Hunt gọi điện về trình báo, không có cách nào giữ yên lặng chuyện này. Ông cần cớm, y tế cấp cứu, bác sĩ khám nghiệm tử thi. Tin lan truyền như cháy rừng, và cánh phóng viên ào ạt di tản khỏi con đường trước hiện trường căn nhà của Jarvis. Một gã có tiền án trốn tù bị thiệt mạng, và một gã giàu có nhất thị xã cùng số phận tương tự. Thi thể của họ hiện đang ở trong nhà của Johnny Merrimon.
Johnny Merrimon.
Một lần nữa.
Hunt phải cô lập phong tỏa con đường. Ông chiếm cứ một phần tư dặm đường mỗi bên nhà và bố trí xe tuần tiễu xoay ngang ở hai đầu đường. Ông cũng yêu cầu dựng rào chắn. Ngày chuyển sang buổi trưa.
Hunt thẩm tra vài câu hỏi cần thiết, rồi sau đó chuyển giao bà Katherine và Johnny cho nhân viên cấp cứu. Họ bị đánh đập, cả hai người. Johnny loạng choạng không đứng vững, nhưng nhân viên cấp cứu nghĩ họ sẽ bình phục. Sẽ đau đớn một thời gian dài, nhưng không sao. Hunt bình tâm kìm hãm cảm xúc của mình: sự lo lắng và giải tỏa của ông, có những cảm xúc mạnh hơn mà ông chưa sẵn sàng đương đầu. Ông kiểm tra để chắc chắn khu vực phong toả được thiết lập an ninh, sau đó lại trở vào bên trong căn nhà.
Gã Holloway đã tắt thở.
Gã Freemantle đã chết.
Hunt liên tưởng đến Yoakum, và ông muốn hỏi Johnny xem có phải Yoakum là gã đàn ông mà cậu từng thấy ở nhà gã Jarvis. Nhưng ông không có ảnh của Yoakum, và anh nhóc vẫn còn trong tình trạng chấn động, do vậy ông để cậu được nghỉ ngơi. Ông điều phối các tay thợ ảnh, chuyên viên hiện trường, và lần đầu trong cuộc đời cảnh nghiệp của mình, ông cảm thấy mình hoàn toàn bị áp đảo. Ronda Jeffried, Clinton Rhodes, David Wilson. Những đứa trẻ vùi thây đằng sau căn nhà của gã Jarvis. Ngay cả gã Jarvis. Meechum. Bây giờ đến lượt Freemantle và Holloway. Quá nhiều cái chết, quá nhiều nghi vấn. Khi cảnh sát trưởng đến, trước tiên ông ta nhìn thi thể Holloway, đôi môi gã ta co rụt lại dưới đôi mắt to mở trừng trừng, rồi nhìn đến Freemantle, ngay cả lúc chết, thân xác gã vẫn to lớn và không có lực nào ngăn cản nổi.
“Lại một vụ nổ súng gây tử thương khác,” cảnh sát trưởng nói.
“Tôi không bắn gã ta vào chỗ hiểm. Gã lẽ ra không thể mất mạng.”
“Nhưng gã chết rồi.”
“Thì ông sa thải tôi đi.”
Cảnh sát trưởng đứng bất động một phút. “Thêm một kẻ có tiền án bị thiệt mạng.”
“Nhưng gã Holloway thì sao?”
Cảnh sát trưởng nhìn những nơi sưng tấy trên thi thể Holloway. “Gã ta đánh đập cậu con trai à?”
“Và mẹ cậu ta.”
Khuôn mặt Cảnh sát trưởng lộ rõ vẻ buồn rầu, thất vọng. “Tôi nghĩ có thể Yoakum nói đúng.”
“Đúng sao?”
“Có lẽ sự độc ác là phần ung thối trong trái tim con người.”
“Không phải lúc nào cũng vậy,” Hunt nói. “Và không phải với ai cũng vậy.”
“Có lẽ ông đúng.” Cảnh sát trưởng quay mặt đi chỗ khác. “Hoặc là không.”
Một tiếng sau, Hunt báo tin tức liên quan đến ông bố của Johnny. Ông nói với bà Katherine trước tiên, vì ông nghĩ nó là việc hợp lẽ. Bà ta cần phải trấn tĩnh tinh thần về cái chết của ông chồng ngõ hầu giúp cậu con trai đối phó tương tự. Bà ta cần có mặt để an ủi vỗ về cậu con trai. Ông báo tin cho bà ở ngoài sân, khi cảnh sát và nhân viên y tế hối hả chạy xung quanh. Bà chấp nhận bình thản. Không nước mắt hay khóc gào ầm ĩ. Sự yên lặng kéo dài năm phút; rồi một câu hỏi bật ra, giọng bà mong manh khiến ông khó khăn lắm mới nghe được.
“Ông ấy có đeo chiếc nhẫn cưới trên tay không?”
Hunt không hề biết. Ông gọi điện cho bên khám nghiệm tử thi và nói chuyện thầm thì trong khi bà Katherine trông nom cậu con trai, khi cậu vẫn đang được chăm sóc ở phía đằng sau một xe cứu thương. Khi Hunt lại gần, bà trực diện với ông lần nữa, người bà gầy xọp như tấm kính.
“Có,” Hunt nói, và ông nhìn bà cúi xuống.
Khi Johnny có vẻ bình phục, bà và Hunt dẫn cậu ra phía sân sau nhà, đến một nơi yên lặng xa khỏi con mắt nhòm ngó của bất cứ ai. Bà ngồi bên cạnh con trai trên một thảm cỏ và giữ tay con khi Hunt nói cho Johnny biết những gì họ tìm được trong cánh rừng đằng sau căn nhà của Jarvis.
“Lúc ấy bố cậu cũng đang tìm kiếm Alyssa,” Hunt nói, rồi ngừng, giây phút đầy ý nghĩa. “Cũng như cậu.”
Johnny không nói gì, đôi mắt to đen thẫm và lặng thinh.
“Ông ấy là người can trường,” Hunt nói.
“Và gã Jarvis đã thảm sát ông ấy?”
“Chúng tôi nghĩ vậy.” Hunt nhìn từ mẹ đến con. Quá giống nhau. “Nếu bất cứ việc gì tôi có thể làm...”
“Ông có thể cho chúng tôi ít phút được không?” bà Katherine yêu cầu.
“Dĩ nhiên,” Hunt nói, và bỏ đi.
Họ nhìn theo bóng ông đi khuất sau nhà, và bà Katherine nhích lại gần con trai hơn. Johnny nhìn vào điểm trống không trước mặt. Bà luồn tay vào mái tóc bê bết của con trai, và mất một phút cậu mới nhận ra mẹ cậu rơi lệ. Cậu nghĩ cậu hiểu, nhưng cậu đã lầm.
“Bố con không bỏ rơi chúng ta,” bà thì thào.
Bà lau nước mắt, tự nhắc lại, và sau đó Johnny hiểu được. Ông ấy không bỏ rơi chúng ta.
Một cái gì đó to tát và không nói ra được lấn cấn giữa hai người, và họ chia sẻ sự yên lặng cảm thông đó cho đến khi có những bước chân lạo xạo trong rừng cây và Jack bước ra khỏi con đường mòn. Người hắn đầy bùn đất, như thể hắn vừa té ngã xuống dòng suối. Hắn nhìn nhỏ thó, và con mắt hắn đảo nhanh từ căn nhà đến bầu trời trên cao trước khi hắn nhìn thấy họ, ngồi yên như những pho tượng trong bóng râm. Hắn vấp ngã khi bước bộ, rồi dừng lại ở xa một mét rưỡi. Johnny mở mồm, nhưng Jack đưa tay lên, rồi xoè hai lòng bàn tay ra.
“Tớ biết cô bé ấy ở đâu,” hắn nói.
Không ai động đậy, và Jack nuốt xuống vất vả.
“Tớ biết cô bé ấy ở đâu.”
Johnny Merrimon.
Một lần nữa.
Hunt phải cô lập phong tỏa con đường. Ông chiếm cứ một phần tư dặm đường mỗi bên nhà và bố trí xe tuần tiễu xoay ngang ở hai đầu đường. Ông cũng yêu cầu dựng rào chắn. Ngày chuyển sang buổi trưa.
Hunt thẩm tra vài câu hỏi cần thiết, rồi sau đó chuyển giao bà Katherine và Johnny cho nhân viên cấp cứu. Họ bị đánh đập, cả hai người. Johnny loạng choạng không đứng vững, nhưng nhân viên cấp cứu nghĩ họ sẽ bình phục. Sẽ đau đớn một thời gian dài, nhưng không sao. Hunt bình tâm kìm hãm cảm xúc của mình: sự lo lắng và giải tỏa của ông, có những cảm xúc mạnh hơn mà ông chưa sẵn sàng đương đầu. Ông kiểm tra để chắc chắn khu vực phong toả được thiết lập an ninh, sau đó lại trở vào bên trong căn nhà.
Gã Holloway đã tắt thở.
Gã Freemantle đã chết.
Hunt liên tưởng đến Yoakum, và ông muốn hỏi Johnny xem có phải Yoakum là gã đàn ông mà cậu từng thấy ở nhà gã Jarvis. Nhưng ông không có ảnh của Yoakum, và anh nhóc vẫn còn trong tình trạng chấn động, do vậy ông để cậu được nghỉ ngơi. Ông điều phối các tay thợ ảnh, chuyên viên hiện trường, và lần đầu trong cuộc đời cảnh nghiệp của mình, ông cảm thấy mình hoàn toàn bị áp đảo. Ronda Jeffried, Clinton Rhodes, David Wilson. Những đứa trẻ vùi thây đằng sau căn nhà của gã Jarvis. Ngay cả gã Jarvis. Meechum. Bây giờ đến lượt Freemantle và Holloway. Quá nhiều cái chết, quá nhiều nghi vấn. Khi cảnh sát trưởng đến, trước tiên ông ta nhìn thi thể Holloway, đôi môi gã ta co rụt lại dưới đôi mắt to mở trừng trừng, rồi nhìn đến Freemantle, ngay cả lúc chết, thân xác gã vẫn to lớn và không có lực nào ngăn cản nổi.
“Lại một vụ nổ súng gây tử thương khác,” cảnh sát trưởng nói.
“Tôi không bắn gã ta vào chỗ hiểm. Gã lẽ ra không thể mất mạng.”
“Nhưng gã chết rồi.”
“Thì ông sa thải tôi đi.”
Cảnh sát trưởng đứng bất động một phút. “Thêm một kẻ có tiền án bị thiệt mạng.”
“Nhưng gã Holloway thì sao?”
Cảnh sát trưởng nhìn những nơi sưng tấy trên thi thể Holloway. “Gã ta đánh đập cậu con trai à?”
“Và mẹ cậu ta.”
Khuôn mặt Cảnh sát trưởng lộ rõ vẻ buồn rầu, thất vọng. “Tôi nghĩ có thể Yoakum nói đúng.”
“Đúng sao?”
“Có lẽ sự độc ác là phần ung thối trong trái tim con người.”
“Không phải lúc nào cũng vậy,” Hunt nói. “Và không phải với ai cũng vậy.”
“Có lẽ ông đúng.” Cảnh sát trưởng quay mặt đi chỗ khác. “Hoặc là không.”
Một tiếng sau, Hunt báo tin tức liên quan đến ông bố của Johnny. Ông nói với bà Katherine trước tiên, vì ông nghĩ nó là việc hợp lẽ. Bà ta cần phải trấn tĩnh tinh thần về cái chết của ông chồng ngõ hầu giúp cậu con trai đối phó tương tự. Bà ta cần có mặt để an ủi vỗ về cậu con trai. Ông báo tin cho bà ở ngoài sân, khi cảnh sát và nhân viên y tế hối hả chạy xung quanh. Bà chấp nhận bình thản. Không nước mắt hay khóc gào ầm ĩ. Sự yên lặng kéo dài năm phút; rồi một câu hỏi bật ra, giọng bà mong manh khiến ông khó khăn lắm mới nghe được.
“Ông ấy có đeo chiếc nhẫn cưới trên tay không?”
Hunt không hề biết. Ông gọi điện cho bên khám nghiệm tử thi và nói chuyện thầm thì trong khi bà Katherine trông nom cậu con trai, khi cậu vẫn đang được chăm sóc ở phía đằng sau một xe cứu thương. Khi Hunt lại gần, bà trực diện với ông lần nữa, người bà gầy xọp như tấm kính.
“Có,” Hunt nói, và ông nhìn bà cúi xuống.
Khi Johnny có vẻ bình phục, bà và Hunt dẫn cậu ra phía sân sau nhà, đến một nơi yên lặng xa khỏi con mắt nhòm ngó của bất cứ ai. Bà ngồi bên cạnh con trai trên một thảm cỏ và giữ tay con khi Hunt nói cho Johnny biết những gì họ tìm được trong cánh rừng đằng sau căn nhà của Jarvis.
“Lúc ấy bố cậu cũng đang tìm kiếm Alyssa,” Hunt nói, rồi ngừng, giây phút đầy ý nghĩa. “Cũng như cậu.”
Johnny không nói gì, đôi mắt to đen thẫm và lặng thinh.
“Ông ấy là người can trường,” Hunt nói.
“Và gã Jarvis đã thảm sát ông ấy?”
“Chúng tôi nghĩ vậy.” Hunt nhìn từ mẹ đến con. Quá giống nhau. “Nếu bất cứ việc gì tôi có thể làm...”
“Ông có thể cho chúng tôi ít phút được không?” bà Katherine yêu cầu.
“Dĩ nhiên,” Hunt nói, và bỏ đi.
Họ nhìn theo bóng ông đi khuất sau nhà, và bà Katherine nhích lại gần con trai hơn. Johnny nhìn vào điểm trống không trước mặt. Bà luồn tay vào mái tóc bê bết của con trai, và mất một phút cậu mới nhận ra mẹ cậu rơi lệ. Cậu nghĩ cậu hiểu, nhưng cậu đã lầm.
“Bố con không bỏ rơi chúng ta,” bà thì thào.
Bà lau nước mắt, tự nhắc lại, và sau đó Johnny hiểu được. Ông ấy không bỏ rơi chúng ta.
Một cái gì đó to tát và không nói ra được lấn cấn giữa hai người, và họ chia sẻ sự yên lặng cảm thông đó cho đến khi có những bước chân lạo xạo trong rừng cây và Jack bước ra khỏi con đường mòn. Người hắn đầy bùn đất, như thể hắn vừa té ngã xuống dòng suối. Hắn nhìn nhỏ thó, và con mắt hắn đảo nhanh từ căn nhà đến bầu trời trên cao trước khi hắn nhìn thấy họ, ngồi yên như những pho tượng trong bóng râm. Hắn vấp ngã khi bước bộ, rồi dừng lại ở xa một mét rưỡi. Johnny mở mồm, nhưng Jack đưa tay lên, rồi xoè hai lòng bàn tay ra.
“Tớ biết cô bé ấy ở đâu,” hắn nói.
Không ai động đậy, và Jack nuốt xuống vất vả.
“Tớ biết cô bé ấy ở đâu.”
Danh sách chương