Các đệ tử hỏi xong vấn đề, không tiện bỏ mặc Tiếu sư đệ, muốn đợi hắn cùng đến Tàng Thư Lâu. Tễ Tiêu uyển chuyển từ chối, vì vậy mọi người nói cảm ơn cáo từ, để hắn lại một mình thu dọn giấy bút.
Mạnh Tuyết Lý đi vội vàng, sách vở trên bàn để tán loạn. Làm đảng viên, đương nhiên phải giúp rửa bút xếp giấy.
Hoàng hôn buông xuống, bóng tối như thủy triều tràn vào Luận Pháp Đường dưới chân núi, bao phủ từng gian phòng học trống không.
Tiếng người xa dần, giữa tán tùng tiếng chim hót cũng lắng xuống, Tễ Tiêu vẫn từ tốn.
Đời trước luôn bận rộn, mọi việc quấn thân, đi đâu cũng vội vã.
Trọng tu lại một lại dần dần lĩnh hội, tâm cảnh càng thêm rộng rãi khoáng đạt. Câu hỏi của tiểu đệ tử đơn giản ngây thơ đến đâu, hắn cũng suy nghĩ nghiêm túc, không hề vội vàng trả lời.
Có nghi hoặc là chuyện rất bình thường, không ai “sinh ra đã biết”.
Tu hành chính là không ngừng giải quyết nghi hoặc, tìm tòi nghiên cứu quá trình đạo lý của vạn vật.
Người đời đều cho rằng Tễ Tiêu Chân Nhân thiên phú trác tuyệt, đạo đồ thuận buồm xuôi gió, thật ra lúc mới nhập đạo, cũng từng gặp rất nhiều vấn đề.
Thắc mắc lớn nhất là tại sao phải luyện tập kiếm quyết tiền nhân lưu lại.
Hắn cảm thấy mỗi người đều không giống nhau. Cho dù sinh đôi, tính tình cũng có khác biệt, nếu khác nhau, thì nên tu tập độc nhất vô nhị con đường, lục lọi độc nhất vô nhị kiếm pháp.
Sau khi sư huynh Hồ Tứ nghe xong, rất vô trách nhiệm phụ họa nói:”Đúng vậy, mỗi người trên đời, đều có cách sống riêng, không có tiêu chuẩn. Cái gì mà quy củ của tiên hiền vãng thánh, chúng ta thèm vào mà để ý.”
Sư phụ của Tễ Tiêu sâu sắc cảm giác không biết làm sao, nói hắn là thiên tài kiếm đạo trăm năm hiếm thấy, thiên tài có con đường của thiên tài, người bình thường có con đường của người bình thường.
Không phải ai cũng có thể tự mở ra một con đường, tự nghĩ ra kiếm pháp, đối với người bình thường mà nói, có kinh nghiệm đời trước dẫn đắt, mới càng thêm trót lọt.
Còn như sư huynh Hồ Tứ của Tễ Tiêu, bởi vì thắc mắc quá nhiều, mới lên Hàn Sơn đã bị hung hăng quở trách.
Tễ Tiêu lúc này trở lại chốn cũ, không khỏi nhớ tới tình cảnh ngày đó.
Khi ấy Luận Pháp Đường còn chưa có phòng học trang nghiêm tường trắng ngói đen, giữa rừng tùng chưa có đường mòn đá trắng đẹp đẽ tĩnh mịch, chỉ có sáu gian nhà tranh.
Hắn lúc ấy nhỏ hơn một chút so với thân thể hiện tại, tầm mười bốn tuổi, sư huynh Hồ Tứ của hắn, cũng mới mười lăm tuổi.
Vận khí của bọn họ không tốt lắm, trưởng lão giảng bài tính tình ngoan cố cổ hủ.
Ngày đầu tiên lên lớp, trưởng lão giải thích đại đạo thế nào, kiếm pháp ra sao, các tiểu đệ tử nghe giảng như rơi vào sương mù, vẻ mặt mờ mịt.
Trưởng lão nói: “Tu hành huyền diệu thâm ảo, các ngươi còn nhỏ dại dốt nát, hôm nay nghe không hiểu cũng không sao, phải ghi nhớ chuyện quan trọng nhất: Nếu trở thành đệ tử của Hàn Sơn, tu tập kiếm pháp Hàn Sơn, phải trung thành với tông môn, không thể đi luyện công pháp phái khác. Những thứ đường ngang ngõ tắt khác, cũng không được luyện, kiếm pháp của Hàn Sơn ta, đương nhiên là tốt nhất.”
Minh Nguyệt Hồ và Hàn Sơn, hai phái đều là kiếm tông, nhưng người trước kiếm pháp trọng hình, người sau kiếm pháp trọng ý. Đều cho rằng đối phương không phải chính thống, là ngoại đạo. Tranh đấu dài đến mấy ngàn năm về đạo thống, càng ngày càng nghiêm trọng, đã đến mức nước lửa không dung. Tiểu đệ tử mới nhập môn, phải truyền bá cho bọn họ “Lý lẽ chính thống”.
Trưởng lão hỏi: “Nhớ chưa?”
Chúng đệ tử bị uy nghiêm của hắn chấn nhiếp, cùng kêu lên đã nhớ. Vẻ mặt của trưởng lão đôi phần hòa hoãn.
Trong phòng học chợt vang lên giọng nói non nớt: “Đệ tử có câu hỏi.”
Trưởng lão xoay chuyển ánh mắt, lạnh lùng nói: “Hỏi đi!”
Tiểu Hồ Tứ đứng lên, dưới cái nhìn soi mói của mọi người, căng thẳng nhưng nghiêm túc nói: “Đệ tử trước đây ở nhà đi học làm văn, tiên sinh tư thục nói phải học thuộc hết câu nói của Bách gia, lấy thừa bù thiếu. Chính là đạo lý “Lấy đá núi khác về mài dao ta”, tại sao chúng ta chỉ có thể học kiếm pháp Hàn Sơn?”
Trưởng lão giảng bài nhìn chằm chằm hắn: “Ngươi rời khỏi quê hương, từ xa đến Hàn Sơn, là để làm gì?”
Tiểu Hồ Tứ có chút sợ, cẩn thận đáp: “Tu hành, đặt câu hỏi.”
Trưởng lão giảng bài: “Thì ra ngươi cũng biết.” Ánh mắt lạnh lùng của hắn quét qua những đệ tử khác: “Chư vị, nếu có duyên bước chân vào ngưỡng cửa tu hành, phải một lòng hướng đạo, nếu chưa quên hết quy củ phàm trần, kinh sử tử tập học thuộc ở nhà, chi bằng nhân lúc còn sớm leo lên con đường công danh thế tục, về nhà lấy vợ sinh con đi thôi.”
“Còn ngươi, hỏi ta vấn đề ngu xuẩn như vậy, liền cút khỏi Hàn Sơn cho ta!”
Các đệ tử phát ra tiếng cười trộm.
Tiểu Hồ Tứ ngây ngô đứng tại chỗ, bị người chỉ trỏ, mặt đỏ lên.
Tiểu Tễ Tiêu không cười.
Hắn từ nhỏ sinh ra đã kém cỏi, thân hình gầy yếu hơn so với người khác, không thể tranh giành hàng trước với các đệ tử rắn chắc kia, đành phải ngồi một mình ở cuối cùng trong góc.
Hắn nhìn Hồ Tứ, cảm thấy không nên như vậy.
Khi tất cả mọi người đều cười, thì không cho phép có người không cười. Vì vậy các đệ tử dưới sự ngầm cho phép của trưởng lão giảng bài cô lập Hồ Tứ, nhân tiện cô lập Tễ Tiêu. Khoảng thời gian đó quả thực gian nan khó chịu.
Kỳ thi cuối năm, hai người cùng bái một vị sư phụ, thành sư huynh đệ. Sư phụ là một trưởng lão nhàn tản, cả đời chỉ nhận hai đồ đệ là họ, coi như sau này có người dưỡng lão.
Sau khi bái sư mới đo lường căn cốt, phát hiện Tễ Tiêu là tiên thiên kiếm linh thân thể. Mọi người mới hối hận không thôi.
Hồ Tứ và Tễ Tiêu bắt đầu luyện tập kiếm pháp, ba năm ngắn ngủi, Hồ Tứ không chịu luyện nữa, quay sang si mê tu hành tạp học.
Thuật xem khí, thuật suy diễn còn dễ, có thể đọc sách tự học, tìm tòi cảm ngộ. Luyện đan, luyện khí cần tiêu tốn linh thảo và khí phôi tài liệu. Các thế gia tầm trung ở tu hành giới, không nuôi nổi luyện đan sư, luyện khí sư, đành phải xin mua ở các đại tông môn như Vụ Ẩn Quan.
May sao khi đó Tễ Tiêu kiếm pháp mới thành lập, nhiều lần thám hiểm bí cảnh, vì sư huynh của hắn tìm kiếm thiên tài địa bảo.
Hắn ra bên ngoài, kiếm pháp tiến cảnh nhanh chóng, danh tiếng tăng cao.
Thời gian trôi qua, đợi Hồ Tứ lần đầu tiên chứng đạo, đột phá tới Đại thừa cảnh, lại bị Thái Thượng trưởng lão khiển trách: “Không cầm kiếm, thì không xứng là đệ tử Hàn Sơn.”
Lúc này Hồ Tứ đã không còn là thiếu niên ngây thơ yếu ớt nghe dạy dỗ, yên lặng rơi lệ ở Luận Pháp Đường nữa, hắn vận khởi chân nguyên, lớn tiếng tranh cãi với Thái Thượng trưởng lão, tiếng mắng vang vọng khắp Hàn Sơn.
Tễ Tiêu trong lòng rõ ràng, cho dù Hồ Tứ không quyết liệt với Thái Thượng trưởng lão, thì cũng định trước không ở lại Hàn Sơn.
Hơn hai trăm năm đã qua, sư huynh hắn vẫn không phục.
Sau khi Hồ Tứ bỏ đi, có người cho rằng Tễ Tiêu sẽ rút kiếm khiêu chiến với Thái Thượng trưởng lão, Hàn Sơn sẽ rơi vào kết quả chia năm xẻ bảy.
Nhưng Tễ Tiêu không làm vậy, hắn vẫn luyện kiếm, tu hành.
Chẳng bao lâu sau, tu vi của hắn cao hơn Thái Thượng trưởng lão, Thái Thượng trưởng lão bị vãn bối vượt qua áp chế mất hết thể diện, ở lại sau núi, lánh đời không ra.
Gia tộc hậu bối của Thái Thượng trưởng lão như rắn mất đầu, đành phải dần dần im hơi lặng tiếng.
Tễ Tiêu chọn lại trưởng lão giảng bài cho Luận Pháp Đường, bảo bọn họ khích lệ đệ tử đặt câu hỏi, hạn chế truyền giaó thuyết pháp “Trung thành với tông môn, chỉ luyện kiếm pháp Hàn Sơn”.
Luận Pháp Đường trở thành dáng vẻ hắn mong muốn.
Lúc các phong đổi chủ, các phong chủ mới nhậm chức đều từ hắn nâng đỡ.
Hàn Sơn cũng dần thay đổi théo hướng hắn kỳ vọng.
Sau lại, Kiếm Tôn nhân gian vô địch, toàn bộ quy củ của tu hành giới đều do hắn lập ra.
Thế là có Hộ giới trận ở Giới Ngoại Chi Địa, thi đấu ở Hãn Hải bí cảnh, các đại tông môn không vì tranh đoạt tài nguyên mà máu chảy thành sông nữa.
Hồ Tứ không phục, đem một vùng hồ thăng lên bầu trời, siêu thoát nhân thế.
Tễ Tiêu không phục, hai trăm năm xây dựng trên dưới, bễ nghễ thiên hạ.
Người ngoài cho rằng, sau khi Tễ Tiêu chết chưa lâu, có người liên tiếp thành thánh, từ nơi sâu xa như có thiên ý. Nếu như Kiếm Tôn trên trời có linh, chắc chắn tâm tình phức tạp.
Nhưng Tễ Tiêu lại nghĩ, tâm tình phức tạp nhất, hẳn là Thái Thượng trưởng lão của Hàn Sơn, Thái Hành Đạo Tôn – Thái Thượng trưởng lão của Minh Nguyệt Hồ địa vị ngang hàng với hắn thành thánh, Thiên Hồ Đại Cảnh chi chủ từng bị hắn khiển trách cũng thành thánh. Chỉ có hắn mãi chưa chết, vẫn đang khổ cực kéo dài tuổi thọ.
Bản thân Tễ Tiêu thật ra rất bình thản, nếu tam giới bình yên vô sự, ai làm đệ nhất, hắn cũng không quan tâm.
Thay đổi thế giới, làm một lần là đủ rồi. Hậu bối trẻ tuổi đang dần trưởng thành ở thế giới mới, giang sơn sẽ có người tài ba gánh vác, chi bằng lùi ra sau ngắm nhìn.
Hơn nữa sư huynh Hồ Tứ của hắn đã sớm nên thành thánh từ lâu.
Đệ tử từ một sư phụ dạy dỗ, như hoa khai hai đóa, như cây liền cành. Hồ Tứ chỉ cách cánh cửa kia một bước cuối cùng.
Tễ Tiêu hy vọng càng ngày càng nhiều người thành thánh, chia sẻ trách nhiệm.
Nếu nhân gian không cần hắn, hắn sẽ cùng tiểu đạo lữ nuôi cá trồng hoa, sau này cùng nhau phi thăng.
Nhân gian cần hắn, hắn sẽ rút ra Sơ Không Vô Nhai dưới đáy ao.
Mạnh Tuyết Lý đi vội vàng, sách vở trên bàn để tán loạn. Làm đảng viên, đương nhiên phải giúp rửa bút xếp giấy.
Hoàng hôn buông xuống, bóng tối như thủy triều tràn vào Luận Pháp Đường dưới chân núi, bao phủ từng gian phòng học trống không.
Tiếng người xa dần, giữa tán tùng tiếng chim hót cũng lắng xuống, Tễ Tiêu vẫn từ tốn.
Đời trước luôn bận rộn, mọi việc quấn thân, đi đâu cũng vội vã.
Trọng tu lại một lại dần dần lĩnh hội, tâm cảnh càng thêm rộng rãi khoáng đạt. Câu hỏi của tiểu đệ tử đơn giản ngây thơ đến đâu, hắn cũng suy nghĩ nghiêm túc, không hề vội vàng trả lời.
Có nghi hoặc là chuyện rất bình thường, không ai “sinh ra đã biết”.
Tu hành chính là không ngừng giải quyết nghi hoặc, tìm tòi nghiên cứu quá trình đạo lý của vạn vật.
Người đời đều cho rằng Tễ Tiêu Chân Nhân thiên phú trác tuyệt, đạo đồ thuận buồm xuôi gió, thật ra lúc mới nhập đạo, cũng từng gặp rất nhiều vấn đề.
Thắc mắc lớn nhất là tại sao phải luyện tập kiếm quyết tiền nhân lưu lại.
Hắn cảm thấy mỗi người đều không giống nhau. Cho dù sinh đôi, tính tình cũng có khác biệt, nếu khác nhau, thì nên tu tập độc nhất vô nhị con đường, lục lọi độc nhất vô nhị kiếm pháp.
Sau khi sư huynh Hồ Tứ nghe xong, rất vô trách nhiệm phụ họa nói:”Đúng vậy, mỗi người trên đời, đều có cách sống riêng, không có tiêu chuẩn. Cái gì mà quy củ của tiên hiền vãng thánh, chúng ta thèm vào mà để ý.”
Sư phụ của Tễ Tiêu sâu sắc cảm giác không biết làm sao, nói hắn là thiên tài kiếm đạo trăm năm hiếm thấy, thiên tài có con đường của thiên tài, người bình thường có con đường của người bình thường.
Không phải ai cũng có thể tự mở ra một con đường, tự nghĩ ra kiếm pháp, đối với người bình thường mà nói, có kinh nghiệm đời trước dẫn đắt, mới càng thêm trót lọt.
Còn như sư huynh Hồ Tứ của Tễ Tiêu, bởi vì thắc mắc quá nhiều, mới lên Hàn Sơn đã bị hung hăng quở trách.
Tễ Tiêu lúc này trở lại chốn cũ, không khỏi nhớ tới tình cảnh ngày đó.
Khi ấy Luận Pháp Đường còn chưa có phòng học trang nghiêm tường trắng ngói đen, giữa rừng tùng chưa có đường mòn đá trắng đẹp đẽ tĩnh mịch, chỉ có sáu gian nhà tranh.
Hắn lúc ấy nhỏ hơn một chút so với thân thể hiện tại, tầm mười bốn tuổi, sư huynh Hồ Tứ của hắn, cũng mới mười lăm tuổi.
Vận khí của bọn họ không tốt lắm, trưởng lão giảng bài tính tình ngoan cố cổ hủ.
Ngày đầu tiên lên lớp, trưởng lão giải thích đại đạo thế nào, kiếm pháp ra sao, các tiểu đệ tử nghe giảng như rơi vào sương mù, vẻ mặt mờ mịt.
Trưởng lão nói: “Tu hành huyền diệu thâm ảo, các ngươi còn nhỏ dại dốt nát, hôm nay nghe không hiểu cũng không sao, phải ghi nhớ chuyện quan trọng nhất: Nếu trở thành đệ tử của Hàn Sơn, tu tập kiếm pháp Hàn Sơn, phải trung thành với tông môn, không thể đi luyện công pháp phái khác. Những thứ đường ngang ngõ tắt khác, cũng không được luyện, kiếm pháp của Hàn Sơn ta, đương nhiên là tốt nhất.”
Minh Nguyệt Hồ và Hàn Sơn, hai phái đều là kiếm tông, nhưng người trước kiếm pháp trọng hình, người sau kiếm pháp trọng ý. Đều cho rằng đối phương không phải chính thống, là ngoại đạo. Tranh đấu dài đến mấy ngàn năm về đạo thống, càng ngày càng nghiêm trọng, đã đến mức nước lửa không dung. Tiểu đệ tử mới nhập môn, phải truyền bá cho bọn họ “Lý lẽ chính thống”.
Trưởng lão hỏi: “Nhớ chưa?”
Chúng đệ tử bị uy nghiêm của hắn chấn nhiếp, cùng kêu lên đã nhớ. Vẻ mặt của trưởng lão đôi phần hòa hoãn.
Trong phòng học chợt vang lên giọng nói non nớt: “Đệ tử có câu hỏi.”
Trưởng lão xoay chuyển ánh mắt, lạnh lùng nói: “Hỏi đi!”
Tiểu Hồ Tứ đứng lên, dưới cái nhìn soi mói của mọi người, căng thẳng nhưng nghiêm túc nói: “Đệ tử trước đây ở nhà đi học làm văn, tiên sinh tư thục nói phải học thuộc hết câu nói của Bách gia, lấy thừa bù thiếu. Chính là đạo lý “Lấy đá núi khác về mài dao ta”, tại sao chúng ta chỉ có thể học kiếm pháp Hàn Sơn?”
Trưởng lão giảng bài nhìn chằm chằm hắn: “Ngươi rời khỏi quê hương, từ xa đến Hàn Sơn, là để làm gì?”
Tiểu Hồ Tứ có chút sợ, cẩn thận đáp: “Tu hành, đặt câu hỏi.”
Trưởng lão giảng bài: “Thì ra ngươi cũng biết.” Ánh mắt lạnh lùng của hắn quét qua những đệ tử khác: “Chư vị, nếu có duyên bước chân vào ngưỡng cửa tu hành, phải một lòng hướng đạo, nếu chưa quên hết quy củ phàm trần, kinh sử tử tập học thuộc ở nhà, chi bằng nhân lúc còn sớm leo lên con đường công danh thế tục, về nhà lấy vợ sinh con đi thôi.”
“Còn ngươi, hỏi ta vấn đề ngu xuẩn như vậy, liền cút khỏi Hàn Sơn cho ta!”
Các đệ tử phát ra tiếng cười trộm.
Tiểu Hồ Tứ ngây ngô đứng tại chỗ, bị người chỉ trỏ, mặt đỏ lên.
Tiểu Tễ Tiêu không cười.
Hắn từ nhỏ sinh ra đã kém cỏi, thân hình gầy yếu hơn so với người khác, không thể tranh giành hàng trước với các đệ tử rắn chắc kia, đành phải ngồi một mình ở cuối cùng trong góc.
Hắn nhìn Hồ Tứ, cảm thấy không nên như vậy.
Khi tất cả mọi người đều cười, thì không cho phép có người không cười. Vì vậy các đệ tử dưới sự ngầm cho phép của trưởng lão giảng bài cô lập Hồ Tứ, nhân tiện cô lập Tễ Tiêu. Khoảng thời gian đó quả thực gian nan khó chịu.
Kỳ thi cuối năm, hai người cùng bái một vị sư phụ, thành sư huynh đệ. Sư phụ là một trưởng lão nhàn tản, cả đời chỉ nhận hai đồ đệ là họ, coi như sau này có người dưỡng lão.
Sau khi bái sư mới đo lường căn cốt, phát hiện Tễ Tiêu là tiên thiên kiếm linh thân thể. Mọi người mới hối hận không thôi.
Hồ Tứ và Tễ Tiêu bắt đầu luyện tập kiếm pháp, ba năm ngắn ngủi, Hồ Tứ không chịu luyện nữa, quay sang si mê tu hành tạp học.
Thuật xem khí, thuật suy diễn còn dễ, có thể đọc sách tự học, tìm tòi cảm ngộ. Luyện đan, luyện khí cần tiêu tốn linh thảo và khí phôi tài liệu. Các thế gia tầm trung ở tu hành giới, không nuôi nổi luyện đan sư, luyện khí sư, đành phải xin mua ở các đại tông môn như Vụ Ẩn Quan.
May sao khi đó Tễ Tiêu kiếm pháp mới thành lập, nhiều lần thám hiểm bí cảnh, vì sư huynh của hắn tìm kiếm thiên tài địa bảo.
Hắn ra bên ngoài, kiếm pháp tiến cảnh nhanh chóng, danh tiếng tăng cao.
Thời gian trôi qua, đợi Hồ Tứ lần đầu tiên chứng đạo, đột phá tới Đại thừa cảnh, lại bị Thái Thượng trưởng lão khiển trách: “Không cầm kiếm, thì không xứng là đệ tử Hàn Sơn.”
Lúc này Hồ Tứ đã không còn là thiếu niên ngây thơ yếu ớt nghe dạy dỗ, yên lặng rơi lệ ở Luận Pháp Đường nữa, hắn vận khởi chân nguyên, lớn tiếng tranh cãi với Thái Thượng trưởng lão, tiếng mắng vang vọng khắp Hàn Sơn.
Tễ Tiêu trong lòng rõ ràng, cho dù Hồ Tứ không quyết liệt với Thái Thượng trưởng lão, thì cũng định trước không ở lại Hàn Sơn.
Hơn hai trăm năm đã qua, sư huynh hắn vẫn không phục.
Sau khi Hồ Tứ bỏ đi, có người cho rằng Tễ Tiêu sẽ rút kiếm khiêu chiến với Thái Thượng trưởng lão, Hàn Sơn sẽ rơi vào kết quả chia năm xẻ bảy.
Nhưng Tễ Tiêu không làm vậy, hắn vẫn luyện kiếm, tu hành.
Chẳng bao lâu sau, tu vi của hắn cao hơn Thái Thượng trưởng lão, Thái Thượng trưởng lão bị vãn bối vượt qua áp chế mất hết thể diện, ở lại sau núi, lánh đời không ra.
Gia tộc hậu bối của Thái Thượng trưởng lão như rắn mất đầu, đành phải dần dần im hơi lặng tiếng.
Tễ Tiêu chọn lại trưởng lão giảng bài cho Luận Pháp Đường, bảo bọn họ khích lệ đệ tử đặt câu hỏi, hạn chế truyền giaó thuyết pháp “Trung thành với tông môn, chỉ luyện kiếm pháp Hàn Sơn”.
Luận Pháp Đường trở thành dáng vẻ hắn mong muốn.
Lúc các phong đổi chủ, các phong chủ mới nhậm chức đều từ hắn nâng đỡ.
Hàn Sơn cũng dần thay đổi théo hướng hắn kỳ vọng.
Sau lại, Kiếm Tôn nhân gian vô địch, toàn bộ quy củ của tu hành giới đều do hắn lập ra.
Thế là có Hộ giới trận ở Giới Ngoại Chi Địa, thi đấu ở Hãn Hải bí cảnh, các đại tông môn không vì tranh đoạt tài nguyên mà máu chảy thành sông nữa.
Hồ Tứ không phục, đem một vùng hồ thăng lên bầu trời, siêu thoát nhân thế.
Tễ Tiêu không phục, hai trăm năm xây dựng trên dưới, bễ nghễ thiên hạ.
Người ngoài cho rằng, sau khi Tễ Tiêu chết chưa lâu, có người liên tiếp thành thánh, từ nơi sâu xa như có thiên ý. Nếu như Kiếm Tôn trên trời có linh, chắc chắn tâm tình phức tạp.
Nhưng Tễ Tiêu lại nghĩ, tâm tình phức tạp nhất, hẳn là Thái Thượng trưởng lão của Hàn Sơn, Thái Hành Đạo Tôn – Thái Thượng trưởng lão của Minh Nguyệt Hồ địa vị ngang hàng với hắn thành thánh, Thiên Hồ Đại Cảnh chi chủ từng bị hắn khiển trách cũng thành thánh. Chỉ có hắn mãi chưa chết, vẫn đang khổ cực kéo dài tuổi thọ.
Bản thân Tễ Tiêu thật ra rất bình thản, nếu tam giới bình yên vô sự, ai làm đệ nhất, hắn cũng không quan tâm.
Thay đổi thế giới, làm một lần là đủ rồi. Hậu bối trẻ tuổi đang dần trưởng thành ở thế giới mới, giang sơn sẽ có người tài ba gánh vác, chi bằng lùi ra sau ngắm nhìn.
Hơn nữa sư huynh Hồ Tứ của hắn đã sớm nên thành thánh từ lâu.
Đệ tử từ một sư phụ dạy dỗ, như hoa khai hai đóa, như cây liền cành. Hồ Tứ chỉ cách cánh cửa kia một bước cuối cùng.
Tễ Tiêu hy vọng càng ngày càng nhiều người thành thánh, chia sẻ trách nhiệm.
Nếu nhân gian không cần hắn, hắn sẽ cùng tiểu đạo lữ nuôi cá trồng hoa, sau này cùng nhau phi thăng.
Nhân gian cần hắn, hắn sẽ rút ra Sơ Không Vô Nhai dưới đáy ao.
Danh sách chương