(1) Minh cổ: hay còn gọi là liên đại Hỏa Thành hay Thái viễn cổ, tiếng Anh là Hadean, là thời kì cổ xưa nhất trong lịch sử hình thành Trái Đất, khoảng 4570 triệu năm trước.



Cấu tạo trái đất gồm 1. Crust: Lớp vỏ (địa chất) – 2.Upper Mantle: Quyển Manti trên – 3. Mantle: Quyển Manti dưới – 4. Outer core: Lõi ngoài – 5. Inner core: Lõi trong



Tư Mã Khôi nghe xong cảm thấy rất kinh ngạc, những việc này ngay cả giáo sư cũng chưa chắc đã hiểu rõ, vậy mà sao anh chàng đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lại biết vanh vách như thế được nhỉ?

Hải ngọng cũng rất rầu rĩ: “Anh đây nam chinh bắc phạt bao nhiêu năm, mà ngay cả cái vỏ tàu ngầm còn không biết trông nó ra sao, chứ nói gì đến các tính năng chiến thuật chi tiết của tàu ngầm Liên Xô. Không phải chú em là đặc vụ đấy chứ hả?”



Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy rõ sự nghi hoặc của mọi người, anh chàng cuống quýt giải thích: “Kế hoạch khoan thăm dò độ sâu kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chính xác là vì muốn tìm kiếm chiếc tàu ngầm động cơ diesel Z-615 mất tích đầy bí ẩn đó, thực ra 72 thành viên đi trên con tàu hoàn toàn không quan trọng, mà bí mật quan trọng đích thực chính là cỗ tên lửa R-19. Đây là cơ mật quân sự, thời đó rất ít người biết rõ nội tình, đến tận bây giờ cũng vẫn chưa đến kỳ hạn giải mã.”




Trong số những người chấp hành nhiệm vụ thám trắc kính viễn vọng Lopnor lần này, chỉ những thành viên xuất thân quân nhân mới biết trước bí mật quân sự đó, và tiết lộ cho giáo sư Tống Tuyển Nông trong phạm vi thích hợp cho phép. Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà chỉ nói nguyên văn lại những gì mình được thông tin, điều có thể khẳng định chắc chắn bây giờ là: dưới cực vực không tồn tại chiếc tàu ngầm Z-615 của Liên Xô, bởi vậy tin tình báo này không còn ý nghĩa thực tế nữa, mà chỉ có tác dụng tham khảo.



Tư Mã Khôi cố gắng gạn hỏi, cuối cùng cũng xác định tình hình đội trưởng Lưu Giang Hà nắm được vô cùng có hạn, xem ra muốn đạt được tiến triển mang tính thực chất, thì bắt buộc phải xuống tầng sâu nhất của kính viễn vọng Lopnor. Còn chuyện con tàu ma Z-615, chuyện đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích, hay long ấn triều Hạ lưu giữ trong mật thất tòa thành Nhện Vàng, đối với Tư Mã Khôi mà nói hoàn toàn không có gì khác biệt. Những ẩn số đó cũng giống Nấm mồ xanh, tuy đều thuộc vào phạm trù chưa biết, nhưng dường như đều có đoán định, toàn bộ những sự việc trên đều liên quan đến cực vực lún sâu giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất.



Giờ đây, mọi người đều đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, từ bỏ ý định phục hồi hệ thống cung cấp điện dưới lòng đất, cũng không còn bận tâm đến khoang giảm áp có thể cứu mạng cả hội nữa, tất cả chuẩn bị trực tiếp tiến vào động đạo giếng khoan dưới trạm thám trắc trung tâm.



Tư Mã Khôi nhận định cực vực khả năng là vùng nước sâu, anh định vào trong kho kiếm mấy cái bình dưỡng khí và dụng cụ vượt sông, nhưng tìm khắp nơi không thấy, nên đành thôi. Mọi người thu xếp chỉnh trang lại hành lý xong đâu đấy, bèn tức tốc lên đường. Đường xuống động đạo phải đi qua mặt sàn tầng giữa bị không động ăn mòn, bức tường xi măng bị hủy hoại nghiêm trọng, nó rùng rình như muốn sập đến nơi; kết cấu chịu lực nội bộ của trạm thám trắc trung tâm mất trạng thái cân bằng, khả năng sẽ xảy ra hiện tượng sụt lở liên tiếp.



Cả đội mạo hiểm tụt xuống gần chỗ đặt cầu trục treo ở tầng hầm, một lần nữa Tư Mã Khôi lại đưa mắt nhìn rìa mép hồ chứa nước cỡ lớn ở mặt cạnh, lúc trước còn thấy cái máng xi măng này quái dị vô cùng, nhưng bây giờ xem lại thì thấy nó gần giống cái kho chứa tàu ngầm. Có lẽ người Liên Xô dự định: sau khi tìm thấy tàu ngầm Z-615, thì sẽ tháo dỡ nó dưới lòng đất, rồi dùng cầu trục treo cẩu từng bộ phận vào nhà kho, đổ xi măng niêm phong triệt để, họ căn bản không định mang nó về nước. Công tác bảo mật của bọn mũi lõ đúng là làm chu toàn tận chân tơ kẽ tóc.



Thắng Hương Lân nói: “Sự việc khả năng không đơn giản như anh nghĩ đâu. Nếu chỉ là tháo dỡ tàn tích chiếc tàu ngầm, thi vì sao họ lại phải xây hẳn hai cái máng xi măng to cỡ này? Mà bất kỳ cái nào cũng đủ chứa một cỗ tàu ngầm dài cả trên trăm mét ấy chứ.”



Tư Mã Khôi nói: “Cô nói cũng phải, vì sao lại phải xây hai cái nhà kho to tổ bố như nhau vậy nhỉ? Lẽ nào người Liên Xô cho rằng dưới kính viễn vọng Lopnor có hẳn hai cái tàu ngầm chắc?”



Hải ngọng nói: “Thế thì bọn mũi lõ cũng tham quá nhỉ, suốt ngày nghĩ cách ăn không của thiên hạ. Tàu ngầm chứ có phải cá kình hay chó chửa đâu, mà mất một lại tìm thấy hai được?”



Tư Mã Khôi lắc đầu: “Chuyện này đúng là khó hiểu; căn cứ vào tin tình báo mà đội trưởng Lưu Giang Hà cung cấp thì dưới lòng đất căn bản không có tàu ngầm Z-615, nhưng phía Liên Xô quả thực lại nắm được vài tin tình báo khác, đồng thời còn sử dụng cả phương pháp viễn thám từ trường trong rừng rậm than đá để thám trắc kính



viễn vọng Lopnor một cách chính xác, tinh vi nhất. Trộm nghĩ, thông tin xuất hiện khi đó nhất định phải đủ sức thuyết phục khiến các chuyên gia Liên Xô tin rằng chiếc tàu ngầm bị mất tích thực sự tồn tại dưới cực vực, nếu không, bọn họ đă không huy động sức người, sức của lớn đến thế. Mà cứ cho là tàu ngầm Z-615 quả thực bị một sức mạnh chưa biết nào đó đưa đến khu vực sâu hàng vạn mét dưới hoang mạc, thì nó cũng không thể đột nhiên phân thân thành hai chiếc được. Đây chính là điều khiến người ta cảm thấy khó tưởng tượng nhất.”




Nếu dưới lòng đất không có con tàu đó, thì người Liên Xô đã phát hiện thấy vật thể gì trong quá trình quan trắc viễn thám? Hiện giờ hội Tư Mã Khôi căn bản vẫn chưa thể dự đoán được gì, chỉ đoán bừa hai máng xi măng to như cỗ tàu ngầm kia, chắc chắn có thể tích tương đương với vật tồn tại dưới cực vực.



Lúc đó một mảnh tường từ trên cao ào ào rơi xuống dưới, đập vào cầu trục treo nát vụn, phát ra tiếng vọng âm ầm, đá bụi văng vào mặt đau rát. Tư Mã Khôi thấy sàn tầng trên sắp sụp đổ, chỉ sợ khối bê tông cốt thép nặng trịch đó đập vào người thì có mà nát bét như tương. Anh hét to giục mọi người nhanh chân hơn nữa, chạy nhanh đến nắp đậy của động đạo giếng khoan. Cái nắp này có kết cấu mẹ con, nắp to xuyên qua cầu trục treo, sáu nắp con ở ven rìa để chừa cho nhân viên chui vào, cái nào cũng đều có van bánh khóa chặt, nhiệt độ dưới lòng đất rất lạnh, nên bề mặt nắp đậy phủ một lớp tuyết trắng.



Mọi người đeo găng tay cùng dồn sức quay van bánh, họ mở được nắp đậy kiên cố dày nặng bên trên ra, rồi bật đèn quặng và đèn các bua soi sáng bên trong, lần lượt từng người một chui xuống giếng khoan. Tư Mã Khôi đi trước dò đường, thấy lòng giếng được khoan đào bằng thiết bị khoan hạng nặng này rất rộng rãi, hướng chạy gần như dốc đứng, rất hiểm trở. Trong lòng động đạo sâu hun hút này còn phất phơ những bông tuyết lạnh, khí âm lạnh xuyên thấu xương tủy, quầng sáng của ánh đèn không vượt quá mười bước chân, bầu không khí ở đây ma quái khó lường, quay đầu lại nhìn thì thấy con đường phía sau đã mờ mịt xa khuất.



Hội Tư Mã Khôi không biết động đạo này còn sâu bao nhiêu. Họ mò mẫm từ cầu thang sắt dựng sát thành giếng xuống dưới thêm một đoạn nữa thì phát hiện mặt bên cạnh có gian mật thất hình hộp, bên trong có máy điện thoại thạch từ nổi đường dây màu trắng, đường dây chạy liên tục xuống nơi sâu dưới động đạo. Ngoài ra, còn có một thiết bị tương tự rada, một máy phát sóng ngắn và một máy phát điện tay quay độc lập. Nơi đây dường như là khoang liên lạc trung chuyển, các đơn vị bên trên có thể cung cấp chi viện cho đội khảo sát liên hợp thâm nhập lòng đất từ điếm gác này.



Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Nếu máy phát điện và các thiết bị trắc họa trong phòng còn hoạt động bình thường, thì có lẽ ta sẽ biết dưới lòng đất tồn tại thứ gì qua các số liệu hệ số phân cực thu thập được.”



Tư Mã Khôi cũng thấy cần phải gắng hết sức có thể, thu thập những bí mật mà người Liên Xô đã thăm dò dưới kính viễn vọng Lopnor, thế là anh bèn bảo mọi người mau vào trong xem rõ tình hình.



Hải ngọng xung phong đảm nhận việc kiểm tra máy phát điện tay quay, còn Tư Mã Khôi đến thẳng chỗ đặt máy điện thoại thạch từ, anh quay mấy cái nhưng không thể kết nối với đầu bên kia, xem ra trong kính viễn vọng Lopnor tổng cộng có hai đường dây màu trắng, một đường nối lên mặt đất, còn đường kia nối xuống lòng đất. Từ năm 1958, hệ thống đường dây này bắt đầu mất tác dụng hoàn toàn. Anh lại thấy kiểu dáng cái máy phát sóng ngắn rất kì lạ, bèn hỏi đội trưởng Lưu Giang Hà: “Bộ đội liên lạc bọn chú chắc biết thông tin sóng ngắn chứ hả, ở độ sâu mười ngàn mét dưới lòng đất, còn dùng được thứ đồ chơi này không vậy?”



Lưu Giang Hà nói: “Loại máy phát sóng ngắn này không chỉ phát được thiên sóng, địa sóng mà còn có thể thu nhận tín hiệu sóng điện. Nhưng đơn vị liên lạc bọn em chưa bao giờ tiến hành diễn tập thông tin trong, địa động sâu đến mức này, cùng lắm chỉ dùng trong hầm phòng không cách mặt đất chừng hai mươi mét. Truyền dẫn địa sóng còn phải xem môi trường dẫn thế nào, nếu mức độ tiêu hao sóng điện của địa tầng quá cao thì cũng không thể sử dụng được loại máy này, nó còn không đáng tin cậy bằng máy bộ đàm không dây quang học của mình.”



Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ đến sóng điện u linh trong tòa thành Nhện Vàng, anh cảm thấy người Liên Xô không phải vô duyên vô cớ mà mang máy phát sóng ngắn xuống lòng đất, trong đó tất có nguyên nhân của nó. Tư Mã Khôi bèn bảo Lưu Giang Hà cất vào ba lô, biết đâu có lúc phải dùng đến nó.



Trong lúc hai người họ nói chuyện, Hải ngọng đã vận hành được máy phát điện, hai bóng điện khẩn cấp gắn trên trần nhà lập tức sáng bừng. Trong động đạo sâu không đáy này, điểm sáng yếu ớt đó chẳng khác nào ánh đom đóm trong vực sâu u tối, tuy vậy tinh thần mọi người cũng nhờ đó mà trở nên hưng phấn hơn rất nhiều. Hải ngọng nói: “Các cậu còn dám không tin tưởng tớ nữa ư? Cái máy phát điện cấu hình Desire đời cũ lúc trước chắc chắn bị bọn Liên Xô động tay động chân rồi, chứ nếu không dựa vào tay nghề của tớ, sờ mó một lúc kiểu gì mà chẳng chữa được?”



Tư Mã Khôi chỉ mong mau mau đọc được mấy tờ biểu đồ viễn thám trong lòng cực vực; ngặt nỗi anh lại không biết sử dụng máy trắc họa, nên đành chăm chú đứng một bên ngó Thắng Hương Lân thao tác; chỉ thấy trong thiết bị trắc họa giống như rađa kia, hiển thị chi chít những đường đẳng sâu, ngoại trừ Thắng Hương Lân ra, thì ba người còn lại không ai hiểu nội dung của nó.




Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân chuyên tâm chăm chú nhìn vào thiết bị, hai mày nhíu lại, cũng không biết cô có tìm thấy kết quả gì không, anh không chờ được thêm, bèn hỏi: “Kính viễn vọng Lopnor xuyên vỏ Trái Đất này, rốt cục nhìn thấy cái gì vậy?”.



Thắng Hương Lân đáp: “Dựa vào số liệu nguyên thủy thì chỉ lấy được một số thông tin rất hạn hẹp, nhưng tôi có thể khẳng định: khoang liên lạc lắp đặt máy móc trắc họa này, chắc chắn dùng để thám trắc địa hình, đồng thời họ sử dụng máy điện thoại thạch từ để chỉ đạo phương hướng vị trí cho đội khảo sát trong cực vực.”



Cô lấy tập biểu đồ tìm thấy trong trạm thám trắc trung tâm mang ra đối chiếu, mới dần dần lần được chút manh mối: khả năng các chuyên gia Liên Xô đã suy đoán cực vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, được hình thành do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ. Huyệt động này tách biệt với dòng nhiệt đối lưu trôi lên ở tầng quyển manti. Thông qua phương pháp viễn thám điện trường, họ chỉ thăm dò được một số rất ít tình hình trong lòng cực vực, phạm vi không vượt quá vài cây số, tức là cách rừng rậm than đá khoảng 1000 mét. Vì bên trong cực vực hoàn toàn trống rỗng, cho nên sóng từ do phương pháp viễn thám điện trường sản sinh, khó có thể lan truyền liên tục xuống dưới, nên tín hiệu phản hồi phần lớn là để trắng.



Có điều, loại biểu đồ này đều đo chính xác theo đơn vị giờ, nghĩa là cứ cách một giờ lại tiến hành đo đạc một lần, nhưng không biết xuất phát từ nguyên nhân gì, mà căn cứ vào sự thay đổi khác nhau về thời gian, vẫn có một số ít tờ biểu đồ đường đẳng sâu thăm dò được phần đáy huyệt động. Theo số liệu phản hồi, thì dưới đáy động tồn tại hai khu vực có hàm lượng sắt vô cùng bất thường, nó giống như vật thể nào đó làm bằng sắt từ niên đại cổ xưa, có thể tích khổng lồ. Hình khối hai vật thể này tương tự nhau, có lẽ không phải tầng đá mỏ quặng, chúng nằm cách nhau tầm hai trăm mét, mỗi khối có thể tích tương đương với quy mô chiếc tàu ngầm Z-615, nhưng nhìn hình thù, chắc chẳn không phải tàu ngầm của Liên Xô mà nó giống với cái tai người. Biểu đồ số liệu hệ số phân cực rốt cục không phải ảnh chụp, lại thiếu rất nhiều tư liệu và thiết bị trắc họa cỡ lớn, nên Thắng Hương Lân khó lòng đưa ra các bước phân tích tiếp theo.



Tư Mã Khôi lập tức nhớ đến mấy lời kể của lão Lưu Hoại Thủy, trong cuốn sổ mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, từng xuất hiện bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”. Phải chăng bốn chữ đó chính là để chỉ hai vật thể cổ đại bằng sắt đang nằm trong cực vực này?. Giáo sư Tống Tuyển Nông và giáo sư Thắng Thiên Viễn đều chưa bao giờ trực tiếp đặt chân đến kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy nội dung mà cuốn sổ đề cập tới có khả năng cũng chỉ phác họa ra hình khối một cách mơ hồ, hoặc mô tả trừu tượng giống như biểu đồ trắc họa mà thôi. Vì kính viễn vọng Lopnor nằm trong phần lãnh địa của cổ quốc Thiện Thiện, tức Lâu Lan trong lịch sử, hơn nữa vật thể sắt lại có hình dạng giống với tai người, nên giáo sư mới đặt tên cho khối sắt ấy bằng bốn chữ như vậy, nhưng có lẽ chính giáo sư cũng không hiểu sâu sắc lắm về nó.



Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình diễn biến vô cùng phức tạp, tuy đội thám hiểm đã vượt địa máng dưới di chỉ Hắc Môn, tiến vào được kính viễn vọng Lopnor, nhưng suốt dọc đường đi lại không hề phát hiện ra bất kỳ di tích lịch sử nào, vậy mà không hiểu sao mọi phân đội thám trắc đều phải mang theo nhân viên am tường địa lý Tây Vực cổ, chắc quá nửa là do hai khối vật thể – lai lịch không rõ ràng tồn tại dưới lòng đất kia. Có lẽ người thượng cổ đã để nó lại đó, nhưng anh nghĩ nát óc mà vẫn không thể nghĩ ra nó rốt cục là thứ gì. Mãi đến cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc mới kết thúc thời kỳ đồ đồng, niên đại sớm hơn nữa thì vẫn chưa xuất hiện kỹ thuật luyện sắt, còn nó hiển nhiên cũng không phải là tạo vật của thiên nhiên, vậy thì vì sao lại xuất hiện trong lòng cực vực không được nhật nguyệt soi chiếu đã hàng tỉ năm nay?



Vì sao lịch sử không để lại bất kỳ ghi chép nào có liên quan đến nó? Vì sao đội khảo sát liên hợp tiếp xúc với nó đều một đi không trở lại? Nó có liên quan tới Nấm mồ xanh hay không? Vật chất hắc ám mà cả đội gặp phải trong động đá vôi, rất có khả năng chính là tro bụi được sản sinh do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ; có điều, chỉ nghe thấy người ta nói đến thời kỳ thái cổ và thời kỳ viễn cổ mà thôi, còn thời kỳ minh cổ rốt cục là bao giờ?



Thắng Hương Lân cũng không hiểu chuyện này nhiều hơn Tư Mã Khôi bao nhiêu, chỉ biết minh cổ là thời kỳ sơ khai của thiên địa, lúc đó ánh sáng văn minh nhân loại có lẽ vẫn còn đang chu du nơi hắc động xa xôi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện