“Bà đã trông thấy ma sói chưa, Frau Roydon? hắn là người gác rừng mới của bệ hạ và hàng xóm Frau Habermel của tôi đã nghe thấy tiếng hắn hú vào ban đêm. Họ nói hắn ăn hươu nai của hoàng đế chạy trong khu Stag Moat.” Frau Huber cầm cây bắp cải lên bằng bàn tay đeo găng và nghi ngờ hít ngửi. Herr Huber là một thương nhân ở khu Steelyard của London, mặc dù bà ta không yêu thích gì thành phố này, nhưng bà nói tiếng anh rất trôi chảy.

“Ôi trời. Làm gì có ma sói chứ,” Signorina Rossi nói, quay cái cổ dài ngoẵng của cô ta lại và tặc lưỡi trước giá của mấy cây hành. “Tuy thế, Stefano của tôi kể rằng có rất nhiều yêu tinh trong cung điện. Các giám mục nhà thờ muốn yểm trừ xua đuổi chúng, nhưng hoàng đế từ chối.” Giống Frau Huber, Rossi đã từng ở London, khi đó đang là tình nhân của một nghệ sĩ người Ý muốn mang văn phong riêng tới anh quốc. Còn giờ cô lại là tình nhân của một nghệ sĩ người Ý khác muốn giới thiệu nghệ thuật cắt thủy tinh tới Praha.

“Tôi chưa gặp ma sói hay yêu tinh nào cả,” tôi thú nhận. Mặt mấy phụ nữ ỉu xìu. “Nhưng tôi đã được thấy một trong những bức tranh mới của hoàng đế.” Tôi hạ thấp giọng. “Nó vẽ nữ thần Venus. Vươn mình khỏi bồn nước tắm.” Tôi tặng cả hai những cái nhìn trịnh trọng. Thiếu vắng những câu chuyện tán gẫu về thế giới bên kia, thì sự trụy lạc của hoàng gia sẽ đáp ứng nhu cầu đó. Frau Huber kéo thẳng người lên.

“Hoàng đế Rudolf cần một người vợ. một phụ nữ người Áo tuyệt vời, có thể nấu ăn cho người.” Bà ta kẻ cả mua một cây bắp cải từ người bán rau dễ tính, sau khi hết lời chê bai rau quả của ông gần ba mươi phút. “Hãy kể lại cho chúng tôi nghe về bộ sừng của con kỳ lân đi. Người ta cho rằng nó có những sức mạnh chữa bệnh thần kỳ.”

Đây là lần thứ tư trong vòng hai ngày tôi được yêu cầu thuật lại những món đồ hiếm lạ kỳ diệu của hoàng đế. Tin tức về cuộc tiếp kiến của chúng tôi trong khu phòng riêng của Rudolf đã đi trước khi chúng tôi về đến Ba Con Quạ, và các phu nhân của Malá Strana đang nằm đợi sáng ngày hôm sau, háo hức trước những ấn tượng của tôi.

Vì sự xuất hiện của những người đưa tin hoàng gia tại ngôi nhà, cũng như hàng tá người hầu mặc chế phục của quý tộc Bohemian và các chức sắc nước ngoài đã khơi dậy tính hiếu kỳ của họ hơn. Giờ Matthew đã được đón nhận trong triều đình, ngôi sao của anh đảm bảo vừa đủ cho bầu trời đế quốc, những người bạn cũ đang sẵn sàng thừa nhận sự trở về của anh – và yêu cầu được trợ giúp.

Pierre đã kéo cần câu, chẳng bao lâu chi nhánh ngân hàng de Clermont tại Praha đã mở và đi vào hoạt động, mặc dù tôi thấy giá trị tiền nhận được rất ít nhưng có một dòng vốn ổn định chảy ra để giải quyết các tài khoản quá hạn với những thương gia của thành cổ Praha.

“Em nhận được một gói hàng từ hoàng đế đấy,” Matthew nói khi tôi từ chợ về, tay cầm cây bút lông chỉ vào một cái bao lổn nhổn. “Nếu em mở nó ra, Rudolf mong em sẽ đích thân biểu lộ lòng cảm kích của mình đấy.”

“Nó có thể là thứ gì nhỉ?” Tôi cảm nhận hình dáng món đồ bên trong. Nó không phải là một cuốn sách.

“Thứ gì đó mà chúng ta sẽ hối tiếc khi nhận chúng, anh đảm bảo đấy.” Matthew nhấn cây bút lông trong lọ mực, gây ra một trận phun trào quy mô nhỏ thứ chất lỏng đen xì tràn ra mặt bàn. “Rudolf là một nhà sưu tầm, Diana. Và ông ta không đơn giản hứng thú với những bộ sừng kỳ lân biển và những viên đá kỳ dị. Ông ta thèm muốn người cũng như đồ vật và không thể xa rời chúng một khi đã thuộc sở hữu của ông ta.”

“Như Kelley,” tôi nói, tháo sợi dây buộc gói hàng. “Nhưng em không phải món hàng để mua bán.”

“Tất cả chúng ta đều là những món hàng.” Mắt Matthew mở lớn. “Ôi Chúa nhân từ.”

một bức tượng nữ thần Diana bằng vàng-và-bạc, cao hơn sáu mươi phân đang đặt giữa chúng tôi, bức tượng khỏa thân, ngồi nghiêng trên lưng một con hươu đực cùng với hai mắt cá chân kín đáo bắt chéo nhau. một cặp chó săn ngồi bên chân nàng. Gallowglass huýt sáo. “Chà, hoàng đế công khai nỗi niềm khao khát của ông ấy rồi đây.”

Nhưng tôi còn quá bận tập trung ngắm nghía. một chiếc chìa khóa nhỏ được gắn vào đế bức tượng. Tôi xoay nó và con hươu bay ngang qua bên kia sàn. “Nhìn này Matthew. anh có thấy không?”

“Chú ấy có không chú ý thì cô cũng không gặp nguy hiểm đâu,” Gallowglass đảm bảo với tôi.

Đúng thế thật: Matthew đang tức giận nhìn trừng trừng vào bức tượng.

“Woa, chàng trai trẻ Jack.” Gallowglass tóm được cổ áo Jack khi thằng bé lao vào phòng. Nhưng Jack là một tên trộm chuyên nghiệp, vài thủ thuật trì hoãn như thế chỉ hữu dụng chút xíu thôi một khi nó đánh hơi thấy đồ vật gì đó có giá trị. Nó tuồn người xuống sàn như không xương, bỏ lại cho Gallowglass chiếc áo khoác rỗng không, rồi nhảy vọt tới phía sau con hươu.

“Nó là đồ chơi ạ? Cho cháu à? Tại sao bà ta không mặc quần áo ạ? Bà ta không lạnh sao?” Những câu hỏi tuôn ra ào ào như một dòng nước lũ. Thích thú với cảnh tượng này như bất cứ phụ nữ nào trong khu Malá Strana, Tereza đi tới xem chuyện nhốn nháo gì đang xảy ra. Bà ta thở hắt ra trước người phụ nữ khỏa thân trong phòng làm việc của ông chủ và đưa tay lên che mắt Jack.

Gallowglass liếc nhìn bộ ngực của bức tượng. “Đúng rồi, Jack. Ta thấy là cô ta bị lạnh đấy.” Câu nói này khiến anh chàng lãnh ngay một cú đánh vào đầu của Tereza, tay kia bà ta vẫn túm chặt lấy thằng bé.

“Nó là thứ đồ chơi tự động, Jack ạ,” Matthew vừa nói vừa nhặt món đồ lên. Lúc cầm trên tay, đầu con hươu bật mở ra để lộ một cái hõm sâu bên trong. “Món đồ này được cho chạy xuôi theo bàn ăn tối của hoàng đế. Khi nó dừng lại, người gần nhất sẽ phải uống rượu từ cổ con hươu. Tại sao cháu không đi chỉ cho Annie xem nó nhỉ?” anh đóng cái đầu trở lại vị trí và đưa món đồ vô giá đó cho Gallowglass, rồi nghiêm nghị nhìn tôi. “Chúng ta cần nói chuyện.”

Gallowglass đẩy Jack và Tereza ra khỏi phòng với những lời hứa hẹn về món bánh quy xoắn và chơi bài skat.

“Em đang gặp nguy hiểm trầm trọng đấy, em yêu.” Matthew luồn tay cào mái tóc anh, hành động này lúc nào cũng khiến anh đẹp trai hơn. “anh đã nói với Đại Hội Đồng rằng tình trạng của em với tư cách là vợ anh là điều kiện thuận lợi để bảo vệ em khỏi vướng vào thuật phù thủy và hạn chế những cuộc săn lùng phù thủy tại Scotland.”

“Nhưng bạn bè của chúng ta và đồng loại ma cà rồng của anh biết rõ chuyện đó còn hơn thế mà,” tôi nói. Cảm giác về mùi của ma cà rồng không lừa dối được, và mùi hương đặc hữu của Matthew bao phủ khắp người tôi. “Còn các phù thủy biết nhiều hơn về mối quan hệ của chúng mình bằng vào con mắt thứ ba của họ.”

“Có lẽ thế, nhưng Rudolf không phải ma cà rồng cũng chẳng phải phù thủy. Mối liên hệ với Đại Hội Đồng sẽ trấn an hoàng đế rằng không có bất cứ quan hệ nào giữa chúng ta cả. Vì thế sẽ không loại trừ việc ông ta theo đuổi em.” Các ngón tay Matthew chạm vào má tôi. “anh không chia sẻ đâu, Diana. Và nếu Rudolf đi quá xa…”

“anh sẽ kiểm soát tâm tính của mình nhé.” Tôi nắm chặt bàn tay anh. “anh biết dù thế nào đi nữa, em cũng không để Hoàng Đế La Mã Thần Thánh – hay bất cứ kẻ nào khác quyến rũ em mà. Chúng mình cần Ashmole 782. Ai thèm quan tâm chuyện Rudolf nhìn chằm chặp vào ngực em chứ?”

“Nhìn chằm chằm thôi thì anh có thể xử lý được.” Matthew nhẹ nhàng hôn tôi. “Còn một điều nữa em nên biết trước khi đi tạ ơn hoàng đế. Đại Hội Đồng đôi lúc vẫn đáp ứng sở thích về phụ nữ và đồ quý hiếm của Rudolf để nịnh bợ ông ta. Nếu hoàng đế muốn có em thì phán quyết của Đại Hội Đồng sẽ không nghiêng về phía chúng ta đâu. Họ sẽ chuyển em cho ông ta bởi vì họ không thể để Praha rơi vào tay loài người giống như tổng giám mục của Trier và những người bạn thầy tu dòng Tên của ông ta. Và họ không muốn Rudolf trở thành một Vua James thứ hai khát máu các sinh vật khác người. Praha có thể là ốc đảo dành cho những sinh vật ở thế giới khác. Nhưng giống như tất cả các ốc đảo, nơi nương náu đó là một ảo ảnh xa vời.”

“Em hiểu rồi,” tôi nói. Tại sao mọi chuyện liên quan tới Matthew đều phải rối tinh rối mù lên thế? Cuộc sống này khiến tôi nhớ đến những sợi thừng thắt nút trong hộp thần chú của mình. Cho dù tôi có gỡ chúng ra bao nhiêu lần đi nữa, chúng sẽ lại nhanh chóng rối mù thôi.

Matthew buông tôi ra. “Hãy để Gallowglass đi cùng em đến cung điện.”

“anh không đi à?” Trước những lo lắng của anh, tôi thấy sốc khi Matthew định để tôi rời đi như vậy.

“không. Thấy chúng ta cứ dính lấy nhau nhiều, những suy đoán và tính chiếm hữu của Rudolf càng tăng thêm. Còn Gallowglass có thể dụ dỗ ông ta hướng tới phòng thí nghiệm của Kelley. Cháu trai anh quyến rũ hơn anh rất nhiều đấy.” Matthew cười toe toét, nhưng biểu cảm ấy chẳng hề làm vơi đi bóng tối ẩn sâu trong đôi mắt anh.

***

Gallowglass khăng khăng là anh ta đã có một kế hoạch để giúp tôi hạn chế phải nói chuyện riêng với Rudolf nhưng vẫn có thể bày tỏ lòng biết ơn chân thành. Nhưng mãi tới lúc tiếng chuông ngân nga điểm ba giờ, tôi mới thoáng nhận ra kế hoạch của anh chàng có thể diễn ra thế nào. Dòng người đổ xô cố chen vào nhà thờ St. Vitus qua mấy cánh cửa vòm nhọn ở hai bên lối vào đã khẳng định cho kế hoạch đó.

“Đó là Sigismund,” Gallowglass nghiêng người ghé sát vào tai tôi nói. Tiếng chuông ồn ào đinh tai nhức óc, tôi chỉ vừa đủ nghe thấy tiếng anh ta. Thấy tôi lúng túng, Gallowglass chỉ vào một tấm lưới vàng bên trên gác chuông. “Sigismund. Cái chuông lớn. Đó là cách giúp cô biết mình đang ở Praha.”

Nhà thờ St.Vitus là cuốn giáo khoa về nghệ thuật kiến trúc Gothic với hàng loạt dãy cột trụ và những tháp nhọn giống như mũi kim chĩa lên trời. Vào một buổi chiều mùa đông u ám, trông nó thậm chí càng giống hơn. Những ngọn nến bên trong đang cháy sáng rực, nhưng trong không gian rộng thênh thang của nhà thờ chúng chẳng là gì ngoài mấy điểm vàng mờ nhạt trong bóng tối u ám. Bên ngoài, ánh sáng đã nhạt đến mức những tấm kính thủy tinh màu cáu bẩn và những bức bích họa sống động đầy màu sắc cũng chỉ trợ giúp được hết sức ít ỏi bầu không khí nặng nề ngột ngạt đó. Gallowglass cẩn thận chọn vị trí của chúng tôi ngay bên dưới một cặp giá đuốc.

“Hãy cho bùa chú ngụy trang của cô một cơ hội đi,” anh chàng gợi ý. “Ở đây tối thế này Rudolf có thể không trông thấy cô đâu.”

“Cậu bảo tôi phát sáng à?” Tôi trưng ra bộ mặt hà khắc nhất của bà giáo già, nhưng anh ta chỉ nhăn nhở cười đáp lại.

Chúng tôi đợi chờ nghi lễ Mass bắt đầu với cuộc phân loại thú vị giữa đám người hầu ồn ào trong cung điện, các chức sắc hoàng gia và những nhà quý tộc. một vài nghệ sĩ vẫn còn mang những vết dây bẩn và cháy xém do đặc thù công việc, hầu hết bọn họ trông đều có vẻ kiệt sức mệt mỏi. Sau khi quan sát đám đông, tôi ngước lên nhìn để bao quát kích thước và phong cách của nhà thờ.

“Toàn bộ đều được xây khung vòm hết,” tôi lẩm bẩm nói. Đường gân nổi còn phức tạp hơn nhiều so với hầu hết các nhà thờ theo phong cách Gothic ở anh.

“Ý tưởng của Matthew đấy,” Gallowglass nhận xét.

“Matthew ư?” Tôi há hốc miệng ngạc nhiên.

“Cách đây rất lâu chú ấy đi ngang qua Praha, khi ấy Peter Parler, kiến trúc sư mới, đang tái xanh tái xám vì một nhiệm vụ quá mức quan trọng thế này. Tuy nhiên đợt bùng nổ bệnh dịch đầu tiên đã giết chết hầu hết các thợ xây lành nghề, vậy nên Parler bị bỏ lại chịu trận. Matthew đã che chở anh ta và cả hai người có hơi nổi hứng điên một chút. Tôi không thể hiểu được chú ấy và anh chàng Peter trẻ kia đang cố gắng hoàn thiện cái gì, nhưng nó bắt mắt đấy chứ. Đợi cho tới lúc cô trông thấy những gì bọn họ làm với Đại Sảnh mà xem.”

Tôi mở miệng định hỏi thêm thì sự im lặng bao trùm toàn bộ đám đông. Rudolf đã đến. Tôi nghển cổ cố gắng nhìn.

“Ông ta kia kìa,” Gallowglass thì thầm, hất đầu hướng về phía bên phải. Rudolf đã vào St.Vitus trên tầng hai, từ lối đi khép kín mà tôi phát hiện ra nó nối liền giữa lâu đài và nhà thờ này. Ông ta đang đứng trên một ban công được trang trí bằng những chiếc khiên gia huy biểu thị rất nhiều tước hiệu và địa vị danh giá. Giống như trần nhà, chiếc ban công này cũng được đỡ bằng một vòm cuốn trang trí lạ thường, mặc dù trông nó như những cành cây khẳng khiu. Căn cứ vào vẻ thanh khiết đến nghẹt thở của kiến trúc các cột trụ khác trong nhà thờ, tôi không nghĩ đây là tác phẩm của Matthew.

Rudolf ngồi vào chỗ và nhìn bao quát khắp gian trung tâm của giáo đường trong khi đám đông cúi đầu và nhún gối chào hướng về lô hoàng gia. Về phần mình, Rudolf trông có vẻ không thoải mái khi bị phát hiện. Trong khu phòng riêng, ông ta thả lỏng trước đám cận thần của mình, nhưng ở đây ông ta dường như ngượng ngùng và căng thẳng. Ông ta quay sang lắng nghe một bầy tôi thì thầm và nhìn thấy tôi. Ông ta nghiêng đầu chào vẻ hòa nhã và mỉm cười. Đám đông dao động xung quanh để xem ai là người hoàng đế đặc biệt chú ý ban cho ân điển đó.

“Nhún gối chào ngay,” Gallowglass rít lên. Tôi lại hạ thấp người lần nữa.

Chúng tôi xoay sở trải qua được lễ Mass mà không có sự cố gì. Tôi nhẹ nhõm nhận thấy không một ai, thậm chí cả hoàng đế, mong đợi nhận lễ ban phước, và toàn bộ buổi lễ nhanh chóng kết thúc. Rudolf đã lặng lẽ lẻn khỏi khu vực riêng của ông ta tự lúc nào, không nghi ngờ gì là để tiếp tục mê mải với đống kho báu của mình.

Hoàng đế và các tu sĩ đã đi rồi, gian giáo đường trở thành nơi tụ họp vui vẻ khi những người bạn trao đổi với nhau tin tức và tán gẫu. Tôi thấy Ottavio Strada ở phía xa, say sưa trò chuyện với một quý ông da dẻ hồng hào trong bộ áo choàng len đắt tiền. Bác sĩ Hájek cũng ở đây, cười đùa nói chuyện với một cặp vợ chồng trẻ, rõ ràng đang độ mặn nồng. Tôi mỉm cười với ông ta, còn ông hơi gật đầu chào về phía tôi. Tôi có thể tảng lờ Strada, nhưng tôi thích vị bác sĩ này của hoàng đế.

“Galloglass à? Đáng lẽ cậu nên ngủ đông như bọn gấu rồi chứ?” một người đàn ông mảnh khảnh với cặp mắt sâu tiến đến gần, miệng vặn vẹo thành một nụ cười mỉa mai khó chịu. Ông ta mặc một bộ quần áo đắt tiền nhưng giản dị, chiếc nhẫn vàng trên ngón tay cho thấy sự giàu sang, quyền quý.

“Với thời tiết thế này thì tất cả chúng ta đều nên ngủ đông. thật tốt được thấy ông khỏe mạnh, Joris.” Gallowglass vỗ bồm bộp lên lưng ông ta. Lực của cú vỗ khiến hai mắt ông ta trợn tròn.

“Tôi cũng sẽ nói thế với anh bạn, nhưng vì anh luôn khỏe mạnh nên tôi sẽ để dành lời nói lịch sự sáo rỗng ấy cho cả hai chúng ta.” Người đàn ông quay sang tôi. “Còn đây là La Diosa.”

“Diana,” tôi nói, khẽ nhún gối chào.

“Đó không phải là tên bà ở đây. Rudolf gọi bà là La Diosa de la Caza. Đó là tiếng Tây Ban Nha để gọi nữ thần săn bắt. Hoàng đế đã ra lệnh cho ông Spranger tội nghiệp bỏ dở những phác họa cuối cùng bức vẽ Venus đang tắm để tập trung vào một chủ đề mới: Diana bị gián đoạn lúc trang điểm. Tất cả chúng tôi đang háo hức xem liệu Spranger có năng lực tạo ra một sự thay đổi lớn lao trong thời gian ngắn như thế không.” nói rồi ông ta nghiêng mình cúi đầu chào. “Joris Hoefnagel.”

“Người viết chữ đẹp,” tôi nói, nghĩ lại lời nhận xét của Pierre về phong cách viết chữ hoa mỹ trong bức thư chính thức triệu gọi Matthew vào triều của Rudolf. Nhưng cái tên đó khá là quen…

“một nghệ sĩ đấy,” Gallowglass nhẹ nhàng

sửa lại.

“La Diosa.” một người đàn ông gầy hốc hác hạ chiếc mũ chào bằng hai bàn tay đầy sẹo. “Tôi là Erasmus Habermel. Xin bà vui lòng hạ cố tới thăm xưởng của tôi ngay khi có thể được không? Bệ hạ muốn bà có một bản tóm tắt chiêm tinh để chú thích tốt hơn về những thay đổi trên mặt trăng, nhưng nó phải chính xác như ý thích của bà.”

Habermel cũng là một cái tên quen thuộc…

“Bà ấy sẽ đến chỗ tôi vào ngày mai.” một người đàn ông bệ vệ béo tốt khoảng chừng ba mươi tuổi chen qua đám đông ngày càng nhiều kia. Trọng âm của ông ta là tiếng Ý thấy rõ. “La Diosa sẽ ngồi làm mẫu vẽ chân dung. Bệ hạ muốn có bức họa của bà ấy để khắc vào đá như một biểu tượng vĩnh cửu của bà ấy trong tình cảm yêu mến của người.” Mồ hôi túa ra trên vùng nhân trung của ông ta.

“Signor Miseroni!” một người Ý khác nói, vỗ bồm bộp hai bàn tay lên bộ ngực nặng nề của ông ta. “Tôi đã nghĩ chúng ta hiểu nhau cơ đấy. La Diosa phải luyện tập khiêu vũ nếu bà ấy định tham dự buổi chiêu đãi vào tuần tới như hoàng đế mong muốn.” Ông ta cúi chào về phía tôi. “Tôi là Alfonso Pasetti, thưa La Diosa, thầy dạy khiêu vũ của hoàng đế.”

“Nhưng vợ tôi không thích khiêu vũ,” một giọng nói lạnh lùng cất lên phía sau tôi. một cánh tay dài rắn chắc vòng qua cầm lấy tay tôi, đùa nghịch với đường viền trên thân áo. “Đúng không, mon coeur?” Lời âu yếm sau cùng đi kèm với một nụ hôn lên các khớp ngón tay và một cú cắn nhè nhẹ cảnh cáo.

“Xử lý đúng đắn đấy Matthew, như vẫn luôn thế,” Joris mỉm cười chân thành. “anh thế nào rồi?”

“Thất vọng vì không tìm thấy Diana ở nhà,” Matthew nói với giọng điệu hơi buồn phiền. “Nhưng ngay cả một đức ông chồng tận tụy cũng phải quy phục trước Chúa trong tình yêu thương của vợ anh ta.”

Hoefnagel quan sát Matthew một cách tỉ mỉ, đo lường từng sự thay đổi về biểu cảm. Tôi đột nhiên nhận ra người này là ai: người nghệ sĩ vĩ đại là nhà quan sát thiên nhiên sắc sảo, những bức họa của ông ta về hoa cỏ và động vật trông như chúng có thể sống dậy, giống các sinh vật trên đôi giày của Mary.

“Chà, Chúa đã xong việc với bà ấy ngày hôm nay rồi. Tôi nghĩ ông hoàn toàn tự do mang vợ mình về nhà đấy,” Hoefnagel ôn tồn nói. “Bà hứa hẹn sẽ làm tươi sáng cho mùa xuân ảm đạm này đấy, La Diosa. Vì điều đó mà tất cả chúng tôi đều vui sướng lấy làm biết ơn.”

Cánh đàn ông giải tán sau khi có được lời cam đoan từ Gallowglass rằng anh ta sẽ sắp xếp các cuộc hẹn dày đặc chồng chéo nhau của tôi. Hoefnagel là người cuối cùng rời đi.

“Tôi sẽ để mắt đến vợ ông đấy, Schaduw. Có lẽ ông cũng nên làm thế.”

“Tôi luôn chú ý đến vợ mình. Còn biết làm gì khác ở đây kia chứ?”

“Dĩ nhiên rồi. Thứ lỗi cho sự can thiệp của tôi. Tai vách mạch rừng.” Hoefnagel cúi chào. “Tôi sẽ gặp bà trong triều, La Diosa.”

“Tên cô ấy là Diana,” Matthew gằn giọng nói. “Bà de Clermont cũng được.”

“Vậy mà tôi cứ tưởng là Roydon. Nhầm lẫn rồi.” Hoefnagel lùi lại sau vài bước. “Chào buổi tối, Matthew.” Tiếng bước chân ông ta vang vọng trên nền đá, nhỏ dần rồi chìm vào im lặng.

“Schaduw ư?” Tôi hỏi.

“Tiếng Hà Lan có nghĩa là ‘Cái Bóng’. Elizabeth không phải người duy nhất gọi anh bằng cái tên đó.” Matthew nhìn Gallowglass. “Signor Pasetti nhắc tới buổi chiêu đãi nào thế?”

“Ồ, không có gì đặc biệt đâu. Chắc lại mấy chủ đề thần thoại, với âm nhạc khủng khiếp và khiêu vũ thậm chí còn tồi tệ hơn. Được uống thả phanh, cả đám cận thần sẽ lại sẩy chân ngã nhầm giường vào cuối đêm cho mà xem. Chín tháng sau sẽ có cả bầy trẻ quý tộc không rõ nguồn gốc. Chuyện thường thôi mà.”

“Sic transit gloria mundi,” Matthew lẩm bẩm, rồi nghiêng mình cúi chào tôi. “Chúng ta về nhà chứ, La Diosa?” Tôi thấy không thoải mái khi người lạ dùng cái tên thân mật này, nhưng từ miệng Matthew thì gần như không chịu nổi. “Jack nói món hầm tối nay đặc biệt hấp dẫn đấy.”

Matthew xa cách suốt cả buổi tối, anh quan sát tôi bằng cặp mắt nặng nề trong khi tôi nghe chuyện trong ngày của bọn trẻ và Pierre đúng hẹn báo cáo anh hàng loạt chuyện xảy ra ở Praha. Những cái tên xa lạ và chuyện kể dài dòng rối rắm khiến tôi phải từ bỏ việc cố theo dõi nó mà lên giường đi ngủ.

Tiếng khóc của Jack chợt đánh thức tôi, tôi lao đến với thằng bé để rồi phát hiện ra Matthew đã tới tự bao giờ. Thằng bé điên cuồng quẫy đạp, gào khóc tìm sự giúp đỡ.

“Xương của cháu đang rời ra!” Thằng bé lặp đi lặp lại. “Đau! Đau quá!”

Matthew bao bọc thằng bé thật chặt dựa vào lồng ngực anh để nó không thể nhúc nhích nữa. “Suỵt. Giờ ta ôm được cháu rồi.” anh tiếp tục giữ Jack cho tới khi cơn run rẩy lan ra khắp tứ chi mảnh khảnh của đứa bé dịu dần xuống.

“Tất cả lũ quái vật đều trông giống những người đàn ông bình thường tối nay, ông Roydon ạ,” Jack kể với anh, rúc sâu hơn nữa vào vòng tay chồng tôi. Tiếng thằng bé nghe có vẻ hết sức mệt mỏi, những quầng xanh dưới mắt khiến nó trông như già hơn tuổi thực.

“Chúng thường thế mà, Jack,” Matthew nói. “Chúng thường thế cả.”

***

Những tuần kế tiếp là một cơn lốc xoáy điên cuồng các cuộc hẹn – hết thợ kim hoàn của hoàng đế, thợ làm nhạc cụ của hoàng đế, rồi lại thầy dạy khiêu vũ của hoàng đế. Mỗi cuộc đối mặt lại mang tôi tiến sâu hơn nữa vào trung tâm của cung điện đế quốc này, tới những xưởng làm việc và nơi cư ngụ dành cho những người nghệ sĩ và trí thức tài giỏi của Rudolf.

Giữa những lời mời hẹn gặp gỡ, Gallowglass đưa tôi tới từng khu vực của cung điện nơi tôi chưa được thấy. Đến chỗ bầy thú, nơi Rudolf nuôi giữ báo và sư tử cũng nhiều ngang với các thợ vẽ và nhạc công ở trên các con phố nhỏ hẹp phía đông nhà thờ. Tới Stag Moat, nơi đã được tu sửa để Rudolf có thể hưởng thụ chơi thể thao vui vẻ hơn. Tới phòng tập phủ kín các hình trang trí khắc xước, nơi các cận thần có thể vận động thể dục. Tới những ngôi nhà kính mới được dựng lên để bảo vệ các cây non quý giá của hoàng đế tránh khỏi mùa đông khắc nghiệt của Bohemian.

Nhưng có một nơi thậm chí cả Gallowglass cũng không được phép vào: tòa tháp Phấn, nơi Edward Kelley tiến hành chưng cất và tinh luyện để cố làm ra đá tạo vàng. Chúng tôi đứng bên ngoài tòa tháp, cố gắng nói chuyện để tìm cách qua mặt trạm lính canh gác ở lối vào. Gallowglass thậm chí còn phải nồng nhiệt gào lên chào hỏi. Việc này khiến hàng xóm phải chạy ra vì tưởng cháy nhà, nhưng cũng chẳng làm người phụ tá ngày xưa của tiến sĩ Dee buồn nhúc nhích.

“hắn ta như tù nhân ấy,” tôi kể với Matthew sau khi bát đĩa bữa tối được dọn sạch, Jack và Annie đã yên ổn nằm trên giường của chúng. Mấy đứa đã vui vẻ chơi một vòng mệt lử bài skat và đi xe trượt tuyết, rồi ăn bánh quy xoắn. Chúng tôi không còn coi chúng như người hầu của mình nữa. Tôi hy vọng được cư xử như một đứa trẻ bình thường sẽ chấm dứt những cơn ác mộng hàng đêm của Jack. Nhưng cung điện không phải là nơi dành cho chúng. Tôi vẫn lo sợ chúng có thể đi lang thang và lạc trong đó mãi mãi, vì chúng không biết ngôn ngữ ở đây.

“Kelley là một tù nhân,” Matthew nói, nghịch ngợm ly rượu của anh. Nó được làm bằng bạc nặng và bắt ánh lửa sáng lấp lánh.

“Họ nói thỉnh thoảng hắn mới về nhà, thường là vào giữa đêm khi không có ai trông thấy. Ít nhất thì hắn cũng có được chút thảnh thơi sau những yêu cầu không ngừng nghỉ của hoàng đế.”

“Em chưa gặp bà Kelley,” Matthew lạnh nhạt nói.

Tôi chưa gặp, điều này khiến tôi thấy kỳ quái và càng để tâm đến nó hơn. Có lẽ tôi đang đi sai đường để gặp được nhà giả kim này. Tôi cho phép mình bị cuốn vào cuộc sống vương triều với hy vọng gõ cửa được phòng thí nghiệm của Kelley và đi thẳng tới Ashmole 782. Nhưng cứ theo thói quen mới này của tôi thì cách tiếp cận trực tiếp dường như không thể thành

công được.

Sáng hôm sau tôi quyết định đi mua sắm cùng Tereza một chút. Ngoài trời gió thét gào dữ dội, buốt lạnh căm căm nhưng chúng tôi vẫn gắng lê bước tới chợ.

“Bà có biết bà Kelly đồng hương của tôi không?” Tôi hỏi Frau Huber khi chúng tôi đợi người bán bánh gói hàng. Mấy bà nội trợ của Malá Strana thèm khát sưu tầm những chuyện kỳ quái khác thường chả kém gì Rudolf cả. “Chồng bà ấy là một trong những người hầu cận của hoàng đế.”

“Ý bà là một trong các nhà giả kim thuật bị giam cầm của hoàng đế phải không?” Frau Huber nói kèm theo một tiếng khịt mũi khinh thường. “Luôn có những chuyện kỳ quái xảy ra trong ngôi nhà đó. Và nó còn tệ hơn khi người nhà Dee ở đây. Herr Kelly lúc nào cũng mê đắm nhìn Frau Dee.”

“Thế còn bà Kelley?” Tôi ngắt lời.

“Bà ta chẳng mấy khi ra ngoài. Đầu bếp của bà ta lo chuyện mua bán.” Frau Huber không đồng tình với việc ủy thác trách nhiệm nội trợ kiểu này. Nó sẽ mở đường cho mọi sự náo loạn, bao gồm (bà ta cho là thế) Lễ rửa tội lại và một chợ đen thịnh vượng với nguyên liệu nhà bếp bị xoáy trộm. Bà ta đã bày tỏ cảm xúc về điểm này rất rõ ràng ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, và đó cũng là một trong những lý do chính tôi ra ngoài để mua cải bắp trong bất cứ thời tiết nào.

“Có phải chúng ta đang bàn luận về bà vợ của nhà giả kim ấy không?” Signorina Rossi hỏi, băng qua mặt đường đá đông cứng và tránh một cái xe cút kít chở đầy than trong gang tấc. “Bà ta là người anh và vì thế nên rất kỳ lạ. Các hóa đơn tiền rượu của bà ta lớn hơn chúng ta rất nhiều.”

“Làm sao hai bà biết nhiều chuyện thế?” Tôi hỏi khi đã thôi cười.

“Chúng tôi dùng chung một nhà chị thợ giặt mà,” Frau Huber ngạc nhiên nói.

“Chúng ta chẳng thể giữ được bí mật trước mấy bà thợ giặt,” Signorina Rossi đồng tình. “Bà ấy cũng đã giặt giũ cho nhà Dee đấy. Cho tới khi bị Signorina Dee đuổi việc vì tính tiền giặt khăn ăn quá cao.”

“một con mụ khó tính, Jane Dee ấy, nhưng bà không thể đổ lỗi cho tính tằn tiện của bà ta được,” Frau Huber thở dài công nhận.

“Tại sao bà cần gặp bà Kelley vậy?” Signorina Rossi hỏi, lèn một ổ bánh mỳ vặn thừng vào giỏ đi chợ của cô ta.

“Tôi muốn gặp chồng bà ấy. Tôi quan tâm đến giả kim thuật và có mấy vấn đề cần hỏi.”

“Bà sẽ trả tiền chứ?” Frau Huber hỏi, cọ cọ các ngón tay vào nhau trong một cử chỉ quen thuộc thường xuyên thấy.

“Cho cái gì cơ?” Tôi bối rối hỏi.

“Dĩ nhiên là những câu trả lời của ông ta rồi.”

“Có chứ,” tôi đồng ý, tự hỏi bà ta đang bày ra kế hoạch ma mãnh nào đây.

“Cứ để đó tôi lo,” Frau Huber nói. “Tôi đang thèm món cốt-lết bê rán với bơ, phía trên phủ bánh mỳ vụn. Tay người Áo sở hữu quán rượu gần nhà bà biết món thịt rán ấy nên làm thế nào đấy, Frau Roydon.”

cô con gái mới lớn của vị pháp sư-thịt rán-người Áo hóa ra lại cùng học một gia sư với đứa con gái riêng mười tuổi của Kelley – Elizabeth. Và đầu bếp của ông ta thì cưới bà dì của cô thợ giặt, người này lại có chị dâu làm việc vặt bên ngoài cho nhà Kelley.

thật lấy làm biết ơn những người phụ nữ đã rèn nên chuỗi mắt xích huyền bí này, không cần đến những mối liên hệ trong triều của Gallowglass, mà nhờ đó Matthew và tôi nửa đêm hôm đó được có mặt trong phòng khách tầng hai của nhà Kelley, chờ đợi người đàn ông vĩ đại kia trở về.

“Ông ấy đáng lẽ phải có mặt ở đây rồi,” Joanna Kelley trấn an chúng tôi. Đôi mắt bà ta đỏ lừ và lờ đờ, dù kết quả này là do uống quá nhiều rượu hay do cảm lạnh thì có vẻ đều làm cho toàn bộ gia nhân khốn khổ.

“Xin đừng phiền lòng vì chúng tôi, bà Kelley. Chúng tôi có thể đợi muộn được mà,” Matthew dịu dàng nói, tặng bà ta một nụ cười chói lóa. “Bà thích ngôi nhà mới của mình chứ?”

Sau rất nhiều hoạt động tình báo và điều tra trong cộng đồng dân Áo và Ý, chúng tôi phát hiện ra nhà Kelley gần đây mới mua một căn nhà ở góc đường gần Ba Con Quạ nổi tiếng phức tạp được biết đến với cái biển phố đầy tính sáng tạo. Ai đó đã dùng những hình thù bằng gỗ bỏ đi từ các bức lễ đản sinh, cưa đi một nửa, rồi sắp xếp trên một tấm bảng. Vì thế hình ảnh Đức Chúa hài đồng trong nôi đã bị bỏ đi và thay vào đó là cái đầu con lừa của Mary.

“Con Lừa và Cái Nôi đáp ứng các nhu cầu của chúng tôi hiện nay, ông Roydon ạ.” Bà Kelley hắt hơi sảng khoái rồi tợp một ngụm rượu. “Chúng tôi đã nghĩ hoàng đế sẽ sắp xếp một ngôi nhà cho chúng tôi trong hoàng cung, căn cứ vào công việc của Edward, nhưng giờ lại như thế này đây.” Tiếng giậm đều đều lên các bậc cầu thang. “Edward đây rồi.”

một cây ba toong xuất hiện trước, rồi đến một bàn tay lem nhem, tiếp đó là cái cổ tay áo cũng lem nhem không kém. Phần còn lại của Edward Kelley trông thật bất hảo. Bộ râu quai nón dài rối bù che khuất đôi tai ẩn hiện hai bên thái dương. Kelley khập khiễng bước vào phòng, rít lên rồi đông cứng khi trông thấy Matthew.

“Edward.” Matthew tưởng thưởng cho người đàn ông một nụ cười chói lóa khác, nhưng Kelley chẳng khác gì bà vợ, cũng chỉ thờ ơ đón nhận. “Tưởng tượng mà xem chúng ta đang gặp lại nhau ở xa nhà thế này.”

“Làm sao ông…?” Edward lắp bắp giọng khàn khàn. hắn ta nhìn quanh phòng, ánh mắt rơi trên người tôi với cái nhìn thoáng qua thúc vào da thịt, cảm giác quỷ quyệt như những lúc tôi thấy một yêu tinh. Nhưng còn hơn thế: cảm giác xáo trộn trong các sợi tơ bao quanh hắn, những dấu hiệu trái quy luật trong mạng dệt này gợi ý rằng hắn không chỉ là một yêu tinh – hắn không tự chủ được. Đôi môi hắn cong lên. “Phù thủy.”

“Hoàng đế đã nâng địa vị của cô ấy lên rồi, cũng giống như ông vậy. Giờ cô ấy là La Diosa – nữ thần,” Matthew nói. “Hãy ngồi xuống và cho cái chân ông được nghỉ ngơi đi đã. Theo như tôi còn nhớ thì nó thường gặp rắc rối khi trời lạnh.”

“Ông có chuyện gì liên quan tới tôi sao, Roydon?” Edward Kelley xiết cái ba toong chặt thêm.

“Ông ấy ở đây nhân danh nữ hoàng, Edward.” Joanna ai oán nói. “Vì cơn sốt rét kinh khủng này mà tôi chưa gặp được những người hàng xóm của mình. Ông không nói cho tôi biết có người anh sống ngay gần đây. Tại sao chứ? Tôi có thể nhìn thấy nhà bà Roydon từ cửa sổ tòa tháp này. Ông luôn ở lâu đài. Còn tôi cô đơn một mình, mong mỏi được nói chuyện bằng ngôn ngữ bản xứ của mình, nhưng…”

“Về giường đi, em yêu,” Kelley nói, gạt Joanna đi. “Mang theo rượu của em nữa.”

Bà Kelley mỉm cười vẻ phục tùng, nét mặt khốn khổ. Là một phụ nữ anh ở Praha không bạn bè, không gia đình thật khó khăn, nhưng có một đức ông chồng được chào đón ở nhiều nơi – những nơi mà bà không được phép lui tới, điều đó chắc phải khó khăn hơn gấp đôi. Khi bà ta đi rồi, Kelley đổ người dựa vào bàn và ngồi xuống ghế của vợ mình. hắn nhăn nhó nâng cái chân lên đặt vào đúng chỗ, sau đó chòng chọc ghim ánh mắt tối tăm thù địch lên Matthew.

“nói cho tôi biết tôi phải làm gì mới rũ bỏ được các người,” hắn nói huỵch toẹt. Kelley có thể có sự xảo quyệt của Kit, nhưng lại không có được sự quyến rũ giống anh ta.

“Nữ hoàng muốn ngươi,” Matthew nói, cũng thẳng thừng không kém. “Chúng ta muốn cuốn sách của Dee.”

“Cuốn sách nào?” Câu đáp trả của Edward thật nhanh – quá nhanh.

“Với một tên lang băm thì ngươi là một kẻ dối trá đáng ghê tởm, Kelley ạ. Làm thế nào ngươi có thể bao trọn được tất cả những đức tính ấy nhỉ?” Matthew vung đôi chân dài đi bốt đặt lên mặt bàn. Kelley la lên khi gót giày đập xuống bàn.

“Nếu tiến sĩ Dee đang buộc tội tôi ăn trộm,” Kelley đỏ ửng lên, “vậy thì tôi kiên quyết phải bàn về vấn đề này trước sự có mặt của hoàng đế. Người sẽ không muốn tin tưởng tôi nữa, mà danh dự của tôi đang bị nghi ngờ trong chính ngôi nhà của mình.”

“Nó ở đâu, Kelley? Trong phòng thí nghiệm của ngươi ư? Hay trong phòng ngủ của Rudolf? Ta sẽ tìm thấy nó dù có hay không có sự giúp đỡ của ngươi. Nhưng nếu ngươi định nói cho ta biết bí mật của mình, thì ta có thể xem xét bỏ qua vấn đề kia.” Matthew phủi một vết bẩn lấm chấm trên chiếc quần chẽn của anh. “Đại Hội Đồng không hài lòng với hành vi của ngươi gần đây.” Cây gậy chống của Kelley rơi xuống sàn nhà cành cạch. Matthew giúp đỡ nhặt nó lên, rồi chạm đầu gậy mòn vẹt của nó vào cổ Kelley. “Ngươi đã đe dọa mạng sống tên phục vụ ở quán trọ như thế này phải không? Bất cẩn quá đấy, Edward. Tất cả sự hào hoa phù phiếm và đặc ân này đã làm ngươi mụ mị rồi.” Cây gậy chống hạ xuống bụng Kelley và dừng lại ở đó.

“Tôi không thể giúp các người được.” Kelley nhăn nhó khi Matthew tăng thêm sức ép lên cây gậy. “Đó là sự thật! Hoàng đế đã lấy cuốn sách đi khi…” Tiếng Kelley nhỏ dần rồi im bặt, hắn đưa tay vuốt mặt như thể muốn xóa đi hình ảnh ma cà rồng đang đối diện chính mình.

“Khi nào?” Tôi vừa hỏi, vừa nhoài người về phía trước. Khi chạm vào Ashmole 782 trong thư viện Bodleian, ngay lập tức tôi đã biết nó rất khác lạ.

“Ngươi biết về cuốn sách này còn nhiều hơn ta,” Kelley nhìn tôi khinh bỉ, ánh mắt hắn lóe lên. “Lũ phù thủy các ngươi không hề ngạc nhiên khi nghe nói đến sự tồn tại của nó, mặc dù một yêu tinh phát hiện ra nó!”

“Ta đang mất kiên nhẫn rồi đấy, Edward.” Cây gậy gỗ kêu lên răng rắc trong tay Matthew. “Vợ ta hỏi ngươi. Hãy trả lời đi.”

Kelley chậm rãi nhìn Matthew với vẻ đắc thắng rồi đẩy đầu gậy ra khỏi bụng hắn. “Ông căm ghét phù thủy – hay chỉ mọi người nghĩ vậy thôi. Nhưng tôi thấy giờ ông cũng đang chia sẻ sự yếu đuối của Gerbert trước những sinh vật này. Ông đang yêu cô nàng phù thủy kia, đúng như tôi đã nói với Rudolf.”

“Gerbert.” Giọng Matthew bình thản.

Kelley gật đầu. “Ông ta đến đây khi Dee vẫn còn ở Praha, hỏi han về cuốn sách kia và nhúng mũi vào công việc của tôi. Rudolf để ông ta hưởng dụng một trong các phù thủy ở Thành Cổ – một cô gái mười bảy tuổi rất xinh đẹp, với mái tóc đỏ cùng đôi mắt màu xanh lam y như vợ ông. không ai nhìn thấy cô ta kể từ đó. Nhưng có một đám lửa rất đẹp vào Đêm Lễ Walpurgis. Gerbert được ban vinh dự thắp lửa.” Kelley chuyển mắt nhìn sang tôi. “Tôi băn khoăn không biết năm nay chúng ta sẽ có được một màn đốt lửa như thế nữa không?”

Nhắc đến truyền thống cổ thiêu sống phù thủy ăn mừng mùa xuân là giọt nước cuối cùng làm tràn ly đối với Matthew. Đến lúc tôi nhận thấy chuyện gì xảy ra thì anh đã tống một nửa người Kelley ra ngoài cửa sổ.

“Nhìn xuống đi, Edward. không phải một cú rơi thẳng tuột đâu. Ngươi sẽ sống sót, nhưng ta e rằng có thể gãy một hai cái xương đấy. Rồi ta sẽ nhặt ngươi lên và mang vào phòng ngủ. Tất nhiên ở đó cũng có một cái cửa sổ rồi. Thậm chí ta sẽ tìm được một nơi đủ cao để thả cái xác súc sinh khốn kiếp của ngươi lần thứ hai. Đến lúc đó mọi cái xương trong cơ thể ngươi sẽ vỡ vụn và ngươi sẽ nói với ta điều ta muốn biết.” Matthew chuyển đôi mắt đen láy nhìn sang khi tôi nhổm dậy. “Ngồi. Xuống.” anh hít vào một hơi thật sâu. “Làm ơn.” Và tôi làm theo.

“Cuốn sách của Dee phát sáng với một sức mạnh. Tôi có thể ngửi thấy sức mạnh đó ngay khoảnh khắc ông ấy lôi nó ra khỏi giá sách ở Mortlake. Ông ấy rõ ràng hiểu tầm quan trọng của nó, nhưng tôi biết.” Kelley giờ không thể nói đủ nhanh. Khi hắn ngừng lại để lấy hơi, Matthew lắc hắn. “Phù thủy Roger Bacon sở hữu nó và quý trọng nó như một kho báu vĩ đại. Tên ông ta ở trên trang tựa đề, kèm theo câu đề từ ‘Verum Secretum Secretorum.’”

“Nhưng nó chẳng giống cuốn Secretorum nào cả,” tôi nói, nghĩ đến tác phẩm thời Trung cổ được yêu thích đó. “Đó là một cuốn giáo khoa thường thức. Còn đây là những hình vẽ minh họa về thuật giả kim.”

“Những bức hình minh họa đó chẳng là gì ngoài một tấm màn che chống lại sự thật,” Kelley vừa nói vừa thở khò khè. “Đó là lý do vì sao Bacon gọi nó là Bí mật thật sự của các bí mật.”

“Nó nói về cái gì?” Tôi hỏi, nhổm dậy vì kích động. Lần này Matthew không cảnh cáo tôi. anh cũng kéo Kelley vào bên trong. “Ông có thể đọc được từ ngữ trong đó không?”

“Có lẽ,” Kelley nói, vuốt phẳng lại bộ quần áo.

“hắn cũng không đọc được cuốn sách đâu.” Matthew thả Kelley ra với vẻ ghê tởm. “anh có thể ngửi thấy mùi dối trá qua nỗi sợ hãi của hắn.”

“Nó được viết bằng một thứ tiếng nước ngoài. Ngay cả Rabbi Loew cũng không thể giải mã được.”

“anh chàng Maharal ấy đã thấy cuốn sách sao?” Matthew có cái nhìn lặng lẽ cảnh giác đó ngay trước khi anh bất ngờ bổ xuống tấn công.

“Thực ra khi ở Thành Do Thái tìm kiếm phù thủy tạo ra sinh vật đất sét mà họ gọi là hình nhân đất đó, ông đã không hỏi Rabbi Loew về nó. Ông cũng không tìm được thủ phạm và người tạo ra nó.” Kelley tỏ vẻ khinh thường. “Sức mạnh của sự nổi tiếng và tầm ảnh hưởng của ông nhiều đến thế mà. Ông thậm chí còn không thể dọa nổi dân Do Thái.”

“Tôi không nghĩ đấy là tiếng Do Thái,” tôi nói, nhớ lại các ký tự chuyển động rất nhanh đó. Tôi đã nhìn thoáng qua bản viết trên giấy da cừu đó.

“Chúng không phải. Hoàng đế đã cho gọi Rabbi Loew chỉ để chắc chắn điều đó.” Kelley đã tiết lộ nhiều hơn hắn dự định. Ánh mắt hắn đảo sang phía cây gậy chống, các sợi tơ quanh hắn biến dạng rồi bện xoắn lại. Hình ảnh Kelley nâng cây gậy chống lên đánh ai đó chợt xuất hiện trong đầu tôi. hắn định làm gì? Và rồi tôi nhận ra: hắn đang định đánh tôi. một âm thanh khó hiểu phát ra từ miệng tôi, và khi tôi chìa tay ra, cây gậy của Kelley bay thẳng tới. Cánh tay tôi biến thành một cành cây trong thoáng chốc trước khi trở lại với dáng vẻ bình thường của nó. Tôi cầu nguyện tất cả những chuyện vừa rồi xảy ra quá nhanh để Kelley không kịp nhận thấy sự thay đổi đó. Nhưng cái nhìn trên gương mặt hắn đã cho tôi biết những hy vọng của mình thật vô ích.

“Đừng để hoàng đế nhìn thấy điều bà vừa làm,” Kelley cười tự mãn, “nếu không ngài sẽ nhốt bà lại, như một món đồ quý hiếm khác phục vụ cho sở thích của mình. Tôi đã nói cho các người những gì các người muốn biết rồi, Roydon. Hãy gọi lũ chó của Đại Hội Đồng đi đi.”

“Ta không nghĩ ta có thể làm thế đâu,” Matthew nói, cầm lấy cây gậy từ tay tôi. “Ngươi không vô hại, cho dù Gerbert có nghĩ gì đi nữa. Nhưng giờ ta sẽ để mặc ngươi. Đừng làm bất cứ điều gì khiến ta chú ý thêm nữa, may ra ngươi có thể thấy được mùa hè này đấy.” nói rồi anh ném cây gậy vào góc phòng.

“Chúc ngủ ngon, ông Kelley.” Tôi lấy áo khoác, chỉ muốn cách xa khỏi gã yêu tinh này nhanh nhất có thể.

“Cứ hưởng thụ thời khắc dưới ánh mặt trời đi, phù thủy. Ở Praha chúng qua nhanh lắm đấy.” Kelley vẫn ở yên tại chỗ khi Matthew và tôi bắt đầu xuống cầu thang.

Tôi vẫn còn cảm thấy những cái nhìn của hắn thúc vào da mình khi đi trên phố. Khi tôi nhìn lại về phía quán Con Lừa và Cái Nôi, những sợi chỉ tơ vặn vẹo đứt gẫy nối Kelley với thế giới này sáng lên với vẻ ác ý hiểm độc.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện