“Đến giờ cầu nguyện!” tiếng hô vang vọng khắp cả khu trại giam.
Danny và Nick đứng đợi cạnh cửa, còn Al Mập vẫn ngáy ngon lành, tuân thủ triệt để niềm tin rằng khi anh đang ngủ có nghĩa là anh không ở trong tù. Chiếc chìa khóa nặng nề tra vào ổ và cánh cửa mở ra. Danny và Nick hòa vào dòng người tới nhà nguyện trong tù.
“Anh có tin vào Thượng đế không?” Danny hỏi khi họ theo cầu thang xoắn ốc xuống tầng dưới.
“Không,” Nick nói. “Tôi là người theo thuyết bất khả tri.”
“Đó là cái gì?”
“Có những người tin rằng chúng ta không thể biết Thượng đế có tồn tại hay không, ngược lại với họ là đám vô thần, luôn nói rằng Thượng đế không tồn tại. Nhưng dù sao, Thượng đế cũng là một lý do tốt để được ra khỏi phòng giam một tiếng mỗi sáng Chủ nhật, và dù sao, tôi cũng thích hát. Không thể nhắc đến những bài thuyết giáo rất hay của cha tuyên úy - dù ông ấy thường bỏ nhiều thời gian quá xá vào việc sám hối.”
“Cha tuyên úy?”
“Trong quân đội người ta gọi linh mục như vậy,” Nick giải thích.
“Quá xá?”
“Quá mức, lâu hơn cần thiết. Cậu thì sao? Cậu có tin vào Thượng đế không?”
“Đã từng, trước khi những việc này “sảy ra”
“Xảy ra,” Nick nói.
“Xảy ra,” Danny nhắc lại. “Beth và tôi theo Thiên chúa giáo La Mã, nên chúng tôi gần như thuộc làu Kinh thánh, dù tôi chẳng thể đọc nổi nó.”
“Chiều Chủ nhật này Beth có tới không?”
“Dĩ nhiên,” Danny nói, nụ cười xuất hiện trên mặt. “Tôi không thể chờ ‘làng’ lâu hơn nữa.”
“Nàng,” Nick sửa.
“Nàng,” Danny nghiêm túc nhắc lại.
“Cậu có bao giờ bực mình khi tôi kiên tục nhắc cậu sửa sai?”
“Cũng có,” Danny thú nhận, “nhưng tôi biết Beth sẽ rất vui lòng, vì cô ấy luôn muốn tôi tự hoàn thiện bản thân. Hơn thế, tôi cũng rất ‘chông ngóng’ đến ngày có thể sửa sai cho anh.”
“Trông ngóng.”
“Trông ngóng,” Danny nhắc lại. Họ đến cửa nhà nguyện, và phải xếp hàng chờ đợi khám người trước khi được phép vào trong.
“Tại sao phải mất công khám chúng ta vậy?” Danny hỏi.
“Bởi vì đây cũng là một trong vài dịp hiếm hoi tù nhân ở bốn khu phòng giam nhóm họp ở một chỗ, và sẽ có cơ hội trao đổi ma túy hoặc tin tức.”
“Nhóm họp?”
“Tụ tập với nhau.”
“Anh đánh vần từ đó cho tôi,” Danny yêu cầu.
Họ bước tới hàng trên cùng, nơi hai cai ngục đang tiến hành việc khám xét - một phụ nữ bé nhỏ khoảng ngoài bốn mươi tuổi, hẳn là chưa chết đói vì kiêng đồ ăn tù, và một người đàn ông trẻ, trông như người ngồi bàn giấy quá nhiều. Hầu hết tù nhân đều muốn bị khám bởi người phụ nữ kia.
Danny và Nick vào trong nhà nguyện, một ăn phòng chữ nhật rộng rãi khác, kê đầy ghế dài đối diện với bệ cao bày cây thánh giá bạc. Trên bức tường gạch đằng sau bệ là bức bích họa mô tả Bữa ăn cuối cùng của Thiên chúa (The Last Supper). Nick cho Danny biết tranh này được một tên giết người vẽ nên, và còn được coi là mẫu mực để học theo vào thời điểm đó.”
“Cũng đẹp đấy,” Danny nói.
“Vì anh là sát nhân không có nghĩa là anh không thể có các tài năng khác,” Nick nói. “Đừng quên Caravaggio.”
“Tôi không nghĩ mình biết ông ta,” Nick thú nhận.
“Hãy giở trang 127 sách thánh ca,” tiếng giáo sĩ vang lên, “và tất cả chúng ta cùng hát ‘Ngài Là Đấng Anh Hùng.’”
“Tôi sẽ giới thiệu Caravaggio cho cậu ngay sau khi về buồng giam,” Nick hứa, khi cây organ nhỏ dạo khúc hợp âm mở màn.
Vừa hát Nick vừa thắc mắc có phải Danny đang nhìn vào sách hay anh thuộc lòng các bài thánh ca sau nhiều năm đi lễ nhà thờ nơi anh sinh sống.
Nick nhìn quanh nhà nguyện. Anh không nhạc nhiên khi thấy các hàng ghế chật cứng, cứ như sân vận động vào buổi chiều thứ Bảy vậy. Một nhóm tù nhân đứng túm tụm với nhau ở hàng ghế sau mải mê chuyện trò, trao đổi chi tiết về những người mới vào đang cần ma túy, thậm chí còn không thèm mở sách thánh ca ra. Họ đã coi Danny là “bình vôi.” Ngay cả lúc quỳ xuống họ cũng chẳng buồn giả vờ cầu nguyện; việc xưng tội rõ là không có trong đầu những người này.
Quãng thời gian duy nhất họ im lặng là khi giáo sĩ thuyết giảng. Dave, tên in đậm trên chiếc phù hiệu nhỏ gắn ở ve áo nắm chặt áo choàng, trở thành một linh mục đang bùng nổ khi lựa chọ chủ đề giết người cho bài thuyết giảng hôm nay. Có tiếng kêu lớn “Hallelujah!” ở ba hàng ghế đầu, chủ yếu phát ra bởi nhóm người Carribean gốc Phi, chắc là biết một hai điều về chủ đề này.
Dave mời người nghe cầm quyển Kinh thánh lên, mở sách Sáng thế, sau đó cho họ biết rằng Cain chính là kẻ sát nhân đầu tiên. “Cain đố kỵ với thành công của em trai mình,” ông ta giải thích, “nên quyết định loại bỏ Abel.” Dave sau đó quay sang Moses, người bị coi là đã giết một người Ai Cập và nghĩ rằng đã thoát tội, nhưng không, bởi Thượng để đã thấy, và ông ta đã bị trừng phạt trong suốt quãng đời còn lại.
“Tôi không nhớ gì về chuyện này,” Danny nói.
“Tôi cũng vậy,” Nick thú nhận. “Tôi nghĩ rằng Moses ra đi thanh thản trên giường ở tuổi một trăm ba mươi.”
“Bây giờ tôi muốn tất cả lật tới sách Samuel,” Dave tiếp tục, “nơi mọi người sẽ biết một ông vua cũng là kẻ sát nhân.”
“Hallelujah” vẫn là tiếng hô từ ba hàng ghế đầu.
“Đúng, Vua David chính là kẻ sát nhân,” Dave nói. “Ông ta đã trừ khử Uriah xứ Hititie, vì mê đắm Bathsheba, vợ người này. Nhưng Vua David rất xảo quyệt, bởi không muốn ai biết mình là người gây ra cái chết của Uriah, nên ông ta đẩy Uriah lên hàng đầu trong trận đánh sắp tới, để chắc chắn rằng người phải bị giết. Nhưng Thượng đế đã thấy ý đồ này và trừng phạt ông ta, vì Thượng đế nhìn thấy mọi vụ giết người và luôn trừng phạt những kẻ không tuân theo những điều răn của Người.”
“Hallelujah!” vẫn là người ở ba hàng ghế đầu lên tiếng.
Dave kết thúc bằng phần cầu nguyện với những từ “thấu hiều” và “tha thứ” được lặp đi lặp lại. Cuối cùng ông ta ban phúc cho giáo đoàn, có lẽ là đông nhất ở London trong buổi sáng hôm đấy.
Lúc đứng dậy, Danny bình phẩm. “Khác hẳn những buổi lễ tôi thường tham gia ở St Mary.” Nick nhướng mày. “Ở đây không nhận tiền quyên góp.”
“Họ lại bị khám lần nữa trước khi ra khỏi nhà nguyện, và lần này có ba người tù bị kéo sang một bên trước khi bị giải đi theo hành lang màu tím.
“Chuyện đó là thế nào,” Danny hỏi.
“Họ bị biệt giam,” Nick giải thích. “Tàng trữ ma túy. Ít nhất bảy ngày.”
“Thật không đáng chút nào,” Danny nói.
“Họ không nghĩ vậy đâu,” Nick nói, “vì chắc chắn rằng họ sẽ lại làm ăn ngay sau khi hết hạn biệt giam.”
***
Danny bất giác trở nên hồi hộp khi nghĩ đến việc được gặp Beth lần đầu tiên sau nhiều tuần.
Lúc hai giờ, một tiếng trước khi Beth vào, Danny đang đi lại trong phòng giam. Anh đã giặt và là chiếc sơ-mi, quần jeans và mất khá nhiều thời gian gội đầu. Anh tự hỏi liệu Beth sẽ ăn mặc ra sao. Cứ như là lần đầu tiên anh đưa nàng đi chơi vậy.
“Trông tôi thế nào?” anh hỏi. Nick cau mày. “Tệ quá hả?”
“Chỉ là...”
“Chỉ là sao? Danny hỏi.
“Tôi nghĩ có thể Beth sẽ muốn anh cạo râu.”
Danny nhìn mình trong tấm gương thép ở trên bồn rửa. Anh liếc nhanh đồng hồ.
Danny và Nick đứng đợi cạnh cửa, còn Al Mập vẫn ngáy ngon lành, tuân thủ triệt để niềm tin rằng khi anh đang ngủ có nghĩa là anh không ở trong tù. Chiếc chìa khóa nặng nề tra vào ổ và cánh cửa mở ra. Danny và Nick hòa vào dòng người tới nhà nguyện trong tù.
“Anh có tin vào Thượng đế không?” Danny hỏi khi họ theo cầu thang xoắn ốc xuống tầng dưới.
“Không,” Nick nói. “Tôi là người theo thuyết bất khả tri.”
“Đó là cái gì?”
“Có những người tin rằng chúng ta không thể biết Thượng đế có tồn tại hay không, ngược lại với họ là đám vô thần, luôn nói rằng Thượng đế không tồn tại. Nhưng dù sao, Thượng đế cũng là một lý do tốt để được ra khỏi phòng giam một tiếng mỗi sáng Chủ nhật, và dù sao, tôi cũng thích hát. Không thể nhắc đến những bài thuyết giáo rất hay của cha tuyên úy - dù ông ấy thường bỏ nhiều thời gian quá xá vào việc sám hối.”
“Cha tuyên úy?”
“Trong quân đội người ta gọi linh mục như vậy,” Nick giải thích.
“Quá xá?”
“Quá mức, lâu hơn cần thiết. Cậu thì sao? Cậu có tin vào Thượng đế không?”
“Đã từng, trước khi những việc này “sảy ra”
“Xảy ra,” Nick nói.
“Xảy ra,” Danny nhắc lại. “Beth và tôi theo Thiên chúa giáo La Mã, nên chúng tôi gần như thuộc làu Kinh thánh, dù tôi chẳng thể đọc nổi nó.”
“Chiều Chủ nhật này Beth có tới không?”
“Dĩ nhiên,” Danny nói, nụ cười xuất hiện trên mặt. “Tôi không thể chờ ‘làng’ lâu hơn nữa.”
“Nàng,” Nick sửa.
“Nàng,” Danny nghiêm túc nhắc lại.
“Cậu có bao giờ bực mình khi tôi kiên tục nhắc cậu sửa sai?”
“Cũng có,” Danny thú nhận, “nhưng tôi biết Beth sẽ rất vui lòng, vì cô ấy luôn muốn tôi tự hoàn thiện bản thân. Hơn thế, tôi cũng rất ‘chông ngóng’ đến ngày có thể sửa sai cho anh.”
“Trông ngóng.”
“Trông ngóng,” Danny nhắc lại. Họ đến cửa nhà nguyện, và phải xếp hàng chờ đợi khám người trước khi được phép vào trong.
“Tại sao phải mất công khám chúng ta vậy?” Danny hỏi.
“Bởi vì đây cũng là một trong vài dịp hiếm hoi tù nhân ở bốn khu phòng giam nhóm họp ở một chỗ, và sẽ có cơ hội trao đổi ma túy hoặc tin tức.”
“Nhóm họp?”
“Tụ tập với nhau.”
“Anh đánh vần từ đó cho tôi,” Danny yêu cầu.
Họ bước tới hàng trên cùng, nơi hai cai ngục đang tiến hành việc khám xét - một phụ nữ bé nhỏ khoảng ngoài bốn mươi tuổi, hẳn là chưa chết đói vì kiêng đồ ăn tù, và một người đàn ông trẻ, trông như người ngồi bàn giấy quá nhiều. Hầu hết tù nhân đều muốn bị khám bởi người phụ nữ kia.
Danny và Nick vào trong nhà nguyện, một ăn phòng chữ nhật rộng rãi khác, kê đầy ghế dài đối diện với bệ cao bày cây thánh giá bạc. Trên bức tường gạch đằng sau bệ là bức bích họa mô tả Bữa ăn cuối cùng của Thiên chúa (The Last Supper). Nick cho Danny biết tranh này được một tên giết người vẽ nên, và còn được coi là mẫu mực để học theo vào thời điểm đó.”
“Cũng đẹp đấy,” Danny nói.
“Vì anh là sát nhân không có nghĩa là anh không thể có các tài năng khác,” Nick nói. “Đừng quên Caravaggio.”
“Tôi không nghĩ mình biết ông ta,” Nick thú nhận.
“Hãy giở trang 127 sách thánh ca,” tiếng giáo sĩ vang lên, “và tất cả chúng ta cùng hát ‘Ngài Là Đấng Anh Hùng.’”
“Tôi sẽ giới thiệu Caravaggio cho cậu ngay sau khi về buồng giam,” Nick hứa, khi cây organ nhỏ dạo khúc hợp âm mở màn.
Vừa hát Nick vừa thắc mắc có phải Danny đang nhìn vào sách hay anh thuộc lòng các bài thánh ca sau nhiều năm đi lễ nhà thờ nơi anh sinh sống.
Nick nhìn quanh nhà nguyện. Anh không nhạc nhiên khi thấy các hàng ghế chật cứng, cứ như sân vận động vào buổi chiều thứ Bảy vậy. Một nhóm tù nhân đứng túm tụm với nhau ở hàng ghế sau mải mê chuyện trò, trao đổi chi tiết về những người mới vào đang cần ma túy, thậm chí còn không thèm mở sách thánh ca ra. Họ đã coi Danny là “bình vôi.” Ngay cả lúc quỳ xuống họ cũng chẳng buồn giả vờ cầu nguyện; việc xưng tội rõ là không có trong đầu những người này.
Quãng thời gian duy nhất họ im lặng là khi giáo sĩ thuyết giảng. Dave, tên in đậm trên chiếc phù hiệu nhỏ gắn ở ve áo nắm chặt áo choàng, trở thành một linh mục đang bùng nổ khi lựa chọ chủ đề giết người cho bài thuyết giảng hôm nay. Có tiếng kêu lớn “Hallelujah!” ở ba hàng ghế đầu, chủ yếu phát ra bởi nhóm người Carribean gốc Phi, chắc là biết một hai điều về chủ đề này.
Dave mời người nghe cầm quyển Kinh thánh lên, mở sách Sáng thế, sau đó cho họ biết rằng Cain chính là kẻ sát nhân đầu tiên. “Cain đố kỵ với thành công của em trai mình,” ông ta giải thích, “nên quyết định loại bỏ Abel.” Dave sau đó quay sang Moses, người bị coi là đã giết một người Ai Cập và nghĩ rằng đã thoát tội, nhưng không, bởi Thượng để đã thấy, và ông ta đã bị trừng phạt trong suốt quãng đời còn lại.
“Tôi không nhớ gì về chuyện này,” Danny nói.
“Tôi cũng vậy,” Nick thú nhận. “Tôi nghĩ rằng Moses ra đi thanh thản trên giường ở tuổi một trăm ba mươi.”
“Bây giờ tôi muốn tất cả lật tới sách Samuel,” Dave tiếp tục, “nơi mọi người sẽ biết một ông vua cũng là kẻ sát nhân.”
“Hallelujah” vẫn là tiếng hô từ ba hàng ghế đầu.
“Đúng, Vua David chính là kẻ sát nhân,” Dave nói. “Ông ta đã trừ khử Uriah xứ Hititie, vì mê đắm Bathsheba, vợ người này. Nhưng Vua David rất xảo quyệt, bởi không muốn ai biết mình là người gây ra cái chết của Uriah, nên ông ta đẩy Uriah lên hàng đầu trong trận đánh sắp tới, để chắc chắn rằng người phải bị giết. Nhưng Thượng đế đã thấy ý đồ này và trừng phạt ông ta, vì Thượng đế nhìn thấy mọi vụ giết người và luôn trừng phạt những kẻ không tuân theo những điều răn của Người.”
“Hallelujah!” vẫn là người ở ba hàng ghế đầu lên tiếng.
Dave kết thúc bằng phần cầu nguyện với những từ “thấu hiều” và “tha thứ” được lặp đi lặp lại. Cuối cùng ông ta ban phúc cho giáo đoàn, có lẽ là đông nhất ở London trong buổi sáng hôm đấy.
Lúc đứng dậy, Danny bình phẩm. “Khác hẳn những buổi lễ tôi thường tham gia ở St Mary.” Nick nhướng mày. “Ở đây không nhận tiền quyên góp.”
“Họ lại bị khám lần nữa trước khi ra khỏi nhà nguyện, và lần này có ba người tù bị kéo sang một bên trước khi bị giải đi theo hành lang màu tím.
“Chuyện đó là thế nào,” Danny hỏi.
“Họ bị biệt giam,” Nick giải thích. “Tàng trữ ma túy. Ít nhất bảy ngày.”
“Thật không đáng chút nào,” Danny nói.
“Họ không nghĩ vậy đâu,” Nick nói, “vì chắc chắn rằng họ sẽ lại làm ăn ngay sau khi hết hạn biệt giam.”
***
Danny bất giác trở nên hồi hộp khi nghĩ đến việc được gặp Beth lần đầu tiên sau nhiều tuần.
Lúc hai giờ, một tiếng trước khi Beth vào, Danny đang đi lại trong phòng giam. Anh đã giặt và là chiếc sơ-mi, quần jeans và mất khá nhiều thời gian gội đầu. Anh tự hỏi liệu Beth sẽ ăn mặc ra sao. Cứ như là lần đầu tiên anh đưa nàng đi chơi vậy.
“Trông tôi thế nào?” anh hỏi. Nick cau mày. “Tệ quá hả?”
“Chỉ là...”
“Chỉ là sao? Danny hỏi.
“Tôi nghĩ có thể Beth sẽ muốn anh cạo râu.”
Danny nhìn mình trong tấm gương thép ở trên bồn rửa. Anh liếc nhanh đồng hồ.
Danh sách chương