Bãi đỗ xe nhà thương không còn chỗ chứa tất cả các xe tải mới. Chúng đậu sát khít vào nhau mà Charlie phải to mồm mới giữ được một làn xe trống đề phòng trường hợp xe cứu thương cần chở bệnh nhân nhập viện. Đó là công việc của Charlie, nhân viên an ninh bãi đậu xe, kiểm soát cổng và giữ cho người lạ không xâm nhập. Y đứng dưới cái cổng xây, chớp đèn dưới ánh sáng gay gắt. Đây là lần phỏng vấn thứ năm của y.

Y giơ một cánh tay lên, không chú ý đến đám đông, mắt hướng vào cô phóng viên đứng băng tần số bốn. Ngoài đời, cô ấy đẹp tuyệt vời chẳng khác nào khi cô xuất hiện trên truyền hình. Trông cô như minh tinh màn bạc.

“Ngay chỗ ấy,” Charlie chỉ. “Chiếc xe lái đến cổng vào, chập chà chập choạng. Tông vào cái tảng xi-măng, bật ngược ra, rồi lao vào đây.” Charlie chỉ vào nơi y đang đứng. “Thật may là tôi nhảy kịp.”

Cô phóng viên gật đầu, mặt cô không hề có dấu hiệu nghi ngờ. Bụng dạ Charlie có thể tin tưởng bằng ba người thường. “Ông nói tiếp đi,” cô nói.

Charlie gãi chỗ da mỏng trên đầu. “Thì chỉ có như vậy thôi,” y tiết lộ. Cô phóng viên cười tươi, Charlie cảm thấy người nóng ran. “Cậu bé Johnny Merrimon ngồi sau vô-lăng tay lái phải không?”

“Đúng rồi. Tôi nhớ mặt cậu ta từ hồi năm ngoái. Khó mà quên được, thật đấy. Họ dán hình cô em sinh đôi của cậu ta khắp nơi. Hai người nhìn như hai giọt nước. Cậu ta người đầy vết chém, và dơ bẩn. Chiếc xe toàn máu.”

Cô phóng viên ngó mắt vào ống kính máy thu hình. “Johnny sẽ mười ba...”

“Không có lý do gì ngồi đằng sau vô-lăng tay lái...”

“Nhưng cô con gái ngồi chung xe với cậu ta là Tiffany Shore.”

Charlie gật đầu. “Cái cô mà bị bắt cóc. Phải rồi. Cô ta đấy. Mặt cô ta cũng được đăng tải trên nhật báo.”

“Cô Tiffany trông có vẻ bị thương không?” Đôi mắt cô phóng viên toát ra sự khích thích nhẹ nhàng. Đôi môi tô son để lộ hàm răng lóng lánh đầy đặn.

Charlie buông tay khỏi đầu. “Không biết thương tật như thế nào. Cô bé bị còng tay và còng được tháo ra. La mắng om sòm. Bắt đầu hét lên khi chúng tôi cố lôi cô bé ra khỏi ô tô. Cô ấy không chịu buông cánh tay của Johnny ra.”

“Còn cậu Johnny Merrimon thì sao. Cậu ta bộ dạng như thế nào?”

“Bộ dạng cậu ta? Tổ cha. Cậu ấy nhìn y như người Da đỏ hoang dã.”

“Người Da đỏ hoang dã?”

Cô phóng viên đẩy micro gần hơn. Charlie nuốt nước miếng, rời mắt khỏi môi cô phóng viên. “Phải đó. Cậu ta có mái tóc hất ngược phía sau, cô biết không, và đôi mắt đen láy. Cậu ta mình dây, ốm như con chồn, và không mặc áo. Trên cổ có đeo lông chim và xương xẩu - Tôi thấy cái xương sọ, thề trước Chúa, xương sọ - và khuôn mặt của cậu ta bôi vẽ toàn những sọc đen tuyền và đỏ, như là sọc dưa.” Y diễn tả bằng cách dùng hai ngón tay bung ra quẹt trên mặt y. “Cô hiểu không, như quẹt sơn trên mặt vậy đó.”

Cô phóng viên hứng khởi. “Vẽ mặt như những chiến binh?”

“Với tôi, cậu ta nhìn bẩn thỉu, dơ dáy, mắt trắng dã và hoang dã, thở hổn hển cứ y như mới vừa chạy bộ mười dặm đường.”

“Cậu ta có bị thương tích gì không?”

“Phần lớn là những vết chém. Xẻ thịt, tôi có thể nói như vậy. Bị xẻ thịt, người đầy máu và bùn đất. Rất khó khăn cậu ta mới buông tay khỏi vô-lăng. Họ phải kéo cậu ta ra khỏi xe. Cảnh tượng rất hỗn loạn, tôi nói cho cô nghe.” Y gật đầu. “Hỗn loạn.”

Cô phóng viên tiếp tục đẩy micro gần hơn. “Ông có nghĩ Johnny Merrimon đã cứu mạng cô bé Tiffany Shore khỏi kẻ bắt cóc cô bé không?”

“Tôi không rõ về chuyện đó.” Y ngưng và chằm chằm nhìn vào cô phóng viên. “Nhìn hai người họ không thấy rõ người nào cứu người nào.”

Hunt đứng trong căn phòng sáng, bóng ông là một vòng cong vặn dưới nền nhà được đánh bóng kỹ lưỡng. Một động mạch đập mạnh trên thái dương của ông, và một liều axít nóng bỏng dâng lên từ lồng ngực ông. Ông đang nói chuyện với sếp, cảnh sát trưởng, và ông cố gắng hết mình để không vung tay đấm một phát hạ đo ván gã.

“Làm thế chó nào mà ông bỏ sót đối tượng này?” Ông Cảnh sát trưởng có đôi vai xệ và vòng bụng càng ngày càng phát phì, nổi tiếng khắt khe, và bản năng mưu sinh của một chính trị gia. Bình thường, ông ta tránh dẫm chân xen vào chuyện của Hunt, nhưng hôm nay không phải một ngày bình thường. “Lạy Chúa tôi, Hunt, gã đó thuộc thành phần ấu dâm có tiền án.”

Hunt đếm đến ba trong yên lặng. Một bác sĩ đi qua, sau đó một y tá gầy gò đẩy chiếc giường trống. “Chúng tôi đã hai lần thẩm vấn gã. Gã cho phép chúng tôi lục soát nhà và chúng tôi đã tiến hành khám xét. Không tìm thấy gì trong nhà. Đâu phải chỉ mình gã là kẻ duy nhất có tiền án. Nhiều kẻ khác được liệt kê vào danh sách đáng nghi ngờ hơn. Nhân sự thì chỉ có giới hạn.”

“Lý do đó không đủ.”

Hunt tính toán trên đốt ngón tay. “Lần cuối cùng gã phạm tội là mười chín năm trước. Gã ta không còn bị quản thúc đã mười sáu năm, và chúng tôi không hề hay biết về cái chòi. Không có giấy phép xây dựng hoặc hoá đơn điện nước. Không dấu hiệu gì trên bản đồ thuế khoá. Nó không dùng điện công cộng, hoàn toàn tối um. Ngoài kia có khoảng mười ngàn cái chòi như vậy ở trong quận hạt và chúng ta sẽ không bao giờ biết hết. Rồi còn Levi Freemantle nữa chứ. Tôi chưa bao giờ gặp một dấu hiệu điều tra nào chắc chắn như vậy. David Wilson nói ông ta tìm thấy cô con gái. Vân tay của Freemantle tìm thấy trên thi thể Wilson...”

“Tôi đang bị đóng đinh trên thập tự giá ngoài kia.” Ông Cảnh sát trưởng phóng ngón tay chỉ về hướng nhà thương. “Trên truyền hình quốc gia.”

“Thì, chuyện đó ngoài tầm kiểm soát của tôi.”

Mắt ông Cảnh sát trưởng hẹp lại. Giọng nói ông ta nguy hiểm. “Ông thích thú chuyện này lắm có phải không?”

“Thôi đừng có ngớ ngẩn!”

“Họ đều muốn biết làm sao anh nhóc đó tìm được Tiffany Shore trong khi chúng ta không thể. Cậu nhóc đó mới có mười ba tuổi, lạy Chúa tôi, họ muốn biến nhóc tì đó thành anh hùng.”

“Chúng ta đâu biết rõ chuyện gì xảy ra ngoài kia.”

“Nhìn tôi ngu lắm hả! Nói về chuyện anh nhóc, cảm ơn luôn, ông cho gã Ken Holloway một cơ hội nhai ngấu nghiến phao câu tôi. Tôi nhận bốn cú điện thoại gọi từ toà thị sảnh. Bốn cú gọi, hai cú trong đó từ thị trưởng thành phố. Holloway đang đưa ra những lý lẽ nghiêm trọng. Gã hăm doạ sẽ kiện.”

Sự giận dữ của Hunt tăng lên một nấc. “Gã ta hành hung một viên cảnh sát của ông. Ông cũng nên quan tâm vấn đề đó.”

“Thôi ông làm ơn im dùm tôi đi Hunt. Gã ta lấy ngón tay trỏ lên ngực của ông thôi.”

“Gã ta cản mũi kỳ đà cuộc điều tra của tôi.”

“Cản trở cái gì.” Khuôn mặt ông Cảnh sát trưởng chứng tỏ còn những điều bỏ lửng.

Hunt sửng cồ. “Điều đó có nghĩa là gì?”

“Gã Holloway cho rằng ông có một sự quan tâm cá nhân với bà Katherine Merrimon. Một sự quan tâm tình cảm.”

“Chuyện đó thật vớ vẩn.”

“Vậy sao? Gã nói rằng ông vẫn hay quấy rầy gã. Gã nói ông phản kích gã.”

“Gã trở thành kẻ gây hấn. Tôi hành động như tôi thấy thích hợp.”

“Cảnh sát viên Taylor xác nhận lập luận của gã ta.”

“Cô ấy sẽ không bao giờ nói như vậy.”

“Cô ta không cần phải nói như vậy, đồ ngốc. Trong cuộc đời ngắn ngủi của cô ta, cảnh sát viên Taylor không bao giờ có thể che dấu một cảm xúc chân thật nào. Tôi chỉ việc đặt câu hỏi.”

Hunt bước ra xa, và ông Cảnh sát trưởng tiếp tục. “Cái tôi quan tâm là hành động của ông ảnh hưởng như thế nào đến tôi, cho nên tôi sẽ hỏi thẳng thừng với ông: Ông có tình ý gì với bà Katherine Merrimon?”

“Ông cứ nói thẳng ông muốn tôi làm như thế nào.”

“Tôi muốn ông trả lời câu hỏi đó.”

“Câu hỏi đó hèn hạ quá.”

Thời gian kéo dài. Hơi thở của Cảnh sát trưởng nặng nề. “Có thể ông nên nghỉ việc một thời gian.”

“Đâu có được.”

Ông Cảnh sát trưởng thở hắt, và trong giây lát trông ông ta có vẻ biết thông cảm.

“Này, Clyde. Chúng ta chưa hề tìm ra Alyssa. Và vụ án này chưa kết thúc... mọi người đưa ra các câu hỏi.”

“Về chuyện gì?”

Vẫn cái nhìn thông cảm. “Về năng lực của ông. Trước đây tôi đã từng nói với ông, ông nhìn nhận sự việc này quá cá nhân.”

“Không quá so với bất cứ nhân viên cảnh sát nào.”

“Sáng hôm nay, ông hò hét trước đám đông những người hiếu kỳ. Ông đã đá văng một thùng sơn tại hiện trường án mạng của chính ông phụ trách.” Cảnh sát trưởng quay mặt đi hướng khác, rồi lắc đầu. “Chuyện đã kéo dài cả năm trời. Tôi nghĩ ông cần một thời gian nghỉ ngơi.”

“Ông sa thải tôi đấy à?”

“Tôi yêu cầu ông nghỉ việc vài tuần lễ. Tối đa một tháng.”

“Không.”

“Như vậy đó sao?”

“Như vậy đó.”

Sự thông cảm biến mất. Phẫn nộ bùng phát. “Vậy thì để tôi nói cho ông những gì cần phải làm. Trước tiên, ông sẽ phải đứng ra nhận lãnh bất cứ mũi dùi chỉ trích nào từ toàn bộ công việc be bét ông làm. Nếu báo giới muốn một gã nào để đấm đá, tôi sẽ giao ông cho họ, và chờ xem lúc ông nhận những cú đấm đá. Tương tự với toà đô chánh. Tương tự với bố mẹ Tiffany Shore.”

“Tại sao tôi phải đồng ý những điều đó?”

“Bởi vì tôi đã bảo bọc ông trong suốt thời gian qua.”

“Tào lao.”

“Thứ hai.” Ông ta lên giọng, đập hai ngón tay vào lòng bàn tay mở. “Tôi muốn ông tránh xa gã Ken Holloway. Gã đàn ông ấy có nhiều tiền hơn cả Thượng đế, nhiều bạn bè ở những vị trí quan trọng hơn cả hai chúng ta có thể mơ nổi, và tôi không muốn những cái nhức đầu đó. Ngoài chuyện lên giường với một người phụ nữ mà ông đặc biệt quan tâm, gã ta chưa hề làm một điều gì tồi bại trong cuộc đời gã, như tôi có thể biết. Không được bắt bớ. Không có bất cứ truy tố nào. Do đó nếu gã muốn đặt ngón tay của gã lên ngực của ông, ông hãy chấp nhận chuyện đó như một thằng đàn ông. Và nếu gã ta muốn tằng tịu với ả Katherine Merrimon” ‒ Cảnh sát trưởng trỏ một ngón tay trên ngực Hunt, đẩy mạnh nó - “hãy để gã ta tự nhiên.”

Hunt nhìn Cảnh sát trưởng trút cơn bực dọc. Ông ta là kẻ nhỏ mọn, với những ưu tiên nhỏ mọn, và Hunt có những quan tâm to lớn hơn; cho nên ông chôn thật sâu cuộc đối thoại, quên phăng nó đi như giật nước bồn cầu. Quên nó đi. Tào lao. Không biết ông ta hù dọa ai? Len lỏi đi qua những dãy phòng ốc lắt léo, cuối cùng ông đến khu bệnh nhi nơi họ đang điều trị Johnny. Hunt không được phép gặp cậu bé, nhưng ông hy vọng sẽ tìm được vị bác sĩ nào đó thay đổi ý định. Thật không may, ông thấy một phụ nữ khắc khổ đang ngồi đó, hai đầu gối chập vào nhau, trên một cái ghế dài cuối dãy hành lang từ phòng bệnh của Johnny. Mái tóc bà ấy màu xám, chải hất ngược, và bộ đồ vest cắt ngắn quá cỡ. Hunt nhận ra bà ta.

Sở Xã hội.

Con bà nó.

Người phụ nữ bắt gặp ánh mắt của ông và bắt đầu đứng dậy, nhưng ông quay mặt đi trước khi bà ta có thể nói điều gì. Ông đi ra ngoài đến sảnh trước, nhưng dừng bước khi nghe giọng bà Katherine.

“Thám tử Hunt?”

Đứng bên cạnh một dãy những thang máy, bà ta nhìn rất thảm não. Hunt bước tới bên bà, và cả hai nhận thấy họ cô đơn một cách khác thường trong căn phòng đông cứng người. “Bà Katherine,” Hunt nói. “Johnny sao rồi?”

Bà xoa dọc một cánh tay, sau đó gỡ rối tóc tai khỏi hai mắt và Hunt thấy bà ta đang đứng bên bờ vực thẳm của sự suy sụp. “Không khá. Nó bị chém bảy nhát dao, hai nhát khá sâu.” Bà ta dụi một ngón tay vào hai mắt trước khi nước mắt trào ra. “Phải mất hai trăm linh sáu mũi khâu để đóng vết thương. Những vết thẹo sẽ theo nó suốt đời.”

Hunt nhìn ra phía đằng xa.

“Johnny tỉnh chưa?”

“Bây giờ thì chưa. Có lúc nó tỉnh, nhưng chỉ một chốc.”

“Cậu bé có nói điều gì không?”

“Nó hỏi về em gái Alyssa. Nó muốn biết liệu chúng ta có tìm được cô bé không.” Hunt nhìn chỗ khác, nhưng bà đặt tay lên cánh tay của ông. “Gã đó có phải cùng một người không?”

Bà ta hỏi liệu có phải Burton Jarvis cũng là kẻ bắt cóc con gái bà ta không. “Lúc này quá sớm để kết luận.”

“Phải không?” Bà bóp mạnh tay, và Hunt thấy niềm hy vọng và sự kinh sợ tràn ngập trong bà.

“Tôi không biết,” ông nói. “Chúng tôi đang điều tra vụ này. Chúng tôi đang kiểm tra. Tôi biết điều gì, bà sẽ biết điều đó. Tôi hứa.”

Bà gật đầu. “Tôi phải trở lại... nhỡ khi nó tỉnh giấc.”

Bà toan đi và Hunt chặn bà lại. Ông nghĩ thật kỹ trước khi lên tiếng.

“Bà Katherine.”

“Sao?”

“Sở Xã hội muốn nói chuyện với bà.”

“Sở Xã hội ư? Tôi không hiểu.”

“Johnny bỏ đi cả đêm. Bằng xe ô tô của bà. Một chút xíu nữa thì cậu ấy đã bị giết bởi kẻ ấu dâm có tiền án.”

Hunt dừng. “Tôi không nghĩ họ sẽ để Johnny sống chung với bà.”

“Tôi không hiểu.” Bà vội nói, “Tôi không cho phép như vậy.”

“Cậu bé đeo lông chim. Cậu bé có đuôi rắn chuông và đầu lâu xỏ của rắn hổ mang trên dây đeo cổ. Tôi không biết ông thẩm phán nào sẽ để cậu bé sống với bà. Bà có thấy báo chí truyền hình ngoài kia không? Họ là truyền thông quốc gia. CNN. FOX. Họ gọi cậu bé là Tù trưởng nhí, mọi Da đỏ Hoang dã. Bây giờ nó đã thành chuyện, và người ta chính trị hóa vấn đề. Sở Xã hội sẽ can thiệp bởi vì họ không còn chọn lựa nào khác.”

Sự bất chấp dịu xuống. “Tôi có thể làm gì?”

“Tôi không biết.”

“Làm ơn.” Móng tay bà cấu chặt cánh tay ông. “Làm ơn.”

Hunt nhìn lên và nhìn xuống căn phòng. Trong mười bảy năm, ông chưa từng vi phạm điều lệ bước qua lằn ranh - như nó đây, rõ ràng như bất cứ sợi dây nào ông từng thấy. Hoàn toàn làm chủ bản thân, Hunt bước qua lằn ranh. Tại sao? Bởi vì có nhiều thứ quan trọng hơn.

“Họ sẽ thẩm tra toàn bộ,” ông nói. “Bắt đầu bằng một cuộc thanh tra tư gia không thông báo trước.”

“Tôi không...”

“Bà cần đi về nhà ngay bây giờ. Bà cần dọn dẹp.” Tay bà đưa lên cao, chạm vào một cọng tóc rũ xuống. Hunt ngừng lại, nhưng một điều gì đó đau khổ nhoi nhói trong ông. “Bà cần phải vứt hết những thứ thuốc sái đi.”

“Tôi không...”

Hunt chặn bà. “Làm ơn đừng nói dối tôi, Katherine. Ngay lúc này, tôi là bạn của bà, không phải là cớm. Tôi là một người bạn đang cố sức giúp một người bạn khác.”

Bà nhìn đăm đăm vào mắt ông hồi lâu, sau đó nhìn xuống.

“Katherine, nhìn tôi này.” Bà ta nghiêng mặt, và nó trống rỗng dưới ánh sáng gắt.

“Tin tôi đi.”

Bà chớp mắt gạt những giọt lệ long lanh, và lời lẽ phải cố gắng lắm mới thốt ra được. “Tôi cần quá giang.”

Hunt phóng mắt nhìn qua những lớp cửa kính, quan sát đám đông. Phóng viên. Phó nhòm. Rồi tay ông đan trong tay Katherine. “Hướng này.” Ông dẫn bà đi xuống những hành lang, vào một thang máy, và thoát ra ngoài qua một cửa đôi, đằng sau cửa in dòng chữ DÀNH RIÊNG CHO GIAO HÀNG. “Xe tôi hướng này.”

“Còn xe của tôi thì sao?”

“Tạm giam giữ. Tang vật.”

Đi khoảng bảy, tám mét trong nắng gắt, bà giật tay lại. “Tôi có thể tự lo liệu.” Nhưng khi đến xe, Hunt thấy rõ ràng bà ta không thể. Hai gò má bà đỏ ửng và những ngón tay bà trắng bệch. Bà đứng ép người vào cửa xe và đầu gục xuống. Về đến nhà bà, Hunt cho xe đỗ gần cửa nhà nhất có thể. “Bà có tiền đi taxi để trở lại bệnh viện không?” Bà gật đầu. “Bà biết số điện thoại của tôi chứ?”

Bà vén tóc khỏi khuôn mặt, gặp phải ánh mắt nhìn, và một chút hãnh diện nào đó hừng lên trong ánh mắt ông.

“Tôi có vài tấm danh thiếp của ông.” Bà mở cửa, hơi nóng tràn vào nhà. Ông nhìn đôi chân của bà xoay đi, tay bà đặt trên cánh cửa. Khi bà dựa vào, giọng bà ngắt quãng. “Tôi yêu con trai tôi, thám tử.”

“Tôi biết.”

“Tôi là một người mẹ tốt.”

Bà cố gắng tự thuyết phục chính mình, nhưng độ giãn mở giữa đôi mắt bà làm cho lời nói trở nên giả dối. Johnny đang nằm trong nhà thương, và bà vẫn chai đá. “Tôi hiểu bà,” Hunt nói; nhưng đó không phải những gì ông ấy tin.

Tôi biết bà từng là một người mẹ tốt.

Tôi hy vọng bà sẽ là vậy.

Hunt cài số de.

Bà đứng dưới sân đất nhìn ông lái đi.

***

Ba mươi phút sau, Hunt có mặt ở căn chòi, điều tra hiện trường cùng với thám tử Yoakum và vài chuyên viên. Ông đứng quay lưng về phía căn nhà. “Nhìn kìa,” Yoakum nói với ông.

“Chuyện gì?”

“Cảnh sát trưởng.”

Hunt nhìn xuống con đường mòn thì thấy ông Cảnh sát trưởng đi xuyên qua lớp bụi cây thấp lè tè. Hai người phụ tá theo sau ông ta. Một cảnh sát mặc quân phục giữ những cành cây không để va vào người ông. “Tôi vừa làm chuyện này,” Hunt nói.

“Hàng tốt gói ghém trong những kiện hàng to.”

Hunt đứng khoanh tay trước ngực. Nếu ông Cảnh sát trưởng muốn kiểm tra, chuyện này bình thường, nhưng ông không vui vẻ đón nhận. Ông Cảnh sát trưởng dừng ở khoảng xa hơn năm mét và xem xét khung cảnh xung quanh, hai tay đặt trên hông, cằm hếch lên.

“Gã ta có từng xem cảnh này trong phim không nhỉ?” Yoakum thì thào.

“Im đi, John.”

“Giống y chang trong phim Patton. Con bà nó. Gã ta tưởng mình là ông tướng George C. Scott à?”

Ông Cảnh sát trưởng tiến về phía trước, thu dần khoảng cách, phái đoàn tuỳ tùng của ông kè kè sát cạnh bên. Ông ta gật đầu chào Yoakum và nhìn Hunt với ánh mắt nghiêm trọng. “Đi với tôi.”

Hunt nhìn về phía những bụi rậm hoang dã. “Ở đâu?”

Ông Cảnh sát trưởng nghiên cứu rừng lá um tùm. “Chờ chúng tôi một chốc.” Những phụ tá của ông ta giãn dần ra.

“Ông cũng vậy, ông Yoakum.”

“Tôi?” Tay đặt trên ngực. Hai mắt kinh ngạc.

“Đi.”

Yoakum đi theo sau lưng Cảnh sát trưởng trước khi ông ta bắt đầu duyệt binh, nhưng Hunt tâm trạng rối bời, không có tâm trí đâu vui đùa. Ông chằm chằm nhìn Cảnh sát trưởng, và Cảnh sát trưởng cũng vậy. Sự căng thẳng gia tăng, cuối cùng Cảnh sát trưởng lên tiếng trước. “Về chuyện hồi nãy. Có lẽ tôi hơi quá đáng.”

“Có thể vậy.”

“Nhưng cũng có thể không.”

Cảnh sát trưởng nhìn hàng cây cao giống như bức tường thành của cánh rừng. Cái chòi chỉ là một điểm bé nhỏ trong rừng xanh bạt ngàn. “Nếu ông nói với tôi ông chưa lần mò đến gần đây, tôi sẽ chấp nhận nó.”

Họ nhìn nhau chằm chằm. “Nó là một vụ án mạng khác.”

“Được.” Một cái gật nhẹ. “Cứ tạm coi là như vậy, nhưng hãy coi như đây là cơ hội cuối cùng cho ông. Bây giờ, trước khi tôi đổi ý và tống cổ ông vì sự bất tín không có cơ sở, nói tôi nghe ông khám phá được điều gì ngoài này.”

Hunt chỉ về hướng căn nhà nằm khuất tít phía sau lùm cây. “Chúng tôi tìm được nơi gã Jarvis đấu nối dây điện. Cáp ngầm chôn dưới đất năm phân. Cái chòi này hoàn toàn không dùng điện của sở điện. Và ông cũng đã thấy con đường mòn dẫn vào đây. Nó không một vết chân bước. Những thứ này không tài nào quan sát được từ căn nhà hoặc từ đường cái. Không giấy phép. Không điện nước. Nó chỉ là cái vỏ bọc. Một không gian chết.”

“Những đứa trẻ có khai thác được gì không?”

“Chúng đang được chăm sóc trong phòng yên tĩnh. Bác sĩ không cho phép tôi gặp chúng.”

Ông Cảnh sát trưởng bước vào căn chòi và Hunt theo sau. Ông cảm giác da dẻ nổi gai ớn lạnh. “Như ông thấy đó, những bức tường được chèn bằng những tấm nệm, có lẽ để hãm âm thanh. Cửa sổ được nhồi bông cách nhiệt làm từ sợi thủy tinh và nhựa và che đậy kín bằng nhựa công nghiệp thêm một lần nữa để hãm âm thanh, nhưng cũng có thể để giữ không gian này tối om. Nhìn chỗ này đi.” Hunt bước tới bức tường ở phía xa và chỉ vào một cái lỗ nhỏ, nham nhở. “Đây là nơi cô bé giật tung cái móc sắt xích chiếc còng tay của cô vào tường.” Móc sắt đã được cho vào túi tang vật và đánh số. Hunt nhặt lên và cảm nhận được cái lạnh của kim loại xuyên qua bao nhựa. Ông chìa nó ra cho ông Cảnh sát trưởng, ông ta sờ nó một lần, sau đó quỳ xuống và nhét một ngón tay vào trong tường. Nó là một cái lỗ nông. Xi-măng khô rang và vỡ vụn. “Một đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói.

“Thế làm sao cô bé ấy thoát ra khỏi cái chòi?”

Hunt dẫn Cảnh sát trưởng đến cánh cửa và bước ra ngoài. Ông chỉ vào cái ổ khoá. Nó là ổ khoá Yale, bằng thau to và chắc chắn. “Gã ta khóa ổ khoá lại nhưng đã quên khoá cửa.”

“Tai nạn?” Ông Cảnh sát trưởng nhấc ổ khóa lên, buông nó rớt xuống và lúc lắc. “Hay là chủ quan?”

“Chuyện đó quan trọng lắm không?”

Một cái nhún vai. “Còn cây súng?”

“Không rõ. Nó có thể vẫn ở trong chòi từ đầu. Cô bé có thể tìm thấy nó trong nhà. Nó cũng không có khóa.” Cả hai một lần nữa đều nhìn về hướng căn nhà. Không thể nhìn thấy gì qua rừng cây. Nhưng trước bình minh, khi đèn đuốc còn sáng, Tiffany có thể thấy nó. “Tôi đoán gã ta say rượu. Chúng tôi tìm thấy rượu và xì-ke. Kết quả khám nghiệm tử thi sẽ cho biết.”

“Có dấu hiệu nào có thể liên quan đến những trẻ em khác không?” Cảnh sát trưởng giữ giọng nói một cách chuyên nghiệp.

“Ông đang hỏi về vụ án Alyssa Merrimon?”

“Không hẳn như vậy.”

Ông Cảnh sát trưởng không hề nao núng, cặp mắt ông ta không hề nguôi ngoai, trong khi Hunt phóng mắt nhìn sâu

vào rừng.

“Chúng ta cần chó đánh hơi,” Hunt nói. “Nếu cô bé bị chôn vùi ngoài kia, tôi muốn tìm thấy cô bé.”

“Trời sắp tối rồi.”

Giọng Hunt lạnh lẽo. “Tôi đã quyết định như vậy.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện