Người ta phải sống cuộc đời mình bằng cách nhìn về phía trước, nhưng lại chỉ có thể hiểu được nó khi nhìn lại phía sau.

Soren Kierkegaard

Sáng thứ Năm.

Sam quay về phía Juliette. Ló ra khỏi tấm chăn dày chỉ là một mẩu vai trần và vài lọn tóc vàng xõa trên gối như những tia nắng mặt trời. Anh đã cố ngủ được vài giờ nhưng bất chấp sự hiện diện của cô, nỗi lo ngấm ngầm vẫn cứ làm anh trăn trở. Lách mình khỏi vòng tay nữ thần Morphée, anh liếc mắt nhìn đồng hồ - 5h04 - và quyết định dậy dù còn rất sớm.

Từ giờ anh không thể tự huyễn hoặc mình được nữa: nguy hiểm đang đe dọa anh và anh không biết phải đối phó bằng cách nào. Chìm trong cảm giác bất an, anh thấy mình giống như một nhân vật trong Chiều không gian thứ tư, bộ phim truyền hình nhiều tập mà anh vẫn xem khi còn là một đứa trẻ: một người đàn ông bình thường vượt qua một ranh giới mà không hề biết nó tồn tại và kinh hoàng ý thức được sự hiện diện của những rạn nứt trong cuộc sống hiện tại.

Anh lặng lẽ ra khỏi giường. Trên thảm vẫn còn vương vãi những bằng chứng của cơn say tình giữa hai người hôm qua: một chiếc áo gilê, một áo len màu. một áo sơ mi Arrow, vài chiếc quần áo lót...

Anh sang phòng tắm và mở vòi hoa sen. Nước nóng chảy khiến ống nước rung lên và khắp phòng ngập hơi nước. Sam lao vào làn nước nóng rãy, đầu vẫn ởn vởn những mối nghi hoặc. Anh đang dần đánh mất khả năng kiểm soát tình hình và nhất là phải đơn phương độc mã đối diện với những câu hỏi này. Anh có thể nói chuyện với ai về điều gì đang xảy đến mà không bị mảy may nghi ngờ? Biết tâm sự cùng ai? Có một người, anh đột nhiên nghĩ ra, nhưng đã lâu lắm rồi..

Anh cố không nghĩ sâu thêm về khả năng ấy, bước ra khỏi vòi hoa sen và lau người thật khô.

Quay lại phòng, anh nhanh chóng mặc đồ và viết vội vài dòng cho Juliette rồi để vào một chỗ thật dễ nhìn trên gối. Anh cũng để cho cô chìa khóa căn hộ của anh ở Manhattan.

Trong bếp, anh tuyệt vọng tìm kiếm chút cà phê nhưng không thấy.

Đúng vào buổi sáng hôm nay khi mình phải cần khoảng chục tách.

Trước khi đi, anh nhìn Juliette lần cuối rồi bước ra bậc thềm nơi anh được một làn gió buốt lạnh và những đợt sóng ồn ào đón chào. Vừa mải mê suy nghĩ, anh vừa đi xuống cầu thang và xoa xoa hai bàn tay vào nhau. Mặc dù trời lạnh nhưng chiếc 4x4 chỉ nhoáng một cái đã nổ được máy.

Vì vẫn sớm nên chưa đầy một tiếng anh đã về tới New York. Anh sắp rẽ sang phía Đông để chạy về hướng bệnh viện nhưng rồi lại quành xe về hướng Brooklyn.

- Aaaahh!

Anh vừa phải phanh thật gấp để không tông vào chiếc cam nhông của một tiệm hoa đang đi giao hàng. Bánh xe của anh rít lên và trượt dài trên đường nhựa. Hệ thống phanh rất hiệu quả nhưng vẫn không tránh được việc chiếc 4x4 phải dừng lại ngay sau chiếc cam nhông. Dù va chạm không mạnh lắm song anh vẫn bị chấn động.

Sam lùi lại rồi phóng lên xem chiếc xe trở hàng. Anh nhận thấy người lái xe - một anh chàng Tây Ban Nha vẻ hằn học - không hề bị thương. Trái lại, anh ta đang khua tay ầm ĩ và dứ dứ nắm đầm về phía bác sĩ, chửi mắng anh đủ thứ trên đời.

Sam quyết định không xuống xe. Anh vớ lấy một tấm danh thiếp bao giờ cũng có sẵn trong ví và quăng nó qua cửa kính.

- Tôi sẽ thanh toán hết! - anh vừa hét lên vừa nổ máy.

Anh sẵn sàng gánh chịu trách nhiệm của mình nhưng giờ thì anh có chuyện khác phải ưu tiên.

Anh cần đi gặp một người.

Một người mà trước kia anh từng tìm đến.

Khi anh không còn khả năng suy nghĩ về bất cứ điều gì nữa.

Sam đậu xe dọc theo vỉa hè. Mười năm đã trôi qua kể từ ngày anh rời Bed-Stuy. Anh từng thề sẽ không bao giờ quay lại nơi này nữa, và cho đến giờ anh vẫn luôn giữ lời.

Thoạt tiên, anh ngạc nhiên trước sự đổi mới của khu phố. Cơn sốt bất động sản đã quét sạch các tầng lớp trung lưu ở Manhattan và rất nhiều người đã vội vàng mua lại với giá rẻ những ngôi nhà nhỏ bằng gạch nâu từng bị bọn vô lại đóng chiếm.

Phía cuối phố, một chiếc xe cảnh sát bình thản đi tuần và khu này có vẻ thậm chí quá sạch sẽ, như thể chỉ có trong vài năm mà khu Petit Beyrouth đã trở nên yên tĩnh như một vùng ngoại ô sang trọng.

Thế nhưng, chẳng mấy chốc một cơn rùng mình lại chạy dọc sống lưng anh như ngày xưa. Anh hiểu rằng bóng ma đầy hăm dọa của những tên ma cô hay những tên bán ma túy vẫn lởn vởn với bất kỳ ai từng sống ở đây trong những năm khó khăn.

Anh đi bộ lên đầu phố. Ngôi nhà thờ nhỏ vẫn nằm đó, kẹt giữa bãi bóng rổ và một nhà kho sắp đến lúc phải được dỡ bỏ. Sam leo vài bậc thang và và dừng lại trước cửa. Ngày xưa, cha Hathaway luôn để " Ngôi nhà của Chúa" mở cửa, đề phòng trường hợp cần. Từ khi cha Hathaway qua đời, một cha xứ khác đã tới thay thế. Tuy vậy, khi Sam đẩy cánh cửa dày bằng gỗ, nó vẫn mở ra và kêu ken két. Cuối cùng cũng có một thứ không thay đổi....

Nơi này thật dễ nhận ra nhờ lối trang trí rực rỡ. Những vật dụng trang trí đa dạng được đặt cạnh nhau tạo nên nét hài hòa kì lạ, hơi giống kiểu trang trí ở các nhà thờ Nam Mỹ. Các bức tường được tô điểm bằng những tấm vải màu vàng và vô số gương nhỏ. Phía trên bàn thờ, một bức tượng Đồng trinh có cánh đang chìa tay về phía khách tham quan trong khi những bức tranh tường mày sắc nổi trội đặc tả nỗi đau của Chúa.

Sam bước vào, lòng ngập tràn cảm xúc. Lúc còn nhỏ, anh vẫn thường tới đây trú ngụ. Cha Hathaway dành cho anh hẳn một góc nhỏ trong kho đồ thờ để anh ngồi làm bài tập. Sam chưa bao giờ có đức tin mãnh liệt, song trong khu phố có quá ít chỗ thích hợp với việc học hành để anh chọn lựa.

Bác sĩ tiến tới gần một bệ thờ tắm trong ánh sáng vàng. Một chiếc lư trầm treo ở đầu những sợi xích thay thế cho chân nến. Xung quanh có hàng chục ngọn nến đang cháy. Anh để vài đô la vào trong hốc rồi thắp ba ngọn nến: một cho Federica, một cho Angela và một ngọn cuối cùng cho Juliette.

Nhà thờ vẫn đắm mình trong một thứ mùi đặc biệt pha giữa hạt tiêu và vani, thứ mùi ấy như một cỗ máy thời gian đột nhiên đưa anh quay trở lại mười năm về trước.

Từ sâu thẳm tâm can, anh chỉ mong chờ điều này. Bấy lâu nay anh vẫn tự thuyết phục mình rằng anh đã chiến thắng những thử thách tuổi trẻ, song điều đó không hề đúng. Từ mười năm nay, anh sống một cách máy móc, học và chữa bệnh không mệt mỏi. Thật ngu ngốc khi tự nhủ rằng nếu anh có thể cứu được một số lượng bệnh nhân nào đó thì anh tuyệt đối có thể chữa cho mình khỏi chứng lo âu và tìm thấy bình yên. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: dù những vết bầm tím đã biến mất, nhưng vết thương vẫn luôn còn đó. Và anh không biết phải làm thế nào. Việc Federica tự tử lẽ ra phải buộc anh đối diện với sự thật của quá khứ để tự giải thoát tốt hơn. Nhưng thay vì vậy, anh lại giam mình trong vai người đàn ông góa vợ không vượt qua được nỗi đau. Cho tới khi anh gặp một ánh mắt, một niềm hy vọng... Song cuộc gặp gỡ bất ngờ với Juliette này lại trở nên ảm đạm bởi lời nói dối của anh và những lời cảnh báo đầy đe dọa của Grace Costello.

Sam ngồi lên một trong những chiếc ghế băng thô sơ nằm dọc hai bên lối đi. Ở đó, trong ánh sáng an ủi của nhà thờ, anh để mặc những kỷ niệm ùa về.

Một vài hình ảnh quá khứ, bấy lâu bị chôn trong chiếc hòm trí nhớ của anh, chợt nổi lên và đưa anh trở lại tháng Tám năm 1994.

Mùa hè đánh dầu bước ngoặt trong của họ...

Đó là năm họ mười chín tuổi. Cho tới lúc ấy. Federica và anh đã bằng cách này hay cách khác đứng được ngoài những trân xoáy bạo lực khốc liệt trong khu phố.

Ở trường, Sam xoay sở khá tốt. Từ một năm nay, anh học rất giỏi các môn khoa học ở trường đại học. Anh dành phần lớn thời gian để đọc sách và những nỗ lực của anh đã mang lại kết quả : anh đứng đầu khóa học và nếu tiếp tục anh có thể vào học ở một trong những trường y khoa hàng đầu ở bờ Đông. Tuy vậy, anh sẽ cần đến tiền. Hiện giờ, anh có một khoản học bồng nhỏ, song năm sau nó sẽ hết hạn. Vì thế anh phải ký kết một khoản vay cho sinh viên nhưng như thế cũng không đủ. Từ năm mười bốn tuổi, hè nào anh cũng lao động, dành dụm từng đồng một và gần như bí mật, với hy vọng gom góp được một khoản nho nhỏ. Hè năm đó, anh tìm được việc phục vụ bàn bãi biển ở Atlantic City, một trong những khách sạn sang trọng ven bờ đại dương. Thành phố chơi bờicách New York hai giờ rưỡi đường, Sam ngủ lại đó và chỉ về gặp Federica hai tuần một lần vào ngày nghỉ.

Chặng đường của cô gái nhiều trắc trở hơn. Cô vừa học nốt khóa học đào tạo nghề làm vườn vừa làm việc bán thời gian cho một trang trại nuôi ong ở Massachusetts. Nơi có tới hàng chục tổ ong được đặt trong các khu vườn và các công viên Manhattan.

Phải nói rằng dù chưa từng dùng ma túy bao giờ, song thình thoảng cô vẫn buôn bán tí chút để thanh toán tiền ma túy và thuốc điều trị cho mẹ cô vì sức khỏe của bà ngày càng sa sút.

Sam nhiều lần gọi điện đề nghị cho cô mượn tiền; cô từ chối kiên quyết tới mức anh phải thôi nài nỉ. Anh cũng đã tìm cách khuyên can cô, cảnh báo cô rằng điều đó rồi sẽ kết thúc tôi tệ, thậm chí còn giảng đạo đức cho cô: nếu phan phát ma túy, cô sẽ khiến cuộc sống của nhiều người khác gặp nguy hiểm và như vậy là đồng lõa với bọn buôn lậu. Song chẳng tác dụng gì. " Anh đừng bắt em phải để mẹ em chết dần" là câu trả lời duy nhất của Federica và mọi tranh cãi luôn dừng lại ở đó.

Suốt một thời gian dài, cô chỉ giao một vài gói hàng ở chỗ này hay chỗ khác, trong lúc đi kiểm tra các tổ ong. Rồi vào đầu mùa hè năm ấy, bênh của mẹ cô trở nên trầm trọng. Bà cần được phẫu thuật sớm, điều này đòi hỏi một khoản tiền lớn.

Đó là lúc Dustface xuất hiện trong cuộc đời họ. Tên buôn lậu dữ dằn và hung bạo này kiểm soát một phần khu phố. Dustface để mắt tới Federica từ trước đó một thời gian. Ở cô toát ra vẻ bí ẩn đôi khi vẫn thấy ở những phụ nữ Nam Mỹ, ngay cả khi họ sống trong nghèo khó. Sự pha trộn giữa vè kiêu hãnh và phong thái tao nhã chắc chắn có thể giải thích được vì sao trong các trận càn quét, cảnh sát không bao giờ làm phiền đến cô. Cái may mắn đặc biệt ấy của cô đã gợi cho Dustface ý tưởng: sử dụng Federica làm trung gian mang ma túy vào Mỹ.

Nếu Sam biết được dự định đó thì hẳn anh đã phản đối, thậm chí chống lại để bảo vệ bạn gái mình. Thật không may, đó là thời kỳ anh làm việc tại Atlantic City. Không hề nói với anh một lời, Federica bay sang Caracas và trong chuyến bay trở về, cô mang theo mình ba chục viên cocain mà cô đã nuốt chửng trước đó một chút. Đây là một trong những giờ phút kinh khủng nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của cô. Suốt chuyến bay cô cầu nguyện, co rúm mình vì sợ lớp nhựa dẻo bọc bên ngoài bị rách và chất gây nghiện lan ra trong dạ dày cô.

Cơn ác mộng cuối cùng cũng kết thúc, cô tự thề sẽ không bao giờ tái phạm, nhưng Dustface quay lại tấn công, đề nghị cô một nhiệm vụ khác ít mạo hiểm hơn kèm một khoản hoa hồng hậu hĩnh. Lần này, cô phải sang Mexico và mang về một ô tô với các lốp chứa đầy cocain.

Bất hạnh thay, Federica không từ chối được. Cô sang Mexico nơi người ta giao cho cô một chiếc Toyota bình thường chứa đầy bột trắng. Sau khi qua khỏi trạm kiểm soát ở biên giới Tijuana mà không hề bị kiểm tra, cô phóng thẳng về New York, đi theo những con đường ít người qua lại nhất và tôn trọng giới hạn tốc độ. Cho tới đó, mọi việc vẫn diễn ra trôi chảy; tuy nhiên lẽ ra cô phải thận trọng bởi rõ ràng, vận may không bao giờ dừng quá lâu ở một địa chỉ.

Trên đường Baton Rouge, cô dừng lại ở một trạm xăng để đổ đầy bình và đi vệ sinh. Khi quay ra bãi đậu xe chiếc ô tô đã biến mất. Là sự tình cờ bất hạnh hay một vụ lừa đảo? Đối với cô, hậu quả sẽ đều như nhau: chẳng bao giờ cô có thể trả được một số tiền lớn như vậy và một tên du côn như Dustface hoàn toàn có khả năng tra tấn cô, biến cô thành nô lệ và rất có thể giết chết cô.

Không thể quay về Brooklyn, cô đi xe buýt tới Atlantic City và ngã khuỵu trong vòng tay của Sam.

Nghe xong chuyện của bạn gái, chàng trai trẻ bàng hoàng. Tuyệt vọng, Federica nói với anh cô dự định trốn khỏi New York vĩnh viễn. Sam tìm cách ngăn cản cô: họ không thể vứt bỏ mọi thứ chỉ trong một ngày. Và nếu hôm nay họ chạy trốn thì họ sẽ phải chạy trốn cả đời. Vì vậy, đối với anh, tuyệt đối không có chuyện chạy trốn. Anh vẫn luôn tin rằng số phận đã ràng buộc họ với nhau và họ sẽ cùng thoát hoặc cùng chết. Bản thân anh tự trách mình đã không lường trước được tai họa này, song chẳng phải người ta vẫn luôn tránh không nhìn vào những gì khiến người ta sợ hãi hay sao? Suốt đêm, Federica xin anh tha lỗi vì đã lôi anh vào những rắc rối của cô, nhưng lúc đó đã quá muộn để có thể quay đầu lại.

Cuối cùng, Sam quyết định quay lại New York một mình. Anh ngây thơ nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đó. Chuyến xe buýt Greyhound thả anh xuống khi bóng tối đã buông trên khu phố. Thoạt tiên anh trở về nhà rồi quyết định đích thân đến gặp trực tiếp Dustface. Trước đó, anh đào cái hộp sắt đựng tiền tiết kiệm dành cho việc học của anh lên. Trong hộp có gần sáu ngàn đô la. Anh sẵn sàng đưa toàn bộ số tiền cho Dustface để đổi lấy lời hứa của hắn để Federica yên. Nhưng trước hết, anh tạt qua chỗ bạn anh là Shake Powell. Cậu ta không có ở nhà và Sam nghĩ như thế còn tốt hơn. Anh leo tường nhà lên tận mái và từ đó, anh lẻn qua cửa sổ vào phòng ngủ của bạn. Sau một viên gạch trên tường, anh tìm thấy khẩu súng mà Shake cất giữ. Đó là một kiểu hốc chứa đồ mà anh trai cậu ấy để lại trước khi đi nghỉ một thời gian ở Đảo Rykers. Sam kiểm tra xem trong súng có đạn chưa rồi nhét vào túi trong áo khoác. Anh vẫn luôn tránh xa các thứ vũ khí, nhưng anh biết rằng lần này mọi sự có thể sẽ không diễn ra như anh mong muốn.

Bằng chứng, suy cho cùng, cho thấy anh cũng không đến nỗi ngây thơ lắm...

- Này, người con thống thái. lúc nào cũng trong trạng thái mơ mộng!

Một giọng nói khàn khàn đưa bác sĩ quay lại với thực tại và khiến anh khẽ rùng mình như vừa bị bắt lỗi. Anh ngước mắt nhìn lên và thấy Shake Powell vừa bước vào qua cửa kho chứa đồ thờ.

- Shake!

- Chào cậu, Sam.

Thật khó tin, nhưng Shake đã trở thành linh mục và tiếp nối công việc của cha Hathaway. Anh đã suy sụp ssau khi anh trai anh tự vẫn trong tù và chắc chắn đã tìm thấy trong tín ngưỡng sự an ủi mà anh rất cần.

Như thời còn trẻ, hai người siết tay nhau theo một quy tắc phức tạp rồi vỗ vai nhau rất thân mật. Chàng trai da đen cao lớn vẫn đồ sộ như một đồ vật. Anh mặc quần jean bạc màu và áo khoác hơi chật so với các cơ bắp của anh. Bộ râu quai nón cắt ngắn và bạc màu nổi bật trên làn da đen và ráp. Shake là một mãnh lực tự nhiên, một sự tập trung năng lượng và Sam không thể đếm xuể số lần trước kia anh bạn này từng bảo vệ anh khỏi bị hành hung trong khu phố.

- Cậu thế nào?

- Khá hơn lần trước.

Hai người đàn ông không gặp nhau từ mười năm nay, dù thi thoảng họ vẫn giữ liên lạc. Như Shake khuyên anh sau cái đêm khủng khiếp ấy, Sam đã cắt đứt mọi quan hệ với khu phố dù đối với anh việc không được ở gần người bạn trai duy nhất anh từng thân thiết là một cái giá phải trả quá đắt.

- Tớ cảm thấy như vừa mới hôm qua, - Sam nói để ngăn mình khỏi quá xúc động.

- Với tớ thì như cả thiên thu rồi. Lần cuối gặp nhau chúng mình vẫn là hia đứa trẻ còn hôm nay cạu mặc một bộ trang phục doanh nhân và làm việc trong một bệnh viện lớn.

- Một phần là nhờ cậu đấy.

- Cậu đừng huyên thuyên nữa đi!

Họ dừng lại hồi lâu trong yên lặng rồi Shake quyết định.

- Tớ đã biết chuyện Federica và tớ có gọi điện nhiều lần cho cậu...

- Tớ biết, tớ đã nhận được những lời nhắn của cậu và thực sự chúng giúp tớ cảm thấy dễ chịu hơn, dù tớ không gọi lại.

Rồi như được dẫn dắt bởi giác quan thứ sáu, Shake hỏi:

- Cậu gặp rắc rối phải không, anh bạn?

- Ai mà chẳng gặp cơ chứ?

- Vậy hãy ra đây kể cho tớ nghe với một tách cà phê. Đây có thể là ngôi nhà của Chúa thật, song lại lạnh khủng khiếp!

Shake sống trong một căn hộ nhỏ, sạch sẽ và gọn gàng, nằm ngay phía sau nhà thờ. Anh mời Sam ngồi lên một trong những chiếc ghế đẩu ở phòng khách và đi vòng ra sau quầy để chuẩn bị hai ly expresso bằng một chiếc máy pha cà phê cổ lỗ sĩ mạ crom vẫn được sử dụng trong các quán bar lâu đời kiểu Ý. Trên giá chất đầy những chiếc cúp mà Shake giành được trong các trận đấm bốc. Nhưng để người ta khỏi tưởng nhầm đây là cách ca tụng bạo lực, vị linh mục đã cho đóng khung một câu nói của Shakespeare: " Máu không thể được rửa bằng máu, mà phải được rửa bằng nước."

- Cậu nếm đi, rồi phát biểu cho tớ xem nào, - anh vừa nói vừa đặt một tách cà phê sánh bọt trước mặt bác sĩ.

- Cà phê Colombia à ?

- Cà phê Jamaica: hiệu Blue Mountain. Nổi tiếng đấy, đúng không?

Sam gật đầu xác nhận.

- Nhìn này, - Shake đưa tay chỉ vào một mẩu báo đính trên xà gỗ, - tớ đã cắt bài báo nói về cậu trong tờ New York Times ra đấy.

- Bài báo nói chủ yếu về bệnh viện, chứ không phải về tớ, - Sam đáp.

- Xem ra cậu vẫn đóng vai khiêm tốn...

Sam nhún vai.

- Tớ cũng đã nhận được các khoản đóng góp của cậu, - Shake nói tiếp - Năm ngàn đô la vào mỗi kỳ Noel cho các hoạt động từ thiện của nhà thờ...

- Tớ tin cậu : tớ biết chắc số tiền ấy được dùng đúng mục đích.

- Ừ, nhưng cậu không cần phải gửi nhiều như thế.

- Đó cũng là một cách để trả món nợ của tớ, - Sam giải thích. - Khi tớ rời khỏi đây cùng Federica, cha Hathaway đã cho bọn tớ mượn tiền.

- Tớ biết : có lần cha đã nói với tớ rằng đó là khoản đầu tư đúng đắn nhất mà cha từng thực hiện trong suốt cuộc đời.

- Nhưng số tiền đó là để dành cho người nghèo...

Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt Shake.

- Thế cậu chưa bao giờ nghĩ rằng vào thời đó, chúng mình chính là người nghèo ư?

Sam suy nghĩ một lát về sự thật ấy, rồi anh quay về phía bạn.

- Shake, tớ gặp phải một chuyện hoàn toàn điên rồ...

Sam kể cho bạn nghe những sự kiện kì lạ đã làm thay đổi cuộc sống của anh những ngày gần đây. Thoạt đầu anh kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ với Juliette, về cảm giác thoải mái và viên mãn mới mẻ tràn ngập trong anh, mang đến cho anh hy vọng tìm lại được tình yêu và có thể lập gia đình. Cả những lo sợ và lúng túng đã ngăn anh không giữ cô ở lại và gây ra những rắc rối pháp lý sau vụ nổ máy bay. Rồi một cách ngập ngừng, Sam kể tiếp những trao đổi gay gắt khó tin giữa anh và một nữ cảnh sát tự nhận mình là sứ giả, từ trên trời rơi xuống để hoàn thành một sứ mệnh đen tối.

Shake Powell là một linh mục rất thực tế, anh đã quyết địnhh dành cả cuộc đời mình để giúp đỡ những gia đình nghèo khổ và những đứa trẻ gặp khó khăn. Hiểu biết tâm linh không phải là thế mạnh của anh và anh luôn để công việc nghiên cứu về tôn giáo cho những người khác. Cũng vì thế, anh không mấy tin vào hiện tượng siêu nhiên. Tuy vậy, anh vẫn chăm chú lắng nghe những tâm sự của bạn. Anh biết Sam không phải một kẻ cuồng tưởng hay cả tin. Trong cuộc đời thầy tu của mình, chính Powell cũng đã một đôi lần phải đối diện với những chuyện không thể giải thích. Mỗi lần những chuyện như thế xảy ra, anh thường khuất phục trước một số thứ vượt quá hiểu biết của mình. Có lẽ đôi khi anh phải chấp nhận không hiểu tất cả. Anh mong rằng mọi câu trả lời rồi sau này sẽ được giải đáp.

Nhưng nghe Sam kể, anh không thể ngăn nổi mình cảm thấy càng lúc càng băn khoăn, sự lo lắng của anh tăng thêm hẳn một bậc khi bác sĩ kể tới thỏa thuận kinh khủng mà người sứ giả kia đã nói với Sam.

Suốt một hồi khá lâu, chẳng ai nói năng gì cả, rồi Shake phá vỡ yên lặng bằng một câu hỏi mà anh buộc phải đặt ra, dù anh đã biết trước câu trả lời:

- Cậu vẫn không có đức tin phải không?

- Ừ, - Sam thú nhận, - tớ không muốn nói dối cậu.

- Cậu biết không, đôi khi, Chúa...

- Để Chúa sang một bên, được không?

Rồi anh rời khỏi ghế và ra ngồi trên bậu cửa sổ. Qua lớp cửa kính, anh nhìn thấy sân bóng rổ nơi anh từng chơi biết bao lần. Anh vẫn giữ được một số kỷ niệm rời rạc. Có những ngày anh cảm thấy thực sự vui vẻ, còn những ngày khác anh thường bị lũ trẻ lớn hơn, bạo gan hơn bắt nạt. Dù sao đi nữa, anh cũng chưa bao giờ khóc trước mặt chúng, điều đó suy cho cùng cũng đã là một dạng chiến công.

- Theo cậu, tớ phải làm gì? - Sam hỏi và quay về phía bạn.

Shake thở dài.

- Điều cậu vừa kể cho tớ nghe thật phức tạp, nhưng cậu không nên nhượng bộ trước sự đe dọa của người tự xưng là sứ giả ấy.

- Nhưng cô ta đe dọa cả tớ lẫn Juliette.

- Nếu vậy, cậu sẽ phải đối đầu với cô ta, và đừng lôi kéo Juiette vào những chuyện này. Hãy bảo vệ người phụ nữ mà cậu yêu, Sam ạ.

- Tớ không dám chắc mình có đủ khả năng.

- Lúc nào cậu cũng coi thường bản thân...

- Không, tớ nói nghiêm túc đấy. Tớ chẳng biết phải làm gì.

- Hãy để tớ nói chuyện với cô ta, - Shake vừa nói vừa đấm nắm đấm vào lòng bàn tay. - Hãy để tớ dọa cho cô ta một mẻ...

- Không, Shake, làn này không làm thế được đâu. Người phụ nữ đó có vè chẳng sợ hãi điều gì.

- Chẳng có ai là không sợ điều gì, Sam ạ. Điều này thì cậu hãy tin ở tớ.

- Vị linh mục tiễn Sam ra xe. Khu phố đang dần dần thức dậy: cửa hàng thực phẩm Hàn Quốc đang mở cửa, một chiếc xe buýt trường học đang chậm chạp đi vào phố và cửa hàng Frisco bắt đầu nhộn nhịp.

- Cậu biết không, không một ngày nào trôi qua mà tớ không nhớ lại cái buổi tối cách đây mười năm khi tớ...

- Phải, tớ biết, - Shake cắt ngang. - Nếu điều này có thể an ủi cậu, thì chính tớ cũng nghĩ về chuyện đó mỗi ngày.

- Cậu có chắc chúng ta đã hành động đúng đắn không?

Một làn ánh sáng tâm hồn như lóe lên trong mắt linh mục.

- Người ta không bao giờ biết chắc mình có quyết định đúng hay không. Chính điều đó đã tiếp thêm gia vị cho sự tự do mà Chúa dành tặng chúng ta.

Sam quay chìa khóa trong ổ rồi hạ thấp cửa xe.

- Tạm biệt Shake.

- Nhớ cho tớ biết tin và đừng ngại nếu cậu cần đến tớ. Và đừng có đợi đến mười năm sau mới quay lại đấy! Mọi chuyện đã dần đi vào quên lãng và cậu không phải sợ gì ở đây nữa cả.

Sam vẫn chưa hoàn toàn tin điều đó.

Anh khởi động máy sau khi đưa tay vẫy lần cuối.

Rất nhiều lần anh đặt cho mình câu hỏi : điều gì sẽ xảy ra nếu anh không tìm đến Dustface với một khẩu súng trong túi áo? và suy cho cùng, liệu anh có thực sự cứu thoát Federica vào buổi tối hôm đó không, hay anh chỉ trì hoãn một kết cục hiển nhiên bi thảm?

Kể từ ngày hôm đó, dù gì đi nữa, anh cũng đã học được một điều là con người luôn thuộc một trong hai nhóm: nhóm những kẻ đã từng giết người và những kẻ chưa từng.

Anh thuộc nhóm người thứ nhất.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện