[1] Trích Trường hận ca, Bạch Cư Dị. Nguyên văn Hán Việt: Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên – ND.
Một tháng trôi qua, Huyền Lăng tìm cơ hội tới chỗ tôi hai lần, sau hai dịp hoan hảo, tình cảm lại sâu đậm. Trong lúc nói cười trò chuyện về tình hình trong cung, Huyền Lăng vui vẻ kể: “Yến Nghi đã có thai được hơn hai tháng rồi. Từ sau khi Uẩn Dung sinh Hòa Mục Công chúa, trong cung gần như chẳng có thêm tin mừng nào cả.”
Tôi tỏ vẻ nghi hoặc: “Yến Nghi?”
Cái tên này tôi đã từng nghe nói, đó là Từ Tài nhân khá thương yêu Lung Nguyệt mà Phương Nhược từng kể, là Từ Uyển nghi từng ngâm bài Tứ trương cơ bên bờ hồ Thái Dịch mà Huyền Thanh đã có lần nói tới, ngoài ra nàng ta còn là một nữ tử si tình hết mực, vì Huyền Lăng mắc bệnh mà quỳ trước Thông Minh điện cầu khẩn đến nỗi hư thoát.
Có điều, nữ tử vừa si tình vừa khá có học thức này dường như không được Huyền Lăng sủng ái lắm thì phải.
Huyền Lăng thản nhiên nói: “Nàng ta vào cung trong năm mà nàng rời cung. Nói ra kể cũng lạ, trẫm vốn chẳng sủng hạnh nàng ta được mấy lần, vậy mà bây giờ nàng ta lại có thai, trong khi đó Uẩn Dung và Dung Nhi thì lại chẳng có chút động tĩnh nào.”
Tôi đưa tay che miệng khẽ cười. “Chuyện này kỳ thực còn phải trông vào mệnh trời, Từ muội muội đúng là có phúc quá!”
Huyền Lăng nửa như cảm khái nửa như buồn bực. “Việc sinh nở trong cung trước nay vốn chẳng dễ dàng, lần này Yến Nghi có thai, trẫm liền phong nàng ta làm tiệp dư tam phẩm, chỉ mong nàng ta có thể sinh một vị hoàng tử cho trẫm. Trong cung giờ đã có bốn vị công chúa rồi, hoàng tử thì mới có một, hơn nữa Ly Nhi lại không được thông minh cho lắm.”
Tôi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng đang độ tráng niên, trong cung lại có nhiều giai lệ như thế, sau này nhất định sẽ có rất nhiều tiểu hoàng tử thông minh, tuấn tú được sinh ra.”
Thế nhưng sau khi biết được chuyện này, lòng tôi lại nửa mừng nửa lo. Lo là lo Huyền Lăng bị vướng bận bởi cái thai của Từ Yến Nghi, không thể thường xuyên xuất cung tới thăm tôi nữa; mà càng lo hơn là Từ Yến Nghi đã có thai rồi, chỉ e tâm tư của Huyền Lăng sẽ đặt quá nửa lên người nàng ta, sau này dù tôi nói ra việc mình có thai, y cũng sẽ không để ý lắm. Còn mừng là vì bây giờ trong cung có người có thai, đám người Hoàng hậu ắt sẽ dồn mọi chú ý lên người Từ Yến Nghi, và như thế tôi sẽ có thể tiếp tục giấu trời qua biển thêm một thời gian nữa.
Cái thai đã sắp lộ ra, tôi và Cận Tịch cùng nhau bàn tính cẩn thận, cuối cùng cũng đã có kế hoạch cụ thể.
Thế rồi trong hôm Lý Trường đưa đồ đạc tới như thương lệ, tôi liền cố ý để y nhìn thấy cảnh mình nôn mửa.
Lý Trường thoáng ngây người, rất nhanh đã hiểu ra, không kìm được lộ rõ nét mừng, vội vàng quỳ xuống dập đầu, nói: “Chúc mừng nương nương.”
Hai bờ má bất giác ửng hồng, tôi mỉm cười, khẽ nói: “Ngoài Cận Tịch và Hoán Bích, công công là người đầu tiên biết tin này đấy.”
Lý Trường ngập ngừng hỏi: “Xin thứ cho nô tài lắm lời, chẳng hay nương nương có thai được bao lâu rồi?”
Cận Tịch bấm ngón tay tính toán: “Nếu không có gì nhầm lẫn, chắc là được khoảng hơn một tháng rồi.”
Lý Trường suy nghĩ một chút, kế đó liền mừng rỡ nói: “Vậy chẳng phải là lúc Hoàng thượng tới đỉnh Lăng Vân lần đầu sao, nô tài xin chúc mừng nương nương lần nữa.” Lý Trường mím môi cười khẽ, dường như đang hết sức vui vẻ. “Nương nương có thai thật đúng lúc lắm, nương nương có biết việc Từ Tiệp dư cũng đã có thai được gần ba tháng không?”
Tôi nở một nụ cười uể oải, chậm rãi uống một ngụm mật ong hoa quế trong chén. “Ta và Từ Tiệp dư đều đã mang thai, tại sao công công lại nói ta có thai đúng lúc thế?”
Lý Trường lộ vẻ buồn bã, sắc mặt không được tự nhiên lắm. “Nương nương không biết đó thôi, việc này đúng là xúi quẩy lắm! Từ Tiệp dư vì có thai nên được tấn phong làm Tiệp dư, nhưng chỉ vài ngày sau, Khâm Thiên giám đã quan sát thiên tượng, phát hiện sao Nguy Nguyệt Yến thuộc chòm Huyền Vũ ở phía bắc trong nhị thập bát tú mang theo một ngôi sao nhỏ phía sau có cái điềm xung nguyệt. Nương nương thử nghĩ xem, trong khuê danh của Từ Tiệp dư có một chữ yến, lại sống tại cung điện ở phía bắc, mà cái thai thì vừa khéo ứng với ngôi sao nhỏ kia, cho nên sao Nguy Nguyệt Yến tất nhiên là chỉ vào Từ Tiệp dư vốn đang mang thai rồi. Trong cung có hai người chủ nguyệt, thứ nhất là Thái hậu, thứ hai là Hoàng hậu. Bây giờ Thái hậu ốm nặng, Hoàng hậu thì mắc chứng đau đầu, mọi người không thể không nghĩ tới cái điềm báo kia của thiên tượng. Hoàng thượng xưa nay vốn nhân từ hiếu nghĩa, bất đắc dĩ đành cấm túc Từ Tiệp dư. Hai ngày nay Hoàng thượng đang hết sức phiền não vì chuyện này, nếu biết nương nương có thai, lý nào mà chẳng vui mừng cơ chứ.”
Tôi và Cận Tịch đưa mắt nhìn nhau, đều thầm kinh hãi, nghĩ bụng chuyện này đúng là quá trùng hợp, nhưng đã có điềm báo Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt như vậy, Huyền Lăng dù không lo cho Hoàng hậu thì cũng không thể không nghĩ tới Thái hậu.
Tôi dần bình tĩnh trở lại, chỉ hỏi: “Sức khỏe của Thái hậu bây giờ thế nào rồi?”
Lý Trường lo lắng nói: “Trong mùa đông vừa gặp cơn rét lạnh, bệnh cũ đã tái phát, thêm vào đó từ Điền Nam báo về tin Lục Vương gia bỏ mình, mà Lục Vương gia là do Thái hậu nuôi nấng trưởng thành nên người hết sức thương tâm, bệnh tình ngày càng nặng, đến bây giờ đang hôn mê.”
Lòng tôi đã có tính toán, liền hơi cúi đầu hỏi: “Hoàn toàn bất tỉnh nhân sự sao?”
“Thỉnh thoảng cũng có tỉnh lại đôi lần nhưng bây giờ không ai dám nói với Thái hậu tin này, chỉ sợ làm Thái hậu tức giận.”
Tôi gạt nhẹ mấy sợi tua nơi tay áo, chậm rãi nói: “Biết ta có thai, có lẽ Hoàng thượng sẽ vui mừng quá mức, công công nhớ phải nhắc nhở Hoàng thượng đôi lời. Hiện giờ Hoàng hậu mắc chứng đau đầu, Từ Tiệp dư thì vướng vào điềm báo Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, trong cung đã đủ rắc rối rồi, chuyện ta có thai thực không nên làm kinh động tới người khác nữa.” Tôi đưa mắt liếc y. “Chắc công công cũng hiểu điều này.”
Lý Trường thoáng trầm ngâm rồi nói: “Nô tài hiểu, việc này chỉ cần cho Hoàng thượng biết là được. Có điều bây giờ nương nương đã mang thai rồng, dù gì cũng phải mời thái y tới an thai.”
Cận Tịch sớm đã suy nghĩ chu toàn, liền chậm rãi nói: “Nương nương hiện giờ thân phận chưa rõ, có rất nhiều việc khá bất tiện, lại càng không thể phô trương. Trong Thái y viện chỉ có Ôn đại nhân là từng có mấy phần giao tình với nương nương, việc an thai cho nương nương cứ mời Ôn đại nhân tới đây là tốt nhất.”
Lý Trường có lý nào lại không đồng ý, lập tức nói ngay: “Trước đây khi nương nương sinh Lung Nguyệt Công chúa, Ôn đại nhân vốn phụ trách việc chăm sóc, Hoàng thượng vẫn luôn khen ngợi tài nghệ, lòng nhân từ cùng với sự trung thành của Ôn đại nhân, cho nên nhất định sẽ chấp thuận thôi.”
Tôi mỉm cười, nói: “Công công hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng đã lâu, tất nhiên biết nên nói thế nào cho hợp lý. Còn ta thì chỉ cần ở lại vùng núi non hoang dã này mà yên tâm chờ sinh nở là được rồi.”
Lý Trường cười tủm tỉm. “Nương nương nói đùa rồi, Hoàng thượng sao có thể để nương nương ở lại đây được chứ, ngài nhất định sẽ đón nương nương về cung dưỡng thai thôi.”
Khuôn mặt bất giác lộ vẻ lạnh lùng, tôi nhíu chặt đôi mày, nói: “Công công đang chế giễu ta đó sao? Bây giờ ngài gọi ta một tiếng Chiêu nghi chẳng qua là để mọi người khỏi phải khó xử, chứ ta đâu dám tự xưng mình là ‘bản cung’. Bây giờ thân phận của ta còn chưa rõ ràng, may mắn được Hoàng thượng sủng hạnh vài lần là hết mức, rồi ngài sẽ nhanh chóng quên ta thôi, ta đâu dám ôm hy vọng gì. Với một phế phi đã bị đuổi khỏi cung như ta, việc về cung dưỡng thai căn bản là mơ mộng hão huyền, ta chỉ mong có thể bình an nuôi nấng đứa bé này khôn lớn thành người thôi.”
Lý Trường đột nhiên quỳ xuống, dập đầu cung kính giãi bày: “Sao nương nương lại nói vậy chứ? Đứa bé trong bụng nương nương là con rồng cháu phượng, mang huyết mạch hoàng gia, sao có thể không ghi tên vào ngọc điệp trong phủ Nội vụ được? Nương nương nói mình thân phận chưa rõ nhưng Hoàng thượng đã chính miệng gọi người một tiếng ‘Chiêu nghi’ đó thôi. Hiện giờ Từ Tiệp dư vì thiên tượng mà bị cấm túc, Hoàng thượng lại luôn coi trọng bề con cái, nhất định sẽ không để nương nương phải chịu thiệt thòi đâu.”
Đôi hàng lông mày của tôi vẫn nhíu chặt, hai hàng nước mắt chậm rãi chảy ra, cất giọng bi thương nói: “Hoàng thượng có thể đối xử với ta như bây giờ đã là phúc phận lớn nhất của ta rồi, ta đâu dám mong gì hơn nữa. Chỉ cần Hoàng thượng có thể cho đứa bé trong bụng ta một danh phận, dù phải về cung với thân phận canh y, ta cũng cảm kích vô cùng.”
Lý Trường vội xua tay lia lịa, lại nháy mắt ra hiệu cho Cận Tịch đứng bên lấy khăn tay lau nước mắt cho tôi, “Nương nương giờ đang có thai, chớ nên thương tâm như thế. Cứ để nô tài nghĩ cách nói chuyện này với Hoàng thượng là được rồi.”
Cận Tịch y lời cầm khăn tay giúp tôi lau nước mắt, đoạn quay sang chậm rãi nói: “Chuyện này thứ nhất là phải mau chóng tiến hành ngay, thứ hai là chớ để lộ ra tin tức gì. Nương nương bây giờ chỉ có một mình ở bên ngoài, lỡ để người ta biết được là đang có thai, thật chẳng biết sẽ có bao nhiêu chuyện xảy ra nữa.”
Lý Trường khẽ gật đầu. “Ta tự biết nặng nhẹ.”
Cận Tịch gượng cười, nói: “Công công biết vậy thì tốt. Nơi này ban đêm không những gió to, hơn nữa còn thường xuyên có mèo rừng qua lại, lỡ nương nương đụng phải thì thực không hay chút nào.”
Lý Trường trầm ngâm một chút rồi mới nói: “Cô cứ hầu hạ nương nương cho cẩn thận, lần này về, ta sẽ xin Hoàng thượng phái Ôn đại nhân tới đây an thai cho nương nương.” Dứt lời, liền vội vã cáo từ hồi cung.
Buổi chiều hôm ấy, tôi vì người mỏi mệt, uể oải nên ngủ mãi tới tận giờ Mùi ba khắc mới dậy. Hoán Bích hầu hạ tôi rửa mặt chải đầu, sau đó liền giúp tôi bới tóc, vừa làm vừa cười, nói: “Mấy ngày nay hình như tiểu thư thích ngủ hơn rồi đấy, nô tỳ thấy bây giờ ban đêm tiểu thư cũng có thể ngủ ngon được rồi!”
Tôi nhoẻn miệng cười. “Nếu ta không ngủ ngon thì đứa bé trong bụng này làm sao có thể khỏe mạnh được. Dù sao việc cũng đã tới nước này rồi, chỉ có thể phó mặc tất thảy cho ông trời thôi.”
Hoán Bích cười tủm tỉm, chia mái tóc của tôi thành từng lọn, giúp tôi bới kiểu tóc linh xà, lại cài lên đầu tôi một cây trâm mã não đính trân châu kiểu dáng hết sức tinh xảo.
Tôi nói: “Hôm nay đâu có ai đến, việc gì phải bới kiểu tóc trang trọng thế này, cứ bới cho ta kiểu xoắn ốc đơn giản nhất là được rồi.”
Hoán Bích y lời giúp tôi gỡ búi tóc ra, vừa làm vừa khẽ nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ nghĩ Lý Trường quay về đã được hai ngày rồi, chắc Hoàng thượng đã biết tin tiểu thư có thai và muốn tới thăm tiểu thư. Tuy chưa biết là lúc nào, nhưng chúng ta cứ chuẩn bị trước thì vẫn hơn.”
Muội ấy giúp tôi bới lại kiểu tóc xoắn ốc, lại chọn lấy một chiếc kẹp tóc làm bằng vàng đính trân châu cài lên cho tôi. Tôi ngắm nghía một chút rồi mỉm cười, nói: “Đơn giản thế này là được rồi, những thứ quần áo Hoàng thượng sai Lý Trường đưa tới đa phần đều có màu nhạt, qua đó đủ thấy Hoàng thượng thích ta trang điểm thanh nhã một chút”
Hoán Bích chọn lấy một chiếc váy màu hồng thêu hình hoa lan may bằng vải lụa đưa tới cho tôi, nói: “Màu sắc này rất hợp với cảnh sắc bên ngoài, nếu Hoàng thượng tới đây, nhìn thấy hẳn sẽ thích lắm.”
Tôi hơi cau mày, nỗi âu sầu đầy bụng hóa thành một hồi lâu im lặng. “Y mới đi một thời gian ngắn, ta dù sao cũng cần để tang mới được. Những việc khác thì không có cách nào, nhưng thứ xiêm y có màu sắc thế này có thể không mặc thì tốt nhất là không mặc.”
Hoán Bích nghe vậy thì ngơ ngẩn, chiếc váy đang cầm chậm rãi trượt khỏi tay, rơi xuống. Trong khoảnh khắc muội ấy ngoảnh đầu lại, tôi thấy trên mái tóc muội ấy có cài một bông hoa vải trắng tinh. Lòng tôi thầm chua xót, khẽ cất tiếng nhắc nhở: “Thường ngày thì không sao, nhưng lúc Hoàng thượng tới đây chớ nên để y nhìn thấy, kẻo không lại xảy ra chuyện.”
Hoán Bích rơm rớm nước mắt gật đầu, tôi mới chỉ thoáng nhớ đến Huyền Thanh, lập tức cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi đặt một tay lên vai Hoán Bích, tay kia lấy từ trong hộp đựng đồ trang sức ra một bông hoa cài đầu làm bằng bạc cài lên đầu, sau đó liền đứng dậy chọn cho mình một bộ đồ lụa màu xanh nhạt nơi rìa vạt áo và mép tay áo được điểm xuyết bằng những dải hoa màu đỏ. Tôi thở dài nói: “Thế này coi như là đã tận tâm tận sức rồi.”
Đương lúc chúng tôi nói chuyện, Ôn Thực Sơ chợt vén rèm đi vào. Tôi thấy hắn có vẻ hầm hầm giận dữ khác hẳn thường ngày, lòng đã hiểu ra vài phần, liền dứt khoát làm bộ ung dung nói: “Hoán Bích, đi pha trà giúp ta nào, nhớ chọn loại trà Phổ Nhĩ mà Ôn đại nhân thích nhất.” Hoán Bích xoay người rời đi, tôi cười tủm tỉm, nói: “Sao lại chạy đến nỗi đầu đầy mồ hôi thế này? Huynh ngồi xuống nghỉ ngơi, uống tạm chén trà cho mát họng đã.”
Ôn Thực Sơ hơi biến sắc, nói: “Ta không có tâm tư đâu mà uống trà.” Thoáng dừng một chút, hắn lại tiếp: “Ca ca muội đã được đón về kinh chữa trị rồi. Tuy Hoàng thượng không hạ chỉ, nhưng ta nhìn thấy đồ đệ của Lý Trường là Tiểu Hạ Tử đích thân sai người đi đón y về. Lý Trường là ai chứ, sao lại đột nhiên cho đón ca ca muội về kinh?”
Tôi im lặng trong chốc lát rồi mới nói: “Huynh hẳn đã hiểu rõ rồi, sao còn phải tốn nước bọt hỏi muội những lời như vậy làm gì?” Tôi ngẩng lên, ánh dương rực rỡ chiếu vào từ bên ngoài khiên tôi phải hơi nheo mắt lại. “Lý Trường đã nói với huynh chưa? Muội có thai rồi, mời huynh đến đây là để an thai giúp muội. Có phải huynh còn muốn hỏi tại sao Lý Trường lại biết muội có thai không? Hơn nữa còn không phải là có thai ba tháng như huynh biết, mà mới chỉ hơn một tháng?”
Khuôn mặt y trở nên nhăn nhó, đầy vẻ đau khổ. “Hoàn muội muội, tại sao? Tại sao lại như vậy?”
Tôi cố giữ lòng mình bình tĩnh, trong mắt lóe lên một tia sáng rực. “Bởi vì muội đã gặp được Hoàng thượng. Đứa bé này là con của Hoàng thượng, cho nên Lý Trường mới mời huynh tới đây an thai cho muội.”
Ôn Thực Sơ trợn mắt há miệng, nhất thời đờ đẫn, lát sau mới chỉ tay vào bụng tôi, lắp bắp nói: “Đứa bé này… Đứa bé này rõ ràng là…”
Tôi đưa tay gạt một lọn tóc rối trước trán ra sau tai, nhẹ nhàng nói: “Là của ai cũng không quan trọng. Điều quan trọng là bây giờ Hoàng thượng đã tin chắc rằng đứa bé này là của y, tin chắc rằng muội mới chỉ có thai được hơn một tháng.”
Ôn Thực Sơ run giọng thốt lên: “Muội điên rồi! Đây là tội khi quân, lỡ như…”
Tôi cắt ngang lời hắn, lạnh lùng nói: “Không có lỡ như gì hết! Nếu có lỡ như, cái lỡ như này chỉ có thể là vì huynh không chịu giúp muội, huynh đi nói với Hoàng thượng rằng muội đã có thai hơn ba tháng, cái thai này căn bản không phải là của y. Như thế, tội khi quân này sẽ trở thành sự thật, và muội sẽ bị tru di tam tộc, còn huynh thì lập được công lớn với Hoàng thượng, trở thành một vị đại công thần.”
Ôn Thực Sơ nôn nóng giậm chân một cái, vội vàng nói: “Muội biết rõ ta sẽ không làm vậy mà…” Hắn không ngừng thở dốc từng cơn, cơ thịt trên má co giật liên hồi. “Hoàn muội muội, muội việc gì phải vậy chứ? Ta đã nói rồi mà, nếu muội sinh đứa bé này ra, ta sẽ chăm sóc cho hai mẹ con muội suốt đời suốt kiếp, muội hoàn toàn có thể yên tâm.”
Tôi đón lấy chén trà Phổ Nhĩ trong tay Hoán Bích, nhẹ nhàng đặt xuống trước mặt hắn, thở dài buồn bã. “Huynh có thể chăm sóc cho muội và đứa bé suốt đời suốt kiếp, nhưng huynh có thể giúp muội đón huynh trưởng từ Lĩnh Nam về kinh chữa trị không? Huynh có thể giúp muội bảo vệ cha mẹ muội, không để họ bị người khác hãm hại không? Huynh có thể giúp muội điều tra rõ ràng xem Huyền Thanh bị ai làm hại và trả thù cho y không?”
Một loạt câu hỏi của tôi khiến Ôn Thực Sơ im lặng suốt một hồi lâu. “Hoàn muội muội, nói đi nói lại thì vẫn là vì ta vô dụng, không thể giúp được muội điều gì.”
Tôi đưa tay gạt đi giọt lệ sắp rơi bên khóe mắt, xúc động thở dài. “Thực Sơ ca ca, không phải huynh không thể giúp muội, mà là cái số muội vốn đã như thế rồi. Muội khó khăn lắm mới có thể rời khỏi Tử Áo Thành, bây giờ lại không thể không quay về. Bởi vì trong thiên hạ này, ngoài Hoàng đế ra, không ai có thể giúp muội nhiều như thế.” Tôi ủ rũ ngồi xuống. “Thanh đã chết rồi, muội không thể trông chờ vào điều gì khác nữa. Nếu muội không quay về để bảo vệ những người mà muội muốn bảo vệ, còn có thể làm gì khác được đây?”
Ngoài cửa sổ, sắc trời đang đẹp biết bao, ánh dương chiếu xuống cây đào đang nở hoa rực rỡ, khắp sân tràn ngập cảnh xuân yêu kiều. Thế nhưng giữa một mùa xuân như thế, lòng tôi lúc này lại lạnh giá như mùa đông.
Tôi đau thương rơi lệ, ngoảnh đầu lại nói: “Nếu còn có cách nào khác, muội đã chẳng phải làm như thế này. Bây giờ huynh chịu giúp muội thì hãy giúp, nếu không thể giúp, muội cũng không miễn cưỡng huynh. Con đường mà muội và đứa bé này phải đi vốn đã khó khăn rồi, có lẽ cuối cùng muội sẽ chết, nhưng dù có chết muội cũng phải bảo vệ được nó.”
Ngoài cửa, cảnh xuân đẹp như tranh vẽ, những làn ánh dương tỏa xuống ấm áp vô cùng, thế nhưng giữa ánh dương ấm áp ấy, khuôn mặt Ôn Thực Sơ lại lạnh tựa băng sương. “Muội mà cứ đi tiếp thế này, cuối cùng sẽ chỉ bước lại lên con đường cũ ngày xưa thôi. Hoàn muội muội, ta đã phải trơ mắt nhìn muội đi từ trong Tử Áo Thành ra ngoài bây giờ lại phải trơ mắt nhìn muội từ nơi đây trở lại hậu cung. Trước đây ta từng cầu thân muội mà muội không chịu, chỉ có thể nhìn muội vào cung rồi tranh đấu đến nỗi thương tích đầy mình; lẽ nào bây giờ ta còn phải nhìn muội vào cung một lần nữa hay sao?”
Bao nhiêu chuyện cũ cả buồn cả vui cùng lóe hiện trong đầu tôi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt sâu thẳm của Ôn Thực Sơ, điều chỉnh hơi thở, cố dằn những giọt nước mắt chừng như lúc nào cũng có thể rơi xuống, khẽ nói: “Nếu không quay về, sau khi biết muội có thai, đám người trong cung liệu có tha c muội không? Muội ở đỉnh Lăng Vân nay chẳng biết nương tựa vào ai, chỉ có thể ngồi im chờ chết mà thôi. Cuộc sống trong cung đúng là phải tranh đấu không ngừng nghỉ, nhưng dù gì cũng tốt hơn là không đấu đá mà chờ người ta hại chết. Thực Sơ ca ca, có một số chuyện huynh không muốn làm, muội cũng chưa chắc đã muốn, nhưng đã tới nước này rồi, muội phải hành động theo lý trí chứ không thể theo cảm tính được.”
Hồi lâu sau, hắn thở dài buồn bã, khuôn mặt trở nên xám xịt. “Hoàn muội muội, trên thế gian này, chỉ có muội là khiến ta không biết phải làm thế nào cả, ngoài việc nghe theo muội ra, ta thực không có cách nào khác. Muội nói thế nào thì hãy làm thế đó đi, muội bảo vệ cho người khác còn ta thì liều mạng bảo vệ muội là được rồi.” Hắn ủ rũ gượng cười. “Muội đã nhận định chuyện gì thì chưa bao giờ chịu quay đầu lại, ta đúng là chỉ uổng công vô ích mà thôi!” Hắn ngồi xuống, bàn tay cầm chén trà không ngừng run lẩy bẩy. “Muội muốn ta làm thế nào thì hãy nói đi.”
Tôi khẽ nhấp một ngụm mật quế hoa, dùng vị ngọt để tạm xua đi nỗi đắng chát nơi đầu lưỡi, sau khi suy nghĩ một lát mới chậm rãi nói: “Đầu tiên huynh phải nói với Hoàng thượng, muội mới chỉ có thai được hơn một tháng; thứ hai, hãy giúp muội nghĩ cách khiến cái bụng của muội trông nhỏ hơn tháng thực một chút; thứ ba, để che giấu thân hình, huynh phải nói với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, không tiện thân mật quá mức với y; cuối cùng, đến hồi sinh nở huynh hãy nói với Hoàng thượng là muội sinh con tám tháng, giống như lúc sinh Lung Nguyệt vậy. Còn về những việc khác, thực sự chỉ có thể nghe theo mệnh trời mà thôi.”
Hắn lẳng lặng uống chén trà Phổ Nhĩ trong tay, sắc mặt thấp thoáng vẻ u buồn, ảm đạm. Sau một thoáng trầm tư suy nghĩ, cặp mắt sâu thẳm của hắn ánh lên những tia đau đớn và dịu dàng vô hạn. “Nếu sớm biết có ngày hôm nay… ta thà để muội mãi mãi không bao giờ biết tin về cái chết của Thanh Hà Vương.”
Một làn gió nhẹ bỗng thổi vào, mang theo hơi thở của những sinh mệnh đang bừng bừng sức sống. Nhưng với tôi mà nói, làn gió ấy như một lưỡi dao sắc bén cứa vào da thịt, tuy không hề làm tôi cảm thấy đau nhưng sự lạnh lẽo thì cứ thế xộc thẳng vào trái tim tôi. Tôi hơi nhếch khóe môi. “Vậy nhưng huynh đã chính miệng nói cho muội biết tin này.”
Hắn nở một nụ cười thê thảm. “Cho nên, ta tự làm tự chịu. Ngoài việc giúp muội ra, ta chẳng còn cách nào khác nữa.” Định thần lại một chút, hắn nói tiếp: “Những điều muội nói, ta sẽ cố hết sức thực hiện, cũng sẽ bẩm với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Còn về bụng muội… có lẽ có thể dùng vải lụa quấn lại hoặc là mặc áo rộng một chút, nhất định phải giấu giếm kĩ càng, bằng không qua một thời gian nữa, cái thai bốn tháng và cái thai hai tháng dù gì cũng không giống nhau.”
Tôi lo lắng hỏi: “Dùng vải quấn bụng liệu có gây hại gì cho thai nhi không?”
“Vương Mỹ nhân của Hán Linh Đế vì sợ uy thế của Hà Hoàng hậu nên tuy có thai nhưng không dám nói ra, mỗi ngày đều quấn bụng cho tới tận khi sinh nở. Hoàn muội muội không cần ngày nào cũng quấn, hơn nữa chỉ cần quấn chừng hai, ba tháng là được rồi, và cũng không phải quấn quá chặt, trong thời gian đó ta sẽ cho muội dùng thuốc cố thai. Ngoài ra nếu như quấn đúng cách còn có thể phòng việc xương thắt lưng nhô lên phía trước, chưa chắc đã chỉ có hại mà không có lợi.”
Tôi khom người, cảm kích nói: “Thực Sơ ca ca, mọi việc sau này đều trông cậy vào huynh cả đấy!” Dừng một chút, tôi lại tiếp: “Việc muội về cung chỉ có Hoàng thượng nói thôi thì chưa đủ, còn cần Thái hậu gật đầu mới được. My Trang tỷ tỷ ngày ngày hầu hạ bên cạnh Thái hậu, việc này huynh chỉ có thể nói với một mình tỷ ấy thôi, để tỷ ấy tìm cơ hội nhắc đến trước mặt Thái hậu là tốt nhất, có điều nhất định phải là sau khi Hoàng thượng đã mở lời.”
Ôn Thực Sơ khẽ gật đầu. “Ta biết.” Ánh mắt hắn chất chứa nỗi xót thương. “Muội nhớ phải chú ý chăm sóc bản thân đấy!”
Tiễn Ôn Thực Sơ đi rồi, Cận Tịch bước vào đỡ tôi tới ngồi xuống giường, xoa ngực nói: “Nô tỳ đứng bên ngoài nghe mà lo lắng quá, nếu Ôn đại nhân không chịu giúp đỡ, chúng ta không biết còn phải tốn bao nhiêu công sức nữa đây. Nói một câu thực lòng, nương nương còn ở bên ngoài ngày nào thì Ôn đại nhân còn có hy vọng ngày đó, một khi về cung rồi thì y thật sự chẳng thể trông mong gì nữa cả.”
Tôi tựa người lên chiếc gối mềm sau lưng, thấp giọng nói: “Y tuy đã hết hy vọng nhưng lại không phải là một người ích kỷ.”
Cận Tịch thổn thức nói: “Tình ý của Ôn đại nhân với nương nương thực sự đáng quý.” Dứt lời, nàng ta liền mở một chiếc rương, lấy từ bên trong ra hai dải vải lụa. “Trước khi đi, Ôn đại nhân đã dạy nô tỳ cách quấn bụng cho nương nương, cứ nên làm ngay từ bây giờ là tốt nhất, chẳng biết khi nào thì Hoàng thượng sẽ tới đây nữa.”
Tôi khẽ “ừm” một tiếng, để Cận Tịch quấn bụng giúp mình, lại uống thuốc an thai, sau đó mới nằm xuống, từ từ chìm vào giấc ngủ.
Hai ngày cứ thế trôi qua, buổi sáng hôm nay tôi uể oải thức giấc, nhưng vẫn nán lại trên giường không trở dậy. Bên ngoài trời đang mưa rả rích, những hạt mưa rất dày và nhỏ, bầu không khí trở nên ẩm ướt hơn nhiều. Giữa sân, gốc đào già vẫn đang nở hoa rực rỡ, một làn gió nhẹ thổi qua, rất nhiều cánh hoa đào rơi lả tả, bay khắp trời, khiến khung cảnh trở nên giống như mộng ảo.
Trong phòng có đốt đàn hương, hết sức thanh tịnh, tôi lặng im ngửi mùi hương ấy mà nhắm mắt bần thần.
Phía bên ngoài chợt có một giọng nói khe khẽ vang lên: “Hoàn Hoàn vẫn ngủ sao?”
“Sáng nay ngủ dậy, nương nương cảm thấy buồn nôn, sau khi uống thuốc xong thì lại ngủ tiếp. Để nô tỳ đi gọi nương nương dậy.”
“Không cần, trẫm cứ chờ ở đây là được.”
Lòng tôi thầm máy động, liền dứt khoát trở mình giả vờ ngủ. Áng chừng nửa canh giờ sau, tôi uể oải cất tiếng: “Cận Tịch, mang nước lại đây.” Nhưng sau khi mở mắt ra, người đầu tiên xuất hiện trước mắt tôi lại là Huyền Lăng với khuôn mặt tràn ngập nụ cười, tôi cố gắng trở dậy định hành lễ thỉnh an, y vội vàng đưa tay giữ tôi lại. “Đã là lúc nào rồi, còn để ý đến quy củ làm gì nữa.”
Tôi đưa tay dụi mắt. “Tứ lang tới khi nào vậy? Hoàn Hoàn chẳng hay biết gì”, sau đó liền oán than: “Sao Cận Tịch lại không gọi dậy như thế chứ?”
Lý Trường cười híp mắt, nói: “Hoàng thượng đến được nửa canh giờ rồi, vì thấy nương nương ngủ ngon nên không nỡ gọi nương nương dậy.”
Huyền Lăng cũng mỉm cười. “Đừng trách Cận Tịch, trẫm nghe nói nàng mang thai vất vả nên mới để nàng ngủ thêm một lát.” Y không để tâm đến việc có người khác ở bên, ôm tôi vào lòng, mừng rỡ nói: “Lý Trường nói với trẫm là nàng đã có thai, trẫm thật mừng rỡ vô cùng.”
Tôi làm bộ hờn trách: “Hoàng thượng cũng thật là, mừng thì cứ việc mừng thôi, hôm nào tới mà chẳng được, hôm nay trời đang mưa, đường núi lại không dễ đi, việc gì phải vội vã tới đây như thế chứ!”
Lý Trường đứng bên cười, nói: “Vốn dĩ Hoàng thượng nghe nô tài nói xong liền muốn tới đây ngay, nhưng vừa khéo gặp lúc trong cung có nhiều việc, thành ra không thể kiếm cớ ra ngoài được. Hôm qua nghe Ôn đại nhân báo cáo lại về tình hình của nương nương, Hoàng thượng quả thực mừng rỡ vô cùng, thế là hôm nay vừa sáng sớm đã tới đây ngay.”
Tôi ôn tồn nói: “Hoàng thượng rời cung như thế, chỉ e sẽ khiến Thái hậu và Hoàng hậu lo lắng vô cùng.”
Huyền Lăng nắm chặt lấy bàn tay tôi, nhìn tôi đắm đuối, trong mắt tràn ngập những tia mừng rỡ khó mà miêu tả bằng lời. “Trẫm lo lắng cho nàng mà. Nghe Ôn Thực Sơ nói cái thai của nàng không ổn định, lại không cho phép thế này không cho phép thế kia, trẫm thực lo lắng vô cùng. May mà sau một hồi dặn dò, Ôn Thực Sơ có nói chỉ cần làm theo lời y thì sẽ không có vấn đề gì lớn, tới lúc ấy trẫm mới yên tâm hơn một chút.”
Lý Trường cười, nói: “Chính vì hiện giờ Thái hậu và Hoàng hậu đều đang không khỏe nên Hoàng thượng mới có thể kiếm cớ lên chùa dâng hương lễ Phật, bằng không muốn xuất cung đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Tôi hơi cau mày lại, “Thái hậu và Hoàng hậu không khỏe, vậy mà Hoàn Hoàn còn khiến Tứ lang phải bận lòng, quả đúng là…”
Y khẽ đặt ngón tay trỏ lên môi tôi, cất giọng chứa chan tình cảm: “Nàng có thai là chuyện mừng lớn bằng trời, trẫm vui còn chẳng kịp ấy chứ. Rốt cuộc vẫn là nàng có phúc, trẫm mới lần đầu tiên tới thăm mà nàng đã có thai rồi.” Sau đó y lại thở dài. “Dung Nhi phúc bạc, Quản thị cũng thế, được trẫm sủng ái như vậy mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào.”
Lý Trường tươi cười rạng rỡ. “Đây là cái phúc của nương nương, cũng là cái phúc của Hoàng thượng và triều đình Đại Chu chúng ta.”
Vừa khéo lúc này Cận Tịch bước vào, trong tay là một bát canh da gà nấu măng chua nóng hổi. Nàng ta cười, nói: “Hôm qua nương nương nói muốn ăn đồ chua, giờ đã có canh da gà nấu măng chua đây rồi, nương nương mau tranh thủ ăn đi cho nóng.”
Tôi đưa mắt liếc qua, cau mày, nói: “Sao nhìn toàn là mỡ thế kia, ta thật không sao nuốt nổi.”
Cận Tịch rầu rĩ nói: “Nương nương ăn uống thất thường đã mấy ngày nay rồi, cứ tiếp tục thế này thì làm sao được chứ.”
Huyền Lăng ngẩn ra, quay sang hỏi Cận Tịch: “Chiêu nghi đã mấy ngày nay ăn uống không ngon miệng rồi ư?”
Cạn Tịch nói: “Dạ chính thế, nương nương đang có thai nên vốn đã ngủ không ngon, mấy ngày nay lại ăn uống không ngon miệng nữa. Hai ngày trước, nương nương từng muốn ăn đường sương ngọc phong nhi[2], nô tỳ và Hoán Bích không kiếm đâu ra được, thực là áy náy vô cùng.”
[2] Đây là tên một món ăn được ghi lại trong sách Võ lâm cựu sự của Chu Mật, chỉ xuất hiện ở thời Nam Tống, và đến nay thì các chuyên gia vẫn chưa thể xác định nó được làm bằng cái gì và chế biến như thế nào, người dịch tạm để nguyên tên – ND.
Lý Trường lộ vẻ lúng túng: “Đó là thứ đồ điểm tâm sở trường của Chu sư phụ trong ngự thiện phòng, bên ngoài làm sao có được. Thực khổ cho nương nương quá, đang có thai mà muốn ăn chút đồ ăn cũng không được.”
Tôi áy náy nói: “Đều tại Hoàn Hoàn kén ăn quá, thực ra bất kể là ăn cái gì cũng đều như nhau cả thôi.”
Huyền Lăng ngoảnh đầu lại dặn dò Lý Trường: “Đem cháo tổ yến đã mang tới đây đi hâm nóng lại một chút đi, rưới thêm chút sữa bò nữa, trước đây Chiêu nghi thích ăn món này nhất đấy!” Lý Trường vâng lời rời đi, tôi và Huyền Lăng trò chuyện được chừng một tuần trà thì canh tổ yến đã được Cận Tịch bưng lên, Huyền Lăng đón lấy rồi khẽ mỉm cười. “Để trẫm bón cho nàng.”
Tôi thẹn thùng nói: “Tứ lang sao lại đi làm chuyện như vậy chứ?”
Huyền Lăng khẽ cười một tiếng, trên mặt tràn ngập vẻ dịu dàng khó tả, tựa làn gió xuân mát mẻ từ ngoài cửa sổ thổi vào. “Vì nàng, vì đứa con của chúng ta, không có chuyện gì là không thể.” Y kê vào sau lưng tôi một chiếc gối mềm, múc một thìa cháo tổ yến lên thổi mấy hơi cho bớt nóng, cất giọng dịu dàng: “Dù thấy không ngon miệng đến mấy cũng phải cố ăn một chút, nàng không nghĩ cho bản thân thì cũng nên nghĩ cho con của chúng ta.”
Tôi ngoan ngoãn ăn thìa cháo mà y bón cho rồi nghiêng đầu, khẽ mỉm cười. “Hoàn Hoàn biết.”
Thấy tôi đã ăn được quá nửa, Huyền Lăng mới khẽ thở dài một tiếng. “Vốn Yến Nghi có thai cũng là việc mừng nên trẫm mới phong cho nàng ta làm tiệp dư, ai ngờ Khâm Thiên giám lại nói có điềm chẳng lành là Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, rồi Thái hậu bệnh nặng, Hoàng hậu cũng đau ốm, khiến khắp hậu cung chẳng được yên ổn, trẫm hết cách chỉ đành cấm túc nàng ta.” Dừng một chút, y dịu giọng nói tiếp: “Hoàn Hoàn, nếu không có cái thai này của nàng, trong cung xảy ra nhiều chuyện như thế, trẫm thật chẳng còn biết vui vẻ là gì nữa.”
Tôi cầm lấy bàn tay y áp lên má mình, mỉm cười điềm đạm nói: “Có thể khiến Tứ lang vui như vậy, tự bản thân Hoàn Hoàn cũng thấy vui. Thiên tượng chẳng qua chỉ là điềm báo nhất thời, đợi vận xui qua đi rồi, Từ Tiệp dư sinh cho Hoàng thượng một vị tiểu hoàng tử là mọi việc đều tốt đẹp cả thôi!”
Huyền Lăng đưa tay kéo tôi vào lòng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Hoàn Hoàn, Trường tương tư vẫn ở chỗ nàng, hãy đàn cho trẫm nghe một khúc nhạc đi.” Y dường như hết sức thương cảm. “Nàng rời cung đã bốn năm, không còn ai có thể gảy được những khúc nhạc đầy ý vị như thế nữa rồi.”
Tôi lấy Trường tương tư ra, chỉnh lại dây đàn một cách thuần thục mà máy móc, mỗi lần ngón tay chạm vào dây đàn, trái tim lại nhói đau, người khi xưa từng đàn sáo hợp tấu với tôi nay đã không còn trên đời nữa rồi.
Suy nghĩ ấy vừa mới nổi lên, nước mắt tôi đã không kìm được tuôn rơi lã chã, bắn đầy lên bảy sợi dây đàn.
Huyền Lăng vội vàng lau nước mắt giúp tôi. “Đang yên đang lành sao lại khóc thế, có ai khiến nàng phải chịu ấm ức sao?”
Tôi khẽ lắc đầu, rơm rớm nước mắt, nói: “Hoàn Hoàn đã lâu không gảy Trường tương tư, bây giờ có thể gảy lại trước mặt Tứ lang, thật có cảm giác như đã qua kiếp khác.”
Huyền Lăng cũng thổn thức không thôi. “Trẫm bây giờ có nàng ở bên, cũng cảm thấy như đã qua kiếp khác vậy. Hoàn Hoàn, trước đây nàng thích gảy bài Sơn chi cao, chi bằng hôm nay hãy gảy lại lần nữa đi.”
Tôi vâng lời đưa tay lướt nhẹ dây đàn.
Núi cao cao, trăng nho nhỏ. Trăng nho nhỏ, sáng vằng vặc! Ta có người thương trên đường xa. Một ngày không gặp chừ, lòng ta nao nao.
Tôi chậm rãi gảy liền hai lượt. Bài Sơn chi cao này tôi xưa nay chỉ gảy nửa đầu, bởi cái ý tâm tư của nửa đầu miên man thấm vào tận sâu trong xương tủy, còn nửa sau thì tràn ngập nỗi thương tâm và một điềm báo chẳng lành. Thế nhưng trong một thoáng ngẩn ngơ, điệu nhạc phát ra từ Trường tương tư không ngờ đã đổi khác, biến thành nửa sau của bài Sơn chi cao.
Tay hái cỏ đắng, ở nơi núi nam. Xiết bao lo lắng, biết chịu ra sao? Lòng chàng như vàng đá, lòng thiếp như băng tuyết. Ta ước hẹn trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt. Mây sớm mưa chiều bao nhớ nhung, ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng.
Ta hẹn ước trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt!
Nỗi đớn đau trong lòng không ngớt trào dâng, tôi cơ hồ muốn nằm gục xuống bàn mà khóc lóc một hồi. Nửa sau của bài Sơn chi cao mà tôi xưa nay vẫn không dám gảy, giờ không ngờ lại trở thành vận mệnh thê lương của tôi và Huyền Thanh. Thậm chí chúng tôi ngay đến “ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng” thôi cũng không thể.
Thế nhưng dù khó chịu đến mấy, tôi vẫn phải cố gắng nở một nụ cười hết mực dịu dàng.
Sau một thoáng trầm ngâm, Huyền Lăng chợt nói: “Nàng theo trẫm về cung đi.”
Tôi thoáng ngẩn ra, trái tim bất giác từ từ buông lỏng…
Y rốt cuộc đã chịu nói ra lời này rồi. Tôi rơm rớm nước mắt nhìn y, xót xa nói: “Sao Hoàn Hoàn còn có thể về cung nữa đây? Việc năm xưa đã xảy ra, chẳng cách nào có thể quay đầu được nữa rồi.”
Huyền Lăng kéo tôi lại, ôm tôi vào lòng, cất lời cảm thán: “Tiếng đàn của Hoàn Hoàn vẫn hệt như xưa, chẳng hề thay đổi, tại sao lại không thể quay đầu cơ chứ?”
Thì ra y vẫn không hiểu gì hết, tiếng đàn vốn chẳng có trái tim, cho nên mới không dễ gì thay đổi. Nhưng con người thì khác, con người có trái tim, biết cách phân biệt thứ tình cảm nào là thực, thứ tình nào là giả; thứ tình cảm nào hời hợt, thứ tình cảm nào sâu sắc. Mà quay đầu, tức là phải nhẫn nhịn chịu đựng những sự cay đắng và nhục nhã trước đây, thực khó khăn vô cùng, khó đến mức khiến tôi ngay cả nghĩ cũng không dám nghĩ.
Vậy nhưng tôi lại không thể không nghĩ.
Tôi buồn bã thở dài một tiếng, cúi đầu than: “Hoàn Hoàn là phế phi, mang tấm thân chẳng lành, cho dù có mang thai thì cũng không dám vọng tưởng có thể về cung.”
“Phế phi?” Y khẽ lẩm bẩm hai chữ này, trong mắt ánh lên một tia kiên quyết. “Đã là phế phi, vậy ta sẽ sắc phong lại, lần này không ai có thể ngăn cản được ta.”
Tôi do dự nói: “Thái hậu…”
“Nàng đã mang thai rồi, chắc Thái hậu sẽ không ngăn cản gì đâu. Vì chuyện của Từ Tiệp dư mà ai ai cũng phiền lòng, chúng ta hãy dùng việc này để xoa dịu trái tim Thái hậu cũng tốt, nàng cứ theo trẫm về cung là được.”
Tôi quỳ xuống, những giọt nước mắt khẽ đậu trên bờ mi. “Hoàng thượng tình sâu ý nặng như thế, Hoàn Hoàn cảm kích vô cùng. Nhưng thần thiếp cứ thế này mạo muội về cung, tuy Thái hậu ngoài miệng không nói gì nhưng trong lòng hẳn sẽ không thoải mái, vì Hoàng thượng còn chưa thương lượng gì với người mà đã tự ý quyết định việc này, chi bằng Hoàng thượng hãy bẩm rõ với Thái hậu trước đã.” Tôi lộ vẻ buồn bã và ấm ức, nói tiếp: “Hơn nữa, nếu thần thiếp về cung, các phi tần trong cung nhất định sẽ xôn xao bàn tán, Hoàn Hoàn thà một mình ở lại đỉnh Lăng Vân này để được thanh tịnh.”
Y dịu dàng đỡ tôi đứng dậy. “Trẫm biết nàng lo nghĩ điều gì, những người khác bàn tán thế nào thì cứ mặc kệ họ. Bây giờ Tam phi còn thiếu một người, trẫm sẽ chiêu cáo thiên hạ phong nàng làm phi, đứng ngang hàng với Đoan Phi và Kính Phi. Đường Lê cung của nàng giờ Huệ Quý tần đang ở, trẫm sẽ xây cho nàng một tòa cung điện mới, sau khi bẩm rõ với Thái hậu thì đón nàng về cung với quy cách bằng một nửa nghi trượng của Hoàng hậu, để xem ai còn dám lén bàn tán gì sau lưng nàng. Nàng cứ yên tâm dưỡng thai rồi sinh cho trẫm một vị hoàng tử là được.” Y chăm chú nhìn tôi một lát, bàn tay dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, cưng nựng nói: “Hoàn Hoàn, trẫm đã để nàng xa trẫm bốn năm, bốn năm là đủ lắm rồi, trẫm sẽ không để nàng xa trẫm nữa đâu.” Y khẽ hôn lên bàn tay tôi, nói tiếp: “Bốn năm nay, không lúc nào trẫm không nhớ tới nàng.”
Không lúc nào không nhớ tới tôi? Tôi thầm cười lạnh một tiếng, chính như Phương Nhược nói, Huyền Lăng dù biết rõ là mình đã sai cũng sẽ không chịu thừa nhận, bởi sự uy nghiêm của bậc đế vương mới là thứ y để tâm nhất, còn những người khác dù có phải hy sinh cũng chẳng có gì là quan trọng.
Tôi mừng đến rơi nước mắt, nhưng đằng sau sự mừng rỡ ấy là vô số nỗi bi ai và căm hận dâng trào. Tôi tựa vào ngực y, biến nỗi oán hận trong lòng thành sự dịu dàng vô hạn, nói: “Tứ lang có được tấm lòng như thế, Hoàn Hoàn thực đã thỏa mãn lắm rồi.”
Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi rả rích, khuôn mặt y toát ra một vẻ trịnh trọng tột cùng. “Sau khi an bài xong tất thảy, trẫm sẽ hạ chỉ ngay, nàng chỉ cần chờ thêm mấy ngày nữa là được.”
Một tháng trôi qua, Huyền Lăng tìm cơ hội tới chỗ tôi hai lần, sau hai dịp hoan hảo, tình cảm lại sâu đậm. Trong lúc nói cười trò chuyện về tình hình trong cung, Huyền Lăng vui vẻ kể: “Yến Nghi đã có thai được hơn hai tháng rồi. Từ sau khi Uẩn Dung sinh Hòa Mục Công chúa, trong cung gần như chẳng có thêm tin mừng nào cả.”
Tôi tỏ vẻ nghi hoặc: “Yến Nghi?”
Cái tên này tôi đã từng nghe nói, đó là Từ Tài nhân khá thương yêu Lung Nguyệt mà Phương Nhược từng kể, là Từ Uyển nghi từng ngâm bài Tứ trương cơ bên bờ hồ Thái Dịch mà Huyền Thanh đã có lần nói tới, ngoài ra nàng ta còn là một nữ tử si tình hết mực, vì Huyền Lăng mắc bệnh mà quỳ trước Thông Minh điện cầu khẩn đến nỗi hư thoát.
Có điều, nữ tử vừa si tình vừa khá có học thức này dường như không được Huyền Lăng sủng ái lắm thì phải.
Huyền Lăng thản nhiên nói: “Nàng ta vào cung trong năm mà nàng rời cung. Nói ra kể cũng lạ, trẫm vốn chẳng sủng hạnh nàng ta được mấy lần, vậy mà bây giờ nàng ta lại có thai, trong khi đó Uẩn Dung và Dung Nhi thì lại chẳng có chút động tĩnh nào.”
Tôi đưa tay che miệng khẽ cười. “Chuyện này kỳ thực còn phải trông vào mệnh trời, Từ muội muội đúng là có phúc quá!”
Huyền Lăng nửa như cảm khái nửa như buồn bực. “Việc sinh nở trong cung trước nay vốn chẳng dễ dàng, lần này Yến Nghi có thai, trẫm liền phong nàng ta làm tiệp dư tam phẩm, chỉ mong nàng ta có thể sinh một vị hoàng tử cho trẫm. Trong cung giờ đã có bốn vị công chúa rồi, hoàng tử thì mới có một, hơn nữa Ly Nhi lại không được thông minh cho lắm.”
Tôi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng đang độ tráng niên, trong cung lại có nhiều giai lệ như thế, sau này nhất định sẽ có rất nhiều tiểu hoàng tử thông minh, tuấn tú được sinh ra.”
Thế nhưng sau khi biết được chuyện này, lòng tôi lại nửa mừng nửa lo. Lo là lo Huyền Lăng bị vướng bận bởi cái thai của Từ Yến Nghi, không thể thường xuyên xuất cung tới thăm tôi nữa; mà càng lo hơn là Từ Yến Nghi đã có thai rồi, chỉ e tâm tư của Huyền Lăng sẽ đặt quá nửa lên người nàng ta, sau này dù tôi nói ra việc mình có thai, y cũng sẽ không để ý lắm. Còn mừng là vì bây giờ trong cung có người có thai, đám người Hoàng hậu ắt sẽ dồn mọi chú ý lên người Từ Yến Nghi, và như thế tôi sẽ có thể tiếp tục giấu trời qua biển thêm một thời gian nữa.
Cái thai đã sắp lộ ra, tôi và Cận Tịch cùng nhau bàn tính cẩn thận, cuối cùng cũng đã có kế hoạch cụ thể.
Thế rồi trong hôm Lý Trường đưa đồ đạc tới như thương lệ, tôi liền cố ý để y nhìn thấy cảnh mình nôn mửa.
Lý Trường thoáng ngây người, rất nhanh đã hiểu ra, không kìm được lộ rõ nét mừng, vội vàng quỳ xuống dập đầu, nói: “Chúc mừng nương nương.”
Hai bờ má bất giác ửng hồng, tôi mỉm cười, khẽ nói: “Ngoài Cận Tịch và Hoán Bích, công công là người đầu tiên biết tin này đấy.”
Lý Trường ngập ngừng hỏi: “Xin thứ cho nô tài lắm lời, chẳng hay nương nương có thai được bao lâu rồi?”
Cận Tịch bấm ngón tay tính toán: “Nếu không có gì nhầm lẫn, chắc là được khoảng hơn một tháng rồi.”
Lý Trường suy nghĩ một chút, kế đó liền mừng rỡ nói: “Vậy chẳng phải là lúc Hoàng thượng tới đỉnh Lăng Vân lần đầu sao, nô tài xin chúc mừng nương nương lần nữa.” Lý Trường mím môi cười khẽ, dường như đang hết sức vui vẻ. “Nương nương có thai thật đúng lúc lắm, nương nương có biết việc Từ Tiệp dư cũng đã có thai được gần ba tháng không?”
Tôi nở một nụ cười uể oải, chậm rãi uống một ngụm mật ong hoa quế trong chén. “Ta và Từ Tiệp dư đều đã mang thai, tại sao công công lại nói ta có thai đúng lúc thế?”
Lý Trường lộ vẻ buồn bã, sắc mặt không được tự nhiên lắm. “Nương nương không biết đó thôi, việc này đúng là xúi quẩy lắm! Từ Tiệp dư vì có thai nên được tấn phong làm Tiệp dư, nhưng chỉ vài ngày sau, Khâm Thiên giám đã quan sát thiên tượng, phát hiện sao Nguy Nguyệt Yến thuộc chòm Huyền Vũ ở phía bắc trong nhị thập bát tú mang theo một ngôi sao nhỏ phía sau có cái điềm xung nguyệt. Nương nương thử nghĩ xem, trong khuê danh của Từ Tiệp dư có một chữ yến, lại sống tại cung điện ở phía bắc, mà cái thai thì vừa khéo ứng với ngôi sao nhỏ kia, cho nên sao Nguy Nguyệt Yến tất nhiên là chỉ vào Từ Tiệp dư vốn đang mang thai rồi. Trong cung có hai người chủ nguyệt, thứ nhất là Thái hậu, thứ hai là Hoàng hậu. Bây giờ Thái hậu ốm nặng, Hoàng hậu thì mắc chứng đau đầu, mọi người không thể không nghĩ tới cái điềm báo kia của thiên tượng. Hoàng thượng xưa nay vốn nhân từ hiếu nghĩa, bất đắc dĩ đành cấm túc Từ Tiệp dư. Hai ngày nay Hoàng thượng đang hết sức phiền não vì chuyện này, nếu biết nương nương có thai, lý nào mà chẳng vui mừng cơ chứ.”
Tôi và Cận Tịch đưa mắt nhìn nhau, đều thầm kinh hãi, nghĩ bụng chuyện này đúng là quá trùng hợp, nhưng đã có điềm báo Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt như vậy, Huyền Lăng dù không lo cho Hoàng hậu thì cũng không thể không nghĩ tới Thái hậu.
Tôi dần bình tĩnh trở lại, chỉ hỏi: “Sức khỏe của Thái hậu bây giờ thế nào rồi?”
Lý Trường lo lắng nói: “Trong mùa đông vừa gặp cơn rét lạnh, bệnh cũ đã tái phát, thêm vào đó từ Điền Nam báo về tin Lục Vương gia bỏ mình, mà Lục Vương gia là do Thái hậu nuôi nấng trưởng thành nên người hết sức thương tâm, bệnh tình ngày càng nặng, đến bây giờ đang hôn mê.”
Lòng tôi đã có tính toán, liền hơi cúi đầu hỏi: “Hoàn toàn bất tỉnh nhân sự sao?”
“Thỉnh thoảng cũng có tỉnh lại đôi lần nhưng bây giờ không ai dám nói với Thái hậu tin này, chỉ sợ làm Thái hậu tức giận.”
Tôi gạt nhẹ mấy sợi tua nơi tay áo, chậm rãi nói: “Biết ta có thai, có lẽ Hoàng thượng sẽ vui mừng quá mức, công công nhớ phải nhắc nhở Hoàng thượng đôi lời. Hiện giờ Hoàng hậu mắc chứng đau đầu, Từ Tiệp dư thì vướng vào điềm báo Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, trong cung đã đủ rắc rối rồi, chuyện ta có thai thực không nên làm kinh động tới người khác nữa.” Tôi đưa mắt liếc y. “Chắc công công cũng hiểu điều này.”
Lý Trường thoáng trầm ngâm rồi nói: “Nô tài hiểu, việc này chỉ cần cho Hoàng thượng biết là được. Có điều bây giờ nương nương đã mang thai rồng, dù gì cũng phải mời thái y tới an thai.”
Cận Tịch sớm đã suy nghĩ chu toàn, liền chậm rãi nói: “Nương nương hiện giờ thân phận chưa rõ, có rất nhiều việc khá bất tiện, lại càng không thể phô trương. Trong Thái y viện chỉ có Ôn đại nhân là từng có mấy phần giao tình với nương nương, việc an thai cho nương nương cứ mời Ôn đại nhân tới đây là tốt nhất.”
Lý Trường có lý nào lại không đồng ý, lập tức nói ngay: “Trước đây khi nương nương sinh Lung Nguyệt Công chúa, Ôn đại nhân vốn phụ trách việc chăm sóc, Hoàng thượng vẫn luôn khen ngợi tài nghệ, lòng nhân từ cùng với sự trung thành của Ôn đại nhân, cho nên nhất định sẽ chấp thuận thôi.”
Tôi mỉm cười, nói: “Công công hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng đã lâu, tất nhiên biết nên nói thế nào cho hợp lý. Còn ta thì chỉ cần ở lại vùng núi non hoang dã này mà yên tâm chờ sinh nở là được rồi.”
Lý Trường cười tủm tỉm. “Nương nương nói đùa rồi, Hoàng thượng sao có thể để nương nương ở lại đây được chứ, ngài nhất định sẽ đón nương nương về cung dưỡng thai thôi.”
Khuôn mặt bất giác lộ vẻ lạnh lùng, tôi nhíu chặt đôi mày, nói: “Công công đang chế giễu ta đó sao? Bây giờ ngài gọi ta một tiếng Chiêu nghi chẳng qua là để mọi người khỏi phải khó xử, chứ ta đâu dám tự xưng mình là ‘bản cung’. Bây giờ thân phận của ta còn chưa rõ ràng, may mắn được Hoàng thượng sủng hạnh vài lần là hết mức, rồi ngài sẽ nhanh chóng quên ta thôi, ta đâu dám ôm hy vọng gì. Với một phế phi đã bị đuổi khỏi cung như ta, việc về cung dưỡng thai căn bản là mơ mộng hão huyền, ta chỉ mong có thể bình an nuôi nấng đứa bé này khôn lớn thành người thôi.”
Lý Trường đột nhiên quỳ xuống, dập đầu cung kính giãi bày: “Sao nương nương lại nói vậy chứ? Đứa bé trong bụng nương nương là con rồng cháu phượng, mang huyết mạch hoàng gia, sao có thể không ghi tên vào ngọc điệp trong phủ Nội vụ được? Nương nương nói mình thân phận chưa rõ nhưng Hoàng thượng đã chính miệng gọi người một tiếng ‘Chiêu nghi’ đó thôi. Hiện giờ Từ Tiệp dư vì thiên tượng mà bị cấm túc, Hoàng thượng lại luôn coi trọng bề con cái, nhất định sẽ không để nương nương phải chịu thiệt thòi đâu.”
Đôi hàng lông mày của tôi vẫn nhíu chặt, hai hàng nước mắt chậm rãi chảy ra, cất giọng bi thương nói: “Hoàng thượng có thể đối xử với ta như bây giờ đã là phúc phận lớn nhất của ta rồi, ta đâu dám mong gì hơn nữa. Chỉ cần Hoàng thượng có thể cho đứa bé trong bụng ta một danh phận, dù phải về cung với thân phận canh y, ta cũng cảm kích vô cùng.”
Lý Trường vội xua tay lia lịa, lại nháy mắt ra hiệu cho Cận Tịch đứng bên lấy khăn tay lau nước mắt cho tôi, “Nương nương giờ đang có thai, chớ nên thương tâm như thế. Cứ để nô tài nghĩ cách nói chuyện này với Hoàng thượng là được rồi.”
Cận Tịch y lời cầm khăn tay giúp tôi lau nước mắt, đoạn quay sang chậm rãi nói: “Chuyện này thứ nhất là phải mau chóng tiến hành ngay, thứ hai là chớ để lộ ra tin tức gì. Nương nương bây giờ chỉ có một mình ở bên ngoài, lỡ để người ta biết được là đang có thai, thật chẳng biết sẽ có bao nhiêu chuyện xảy ra nữa.”
Lý Trường khẽ gật đầu. “Ta tự biết nặng nhẹ.”
Cận Tịch gượng cười, nói: “Công công biết vậy thì tốt. Nơi này ban đêm không những gió to, hơn nữa còn thường xuyên có mèo rừng qua lại, lỡ nương nương đụng phải thì thực không hay chút nào.”
Lý Trường trầm ngâm một chút rồi mới nói: “Cô cứ hầu hạ nương nương cho cẩn thận, lần này về, ta sẽ xin Hoàng thượng phái Ôn đại nhân tới đây an thai cho nương nương.” Dứt lời, liền vội vã cáo từ hồi cung.
Buổi chiều hôm ấy, tôi vì người mỏi mệt, uể oải nên ngủ mãi tới tận giờ Mùi ba khắc mới dậy. Hoán Bích hầu hạ tôi rửa mặt chải đầu, sau đó liền giúp tôi bới tóc, vừa làm vừa cười, nói: “Mấy ngày nay hình như tiểu thư thích ngủ hơn rồi đấy, nô tỳ thấy bây giờ ban đêm tiểu thư cũng có thể ngủ ngon được rồi!”
Tôi nhoẻn miệng cười. “Nếu ta không ngủ ngon thì đứa bé trong bụng này làm sao có thể khỏe mạnh được. Dù sao việc cũng đã tới nước này rồi, chỉ có thể phó mặc tất thảy cho ông trời thôi.”
Hoán Bích cười tủm tỉm, chia mái tóc của tôi thành từng lọn, giúp tôi bới kiểu tóc linh xà, lại cài lên đầu tôi một cây trâm mã não đính trân châu kiểu dáng hết sức tinh xảo.
Tôi nói: “Hôm nay đâu có ai đến, việc gì phải bới kiểu tóc trang trọng thế này, cứ bới cho ta kiểu xoắn ốc đơn giản nhất là được rồi.”
Hoán Bích y lời giúp tôi gỡ búi tóc ra, vừa làm vừa khẽ nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ nghĩ Lý Trường quay về đã được hai ngày rồi, chắc Hoàng thượng đã biết tin tiểu thư có thai và muốn tới thăm tiểu thư. Tuy chưa biết là lúc nào, nhưng chúng ta cứ chuẩn bị trước thì vẫn hơn.”
Muội ấy giúp tôi bới lại kiểu tóc xoắn ốc, lại chọn lấy một chiếc kẹp tóc làm bằng vàng đính trân châu cài lên cho tôi. Tôi ngắm nghía một chút rồi mỉm cười, nói: “Đơn giản thế này là được rồi, những thứ quần áo Hoàng thượng sai Lý Trường đưa tới đa phần đều có màu nhạt, qua đó đủ thấy Hoàng thượng thích ta trang điểm thanh nhã một chút”
Hoán Bích chọn lấy một chiếc váy màu hồng thêu hình hoa lan may bằng vải lụa đưa tới cho tôi, nói: “Màu sắc này rất hợp với cảnh sắc bên ngoài, nếu Hoàng thượng tới đây, nhìn thấy hẳn sẽ thích lắm.”
Tôi hơi cau mày, nỗi âu sầu đầy bụng hóa thành một hồi lâu im lặng. “Y mới đi một thời gian ngắn, ta dù sao cũng cần để tang mới được. Những việc khác thì không có cách nào, nhưng thứ xiêm y có màu sắc thế này có thể không mặc thì tốt nhất là không mặc.”
Hoán Bích nghe vậy thì ngơ ngẩn, chiếc váy đang cầm chậm rãi trượt khỏi tay, rơi xuống. Trong khoảnh khắc muội ấy ngoảnh đầu lại, tôi thấy trên mái tóc muội ấy có cài một bông hoa vải trắng tinh. Lòng tôi thầm chua xót, khẽ cất tiếng nhắc nhở: “Thường ngày thì không sao, nhưng lúc Hoàng thượng tới đây chớ nên để y nhìn thấy, kẻo không lại xảy ra chuyện.”
Hoán Bích rơm rớm nước mắt gật đầu, tôi mới chỉ thoáng nhớ đến Huyền Thanh, lập tức cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi đặt một tay lên vai Hoán Bích, tay kia lấy từ trong hộp đựng đồ trang sức ra một bông hoa cài đầu làm bằng bạc cài lên đầu, sau đó liền đứng dậy chọn cho mình một bộ đồ lụa màu xanh nhạt nơi rìa vạt áo và mép tay áo được điểm xuyết bằng những dải hoa màu đỏ. Tôi thở dài nói: “Thế này coi như là đã tận tâm tận sức rồi.”
Đương lúc chúng tôi nói chuyện, Ôn Thực Sơ chợt vén rèm đi vào. Tôi thấy hắn có vẻ hầm hầm giận dữ khác hẳn thường ngày, lòng đã hiểu ra vài phần, liền dứt khoát làm bộ ung dung nói: “Hoán Bích, đi pha trà giúp ta nào, nhớ chọn loại trà Phổ Nhĩ mà Ôn đại nhân thích nhất.” Hoán Bích xoay người rời đi, tôi cười tủm tỉm, nói: “Sao lại chạy đến nỗi đầu đầy mồ hôi thế này? Huynh ngồi xuống nghỉ ngơi, uống tạm chén trà cho mát họng đã.”
Ôn Thực Sơ hơi biến sắc, nói: “Ta không có tâm tư đâu mà uống trà.” Thoáng dừng một chút, hắn lại tiếp: “Ca ca muội đã được đón về kinh chữa trị rồi. Tuy Hoàng thượng không hạ chỉ, nhưng ta nhìn thấy đồ đệ của Lý Trường là Tiểu Hạ Tử đích thân sai người đi đón y về. Lý Trường là ai chứ, sao lại đột nhiên cho đón ca ca muội về kinh?”
Tôi im lặng trong chốc lát rồi mới nói: “Huynh hẳn đã hiểu rõ rồi, sao còn phải tốn nước bọt hỏi muội những lời như vậy làm gì?” Tôi ngẩng lên, ánh dương rực rỡ chiếu vào từ bên ngoài khiên tôi phải hơi nheo mắt lại. “Lý Trường đã nói với huynh chưa? Muội có thai rồi, mời huynh đến đây là để an thai giúp muội. Có phải huynh còn muốn hỏi tại sao Lý Trường lại biết muội có thai không? Hơn nữa còn không phải là có thai ba tháng như huynh biết, mà mới chỉ hơn một tháng?”
Khuôn mặt y trở nên nhăn nhó, đầy vẻ đau khổ. “Hoàn muội muội, tại sao? Tại sao lại như vậy?”
Tôi cố giữ lòng mình bình tĩnh, trong mắt lóe lên một tia sáng rực. “Bởi vì muội đã gặp được Hoàng thượng. Đứa bé này là con của Hoàng thượng, cho nên Lý Trường mới mời huynh tới đây an thai cho muội.”
Ôn Thực Sơ trợn mắt há miệng, nhất thời đờ đẫn, lát sau mới chỉ tay vào bụng tôi, lắp bắp nói: “Đứa bé này… Đứa bé này rõ ràng là…”
Tôi đưa tay gạt một lọn tóc rối trước trán ra sau tai, nhẹ nhàng nói: “Là của ai cũng không quan trọng. Điều quan trọng là bây giờ Hoàng thượng đã tin chắc rằng đứa bé này là của y, tin chắc rằng muội mới chỉ có thai được hơn một tháng.”
Ôn Thực Sơ run giọng thốt lên: “Muội điên rồi! Đây là tội khi quân, lỡ như…”
Tôi cắt ngang lời hắn, lạnh lùng nói: “Không có lỡ như gì hết! Nếu có lỡ như, cái lỡ như này chỉ có thể là vì huynh không chịu giúp muội, huynh đi nói với Hoàng thượng rằng muội đã có thai hơn ba tháng, cái thai này căn bản không phải là của y. Như thế, tội khi quân này sẽ trở thành sự thật, và muội sẽ bị tru di tam tộc, còn huynh thì lập được công lớn với Hoàng thượng, trở thành một vị đại công thần.”
Ôn Thực Sơ nôn nóng giậm chân một cái, vội vàng nói: “Muội biết rõ ta sẽ không làm vậy mà…” Hắn không ngừng thở dốc từng cơn, cơ thịt trên má co giật liên hồi. “Hoàn muội muội, muội việc gì phải vậy chứ? Ta đã nói rồi mà, nếu muội sinh đứa bé này ra, ta sẽ chăm sóc cho hai mẹ con muội suốt đời suốt kiếp, muội hoàn toàn có thể yên tâm.”
Tôi đón lấy chén trà Phổ Nhĩ trong tay Hoán Bích, nhẹ nhàng đặt xuống trước mặt hắn, thở dài buồn bã. “Huynh có thể chăm sóc cho muội và đứa bé suốt đời suốt kiếp, nhưng huynh có thể giúp muội đón huynh trưởng từ Lĩnh Nam về kinh chữa trị không? Huynh có thể giúp muội bảo vệ cha mẹ muội, không để họ bị người khác hãm hại không? Huynh có thể giúp muội điều tra rõ ràng xem Huyền Thanh bị ai làm hại và trả thù cho y không?”
Một loạt câu hỏi của tôi khiến Ôn Thực Sơ im lặng suốt một hồi lâu. “Hoàn muội muội, nói đi nói lại thì vẫn là vì ta vô dụng, không thể giúp được muội điều gì.”
Tôi đưa tay gạt đi giọt lệ sắp rơi bên khóe mắt, xúc động thở dài. “Thực Sơ ca ca, không phải huynh không thể giúp muội, mà là cái số muội vốn đã như thế rồi. Muội khó khăn lắm mới có thể rời khỏi Tử Áo Thành, bây giờ lại không thể không quay về. Bởi vì trong thiên hạ này, ngoài Hoàng đế ra, không ai có thể giúp muội nhiều như thế.” Tôi ủ rũ ngồi xuống. “Thanh đã chết rồi, muội không thể trông chờ vào điều gì khác nữa. Nếu muội không quay về để bảo vệ những người mà muội muốn bảo vệ, còn có thể làm gì khác được đây?”
Ngoài cửa sổ, sắc trời đang đẹp biết bao, ánh dương chiếu xuống cây đào đang nở hoa rực rỡ, khắp sân tràn ngập cảnh xuân yêu kiều. Thế nhưng giữa một mùa xuân như thế, lòng tôi lúc này lại lạnh giá như mùa đông.
Tôi đau thương rơi lệ, ngoảnh đầu lại nói: “Nếu còn có cách nào khác, muội đã chẳng phải làm như thế này. Bây giờ huynh chịu giúp muội thì hãy giúp, nếu không thể giúp, muội cũng không miễn cưỡng huynh. Con đường mà muội và đứa bé này phải đi vốn đã khó khăn rồi, có lẽ cuối cùng muội sẽ chết, nhưng dù có chết muội cũng phải bảo vệ được nó.”
Ngoài cửa, cảnh xuân đẹp như tranh vẽ, những làn ánh dương tỏa xuống ấm áp vô cùng, thế nhưng giữa ánh dương ấm áp ấy, khuôn mặt Ôn Thực Sơ lại lạnh tựa băng sương. “Muội mà cứ đi tiếp thế này, cuối cùng sẽ chỉ bước lại lên con đường cũ ngày xưa thôi. Hoàn muội muội, ta đã phải trơ mắt nhìn muội đi từ trong Tử Áo Thành ra ngoài bây giờ lại phải trơ mắt nhìn muội từ nơi đây trở lại hậu cung. Trước đây ta từng cầu thân muội mà muội không chịu, chỉ có thể nhìn muội vào cung rồi tranh đấu đến nỗi thương tích đầy mình; lẽ nào bây giờ ta còn phải nhìn muội vào cung một lần nữa hay sao?”
Bao nhiêu chuyện cũ cả buồn cả vui cùng lóe hiện trong đầu tôi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt sâu thẳm của Ôn Thực Sơ, điều chỉnh hơi thở, cố dằn những giọt nước mắt chừng như lúc nào cũng có thể rơi xuống, khẽ nói: “Nếu không quay về, sau khi biết muội có thai, đám người trong cung liệu có tha c muội không? Muội ở đỉnh Lăng Vân nay chẳng biết nương tựa vào ai, chỉ có thể ngồi im chờ chết mà thôi. Cuộc sống trong cung đúng là phải tranh đấu không ngừng nghỉ, nhưng dù gì cũng tốt hơn là không đấu đá mà chờ người ta hại chết. Thực Sơ ca ca, có một số chuyện huynh không muốn làm, muội cũng chưa chắc đã muốn, nhưng đã tới nước này rồi, muội phải hành động theo lý trí chứ không thể theo cảm tính được.”
Hồi lâu sau, hắn thở dài buồn bã, khuôn mặt trở nên xám xịt. “Hoàn muội muội, trên thế gian này, chỉ có muội là khiến ta không biết phải làm thế nào cả, ngoài việc nghe theo muội ra, ta thực không có cách nào khác. Muội nói thế nào thì hãy làm thế đó đi, muội bảo vệ cho người khác còn ta thì liều mạng bảo vệ muội là được rồi.” Hắn ủ rũ gượng cười. “Muội đã nhận định chuyện gì thì chưa bao giờ chịu quay đầu lại, ta đúng là chỉ uổng công vô ích mà thôi!” Hắn ngồi xuống, bàn tay cầm chén trà không ngừng run lẩy bẩy. “Muội muốn ta làm thế nào thì hãy nói đi.”
Tôi khẽ nhấp một ngụm mật quế hoa, dùng vị ngọt để tạm xua đi nỗi đắng chát nơi đầu lưỡi, sau khi suy nghĩ một lát mới chậm rãi nói: “Đầu tiên huynh phải nói với Hoàng thượng, muội mới chỉ có thai được hơn một tháng; thứ hai, hãy giúp muội nghĩ cách khiến cái bụng của muội trông nhỏ hơn tháng thực một chút; thứ ba, để che giấu thân hình, huynh phải nói với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, không tiện thân mật quá mức với y; cuối cùng, đến hồi sinh nở huynh hãy nói với Hoàng thượng là muội sinh con tám tháng, giống như lúc sinh Lung Nguyệt vậy. Còn về những việc khác, thực sự chỉ có thể nghe theo mệnh trời mà thôi.”
Hắn lẳng lặng uống chén trà Phổ Nhĩ trong tay, sắc mặt thấp thoáng vẻ u buồn, ảm đạm. Sau một thoáng trầm tư suy nghĩ, cặp mắt sâu thẳm của hắn ánh lên những tia đau đớn và dịu dàng vô hạn. “Nếu sớm biết có ngày hôm nay… ta thà để muội mãi mãi không bao giờ biết tin về cái chết của Thanh Hà Vương.”
Một làn gió nhẹ bỗng thổi vào, mang theo hơi thở của những sinh mệnh đang bừng bừng sức sống. Nhưng với tôi mà nói, làn gió ấy như một lưỡi dao sắc bén cứa vào da thịt, tuy không hề làm tôi cảm thấy đau nhưng sự lạnh lẽo thì cứ thế xộc thẳng vào trái tim tôi. Tôi hơi nhếch khóe môi. “Vậy nhưng huynh đã chính miệng nói cho muội biết tin này.”
Hắn nở một nụ cười thê thảm. “Cho nên, ta tự làm tự chịu. Ngoài việc giúp muội ra, ta chẳng còn cách nào khác nữa.” Định thần lại một chút, hắn nói tiếp: “Những điều muội nói, ta sẽ cố hết sức thực hiện, cũng sẽ bẩm với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Còn về bụng muội… có lẽ có thể dùng vải lụa quấn lại hoặc là mặc áo rộng một chút, nhất định phải giấu giếm kĩ càng, bằng không qua một thời gian nữa, cái thai bốn tháng và cái thai hai tháng dù gì cũng không giống nhau.”
Tôi lo lắng hỏi: “Dùng vải quấn bụng liệu có gây hại gì cho thai nhi không?”
“Vương Mỹ nhân của Hán Linh Đế vì sợ uy thế của Hà Hoàng hậu nên tuy có thai nhưng không dám nói ra, mỗi ngày đều quấn bụng cho tới tận khi sinh nở. Hoàn muội muội không cần ngày nào cũng quấn, hơn nữa chỉ cần quấn chừng hai, ba tháng là được rồi, và cũng không phải quấn quá chặt, trong thời gian đó ta sẽ cho muội dùng thuốc cố thai. Ngoài ra nếu như quấn đúng cách còn có thể phòng việc xương thắt lưng nhô lên phía trước, chưa chắc đã chỉ có hại mà không có lợi.”
Tôi khom người, cảm kích nói: “Thực Sơ ca ca, mọi việc sau này đều trông cậy vào huynh cả đấy!” Dừng một chút, tôi lại tiếp: “Việc muội về cung chỉ có Hoàng thượng nói thôi thì chưa đủ, còn cần Thái hậu gật đầu mới được. My Trang tỷ tỷ ngày ngày hầu hạ bên cạnh Thái hậu, việc này huynh chỉ có thể nói với một mình tỷ ấy thôi, để tỷ ấy tìm cơ hội nhắc đến trước mặt Thái hậu là tốt nhất, có điều nhất định phải là sau khi Hoàng thượng đã mở lời.”
Ôn Thực Sơ khẽ gật đầu. “Ta biết.” Ánh mắt hắn chất chứa nỗi xót thương. “Muội nhớ phải chú ý chăm sóc bản thân đấy!”
Tiễn Ôn Thực Sơ đi rồi, Cận Tịch bước vào đỡ tôi tới ngồi xuống giường, xoa ngực nói: “Nô tỳ đứng bên ngoài nghe mà lo lắng quá, nếu Ôn đại nhân không chịu giúp đỡ, chúng ta không biết còn phải tốn bao nhiêu công sức nữa đây. Nói một câu thực lòng, nương nương còn ở bên ngoài ngày nào thì Ôn đại nhân còn có hy vọng ngày đó, một khi về cung rồi thì y thật sự chẳng thể trông mong gì nữa cả.”
Tôi tựa người lên chiếc gối mềm sau lưng, thấp giọng nói: “Y tuy đã hết hy vọng nhưng lại không phải là một người ích kỷ.”
Cận Tịch thổn thức nói: “Tình ý của Ôn đại nhân với nương nương thực sự đáng quý.” Dứt lời, nàng ta liền mở một chiếc rương, lấy từ bên trong ra hai dải vải lụa. “Trước khi đi, Ôn đại nhân đã dạy nô tỳ cách quấn bụng cho nương nương, cứ nên làm ngay từ bây giờ là tốt nhất, chẳng biết khi nào thì Hoàng thượng sẽ tới đây nữa.”
Tôi khẽ “ừm” một tiếng, để Cận Tịch quấn bụng giúp mình, lại uống thuốc an thai, sau đó mới nằm xuống, từ từ chìm vào giấc ngủ.
Hai ngày cứ thế trôi qua, buổi sáng hôm nay tôi uể oải thức giấc, nhưng vẫn nán lại trên giường không trở dậy. Bên ngoài trời đang mưa rả rích, những hạt mưa rất dày và nhỏ, bầu không khí trở nên ẩm ướt hơn nhiều. Giữa sân, gốc đào già vẫn đang nở hoa rực rỡ, một làn gió nhẹ thổi qua, rất nhiều cánh hoa đào rơi lả tả, bay khắp trời, khiến khung cảnh trở nên giống như mộng ảo.
Trong phòng có đốt đàn hương, hết sức thanh tịnh, tôi lặng im ngửi mùi hương ấy mà nhắm mắt bần thần.
Phía bên ngoài chợt có một giọng nói khe khẽ vang lên: “Hoàn Hoàn vẫn ngủ sao?”
“Sáng nay ngủ dậy, nương nương cảm thấy buồn nôn, sau khi uống thuốc xong thì lại ngủ tiếp. Để nô tỳ đi gọi nương nương dậy.”
“Không cần, trẫm cứ chờ ở đây là được.”
Lòng tôi thầm máy động, liền dứt khoát trở mình giả vờ ngủ. Áng chừng nửa canh giờ sau, tôi uể oải cất tiếng: “Cận Tịch, mang nước lại đây.” Nhưng sau khi mở mắt ra, người đầu tiên xuất hiện trước mắt tôi lại là Huyền Lăng với khuôn mặt tràn ngập nụ cười, tôi cố gắng trở dậy định hành lễ thỉnh an, y vội vàng đưa tay giữ tôi lại. “Đã là lúc nào rồi, còn để ý đến quy củ làm gì nữa.”
Tôi đưa tay dụi mắt. “Tứ lang tới khi nào vậy? Hoàn Hoàn chẳng hay biết gì”, sau đó liền oán than: “Sao Cận Tịch lại không gọi dậy như thế chứ?”
Lý Trường cười híp mắt, nói: “Hoàng thượng đến được nửa canh giờ rồi, vì thấy nương nương ngủ ngon nên không nỡ gọi nương nương dậy.”
Huyền Lăng cũng mỉm cười. “Đừng trách Cận Tịch, trẫm nghe nói nàng mang thai vất vả nên mới để nàng ngủ thêm một lát.” Y không để tâm đến việc có người khác ở bên, ôm tôi vào lòng, mừng rỡ nói: “Lý Trường nói với trẫm là nàng đã có thai, trẫm thật mừng rỡ vô cùng.”
Tôi làm bộ hờn trách: “Hoàng thượng cũng thật là, mừng thì cứ việc mừng thôi, hôm nào tới mà chẳng được, hôm nay trời đang mưa, đường núi lại không dễ đi, việc gì phải vội vã tới đây như thế chứ!”
Lý Trường đứng bên cười, nói: “Vốn dĩ Hoàng thượng nghe nô tài nói xong liền muốn tới đây ngay, nhưng vừa khéo gặp lúc trong cung có nhiều việc, thành ra không thể kiếm cớ ra ngoài được. Hôm qua nghe Ôn đại nhân báo cáo lại về tình hình của nương nương, Hoàng thượng quả thực mừng rỡ vô cùng, thế là hôm nay vừa sáng sớm đã tới đây ngay.”
Tôi ôn tồn nói: “Hoàng thượng rời cung như thế, chỉ e sẽ khiến Thái hậu và Hoàng hậu lo lắng vô cùng.”
Huyền Lăng nắm chặt lấy bàn tay tôi, nhìn tôi đắm đuối, trong mắt tràn ngập những tia mừng rỡ khó mà miêu tả bằng lời. “Trẫm lo lắng cho nàng mà. Nghe Ôn Thực Sơ nói cái thai của nàng không ổn định, lại không cho phép thế này không cho phép thế kia, trẫm thực lo lắng vô cùng. May mà sau một hồi dặn dò, Ôn Thực Sơ có nói chỉ cần làm theo lời y thì sẽ không có vấn đề gì lớn, tới lúc ấy trẫm mới yên tâm hơn một chút.”
Lý Trường cười, nói: “Chính vì hiện giờ Thái hậu và Hoàng hậu đều đang không khỏe nên Hoàng thượng mới có thể kiếm cớ lên chùa dâng hương lễ Phật, bằng không muốn xuất cung đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Tôi hơi cau mày lại, “Thái hậu và Hoàng hậu không khỏe, vậy mà Hoàn Hoàn còn khiến Tứ lang phải bận lòng, quả đúng là…”
Y khẽ đặt ngón tay trỏ lên môi tôi, cất giọng chứa chan tình cảm: “Nàng có thai là chuyện mừng lớn bằng trời, trẫm vui còn chẳng kịp ấy chứ. Rốt cuộc vẫn là nàng có phúc, trẫm mới lần đầu tiên tới thăm mà nàng đã có thai rồi.” Sau đó y lại thở dài. “Dung Nhi phúc bạc, Quản thị cũng thế, được trẫm sủng ái như vậy mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào.”
Lý Trường tươi cười rạng rỡ. “Đây là cái phúc của nương nương, cũng là cái phúc của Hoàng thượng và triều đình Đại Chu chúng ta.”
Vừa khéo lúc này Cận Tịch bước vào, trong tay là một bát canh da gà nấu măng chua nóng hổi. Nàng ta cười, nói: “Hôm qua nương nương nói muốn ăn đồ chua, giờ đã có canh da gà nấu măng chua đây rồi, nương nương mau tranh thủ ăn đi cho nóng.”
Tôi đưa mắt liếc qua, cau mày, nói: “Sao nhìn toàn là mỡ thế kia, ta thật không sao nuốt nổi.”
Cận Tịch rầu rĩ nói: “Nương nương ăn uống thất thường đã mấy ngày nay rồi, cứ tiếp tục thế này thì làm sao được chứ.”
Huyền Lăng ngẩn ra, quay sang hỏi Cận Tịch: “Chiêu nghi đã mấy ngày nay ăn uống không ngon miệng rồi ư?”
Cạn Tịch nói: “Dạ chính thế, nương nương đang có thai nên vốn đã ngủ không ngon, mấy ngày nay lại ăn uống không ngon miệng nữa. Hai ngày trước, nương nương từng muốn ăn đường sương ngọc phong nhi[2], nô tỳ và Hoán Bích không kiếm đâu ra được, thực là áy náy vô cùng.”
[2] Đây là tên một món ăn được ghi lại trong sách Võ lâm cựu sự của Chu Mật, chỉ xuất hiện ở thời Nam Tống, và đến nay thì các chuyên gia vẫn chưa thể xác định nó được làm bằng cái gì và chế biến như thế nào, người dịch tạm để nguyên tên – ND.
Lý Trường lộ vẻ lúng túng: “Đó là thứ đồ điểm tâm sở trường của Chu sư phụ trong ngự thiện phòng, bên ngoài làm sao có được. Thực khổ cho nương nương quá, đang có thai mà muốn ăn chút đồ ăn cũng không được.”
Tôi áy náy nói: “Đều tại Hoàn Hoàn kén ăn quá, thực ra bất kể là ăn cái gì cũng đều như nhau cả thôi.”
Huyền Lăng ngoảnh đầu lại dặn dò Lý Trường: “Đem cháo tổ yến đã mang tới đây đi hâm nóng lại một chút đi, rưới thêm chút sữa bò nữa, trước đây Chiêu nghi thích ăn món này nhất đấy!” Lý Trường vâng lời rời đi, tôi và Huyền Lăng trò chuyện được chừng một tuần trà thì canh tổ yến đã được Cận Tịch bưng lên, Huyền Lăng đón lấy rồi khẽ mỉm cười. “Để trẫm bón cho nàng.”
Tôi thẹn thùng nói: “Tứ lang sao lại đi làm chuyện như vậy chứ?”
Huyền Lăng khẽ cười một tiếng, trên mặt tràn ngập vẻ dịu dàng khó tả, tựa làn gió xuân mát mẻ từ ngoài cửa sổ thổi vào. “Vì nàng, vì đứa con của chúng ta, không có chuyện gì là không thể.” Y kê vào sau lưng tôi một chiếc gối mềm, múc một thìa cháo tổ yến lên thổi mấy hơi cho bớt nóng, cất giọng dịu dàng: “Dù thấy không ngon miệng đến mấy cũng phải cố ăn một chút, nàng không nghĩ cho bản thân thì cũng nên nghĩ cho con của chúng ta.”
Tôi ngoan ngoãn ăn thìa cháo mà y bón cho rồi nghiêng đầu, khẽ mỉm cười. “Hoàn Hoàn biết.”
Thấy tôi đã ăn được quá nửa, Huyền Lăng mới khẽ thở dài một tiếng. “Vốn Yến Nghi có thai cũng là việc mừng nên trẫm mới phong cho nàng ta làm tiệp dư, ai ngờ Khâm Thiên giám lại nói có điềm chẳng lành là Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, rồi Thái hậu bệnh nặng, Hoàng hậu cũng đau ốm, khiến khắp hậu cung chẳng được yên ổn, trẫm hết cách chỉ đành cấm túc nàng ta.” Dừng một chút, y dịu giọng nói tiếp: “Hoàn Hoàn, nếu không có cái thai này của nàng, trong cung xảy ra nhiều chuyện như thế, trẫm thật chẳng còn biết vui vẻ là gì nữa.”
Tôi cầm lấy bàn tay y áp lên má mình, mỉm cười điềm đạm nói: “Có thể khiến Tứ lang vui như vậy, tự bản thân Hoàn Hoàn cũng thấy vui. Thiên tượng chẳng qua chỉ là điềm báo nhất thời, đợi vận xui qua đi rồi, Từ Tiệp dư sinh cho Hoàng thượng một vị tiểu hoàng tử là mọi việc đều tốt đẹp cả thôi!”
Huyền Lăng đưa tay kéo tôi vào lòng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Hoàn Hoàn, Trường tương tư vẫn ở chỗ nàng, hãy đàn cho trẫm nghe một khúc nhạc đi.” Y dường như hết sức thương cảm. “Nàng rời cung đã bốn năm, không còn ai có thể gảy được những khúc nhạc đầy ý vị như thế nữa rồi.”
Tôi lấy Trường tương tư ra, chỉnh lại dây đàn một cách thuần thục mà máy móc, mỗi lần ngón tay chạm vào dây đàn, trái tim lại nhói đau, người khi xưa từng đàn sáo hợp tấu với tôi nay đã không còn trên đời nữa rồi.
Suy nghĩ ấy vừa mới nổi lên, nước mắt tôi đã không kìm được tuôn rơi lã chã, bắn đầy lên bảy sợi dây đàn.
Huyền Lăng vội vàng lau nước mắt giúp tôi. “Đang yên đang lành sao lại khóc thế, có ai khiến nàng phải chịu ấm ức sao?”
Tôi khẽ lắc đầu, rơm rớm nước mắt, nói: “Hoàn Hoàn đã lâu không gảy Trường tương tư, bây giờ có thể gảy lại trước mặt Tứ lang, thật có cảm giác như đã qua kiếp khác.”
Huyền Lăng cũng thổn thức không thôi. “Trẫm bây giờ có nàng ở bên, cũng cảm thấy như đã qua kiếp khác vậy. Hoàn Hoàn, trước đây nàng thích gảy bài Sơn chi cao, chi bằng hôm nay hãy gảy lại lần nữa đi.”
Tôi vâng lời đưa tay lướt nhẹ dây đàn.
Núi cao cao, trăng nho nhỏ. Trăng nho nhỏ, sáng vằng vặc! Ta có người thương trên đường xa. Một ngày không gặp chừ, lòng ta nao nao.
Tôi chậm rãi gảy liền hai lượt. Bài Sơn chi cao này tôi xưa nay chỉ gảy nửa đầu, bởi cái ý tâm tư của nửa đầu miên man thấm vào tận sâu trong xương tủy, còn nửa sau thì tràn ngập nỗi thương tâm và một điềm báo chẳng lành. Thế nhưng trong một thoáng ngẩn ngơ, điệu nhạc phát ra từ Trường tương tư không ngờ đã đổi khác, biến thành nửa sau của bài Sơn chi cao.
Tay hái cỏ đắng, ở nơi núi nam. Xiết bao lo lắng, biết chịu ra sao? Lòng chàng như vàng đá, lòng thiếp như băng tuyết. Ta ước hẹn trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt. Mây sớm mưa chiều bao nhớ nhung, ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng.
Ta hẹn ước trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt!
Nỗi đớn đau trong lòng không ngớt trào dâng, tôi cơ hồ muốn nằm gục xuống bàn mà khóc lóc một hồi. Nửa sau của bài Sơn chi cao mà tôi xưa nay vẫn không dám gảy, giờ không ngờ lại trở thành vận mệnh thê lương của tôi và Huyền Thanh. Thậm chí chúng tôi ngay đến “ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng” thôi cũng không thể.
Thế nhưng dù khó chịu đến mấy, tôi vẫn phải cố gắng nở một nụ cười hết mực dịu dàng.
Sau một thoáng trầm ngâm, Huyền Lăng chợt nói: “Nàng theo trẫm về cung đi.”
Tôi thoáng ngẩn ra, trái tim bất giác từ từ buông lỏng…
Y rốt cuộc đã chịu nói ra lời này rồi. Tôi rơm rớm nước mắt nhìn y, xót xa nói: “Sao Hoàn Hoàn còn có thể về cung nữa đây? Việc năm xưa đã xảy ra, chẳng cách nào có thể quay đầu được nữa rồi.”
Huyền Lăng kéo tôi lại, ôm tôi vào lòng, cất lời cảm thán: “Tiếng đàn của Hoàn Hoàn vẫn hệt như xưa, chẳng hề thay đổi, tại sao lại không thể quay đầu cơ chứ?”
Thì ra y vẫn không hiểu gì hết, tiếng đàn vốn chẳng có trái tim, cho nên mới không dễ gì thay đổi. Nhưng con người thì khác, con người có trái tim, biết cách phân biệt thứ tình cảm nào là thực, thứ tình nào là giả; thứ tình cảm nào hời hợt, thứ tình cảm nào sâu sắc. Mà quay đầu, tức là phải nhẫn nhịn chịu đựng những sự cay đắng và nhục nhã trước đây, thực khó khăn vô cùng, khó đến mức khiến tôi ngay cả nghĩ cũng không dám nghĩ.
Vậy nhưng tôi lại không thể không nghĩ.
Tôi buồn bã thở dài một tiếng, cúi đầu than: “Hoàn Hoàn là phế phi, mang tấm thân chẳng lành, cho dù có mang thai thì cũng không dám vọng tưởng có thể về cung.”
“Phế phi?” Y khẽ lẩm bẩm hai chữ này, trong mắt ánh lên một tia kiên quyết. “Đã là phế phi, vậy ta sẽ sắc phong lại, lần này không ai có thể ngăn cản được ta.”
Tôi do dự nói: “Thái hậu…”
“Nàng đã mang thai rồi, chắc Thái hậu sẽ không ngăn cản gì đâu. Vì chuyện của Từ Tiệp dư mà ai ai cũng phiền lòng, chúng ta hãy dùng việc này để xoa dịu trái tim Thái hậu cũng tốt, nàng cứ theo trẫm về cung là được.”
Tôi quỳ xuống, những giọt nước mắt khẽ đậu trên bờ mi. “Hoàng thượng tình sâu ý nặng như thế, Hoàn Hoàn cảm kích vô cùng. Nhưng thần thiếp cứ thế này mạo muội về cung, tuy Thái hậu ngoài miệng không nói gì nhưng trong lòng hẳn sẽ không thoải mái, vì Hoàng thượng còn chưa thương lượng gì với người mà đã tự ý quyết định việc này, chi bằng Hoàng thượng hãy bẩm rõ với Thái hậu trước đã.” Tôi lộ vẻ buồn bã và ấm ức, nói tiếp: “Hơn nữa, nếu thần thiếp về cung, các phi tần trong cung nhất định sẽ xôn xao bàn tán, Hoàn Hoàn thà một mình ở lại đỉnh Lăng Vân này để được thanh tịnh.”
Y dịu dàng đỡ tôi đứng dậy. “Trẫm biết nàng lo nghĩ điều gì, những người khác bàn tán thế nào thì cứ mặc kệ họ. Bây giờ Tam phi còn thiếu một người, trẫm sẽ chiêu cáo thiên hạ phong nàng làm phi, đứng ngang hàng với Đoan Phi và Kính Phi. Đường Lê cung của nàng giờ Huệ Quý tần đang ở, trẫm sẽ xây cho nàng một tòa cung điện mới, sau khi bẩm rõ với Thái hậu thì đón nàng về cung với quy cách bằng một nửa nghi trượng của Hoàng hậu, để xem ai còn dám lén bàn tán gì sau lưng nàng. Nàng cứ yên tâm dưỡng thai rồi sinh cho trẫm một vị hoàng tử là được.” Y chăm chú nhìn tôi một lát, bàn tay dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, cưng nựng nói: “Hoàn Hoàn, trẫm đã để nàng xa trẫm bốn năm, bốn năm là đủ lắm rồi, trẫm sẽ không để nàng xa trẫm nữa đâu.” Y khẽ hôn lên bàn tay tôi, nói tiếp: “Bốn năm nay, không lúc nào trẫm không nhớ tới nàng.”
Không lúc nào không nhớ tới tôi? Tôi thầm cười lạnh một tiếng, chính như Phương Nhược nói, Huyền Lăng dù biết rõ là mình đã sai cũng sẽ không chịu thừa nhận, bởi sự uy nghiêm của bậc đế vương mới là thứ y để tâm nhất, còn những người khác dù có phải hy sinh cũng chẳng có gì là quan trọng.
Tôi mừng đến rơi nước mắt, nhưng đằng sau sự mừng rỡ ấy là vô số nỗi bi ai và căm hận dâng trào. Tôi tựa vào ngực y, biến nỗi oán hận trong lòng thành sự dịu dàng vô hạn, nói: “Tứ lang có được tấm lòng như thế, Hoàn Hoàn thực đã thỏa mãn lắm rồi.”
Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi rả rích, khuôn mặt y toát ra một vẻ trịnh trọng tột cùng. “Sau khi an bài xong tất thảy, trẫm sẽ hạ chỉ ngay, nàng chỉ cần chờ thêm mấy ngày nữa là được.”
Danh sách chương