(Giải thích tựa chương: Đến Hán Trung cầu Trương Lỗ tương trợ…)
Thiên Sư giáo còn gọi là Ngũ Đấu Mễ giáo, ba mươi năm trước, Thiên sư Trương Đạo Lăng dạo chơi tứ hải, giao chức giáo chủ lại cho Trương Hành, Trương Hành chết đi giao tất cả lại cho Trương Lỗ.
Trương Lỗ vốn là cháu chắt của Trương Lương Hầu, có tên trong gia phả, nếu muốn thi cử làm quan chắc hẳn cả nhà sẽ được vinh quang, an phận lui về một phương cũng có thể thừa kế tước Hầu của Trương Lương. Nhưng khi truyền đến đời Trương Đạo Lăng, quyền cao lộc hậu gì cũng xem như mây bay. Cuối thời Đông Hán, Khăn Vàng nổi dậy, loạn lạc khắp thiên hạ, Trương Đạo Lăng vì muốn cứu dân khỏi tình hình nước lửa nên đã sáng lập Ngũ Đấu Mễ giáo, chỉ cần nộp năm đấu gạo là được gia nhập giáo phái.
Trương Đạo Lăng được gọi là Thiên sư, truyền tới đời Trương Lỗ, Trương Lỗ tự xưng Sư quân.
Thiên sư ném ra vài câu giáo lý rồi mặc ai muốn làm gì làm, Trương Lỗ ở lại giữ Hán Trung, phát triển cơ nghiệp Ngũ Đấu Mễ giáo. Mấy câu khẩu hiệu như ‘Tin thiên sư được trường sinh’ không phải cứ hô lên là đạt được, con người dù sao vẫn có những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở, đi lại, bùa chú không giúp no bụng.
Nhưng vì mấy năm nay liên tục mất mùa, hạn hán, lũ lụt hoành hành, lương thực Trương Lỗ dự trữ không nhiều lắm lại như miếng thịt béo, trái có Lưu Chương, Lã Bố như hổ rình mồi, phải có Tào Tháo rình rập.
Nghĩ tới nghĩ lui, Hán Trung sớm muộn gì cũng phải bàn giao cho người khác, nếu không phải Lã Bố thì cũng Tào Tháo.
So với Tào Tháo, tính tình Lã Bố chính trực ngay thẳng, không có mưu tính sâu xa. Trương Lỗ vốn định đến nương tựa nơi Lã Bố, bèn phái Đặng Mậu đưa con gái ruột của mình đến Trường An, ý muốn kết thân. Không ngờ Lã Bố lại cự tuyệt cuộc hôn nhân này.
Trương Lỗ bế tắc, tỉ mỉ hỏi con gái yêu, con gái hắn nhiều lắm chỉ mới mười bốn tuổi, sợ hãi nói: “Hầu gia cho tụi con một ít vàng, bảo đi chơi đi, rồi cho về.”
Trương Lỗ hòa ái hỏi: “Ôn Hầu có nói gì không? Có sao nói vậy cha nghe.”
Con gái trả lời: “Ôn Hầu… Ôn Hầu nói, hắn không thích con, cưới con là hại con, để cho con về tìm một gia đình tốt hơn. Nếu như… gã vào Hầu phủ sẽ không được gặp cha nữa. Tương lai còn dài, hắn rất kính trọng cha, sẽ dành thời gian đến thăm hỏi.”
Trương Lỗ gật đầu, cho con gái yêu về nghỉ ngơi, trong lòng rối như tơ, nghe đâu Lã Bố nhớ người vợ cũ, cả đời không cưới. Đang khi không biết làm thế nào, lại nghe được tin Lã Bố xuôi Nam.
“Đã đến vùng Ngũ Trượng?!” Trương Lỗ biến sắc.
“Vâng.” Thủ hạ thưa: “Mang theo khoảng một vạn binh mã!”
Trương Lỗ nói: “Không được hành động thiếu suy nghĩ, xem xem hắn chỉ đi ngang qua hay đến thăm.”
Lã Bố đóng quân ở trước núi Định Quân, thung lũng Hán Trung được bao quanh bởi nhiều dãy núi khúc khuỷu, địa hình đồi núi chập chùng.
Ba ngày sau, Lã Bố dẫn theo một ngàn kỵ binh, áp tải tám mươi xe lương thảo, đến gõ cửa thành Ba Trung.
Lã Bố dõng dạt hô: “Ôn Hầu tới thăm viếng Sư quân.”
Trương Lỗ đích thân lên tường thành, trách mắng: “Đều thu tên vào cho ta, vô lễ!”
Giấu một hạt đậu vào trong tay áo, Trương Lỗ hạ lệnh mở cửa thành đón Lã Bố vào thành, cả thành náo động, binh sĩ tranh nhau xếp hàng dọc hai bên đường. Muốn một lần thấy phong thái Võ Thần, bá tánh trèo lên tận nóc nhà, kiểng chân nhìn theo.
Lã Bố cưỡi ngựa song song với Trương Lỗ, nhìn khắp đường phố Ba Trung, thấy dân chúng cơ khổ, hỏi thăm: “Xuân năm nay có dự trữ được ngũ cốc không?”
Trương Lỗ chậm rãi gật đầu, thổn thức đáp: “Đường buôn bán ở quan ngoại bị chặn, chỉ còn lại hoa màu tự trồng ở Hán Trung. Năm nay trồng nhiều loại hoa màu, mới đủ nuôi sống lê dân bá tánh.”
Lã Bố nói: “Bản Hầu mang theo hai mươi xe các loại ngũ cốc, đều là hoa màu chất lượng cao của Tây Lương, Trường An và Ích Châu, do quân sư nhà ta chăm chút vun trồng. Nay tặng cho Sư quân.”
Trương Lỗ vội vàng cảm tạ không thôi, Lã Bố lại nói: “Thời điểm gieo hạt đầu Xuân, còn lại chút lương thực cũng sẵn tiện mang theo, cùng với rượu nho tái ngoại.”
Lần này, Trương Lỗ thật tâm cảm động, mời Lã Bố vào phủ Ba Trung.
Khắp nơi đều có thể thấy đạo sĩ mặc áo vàng, tiên phong đạo cốt, Lã Bố tỏa ra oai phong võ tướng kiệt suất hơn người, khi ngồi xuống cả người trầm ổn giấu đi sắc bén, mơ hồ hơn Trương Lỗ một phần khí thế.
Lã Bố rửa tay trước, nâng ba nén nhang đến bái bức họa Trương Lương ở giữa sảnh rồi mới ngồi.
Lúc tùy tùng bưng trà súc miệng, Trương Lỗ nói: “Con gái nhỏ xưa nay được nuông chiều, mong Hầu gia thông cảm.”
Lã Bố đang súc miệng suýt bị sặc, vội xua tay nói: “Là lỗi của bản Hầu, tình cảm theo đuổi suốt đời không đạt được, còn lòng dạ nào làm lỡ con gái yêu của Sư quân?”
“Nay ta đến có hai việc.” Lã Bố phân phó: “Người đâu, đem ngự chỉ đến đây.”
Thân binh nâng ngự chỉ không có chữ, chỉ có dấu ngọc tỷ truyền quốc, Lã Bố trịnh trọng giao bằng hai tay cho Trương Lỗ.
“Theo ý kiến các vị đại nhân trong triều, ngày sau đón thiên tử về Trường An, xin tôn Sư quân là Thái phó.” Lã Bố nhẹ nhàng nói.
Trương Lỗ kinh ngạc, không dám tiếp nhận thánh chỉ.
Lã Bố: “Đây.” Lại đẩy thánh chỉ vào tay Trương Lỗ.
“Cha ơi!” Con gái Trương Lỗ bước ra từ sau bình phong, thay Trương Lỗ nhận ngự chỉ.
“Cha, cha định…” Con gái muốn nói lại thôi.
Trương Lỗ nói: “Không được lắm lời.”
Cô bé liếc nhìn Lã Bố một cái, lại nói: “Hầu gia…”
Lã Bố tỏ ý không sao: “Ngươi với ta gọi nhau huynh muội là được. Sư quân còn có gì lo lắng chăng?”
Một câu ‘gọi nhau huynh muội’ của Lã Bố quá sức khiêm nhường, đã hạ bản thân xuống cùng thế hệ với con gái Trương Lỗ. Trương Lỗ thật sự không thể tiếp tục cự tuyệt, thở dài nói: “Mời Ôn Hầu.”
Trương Lỗ dẫn Lã Bố vào vườn hoa, dặn dò người làm mấy câu.
Con gái Trương Lỗ vẫn đứng trên hành lang trông theo, trên mặt ửng đỏ. Lã Bố đang tuổi tráng niên, hàm chứa nét đàn ông trưởng thảnh, phong độ đáng tin, mỗi hành động đều lộ ra tự tin tài trí, khôi ngô anh tuấn nói không nên lời.
Hai vị đạo sĩ trẻ tuổi mang bàn cờ ra, Trương Lỗ nói: “Tổ phụ truyền đạo Thiên sư vào tay ta từng ân cần dạy bảo, không được tổn hại sinh linh ở Hán Trung.”
Lã Bố nói: “Không cần Sư quân xuất binh tương trợ.”
Trương Lỗ nói: “Vừa quy phục Ôn Hầu sao có thể không trợ giúp?”
Lã Bố mỉm cười: “Sư quân dạy phải lắm.”
Trương Lỗ hỏi: “Nghe nói đại quân Ôn Hầu xuất quan, sắp đánh một trận với Tào Mạnh Đức.”
Lã Bố thản nhiên đáp: “Tào Tháo chẳng qua là nến tàn trước gió, trận này tất thắng.”
Trương Lỗ: “Chuyện gì cũng có ngộ nhỡ, nếu lỡ bại thì thế nào?”
Lã Bố nhướn mày: “Sư quân không tin bản Hầu?”
Trương Lỗ không lộ cảm xúc: “Ta chọn quân đen, đánh với Hầu gia một ván. Thắng thua trận này cũng như số mệnh của Thần Châu thế nào đều nghe theo lệnh trời.”
Lã Bố trầm ngâm chưa lên tiếng, nhạy bén phát hiện, Trương Lỗ dùng từ ‘số mệnh Thần Châu’ mà không phải là ‘số mệnh của nhà Hán’, đáp: “Đánh cờ không thú vị, đổi trò mới vẫn được chứ?”
Trương Lỗ còn ngẩn ra, Lã Bố lấy ra một bộ bài, nói: “Đây là đồ chơi quân sư nhà ta chế tạo ra.”
Trương Lỗ nhìn thứ xanh xanh đỏ đỏ trong tay Lã Bố, mỉm cười hỏi: “Đây là cái gì?”
Lã Bố hờ hững đáp: “Tam quốc sát.”
Trương Lỗ: “…”
Sau đó Lã Bố bắt đầu chỉ cách chơi bài, Trương Lỗ nghe đến choáng đầu hoa mắt, gọi thêm vài tên thủ hạ đến cho đủ tay. Lã Bố làm chủ công, Trương Lỗ đóng vai phản tặc, không đến nửa canh giờ, Lã Bố dùng một lá bài của mình với hai lá sát giết Trương Lỗ thua túy lúy.
Trương Lỗ hoàn toàn đầu hàng, dở khóc dở cười nói: “Ôn Hầu thật có bản lĩnh.”
Lã Bố cười nói: “Bố đến lần này vẫn còn có điều muốn thỉnh giáo, mong Sư quân vui lòng giải đáp.”
Trương Lỗ: “Cứ nói đừng ngại.”
Lã Bố: “Muốn hỏi số mệnh nhà Hán sẽ thế nào?”
Trương Lỗ thở dài: “Mấy ngày nay thấy Tuệ tinh hướng đến khu vực Tử Vi, chỉ sợ thiên tử đang gặp nạn(1).”
Lã Bố nhíu mày, nhớ lại những lời Kỳ Lân nói. Đến nay, hắn vẫn chưa dám tin chính mình đang leo lên đế vị. Ngay hiện tại, muốn diệt Tào vẫn phải mượn danh cứu vua, một khi Tào Tháo thất bại, thiên tử còn đó, nào đến lượt hắn ngồi lên long ỷ?”
Trương Bố im lặng nhìn chăm chú Lã Bố. Rốt cục, Lã Bố đã hiểu. Trương Lỗ không để ý Hán Trung có hàng hay không, mà là sau khi diệt Tào, Lã Bố có tranh thủ chiếm ngôi hay không? Lã Bố nói: “Không gạt Sư quân, nếu Phụng Tiên có lòng ước mơ đế vị, thì sẽ như cái bàn này.” Dứt lời, vỗ một chưởng lên mặt bàn, bàn đá cứ thế vỡ thành mảnh vụn.
Trương Lỗ cười ha ha, nói: “Cán cân quyền lực nghiêng lệch, giang sơn đổi chủ, vốn nên thuộc về người nhân đức. Ôn Hầu không cần phải như vậy.” Phất trần trên tay phải Trương Lỗ nhẹ phất qua, đá vụn dưới đất dựng lên, dính lại, quay về trình trạng ban đầu.
Lã Bố kinh ngạc, xúc động nói: “Thế gian quả nhiên có tiên thuật.”
Trương Lỗ khiêm nhường: “Một chút kỹ xảo mà thôi, không đáng giá. Tuy đạo pháp có thể nhìn thấy bí mật thông thiên, cũng chỉ cứu được vài người, không bằng Hầu gia lòng mang thiên hạ chúng sinh.”
Lã Bố lấy lại tinh thần, chậm rãi lắc đầu, nheo mắt như đang suy nghĩ lời Trương Lỗ nói.
“Câu hỏi thứ hai.” Lã Bố lên tiếng: “Sư quân có biết Kỳ Lân không?”
Trương Lỗ khó hiểu: “Sao Ôn Hầu lại hỏi câu này?”
Lã Bố còn chưa biết nên giải thích thế nào, Trương Lỗ đã đáp: “Kỳ Lân là thú mang điềm lành từ thượng cổ, lúc khai trời lập đất Tuế(2) tinh rơi xuống mà thành, Đức Khổng thấy Lân mà sinh…”
Lã Bố hỏi: “Quả nhiên có thật trên đời sao?”
Trương Lỗ lắc đầu: “Không biết được. Sách cổ có ghi chép lại. Kỳ Lân giáng thế, chính là thời kỳ u tối nhất của Thần Châu, đất đai nhuốm máu, sinh linh khốn cùng, dùng nhân đức gánh vác thiên địa, phò trợ đế quân, chấm dứt loạn thế.”
Lã Bố khẩn trương hơn: “Nếu có thật, vậy kỳ thọ bao nhiêu?”
Trương Lỗ nói: “Ngàn năm, vạn năm, sánh ngang với trời đất, tương tự như nhật nguyệt. Kỳ Lân giáng thế chẳng qua phụ tá cho bậc vua chúa, giải cứu nguy nan, xong sẽ quay về nơi mình thuộc về. Thần thú này cũng giống như Rồng, Phượng vậy, không được lưu luyến thế gian, nếu không, thế gian sẽ xảy ra nhiều biến động. Từ xưa đến nay, không ai biết được kỳ thọ là bao nhiêu.”
Lã Bố ảm đạm, sau một lát mới nói: “Câu hỏi thứ ba, trên đời này có phép trường sinh không?”
Trương Lỗ mỉm cười: “Tần Hoàng, Hán Võ vì cầu trường sinh bị bọn đạo sĩ giả đầu độc, không phải Ôn Hầu cũng có lòng này đó chứ? Xưa nay đều nói, thọ mạng của người phàm không thể nghịch thiên, nhưng không dám giấu giếm, thế gian thật có vài cách giúp người trường sinh.”
Lã Bố nín thở nhưng Trương Lỗ lại nói: “Có phải Ôn Hầu nghĩ, thân xác người phàm nếu tu luyện thành tiên sẽ không già không chết không?”
Trương Lỗ chậm rãi lắc đầu, mỉm cười nói tiếp: “Dù là trời đất cũng đến lúc tàn tận; Tiên thì tuổi thọ cũng sẽ hết thôi. Về phần người trần, càng không thể tránh khỏi định luật này của thế gian.”
Lã Bố đáp: “Nếu nói như thế, làm sao Kỳ Lân có thể vĩnh thọ?”
Trương Lỗ giải thích: “Kỳ Lân vốn không bất tử, mà là do trời đất ban cho. Thân xác tầm thường, nếu mang nguyên khí của tạo hóa lúc đất trời hỗn độn, sẽ thọ cùng trời đất. Không phải nhờ vào tiên lực, mà nhờ vào ‘hơi thở’ từ thưở hỗn mang thái cổ(3), khi Bàn Cổ mở trời Tuế tinh rơi xuống, tồn tại, vận hành trong thân thể đó.
“Nếu Ôn Hầu có thể tìm được dù chỉ một hơi, lập tức được Trường Sinh.”
Lã Bố nói: “Tìm ở đâu?”
Trương Lỗ nhìn Lã Bố chăm chú, một lát sau thản nhiên đáp: “Học thức nông cạn, thật sự không biết.”
Trương Lỗ vươn người đứng dậy, phất tay áo.
Nháy mắt, hoa nở khắp viện, cánh hoa bay múa, khoe màu đua sắc nở rộ trên cành, nhưng chỉ chốc lát lại đều khô héo, khắp vườn hoa rơi, bị gió cuốn đi.
Lã Bố ngẩng đầu lên, đưa tay ra đón, lá vàng như cánh bướm lướt qua kẽ tay.
Một chốc sau, lá khô cây héo bắt đầu thay đổi, xoay chuyển bốn mùa, nhánh cành tưởng chết lại đâm chồi trong băng tuyết.
“Người sống một đời, số phải về trời, nếu nghịch thiên đạo, lúc ấy vĩnh hằng như một cái chớp mắt, ngươi lại muốn làm gì?” Đôi con ngươi Trương Lỗ bất chợt thay đổi, dường như khám phá hư không, đất trời biến ảo, lẩm bẩm như người mộng du: “Người trần mắt thịt, thất tình lục dục, nào có đạo lý ngàn năm vạn năm bất diệt?
“Sinh tử, vốn không thể tính toán, chúng ta làm đấng nam nhi bất chấp mọi thứ trong thiên hạ, mặc những lời tốt xấu khen chê. Lẽ thường, vì sao phải dùng mọi cách để sống? Vì sợ chết chăng?”
Gió cuốn lá khô, Trương Lỗ vừa dứt lời, cánh hoa ngừng rơi.
“Trời đất, vạn vật, chúng sinh đều là khách qua đường.
“Giao nhi(4), cả người ngươi sát khí quá nặng, nếu cầu được Trường Sinh, không sợ nhìn mãi cũng chán chường sao?
“Bây giờ không biết quý trọng thời gian trước mắt, có cho ngươi thêm ngàn năm vạn kiếp, thì có ích gì?”
Ba ngàn năm sau, Thông Thiên Giáo chủ nhắm hai mắt lại, khóe miệng hiện lên một nụ cười nhẹ tênh.
Ảo cảnh tiêu tán, trong nháy mắt, đầu Trương Lỗ đau như sắp nứt, chống tay lên bàn đá, thở hổn hển nói: “Vừa rồi ta… bị choáng không thấy đường, có chuyện gì vậy?”
Lã Bố: “…”
Trương Lỗ: “…”
Lã Bố: “Ta tưởng ngươi làm phép…”
Trương Lỗ: “Ta… làm phép?”
Lã Bố thành khẩn nói: “Sư quân, ngươi bị quỷ nhập.”
Trương Lỗ đổ mồ hôi lấm tấm như hạt đậu, khoát khoát tay, lảo đảo đi vào gian trong.
Lã Bố còn đang suy tư lời nói vừa rồi của thần minh mượn thân Trương Lỗ.
Năm Kiến An thứ mười hai, tháng Ba, Lã Bố chiêu hàng Trương Lỗ, dọn dẹp xong chướng ngại cuối cùng, bốn thành Hán Trung quy thuận Ôn Hầu, sẵn sàng phạt Tào.
Trương Lỗ tự mình dẫn hai vạn quân rời Hán Trung hội hợp với Lã Bố, theo hướng Đông đến thành Nghiệp.
Tháng Tư, Kỳ Lân dẫn quân bình định Tịnh Châu, chiếm cứ Nhạn Môn quan, ở quận Cửu Nguyên xây dựng cứ điểm quân sự đầu tiên.
Ngàn dặm phía Đông Nhạn Môn quan, dân chúng trong khắp các thành trấn dưới áp bức của quân Tào phải chạy về Hổ Lao quan. Tuân Du hiến kế, Tào Tháo lệnh hạ Hầu Đôn đốt sạch nhà cửa phòng ốc từ Nhạn Môn quan đến Cự Lộc, chuyển lương thảo đi.
Chiến thuật ‘Vườn không nhà trống’ Kỳ Lân dự tính rốt cục đã bắt đầu.
Không cho Lã Bố cơ hội cướp đoạt, ngàn dặm chiến tuyến đất đai khô cằn, đường tiếp viện bị kéo dài vô tận.
Nhưng Kỳ Lân còn hậu chiêu, hắn đóng quân ở Cửu Nguyên, phái Mã Siêu dẫn đội kỵ binh nhanh chóng điều tra, lúc chờ Lã Bố đến nhận được tin tức như trong dự kiến.
Hạ Hầu Đôn thiêu cả quận Thường Sơn, mà Thường Sơn này, chính là quê cũ của Triệu Tử Long.
——————————-
Chú thích:
Thiên Sư giáo còn gọi là Ngũ Đấu Mễ giáo, ba mươi năm trước, Thiên sư Trương Đạo Lăng dạo chơi tứ hải, giao chức giáo chủ lại cho Trương Hành, Trương Hành chết đi giao tất cả lại cho Trương Lỗ.
Trương Lỗ vốn là cháu chắt của Trương Lương Hầu, có tên trong gia phả, nếu muốn thi cử làm quan chắc hẳn cả nhà sẽ được vinh quang, an phận lui về một phương cũng có thể thừa kế tước Hầu của Trương Lương. Nhưng khi truyền đến đời Trương Đạo Lăng, quyền cao lộc hậu gì cũng xem như mây bay. Cuối thời Đông Hán, Khăn Vàng nổi dậy, loạn lạc khắp thiên hạ, Trương Đạo Lăng vì muốn cứu dân khỏi tình hình nước lửa nên đã sáng lập Ngũ Đấu Mễ giáo, chỉ cần nộp năm đấu gạo là được gia nhập giáo phái.
Trương Đạo Lăng được gọi là Thiên sư, truyền tới đời Trương Lỗ, Trương Lỗ tự xưng Sư quân.
Thiên sư ném ra vài câu giáo lý rồi mặc ai muốn làm gì làm, Trương Lỗ ở lại giữ Hán Trung, phát triển cơ nghiệp Ngũ Đấu Mễ giáo. Mấy câu khẩu hiệu như ‘Tin thiên sư được trường sinh’ không phải cứ hô lên là đạt được, con người dù sao vẫn có những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở, đi lại, bùa chú không giúp no bụng.
Nhưng vì mấy năm nay liên tục mất mùa, hạn hán, lũ lụt hoành hành, lương thực Trương Lỗ dự trữ không nhiều lắm lại như miếng thịt béo, trái có Lưu Chương, Lã Bố như hổ rình mồi, phải có Tào Tháo rình rập.
Nghĩ tới nghĩ lui, Hán Trung sớm muộn gì cũng phải bàn giao cho người khác, nếu không phải Lã Bố thì cũng Tào Tháo.
So với Tào Tháo, tính tình Lã Bố chính trực ngay thẳng, không có mưu tính sâu xa. Trương Lỗ vốn định đến nương tựa nơi Lã Bố, bèn phái Đặng Mậu đưa con gái ruột của mình đến Trường An, ý muốn kết thân. Không ngờ Lã Bố lại cự tuyệt cuộc hôn nhân này.
Trương Lỗ bế tắc, tỉ mỉ hỏi con gái yêu, con gái hắn nhiều lắm chỉ mới mười bốn tuổi, sợ hãi nói: “Hầu gia cho tụi con một ít vàng, bảo đi chơi đi, rồi cho về.”
Trương Lỗ hòa ái hỏi: “Ôn Hầu có nói gì không? Có sao nói vậy cha nghe.”
Con gái trả lời: “Ôn Hầu… Ôn Hầu nói, hắn không thích con, cưới con là hại con, để cho con về tìm một gia đình tốt hơn. Nếu như… gã vào Hầu phủ sẽ không được gặp cha nữa. Tương lai còn dài, hắn rất kính trọng cha, sẽ dành thời gian đến thăm hỏi.”
Trương Lỗ gật đầu, cho con gái yêu về nghỉ ngơi, trong lòng rối như tơ, nghe đâu Lã Bố nhớ người vợ cũ, cả đời không cưới. Đang khi không biết làm thế nào, lại nghe được tin Lã Bố xuôi Nam.
“Đã đến vùng Ngũ Trượng?!” Trương Lỗ biến sắc.
“Vâng.” Thủ hạ thưa: “Mang theo khoảng một vạn binh mã!”
Trương Lỗ nói: “Không được hành động thiếu suy nghĩ, xem xem hắn chỉ đi ngang qua hay đến thăm.”
Lã Bố đóng quân ở trước núi Định Quân, thung lũng Hán Trung được bao quanh bởi nhiều dãy núi khúc khuỷu, địa hình đồi núi chập chùng.
Ba ngày sau, Lã Bố dẫn theo một ngàn kỵ binh, áp tải tám mươi xe lương thảo, đến gõ cửa thành Ba Trung.
Lã Bố dõng dạt hô: “Ôn Hầu tới thăm viếng Sư quân.”
Trương Lỗ đích thân lên tường thành, trách mắng: “Đều thu tên vào cho ta, vô lễ!”
Giấu một hạt đậu vào trong tay áo, Trương Lỗ hạ lệnh mở cửa thành đón Lã Bố vào thành, cả thành náo động, binh sĩ tranh nhau xếp hàng dọc hai bên đường. Muốn một lần thấy phong thái Võ Thần, bá tánh trèo lên tận nóc nhà, kiểng chân nhìn theo.
Lã Bố cưỡi ngựa song song với Trương Lỗ, nhìn khắp đường phố Ba Trung, thấy dân chúng cơ khổ, hỏi thăm: “Xuân năm nay có dự trữ được ngũ cốc không?”
Trương Lỗ chậm rãi gật đầu, thổn thức đáp: “Đường buôn bán ở quan ngoại bị chặn, chỉ còn lại hoa màu tự trồng ở Hán Trung. Năm nay trồng nhiều loại hoa màu, mới đủ nuôi sống lê dân bá tánh.”
Lã Bố nói: “Bản Hầu mang theo hai mươi xe các loại ngũ cốc, đều là hoa màu chất lượng cao của Tây Lương, Trường An và Ích Châu, do quân sư nhà ta chăm chút vun trồng. Nay tặng cho Sư quân.”
Trương Lỗ vội vàng cảm tạ không thôi, Lã Bố lại nói: “Thời điểm gieo hạt đầu Xuân, còn lại chút lương thực cũng sẵn tiện mang theo, cùng với rượu nho tái ngoại.”
Lần này, Trương Lỗ thật tâm cảm động, mời Lã Bố vào phủ Ba Trung.
Khắp nơi đều có thể thấy đạo sĩ mặc áo vàng, tiên phong đạo cốt, Lã Bố tỏa ra oai phong võ tướng kiệt suất hơn người, khi ngồi xuống cả người trầm ổn giấu đi sắc bén, mơ hồ hơn Trương Lỗ một phần khí thế.
Lã Bố rửa tay trước, nâng ba nén nhang đến bái bức họa Trương Lương ở giữa sảnh rồi mới ngồi.
Lúc tùy tùng bưng trà súc miệng, Trương Lỗ nói: “Con gái nhỏ xưa nay được nuông chiều, mong Hầu gia thông cảm.”
Lã Bố đang súc miệng suýt bị sặc, vội xua tay nói: “Là lỗi của bản Hầu, tình cảm theo đuổi suốt đời không đạt được, còn lòng dạ nào làm lỡ con gái yêu của Sư quân?”
“Nay ta đến có hai việc.” Lã Bố phân phó: “Người đâu, đem ngự chỉ đến đây.”
Thân binh nâng ngự chỉ không có chữ, chỉ có dấu ngọc tỷ truyền quốc, Lã Bố trịnh trọng giao bằng hai tay cho Trương Lỗ.
“Theo ý kiến các vị đại nhân trong triều, ngày sau đón thiên tử về Trường An, xin tôn Sư quân là Thái phó.” Lã Bố nhẹ nhàng nói.
Trương Lỗ kinh ngạc, không dám tiếp nhận thánh chỉ.
Lã Bố: “Đây.” Lại đẩy thánh chỉ vào tay Trương Lỗ.
“Cha ơi!” Con gái Trương Lỗ bước ra từ sau bình phong, thay Trương Lỗ nhận ngự chỉ.
“Cha, cha định…” Con gái muốn nói lại thôi.
Trương Lỗ nói: “Không được lắm lời.”
Cô bé liếc nhìn Lã Bố một cái, lại nói: “Hầu gia…”
Lã Bố tỏ ý không sao: “Ngươi với ta gọi nhau huynh muội là được. Sư quân còn có gì lo lắng chăng?”
Một câu ‘gọi nhau huynh muội’ của Lã Bố quá sức khiêm nhường, đã hạ bản thân xuống cùng thế hệ với con gái Trương Lỗ. Trương Lỗ thật sự không thể tiếp tục cự tuyệt, thở dài nói: “Mời Ôn Hầu.”
Trương Lỗ dẫn Lã Bố vào vườn hoa, dặn dò người làm mấy câu.
Con gái Trương Lỗ vẫn đứng trên hành lang trông theo, trên mặt ửng đỏ. Lã Bố đang tuổi tráng niên, hàm chứa nét đàn ông trưởng thảnh, phong độ đáng tin, mỗi hành động đều lộ ra tự tin tài trí, khôi ngô anh tuấn nói không nên lời.
Hai vị đạo sĩ trẻ tuổi mang bàn cờ ra, Trương Lỗ nói: “Tổ phụ truyền đạo Thiên sư vào tay ta từng ân cần dạy bảo, không được tổn hại sinh linh ở Hán Trung.”
Lã Bố nói: “Không cần Sư quân xuất binh tương trợ.”
Trương Lỗ nói: “Vừa quy phục Ôn Hầu sao có thể không trợ giúp?”
Lã Bố mỉm cười: “Sư quân dạy phải lắm.”
Trương Lỗ hỏi: “Nghe nói đại quân Ôn Hầu xuất quan, sắp đánh một trận với Tào Mạnh Đức.”
Lã Bố thản nhiên đáp: “Tào Tháo chẳng qua là nến tàn trước gió, trận này tất thắng.”
Trương Lỗ: “Chuyện gì cũng có ngộ nhỡ, nếu lỡ bại thì thế nào?”
Lã Bố nhướn mày: “Sư quân không tin bản Hầu?”
Trương Lỗ không lộ cảm xúc: “Ta chọn quân đen, đánh với Hầu gia một ván. Thắng thua trận này cũng như số mệnh của Thần Châu thế nào đều nghe theo lệnh trời.”
Lã Bố trầm ngâm chưa lên tiếng, nhạy bén phát hiện, Trương Lỗ dùng từ ‘số mệnh Thần Châu’ mà không phải là ‘số mệnh của nhà Hán’, đáp: “Đánh cờ không thú vị, đổi trò mới vẫn được chứ?”
Trương Lỗ còn ngẩn ra, Lã Bố lấy ra một bộ bài, nói: “Đây là đồ chơi quân sư nhà ta chế tạo ra.”
Trương Lỗ nhìn thứ xanh xanh đỏ đỏ trong tay Lã Bố, mỉm cười hỏi: “Đây là cái gì?”
Lã Bố hờ hững đáp: “Tam quốc sát.”
Trương Lỗ: “…”
Sau đó Lã Bố bắt đầu chỉ cách chơi bài, Trương Lỗ nghe đến choáng đầu hoa mắt, gọi thêm vài tên thủ hạ đến cho đủ tay. Lã Bố làm chủ công, Trương Lỗ đóng vai phản tặc, không đến nửa canh giờ, Lã Bố dùng một lá bài của mình với hai lá sát giết Trương Lỗ thua túy lúy.
Trương Lỗ hoàn toàn đầu hàng, dở khóc dở cười nói: “Ôn Hầu thật có bản lĩnh.”
Lã Bố cười nói: “Bố đến lần này vẫn còn có điều muốn thỉnh giáo, mong Sư quân vui lòng giải đáp.”
Trương Lỗ: “Cứ nói đừng ngại.”
Lã Bố: “Muốn hỏi số mệnh nhà Hán sẽ thế nào?”
Trương Lỗ thở dài: “Mấy ngày nay thấy Tuệ tinh hướng đến khu vực Tử Vi, chỉ sợ thiên tử đang gặp nạn(1).”
Lã Bố nhíu mày, nhớ lại những lời Kỳ Lân nói. Đến nay, hắn vẫn chưa dám tin chính mình đang leo lên đế vị. Ngay hiện tại, muốn diệt Tào vẫn phải mượn danh cứu vua, một khi Tào Tháo thất bại, thiên tử còn đó, nào đến lượt hắn ngồi lên long ỷ?”
Trương Bố im lặng nhìn chăm chú Lã Bố. Rốt cục, Lã Bố đã hiểu. Trương Lỗ không để ý Hán Trung có hàng hay không, mà là sau khi diệt Tào, Lã Bố có tranh thủ chiếm ngôi hay không? Lã Bố nói: “Không gạt Sư quân, nếu Phụng Tiên có lòng ước mơ đế vị, thì sẽ như cái bàn này.” Dứt lời, vỗ một chưởng lên mặt bàn, bàn đá cứ thế vỡ thành mảnh vụn.
Trương Lỗ cười ha ha, nói: “Cán cân quyền lực nghiêng lệch, giang sơn đổi chủ, vốn nên thuộc về người nhân đức. Ôn Hầu không cần phải như vậy.” Phất trần trên tay phải Trương Lỗ nhẹ phất qua, đá vụn dưới đất dựng lên, dính lại, quay về trình trạng ban đầu.
Lã Bố kinh ngạc, xúc động nói: “Thế gian quả nhiên có tiên thuật.”
Trương Lỗ khiêm nhường: “Một chút kỹ xảo mà thôi, không đáng giá. Tuy đạo pháp có thể nhìn thấy bí mật thông thiên, cũng chỉ cứu được vài người, không bằng Hầu gia lòng mang thiên hạ chúng sinh.”
Lã Bố lấy lại tinh thần, chậm rãi lắc đầu, nheo mắt như đang suy nghĩ lời Trương Lỗ nói.
“Câu hỏi thứ hai.” Lã Bố lên tiếng: “Sư quân có biết Kỳ Lân không?”
Trương Lỗ khó hiểu: “Sao Ôn Hầu lại hỏi câu này?”
Lã Bố còn chưa biết nên giải thích thế nào, Trương Lỗ đã đáp: “Kỳ Lân là thú mang điềm lành từ thượng cổ, lúc khai trời lập đất Tuế(2) tinh rơi xuống mà thành, Đức Khổng thấy Lân mà sinh…”
Lã Bố hỏi: “Quả nhiên có thật trên đời sao?”
Trương Lỗ lắc đầu: “Không biết được. Sách cổ có ghi chép lại. Kỳ Lân giáng thế, chính là thời kỳ u tối nhất của Thần Châu, đất đai nhuốm máu, sinh linh khốn cùng, dùng nhân đức gánh vác thiên địa, phò trợ đế quân, chấm dứt loạn thế.”
Lã Bố khẩn trương hơn: “Nếu có thật, vậy kỳ thọ bao nhiêu?”
Trương Lỗ nói: “Ngàn năm, vạn năm, sánh ngang với trời đất, tương tự như nhật nguyệt. Kỳ Lân giáng thế chẳng qua phụ tá cho bậc vua chúa, giải cứu nguy nan, xong sẽ quay về nơi mình thuộc về. Thần thú này cũng giống như Rồng, Phượng vậy, không được lưu luyến thế gian, nếu không, thế gian sẽ xảy ra nhiều biến động. Từ xưa đến nay, không ai biết được kỳ thọ là bao nhiêu.”
Lã Bố ảm đạm, sau một lát mới nói: “Câu hỏi thứ ba, trên đời này có phép trường sinh không?”
Trương Lỗ mỉm cười: “Tần Hoàng, Hán Võ vì cầu trường sinh bị bọn đạo sĩ giả đầu độc, không phải Ôn Hầu cũng có lòng này đó chứ? Xưa nay đều nói, thọ mạng của người phàm không thể nghịch thiên, nhưng không dám giấu giếm, thế gian thật có vài cách giúp người trường sinh.”
Lã Bố nín thở nhưng Trương Lỗ lại nói: “Có phải Ôn Hầu nghĩ, thân xác người phàm nếu tu luyện thành tiên sẽ không già không chết không?”
Trương Lỗ chậm rãi lắc đầu, mỉm cười nói tiếp: “Dù là trời đất cũng đến lúc tàn tận; Tiên thì tuổi thọ cũng sẽ hết thôi. Về phần người trần, càng không thể tránh khỏi định luật này của thế gian.”
Lã Bố đáp: “Nếu nói như thế, làm sao Kỳ Lân có thể vĩnh thọ?”
Trương Lỗ giải thích: “Kỳ Lân vốn không bất tử, mà là do trời đất ban cho. Thân xác tầm thường, nếu mang nguyên khí của tạo hóa lúc đất trời hỗn độn, sẽ thọ cùng trời đất. Không phải nhờ vào tiên lực, mà nhờ vào ‘hơi thở’ từ thưở hỗn mang thái cổ(3), khi Bàn Cổ mở trời Tuế tinh rơi xuống, tồn tại, vận hành trong thân thể đó.
“Nếu Ôn Hầu có thể tìm được dù chỉ một hơi, lập tức được Trường Sinh.”
Lã Bố nói: “Tìm ở đâu?”
Trương Lỗ nhìn Lã Bố chăm chú, một lát sau thản nhiên đáp: “Học thức nông cạn, thật sự không biết.”
Trương Lỗ vươn người đứng dậy, phất tay áo.
Nháy mắt, hoa nở khắp viện, cánh hoa bay múa, khoe màu đua sắc nở rộ trên cành, nhưng chỉ chốc lát lại đều khô héo, khắp vườn hoa rơi, bị gió cuốn đi.
Lã Bố ngẩng đầu lên, đưa tay ra đón, lá vàng như cánh bướm lướt qua kẽ tay.
Một chốc sau, lá khô cây héo bắt đầu thay đổi, xoay chuyển bốn mùa, nhánh cành tưởng chết lại đâm chồi trong băng tuyết.
“Người sống một đời, số phải về trời, nếu nghịch thiên đạo, lúc ấy vĩnh hằng như một cái chớp mắt, ngươi lại muốn làm gì?” Đôi con ngươi Trương Lỗ bất chợt thay đổi, dường như khám phá hư không, đất trời biến ảo, lẩm bẩm như người mộng du: “Người trần mắt thịt, thất tình lục dục, nào có đạo lý ngàn năm vạn năm bất diệt?
“Sinh tử, vốn không thể tính toán, chúng ta làm đấng nam nhi bất chấp mọi thứ trong thiên hạ, mặc những lời tốt xấu khen chê. Lẽ thường, vì sao phải dùng mọi cách để sống? Vì sợ chết chăng?”
Gió cuốn lá khô, Trương Lỗ vừa dứt lời, cánh hoa ngừng rơi.
“Trời đất, vạn vật, chúng sinh đều là khách qua đường.
“Giao nhi(4), cả người ngươi sát khí quá nặng, nếu cầu được Trường Sinh, không sợ nhìn mãi cũng chán chường sao?
“Bây giờ không biết quý trọng thời gian trước mắt, có cho ngươi thêm ngàn năm vạn kiếp, thì có ích gì?”
Ba ngàn năm sau, Thông Thiên Giáo chủ nhắm hai mắt lại, khóe miệng hiện lên một nụ cười nhẹ tênh.
Ảo cảnh tiêu tán, trong nháy mắt, đầu Trương Lỗ đau như sắp nứt, chống tay lên bàn đá, thở hổn hển nói: “Vừa rồi ta… bị choáng không thấy đường, có chuyện gì vậy?”
Lã Bố: “…”
Trương Lỗ: “…”
Lã Bố: “Ta tưởng ngươi làm phép…”
Trương Lỗ: “Ta… làm phép?”
Lã Bố thành khẩn nói: “Sư quân, ngươi bị quỷ nhập.”
Trương Lỗ đổ mồ hôi lấm tấm như hạt đậu, khoát khoát tay, lảo đảo đi vào gian trong.
Lã Bố còn đang suy tư lời nói vừa rồi của thần minh mượn thân Trương Lỗ.
Năm Kiến An thứ mười hai, tháng Ba, Lã Bố chiêu hàng Trương Lỗ, dọn dẹp xong chướng ngại cuối cùng, bốn thành Hán Trung quy thuận Ôn Hầu, sẵn sàng phạt Tào.
Trương Lỗ tự mình dẫn hai vạn quân rời Hán Trung hội hợp với Lã Bố, theo hướng Đông đến thành Nghiệp.
Tháng Tư, Kỳ Lân dẫn quân bình định Tịnh Châu, chiếm cứ Nhạn Môn quan, ở quận Cửu Nguyên xây dựng cứ điểm quân sự đầu tiên.
Ngàn dặm phía Đông Nhạn Môn quan, dân chúng trong khắp các thành trấn dưới áp bức của quân Tào phải chạy về Hổ Lao quan. Tuân Du hiến kế, Tào Tháo lệnh hạ Hầu Đôn đốt sạch nhà cửa phòng ốc từ Nhạn Môn quan đến Cự Lộc, chuyển lương thảo đi.
Chiến thuật ‘Vườn không nhà trống’ Kỳ Lân dự tính rốt cục đã bắt đầu.
Không cho Lã Bố cơ hội cướp đoạt, ngàn dặm chiến tuyến đất đai khô cằn, đường tiếp viện bị kéo dài vô tận.
Nhưng Kỳ Lân còn hậu chiêu, hắn đóng quân ở Cửu Nguyên, phái Mã Siêu dẫn đội kỵ binh nhanh chóng điều tra, lúc chờ Lã Bố đến nhận được tin tức như trong dự kiến.
Hạ Hầu Đôn thiêu cả quận Thường Sơn, mà Thường Sơn này, chính là quê cũ của Triệu Tử Long.
——————————-
Chú thích:
- Tuệ tinh là sao chổi, sao Tử Vi đại diện cho hoàng đế.
- Tuế tinh là sao Mộc; tương truyền mẹ của Khổng Tử thấy Kỳ Lân mới sinh ra ông…
- Hỗn nguyên khí
- Giao trong giao long.
Danh sách chương