẽ diễn ra thế nào nhưng sao tôi đành lòng từ chối y đây, thế là bèn cúi đầu, thẹn thùng nói: “Được!”

An Tê quán vẫn hệt như xưa nhưng tâm trạng của tôi khi đi gặp Thư Quý thái phi thì đã hoàn toàn đổi khác, không ngờ lại có một tia căng thẳng khó mà miêu tả bằng lời. Gõ cửa mấy cái, người đi ra mở cửa chính là Tích Vân, nhìn thấy tôi và Huyền Thanh cùng tới thì không kìm được ngạc nhiên thốt lên: “Hôm nay sao lại trùng hợp như vậy? Không ngờ vương gia và nương tử lại cùng nhau tới đây.”

Huyền Thanh mỉm cười không đáp, khẽ hỏi: “Mẫu phi đâu?”

Tích Vân cười nói: “Thái phi vừa tụng kinh xong, giờ đang uống trà.”

Lúc này đang là mùa hè, các cửa sổ trong An Tê quán đều mở rộng, vì xung quanh trồng nhiều cây cối nên thực mát mẻ vô cùng. Trong chiếc bể lớn giữa sân có trồng một ít hoa sen, nhìn nhỏ nhắn, xinh xắn, vô cùng đáng yêu.

Thái phi đang ngồi xếp bằng trên chiếc sạp, ung dung uống trà, nhìn thấy chúng tôi đi vào liền vẫy tay cười, nói: “Đến đúng lúc lắm, Tích Vân vừa mới hầm canh bách hợp đấy.” Sau đó liền bảo Tích Vân múc hai bát đưa lên.

Huyền Thanh nói: “Nàng hành lễ với mẫu phi trước đi.”

Tôi quỳ xuống bái lạy. “Thái phi an hảo.”

Tôi đến An Tê quán đã nhiều lần, thường ngày gặp mặt chỉ chào hỏi theo lối bình thường mà thôi, bây giờ lại trịnh trọng hành lễ như vậy khiến Thư Quý thái phi bất giác ngẩn người, đưa mắt liếc nhìn tôi, cười tủm tỉm hỏi: “Hôm nay làm sao vậy?”

Huyền Thanh lúc này cũng quỳ xuống hành lễ. “Hài nhi bái kiến mẫu phi”, nói rồi liền đỡ tôi đ鮧 dậy, nắm lấy tay tôi.

Thái phi giật mình hiểu ra, không kìm được đưa tay vuốt trán, nở nụ cười tươi. “Hay! Hay! Rốt cuộc đã đến với nhau rồi!”, sau đó lại quay sang nói với Tích Vân: “Đừng mang canh bách hợp tới nữa, lấy một ít táo đỏ và ngân nhĩ đến đây!”

Tôi đỏ bừng hai má, thấp giọng nói: “Đa tạ Thái phi”, sau đó lại cúi gằm mặt xuống, khẽ mỉm cười nói tiếp: “Nghe khẩu khí của Thái phi vừa rồi, hình như đã sớm biết vãn bối và Thanh…” Tôi bất giác thẹn thùng, liền ngừng lời, trừng mắt nhìn Huyền Thanh.

Huyền Thanh vội vàng xua tay, nói: “Không phải là ta nói đâu.”

Thái phi cười bảo: “Thanh Nhi không nói gì với ta cả. Chỉ là ngày đó hai đứa gảy đàn thổi sáo ăn ý với nhau như thế, quả đúng là tâm ý tương thông, con thực sự nghĩ ta đã già, không thể nhìn ra điều gì hay sao? Cái chuyện tâm ý tương thông này xưa nay vốn chỉ có ở những người hữu tình.”

Tôi đỏ mặt tía tai, nói: “Thái phi quả có cặp mắt tinh đời.”

Thái phi cầm lấy tay tôi, kéo tôi lại gần, nói với giọng trìu mến: “Ngày đó ta kỳ thực cũng chỉ thoáng nghĩ tới chuyện này thôi, không ngờ con và ta còn có duyên phận như vậy.” Nói rồi bà lại mỉm cười nhìn qua phía Huyền Thanh. “Đồ ngốc, chuyện tốt thế này sao lại không nói sớm với ta, làm ta đến bây giờ mới biết, hai đứa giấu ta kĩ quá!”

Huyền Thanh có chút xấu hổ, âu yếm đưa mắt liếc tôi. “Chuyện này thực là khúc chiết lắm, chứ con đâu dám giấu giếm mẫu phi, chỉ vừa mới có kết quả thôi con đã lập tức dẫn Hoàn Nhi tới đây thỉnh an mẫu phi rồi.”

Thái phi mặt đầy nét mừng, nhìn tôi cười, nói: “Hoàn Nhi, bây giờ ta cũng gọi con như vậy nhé!”, sau đó lại thở dài một tiếng. “Hoàn Nhi, con là một đứa bé thông minh, ta thực sự yêu quý con từ tận đáy lòng. Chỉ là ta thoáng nghe nói, con là một đứa bé mệnh khổ. Thanh Nhi từ nhỏ đã phải rời xa ta, cũng là một đứa bé khổ mệnh. Bao năm nay nó một lòng đi tìm nữ tử mà mình vừa ý, mãi đến tuổi này rồi vẫn chưa chịu thành hôn, ta là người làm mẹ, trong lòng thực lo lắng lắm…”

Huyền Thanh nhìn tôi cười hì hì, nói: “Mẫu phi cứ yên tâm, ban đầu con kiếm cớ không chịu thành thân chẳng qua là vì không muốn để Thái hậu và hoàng huynh an bài hôn sự của mình, còn về sau thì hẳn nhiên là vì cô ấy rồi.”

Tôi cười phỉ phui, nói: “Hừm, trước mặt Thái phi mà huynh còn dám nói bừa như vậy.”

Thái phi đưa tay làm bộ đánh Huyền Thanh một cái, cười mắng: “Ta còn đang nói đấy, không ngờ con lại dám chen vào”, sau đó lại quay sang nói với tôi: “Vừa rồi Thanh Nhi nói chen vào một câu, kỳ thực cũng khiến ta được yên tâm hơn rồi. Đứa bé này vốn trọng tình trọng nghĩa, nó đã nói như vậy, có thể thấy không phải mới dụng tình với con chỉ một, hai năm. Hai đứa bọn con để được ở bên nhau như bây giờ, hẳn đã phải trải qua không ít gian nan trắc trở, mà con lại đang tu hành, sợ rằng cũng từng do dự rất lâu. Hơn nữa, con đường sau này của bọn con sợ rằng cũng chẳng được thuận buồm xuôi gió.”

Huyền Thanh đưa mắt nhìn tôi, nói: “Mẫu phi…”

Thái phi nghiêm túc cất lời: “Con nghe ta nói xong đã”, rồi lại nói tiếp với tôi: “Con đường trước đó các con coi như đã vượt qua được rồi, giờ có thể ở bên nhau, lòng ta thực vô cùng mừng rỡ. Nhưng con đường sau này chưa biết thế nào, các con đã quyết định đi cùng nhau, nhất định phải cố gắng đi tiếp. Có lẽ càng về sau con đường sẽ càng khó đi hơn, nhưng ta tin việc thành là bởi người, chỉ cần các con đồng lòng thì việc gì cũng có thể thành công. Những lời này của ta, các con hãy ghi nhớ kĩ!”

Lời của Thư Quý thái phi câu nào cũng hợp tình hợp lý, tôi nghe mà cảm kích vô cùng, cùng Huyền Thanh vái sâu một cái.

Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Thái phi, vừa rồi khi tới đây con đã sợ hãi vô cùng, sợ là người không thích con. Dù sao con cũng là người từ trong cung ra.”

Thái phi mỉm cười, đưa tay xoa đầu tôi. “Nói tới từ trong cung ra, ba người bọn ta, kể cả Tích Vân nữa, có ai mà không từ trong cung ra đâu. Ta biết con lo nghĩ điều gì, nhưng việc quá khứ dù sao cũng đã qua rồi, ai mà không có quá khứ riêng. Đại Chu khai quốc đã được trăm năm, ta chưa từng nghe nói có phế phi nào còn quay trở về. So với việc chết già ngoài cung, chẳng bằng hãy tìm cách để sống cuộc sống mà mình mong muốn. Đời người trăm năm là tận, những ngày tháng thực sự thỏa lòng liệu có được bao nhiêu chứ?”

Tôi nghe thế thì cảm động vô cùng, Huyền Thanh quàng tay qua vai tôi, hai chúng tôi nhìn nhau cười khẽ.

Vừa khéo lúc này Tích Vân mang táo đỏ và ngân nhĩ tới, cất tiếng làu bàu với Thái phi: “Hôm nay Thái phi thực nhiều trò quá, đang từ canh bách hợp lại đổi sang táo đỏ với ngân nhĩ.”

Thư Quý thái phi bật cười, đẩy bà ta một cái, nói: “Đồ ngốc, ăn táo đỏ với ngân nhĩ là có nguyên do đấy, thử nhìn hai đứa bé này xem.”

Tích Vân thấy tôi và Huyền Thanh nắm tay nhau đứng đó, bất giác vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Quả nhiên là nên ăn táo đỏ với ngân nhĩ, Thái phi thật có phúc đấy!”

Thái phi lộ vẻ tự đắc, cười hỏi: “Thế nào?”

Tích Vân cười đến nỗi không khép được miệng. “Vương gia chọn đi chọn lại, mãi vẫn không chọn được cho mình một vị Vương phi, tầm mắt tất nhiên cao vời. Mới lần đầu nương tử tới đây, nô tỳ đã nói với Thái phi rồi, nhìn nương tử và Vương gia nhà ta hệt như một đôi người ngọc, không ngờ quả nhiên là có ngày này.” Nói rồi, thị vội vàng hành lễ với tôi.

Tôi thẹn thùng vô hạn, vội đưa tay đỡ Tích Vân đứng lên. “Cô cô nói như thế, bảo vãn bối phải là sao mới tốt đây?”

Huyền Thanh cười, nói: “Nàng thấy thế nào? Ta đã nói rồi mà, mẫu phi và cô cô ắt sẽ đều tán thành chuyện của chúng ta.”

Thái phi cũng khẽ cười. “Hai đứa bọn con có được mối nhân duyên này cũng chẳng dễ gì, Thanh Nhi, con phải đối xử với Hoàn Nhi thật tốt.” Lúc này trăng sáng treo cao, những tia sáng dìu dịu chiếu vào qua cửa sổ, trong phòng ánh nến đung đưa, tấm dung nhan xinh đẹp của Thái phi như được phủ một tầng ánh sáng thánh khiết.

Huyền Thanh trịnh trọng nói: “Dạ. Cho dù mẫu phi không dặn dò, hài nhi cũng nhất định sẽ làm được.”

Thái phi thở dài cảm khái: “Hôm nay ta thực sự rất vui mừng, Trường tương tư và Trường tương thủ đã lại thành một đôi, quả đúng là ý trời.” Rồi lại hiền từ vuốt ve bàn tay tôi, nói: “Hoàn Nhi, hai người thật lòng thích nhau là một việc không dễ gì có được, có thể thẳng thắn và cam tâm tình nguyện thương yêu đối phương lại càng chẳng dễ dàng gì, hãy trân trọng hạnh phúc trước mắt.”

Tôi khom người hành lễ. “Lời của Thái phi, Hoàn Nhi sẽ ghi nhớ kĩ.”

Từ An Tê quán đi ra, Huyền Thanh mặt đầy nét mừng, nói: “Bây giờ nàng đã yên tâm chưa?”

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ?”

Huyền Thanh cúi đầu, hôn nhẹ ngón tay tôi, nghiêm túc nói: “Ta dẫn nàng đến gặp mẫu phi, nói với mẫu phi chuyện của chúng ta, ấy là mong nàng hiểu rằng tình cảm của ta với nàng không phải chỉ như nước sương mong manh ngắn ngủi mà hết sức chân thành. Ta thực sự hy vọng có thể ‘cầm tay nàng hẹn mấy lời, sống bên nhau mãi đến hồi già nua[3]’.”

[3] Trích Kích cổ 4, Kinh Thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão – ND.

Cầm tay nàng hẹn mấy lời, sống bên nhau mãi đến hồi già nua. Nhớ hồi xưa cũ, khi còn là một thiếu nữ sống trong khuê các ngày ngày mơ mộng, tôi đã từng bị câu thơ trong Kinh Thi này làm cho chấn động sâu sắc, rồi một cánh cửa mở ra trước mắt tôi, để tôi thấy được biển cả tình yêu bao la bát ngát, trong lòng sinh ra chấp niệm “mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau”.

Giờ đây, tôi cứ luôn nghĩ rằng mình và y không có tương lai, nhưng không ngờ y lại đưa tôi tới chỗ mẫu phi của y, nói với tôi những lời như vậy.

Sự cảm động trong lòng tôi giống như vô số bông hoa anh đào cùng nở rộ, tỏa hương bát ngát, ngợp khắp trái tim. Trong sự mừng rỡ đến mức không dám tin, tôi cơ hồ muốn rơi nước mắt.

Y nắm chặt bàn tay tôi đặt lên ngực y, cất giọng kiên định nói: “Nàng nhất định phải tin ta.”

Tôi gật đầu thật mạnh, lại nép vào lòng y. Có được lời hứa này rồi, dù con đường trước mắt mênh mang thế nào, tôi cũng phải kiên trì đi tiếp.

Sau hồi lâu tĩnh lặng, tôi khẽ nói: “Thái phi đúng là đẹp quá!”

Huyền Thanh ngạc nhiên hỏi: “Sao đang yên đang lành lại nói tới việc này?”

Tôi cười nói: “Trước đây muội đã cảm thấy như vậy rồi, chẳng qua là ngại không nói với huynh mà thôi.”

Huyền Thanh tươi cười vui vẻ, nói: “Vẻ đẹp của mẫu phi không phải là trời sinh đâu, hoặc có thể nói trước đây khi còn ở Bãi Di, mẫu phi chỉ khá xinh đẹp, chứ không có được khí chất như bây giờ.” Thấy tôi lộ vẻ nghi hoặc, y bèn giải thích: “Chỉ có một nử tữ toàn tâm toàn ý yêu thương tình lang, lại được tình lang hết dạ yêu thương thì mới có được khí chất như vậy, đây là thứ mà bất cứ loại son phấn nào cũng không thể tô vẽ nổi. Trong hậu cung Đại Chu, Thanh dám khẳng định mẫu phi là nữ tử duy nhất từng có một tình yêu hoàn chỉnh.”

Tôi hiểu ý, bèn nói: “Do đó, mỗi cái đưa mày liếc mắt hay từng lời nói, nụ cười của Thái phi mới tươi đẹp và ấm áp như vậy.”

Đó hoàn toàn là dấu ấn của một tình yêu tuyệt đẹp thuở nào.

Dưới ánh trăng dịu mát, Huyền Thanh dắt tay tôi chậm rãi bước đi. “Khi nàng còn ở trong cung, ta biết rõ nàng là sủng phi của hoàng huynh, nên ngoài việc đứng sau lưng lặng lẽ nhìn nàng, ta không thể làm gì khác. Ta đã từng vô cùng tuyệt vọng, nhưng cũng rất hy vọng rằng nàng sẽ có được vẻ đẹp do tình yêu mang lại giống như mẫu phi ta, ta hy vọng hoàng huynh có thể mang tới cho nàng vẻ đẹp đó. Nhưng ngoài sự ưu sầu và tâm kế ra, ta chưa từng thấy thần thái nào khác trên mặt nàng. Hoàn Nhi, ta với nàng từng gặp gỡ mấy lần trong cung, nhưng có lần nào nàng thật sự vui vẻ? Mỗi lần gặp nàng, ta đều thấy nàng đau thương buồn tủi, nàng có biết ta đã đau lòng thế nào không?” Huyền Thanh dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, tỏ ra hết sức trịnh trọng. “Bây giờ, có được cơ hội như vậy, ta nhất định sẽ toàn tâm toàn ý yêu thương nàng, không để nàng phải chịu bất cứ nỗi ấm ức nào nữa.”

Tôi khẽ nắm lấy bàn tay y, nhìn y bằng ánh mắt chứa chan tình cảm. “Muội cũng sẽ toàn tâm toàn ý yêu thương huynh như thế.”

Huyền Thanh nở nụ cười tươi, bên trong chưa đầy tình sâu ý nặng, khiến tôi cảm thấy ngay đến ánh trăng cũng trở nên ngọt ngào.

Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ, tôi đã không còn cảm thấy dằn vặt và mâu thuẫn nữa, có thể chìm vào giấc mộng trong sự bình yên. Khi tôi tỉnh dậy thì đã là buổi trưa ngày hôm sau, vầng dương trên cao tỏa những tia sáng màu vàng rực rỡ, len qua khe hở trên bức rèm trúc mà chiếu vào phòng, tựa như những dải vải lụa mềm mại kéo lê trên mặt đất, dải dày dải mỏng.

Tôi uể oải mở mắt ra, cảm thấy thân thể mình dường như vẫn còn ߠtrong giấc mộng. Vì ngủ lâu quá, trên người tôi đổ chút mồ hôi, bên cạnh dường như có ai đó đang quạt cho tôi, từng làn gió mát thổi tới.

Mở hẳn mắt ra, tôi nhìn thấy Cận Tịch, nàng ta cười tủm tỉm, nói: “Lần này nương tử tỉnh dậy, cứ như đã biến thành một con người mới ấy.”

Cứ như đã biến thành một con người mới? Trong quãng thời gian cô đơn mà thanh tịnh vừa qua, tôi đã từng ngày đêm tụng niệm kinh văn, như một con thú bị nhốt trong lồng, chỉ biết làm vậy để kìm nén nỗi đau đớn và khổ sở, tâm trạng tràn ngập những mảng mây mù, không có lấy một tia sáng nào. Thế nhưng nhờ có sự thấu hiểu và sẻ chia của y, khoảng không u ám trong trái tim tôi đã bị xé rách một khe hở nhỏ, qua đó vô vàn ánh nắng rực rỡ chiếu vào.

Trong bao ngày đêm vừa qua, ký ức của tôi là một mảng hỗn độn, trong đó đan xen sự tuyệt tình của Huyền Lăng, sự phản bội của Lăng Dung, sự giả dối của Hoàng hậu, và cả khuôn mặt non nớt đang say ngủ của Lung Nguyệt mà lần cuối cùng tôi được nhìn thấy… Trong những giấc mộng, câu nói “không thể cứu sống được nữa rồi” kia của Lăng Dung cứ đeo bám lấy tôi, kèm theo đó là một dòng máu tươi rợn người chảy khắp.

Tôi đã từng vô số lần giật mình thức giấc lúc nửa đêm, nhớ về phụ thân và huynh trưởng ở hai vùng Nam, Bắc xa xôi, rồi còn cả Ngọc Diêu yếu đuối, Ngọc Nhiêu ít tuổi, mẫu thân đã già cùng tẩu tẩu và Trí Ninh đã chết thảm trong ngục. Tôi căm hận vô cùng nhưng chỉ biết nắm chặt hai bàn tay, để đến cuối cùng những chiếc móng tay đã nuôi được rất dài lần lượt gãy lìa, những tiếng “cạch cạch” giòn tan đó giống như sự thù hận và chết chóc đeo bám lấy tôi, tựa như ma quỷ một bước không rời, găm sâu vào trái tim tôi, biết bao lần khiến tôi uất nghẹn, khiến tôi lòng như tro tàn, chẳng còn thiết tha gì với cuộc sống.

Nếu như không có Huyền Thanh, có lẽ tôi sẽ dần chìm nghỉm trong dòng ký ức đau khổ và thê lương đó, không có cách nào thoát ra được, để đến cuối cùng là chết trong sự cô đơn, không kèn không trống, chẳng ai đoái hoài.

Tôi chỉ có thể không ngừng tụng niệm kinh văn, tụng niệm những lời chân ngôn tuyệt cú của Phật Tổ, lại cẩn thận ghi chép từng câu, cố kìm nén nỗi bất bình và bất an của bản thân giữa làn khói đàn hương vương vất, giữa những tiếng tụng niệm của các ni cô xung quanh. Tôi giống như con thú bị vây giữa thiên binh vạn mã, dù tả xung hữu đột nhưng rồi cuối cùng vẫn không thể thoát được.

Tôi vốn cho rằng sau khi thoát khỏi chốn cung đình, gửi mình vào cửa Phật, ngày ngày nghe tiếng trống sớm chuông chiều, có lẽ nỗi oán hận và bi thương trong lòng tôi sẽ dần được xoa dịu. Thế nhưng rốt cuộc tôi vẫn chẳng thể tránh được những chuyện thị phi, trái tim vẫn bị vướng vào cõi đời trần tục, để rồi cuối cùng có một ngày sẽ đi vào tuyệt lộ giữa vô số tiếng tụng niệm kinh văn.

Nếu không có Thanh, nếu không có sự yêu thương và thấu hiểu của Thanh, có lẽ ngày đó đã ở cách tôi rất gần rồi. Sự yêu thương và thấu hiểu của y, tình cảm tha thiết của y chính là phương thuốc tốt nhất để làm lành vết thương, xoa dịu lòng thù hận trong tôi.

Tôi đã từng cố gắng kiếm tìm một thang thuốc tốt, mong có thể chữa bệnh cho trái tim mình. Giữa bóng hoa hạnh đầy trời, tôi cứ ngỡ mình đã tìm được, lòng đầy mừng vui, để cuối cùng phải đón nhận một mũi giáo lạnh băng đâm ngược lại.

Thời gian trôi qua lâu như vậy rồi tôi mới biết, thì ra Huyền Thanh cùng với tình yêu sắt son thắm thiết kia của y mới chính là phương thuốc tốt nhất dành cho tôi.

Đã để mất một thời gian dài như thế, đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội như thế, đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan, trắc trở như thế nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn tìm được y, và y cũng chờ được tôi. Hai chúng tôi cùng quên hết buồn vui, nắm tay nhau đi tìm hạnh phúc.

Rốt cuộc, cũng đã có ngày này.

Tôi cầm gương soi, thấy đôi mắt mình quả nhiên lấp lánh có thần, tựa như vầng trăng sáng, cả trái tim dường như đã sáng bừng trở lại.

Hoán Bích đứng tựa cửa nhìn tôi từ xa, bên khóe môi thấp thoáng nụ cười hờ hững. “Người gặp chuyện vui tinh thần sảng khoái, Vương gia và tiểu thư cuối cùng đã được như ý nguyện, ai ai cũng vui mừng.” Ngoảnh đầu nhìn ánh mặt trời rạng rỡ chiếu xuống, Hoán Bích hơi nheo mắt lại, chậm rãi nói tiếp: “Chỉ cần hai người được vui vẻ như ý, nô tỳ cũng không còn mong mỏi gì hơn.”

Kỳ thực, tỉ mỉ nhìn kĩ, dung mạo Hoán Bích rất giống tôi. Mà nếu chỉ nhìn thoáng qua, bóng lưng Huyền Thanh và Huyền Lăng cũng có mấy phần tương tự, dù sao bọn họ cũng là huynh đệ cùng cha.

Trong những ngày ở bên Huyền Thanh, tôi thỉnh thoảng cũng nghĩ tới Huyền Lăng.

Chỉ là đã tới nước này rồi, những chuyện xưa dù ngọt ngào hay đau khổ cũng không có gì khác biệt, dần bị tình cảm đậm sâu của Huyền Thanh làm cho phai nhạt. Đôi lúc, trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi lại tự hỏi bản thân, trong những tháng ngày xưa cũ, liệu tôi có mấy phần thật lòng với Huyền Lăng?

Kỳ thực tôi cũng hiểu, tạm không tính đến chút tình cảm thuở ban sơ, đa phần thời gian tôi cũng đều bày mưu tính kế với y.

Huống chi, một chút tình cảm ấy cũng đã dần đi vào ngõ cụt, đi vào đường cùng, về sau, giữa hai chúng tôi chỉ còn lại sự nghi ngờ và đề phòng, hơn nữa còn ngày một nặng nề.

Một tình cảm như thế, liệu có thể coi là thật lòng không?

Tình cảm của tôi đối với y, chẳng qua chỉ nhiều hơn người khác một chút mà thôi.

Và giờ đây, y đã hoàn toàn rời khỏi cuộc sống của tôi. Không tính tới Huyền Thanh, người thỉnh thoảng còn mang theo chút hơi thở của hoàng cung tới chỗ tôi chỉ có mình Phương Nhược.

Kỳ thực, từ sau khi tôi dọn đến thiền phòng ở đỉnh Lăng Vân, số lần Phương Nhược tới thăm tôi ít hẳn.

Tôi rời cung cũng đã được ba năm, tháng Sáu năm nay, Phương Nhược lại tới thăm tôi lần nữa, nhưng không mang đi chỗ kinh Phật mà tôi chép. Đó là lần cuối cùng bà ta tới thăm tôi, sắc mặt bà ta lộ vẻ ưu thương mà điềm tĩnh. “Thời gian trôi nhanh thật, mới thoáng đó mà đã gần ba năm rồi.” Dừng một chút, bà ta chậm rãi nói tiếp: “Những người không yên tâm về nương tử trong cung nay đã chẳng còn thời gian rảnh mà để ý tới nương tử nữa, kể từ giờ nương tử có thể nói là đã an toàn, do đó nô tỳ cũng không cần tới đây thăm nương tử nữa.”

Tôi hết sức ngạc nhiên, có chút lưu luyến nói: “Phương Nhược cô cô, sao cô cô lại nói vậy chứ? Dù bọn họ không còn rình mò nữa, cô cô cũng có thể tới đây thăm ta mà.”

Phương Nhược khẽ vuốt vai tôi vẻ hiền từ, trìu mến. “Trước đây, nô tỳ tới thăm nương tử là để nhắc nhở những người kia chớ có khinh động, còn bây giờ tâm tư bọn họ đã chẳng đặt ở chỗ nương tử nữa rồi, nô tỳ mà tới nữa sẽ chỉ khiến bọn họ chú ý tới nương tử, không những không có lợi mà còn có hại.”

Tôi nghi hoặc hỏi: “Cớ sao cô cô lại nói như vậy? Bọn họ thật sự đã không còn để ý tới ta nữa sao?”

“Quả thực là vậy.” Phương Nhược cất giọng cảm khái: “Thứ nhất là vì thời gian qua đã lâu, thứ hai là vì sau đợt tuyển tú ngày mùng Hai tháng này có năm người mới đã được chọn vào cung, tâm tư của bọn họ đều đặt vào đó cả rồi.”

Tôi nhìn mái tóc đã điểm bạc của Phương Nhược, nghĩ tới chuyện bà ta đã chiếu cố cho mình bao năm, trong lòng hết sức cảm động. Tôi gục đầu lên gối Phương Nhược, nói: “Cô cô chiếu cố ta bao năm, thực đã vất vả rồi. Từ nay về sau, cô cô không thể tới thăm ta nữa, ta có một thỉnh cầu quá đáng thế này, hy vọng về sau cô cô ở trong cung có thể giúp ta chiếu cố cho Lung Nguyệt và My Trang tỷ tỷ, như thế ta cũng được yên tâm.”

Phương Nhược rơm rớm mắt lệ, khẽ đáp: “Việc này không cần nương tử phải nói, nô tỳ cũng sẽ dốc sức làm. Xin nương tử cứ yên tâm.” Nói tới đây, trên mặt bà ta bất giác lộ nét âu lo. “Chỉ là vừa có người mới vào cung, chốn hậu cung chỉ e từ nay sẽ xuất hiện vô số phong ba.”

Tôi tò mò hỏi: “Chẳng lẽ những người mới đó có vấn đề gì không ổn sao?”

“Người mới vào cung, ít nhiều gì cũng sẽ gây ra một số chuyện.” Phương Nhược khẽ vỗ tay tôi, vẻ hết sức hòa nhã. “Nương tử bây giờ đã là người tự do rồi, xin hãy tự bảo trọng.”

Tôi đứng bên bậu cửa, nhìn theo bóng dáng dần khuất xa của Phương Nhược, thầm nghĩ tới những sự quan tâm mà bà ta dành cho mình kể từ lúc mới vào cung đến giờ, sống mũi bất giác cay cay. Từ giờ trở đi ngay cả bà ta cũng không tới nữa, sợi dây liên hệ giữa tôi và Tử Áo Thành lại mỏng manh thêm một phần.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện