Năm Gia Hữu đầu tiên, mưa to từ đầu tháng 5 tới đầu tháng 6 không có chút dấu hiệu muốn dừng. Công trình thoát nước sau bảy ngày ngừng trệ làm Biện Kinh tráng lệ thành một vùng mênh mông nước.
Vì khơi thông đường sông thoát nước, Bao Chửng phủ Khai Phong xin thánh chỉ suất lĩnh quân đội, tháo dỡ toàn bộ viên lâm tư gia trên đường sông hạ du Biện Hà, Thái Hà, Ngũ Trượng Hà xây dựng ở bên ngoài thành. Lúc này mới tránh cho bá tính trong thành gặp tai ương ngập đầu.
Nhưng địa thế gay go của phủ Khai Phong đã quyết định, trước khi mưa lớn ngừng, hồng thủy rút, thì nạn ngập úng trong thành sẽ vẫn tiếp tục. Đường phố trở thành lòng sông, nhà cửa trở thành hòn đảo, xe ngựa được thay thế bằng thuyền. Trong thành nơi nơi vô số rác rưởi tạp vật trôi nổi, thậm chí cũng có thể nhìn thấy thi thể chết chìm.
Cả triệu cư dân trong tòa thành siêu cấp này lâm vào trong nguy cơ sinh tồn nghiêm trọng. Nếu không giải quyết thỏa đáng sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới ổn định chính quyền quốc gia. Cái này yêu cầu triều đình phải thực hiện chức năng hành chính, chế định ra chính sách cứu tế hữu hiệu, trên dưới một lòng, đồng tâm hiệp lực mới có thể vượt qua ải khó khăn.
May mà chính phủ quan văn triều Tống có ưu thế không gì sánh bằng trong mặt chính trị. Sĩ phu yêu nước yêu dân, lấy thiên hạ làm thâm tình của mình. Số lượng quan viên đông đúc, tố chất quan viên rất cao, năng lực chính trị cường mạnh. Cùng với hai vị tể tướng có năng lực phi phàm, càng không thể không nhắc tới còn có một vị nhân quân thiên cổ.
Hội tụ tất cả nhân tố này, làm cho việc chống lũ cứu tế của triều Tống, đủ để làm cho bất luận triều đại nào trên dưới hai ngàn năm phải xấu hổ.
Đầu tiên là Quan gia Triệu Trinh. Sau khi xảy ra nạn lũ lụt ông ta liền hạ chỉ trị tội mình và ăn chay cầu khẩn Thượng Đế, “khắp nơi có tội, tội ở mình trẫm”, cầu khẩn ông trời đổ tai họa lên người mình, và hạ chỉ đình chỉ tất cả hoạt động giải trí trong cung, quan phủ, lệnh tất cả mọi người đặt tâm lực vào cứu tế.
Đồng thời ông liên tiếp ban bố chiếu lệnh cứu tế, cam đoan với dân chúng triều đình sẽ phụ trách cuộc sống của họ lúc lũ lụt, và xây dựng lại sau nạn lũ, ra sức trấn an tinh thần của người dân, để họ có thể nghe theo chỉ huy của triều đình.
Quan gia chấp thuận lời hứa thiện lương, đối với tập đoàn quan văn mà hai vị tể tướng suất lĩnh mà nói lại là nhiệm vụ gian khổ. Cứu trợ và xây dựng lại một triệu năm trăm ngàn người đấy, ngẫm nghĩ có thể làm người ta phát run da đầu.
Cũng may Triệu Trinh luôn kiên trì lưu dùng Văn Ngạn Bác và Phú Bật làm Tể tướng trong tiếng thị phi của cả triều. Bây giờ cuối cùng được hồi báo rồi, hai người đều có khả năng trị thế hiếm có, kinh nghiệm cứu tế phong phú. Phú Bật càng là từng ở Thanh Châu, cứu tế qua năm trăm ngàn nạn dân, lúc này tuy nhiệm vụ gian khổ nhưng hai người lại có thể duy trì bình tĩnh, trù tính cả công tác cứu tế đâu vào đấy.
Có câu phòng ngừa chu đáo, thật ra cứu tế cũng là đạo lý như vậy. Trước đó bạn chuẩn bị đầy đủ, gặp chuyện tất nhiên sẽ không hoang mang. Khai quốc tới nay triều Tống liên tiếp xảy ra các loại tai họa, cho nên triều đình luôn vô cùng xem trọng thi hành việc cất vào kho dự phòng, xây dựng mở rộng các loại kho Thường Bình, kho Nghĩa, kho Huệ Dân, kho Quảng Huệ... Trong đó, kho Thường Bình chủ yếu phụ trách cứu tế và bán lương thực. Kho Huệ Dân chủ yếu phụ trách tế bần, bốn loại kho hàng phối hợp lẫn nhau, trong phạm vi cả nước tạo thành hệ thống kho trữ cứu tế hoàn chỉnh.
Là vùng đất của kinh sư, hiển nhiên càng dày đặc đủ các loại kho lương chuẩn bị cho thiên tai, chừng hơn một trăm ba mươi kho. Văn Ngạn Bác sau khi nhậm chức đích thân thị sát tất cả kho lương cứu tế, xét xử đám tham ô sâu bọ, và cắt cử giám sát Ngự sử, đem việc giám sát ngày thường hình thành chế độ.
Dưới yêu cầu nghiêm khắc của ông ta, một trăm ba mươi kho lương từ đầu đến cuối trong trạng thái đầy ắp, đủ cho bá tính kinh thành dùng hai tháng. Đây là niềm tin lớn nhất của ông ta và Phú Bật, trong tay có lương thực, trong lòng không hoang mang. Văn Ngạn Bác cụ thể phân phát ngàn người quan viên nhàn rỗi và tại chức ở thành Khai Phong tới mỗi phố phường, mỗi một quan viên toàn bộ hành trình phụ trách cứu tế sắp xếp ổn thỏa của mười hộ gia đình.
Ông ta yêu cầu tất cả quan viên đều phải hiểu rõ người nhà mà bản thân phụ trách, như tuổi tác, tên họ, biệt danh để đăng ký làm sổ sách, phân phát thức ăn, bố trí ổn thỏa việc làm cho bá tính, cũng dễ dàng đánh giá thành quả làm việc của quan viên sau tai họa.
Đồng thời tất cả hành cung xây dựng ở chỗ cao, công trình quân doanh, thậm chí phủ trạch tư nhân đều bị triều đình trưng dựng, bố trí bá tính từ chỗ trũng tới chỗ cao... Thậm chí phủ đệ của vương công đại thân, cũng bị yêu cầu tiếp nạp số lượng tai dân nhất định.
Mà các vương công quý tộc của triều Tống lúc này cũng biểu hiện phong độ rất cao. Bọn họ không chỉ cho phép nạn dân ở phòng xá nhà mình, còn phụ trách quần áo, ăn uống của bọn họ. Không khí xã hội “Nhân ái” của Triều Tống như vậy, nếu cự tuyệt sẽ bị người ta cho là máu lạnh ích kỷ, hoàn toàn không thể sống yên. Đương nhiên, càng nhiều là xuất phát từ tự giác của mọi người do tư tưởng nhà Nho ở thời đại này hun đúc ra.
Văn Ngạn Bác còn sai người dựng lều trại ở Di Sơn, giải quyết vấn đề chỗ ở của mấy chục ngàn người. Lại chiêu mộ nam đinh trong thành đi gia cố đắp đê Hoàng Hà cao thêm... Vì đê Hoàng Hà phải cao hơn Khai Phong mấy trượng, do đó trở thành khu vực đất liền hiếm có trong lũ lụt. Nhưng nếu một khi Hoàng Hà vỡ đê, thành Biện Lương hoàn toàn biến thành cung Thủy Tinh, cũng không biết Quan gia có thể thành Long Vương gia không. Hơn nữa chiêu này của Văn Ngạn Bác còn giải quyết vấn đề chỗ ở của bá tính trong kinh thành, cũng làm hơn mười vạn tráng sĩ không đến mức không việc gì làm, làm hại kinh đô.
Kỳ thật triều Đại Tống luận kinh nghiệm cứu tế phong phú, Phú tướng công nói mình thứ hai, không có ai dám xưng thứ nhất. Nhưng ông ta càng rõ, lúc cần đến loại nhân vật lãnh đạo quan trọng này mạnh mẽ quyết định, hai âm thanh đồng thời nói, chỉ có thể làm làm cho công việc trở nên hỗn loạn. Cho nên Văn Ngạn Bác nắm phương diện lớn, lão thì chú ý chi tiết, tra chỗ nào thiếu sót lắp đầy vào.
Đừng cho rằng như vậy thì thoải mái rồi, hoàn toàn ngược lại. Những công việc vặt vãnh chi tiết bình thường này cực kỳ nặng nề. Phú Bật lại không câu nào oán hận mà gánh vác, mỗi ngày lặng lẽ làm việc mười canh giờ, chỉ lúc thật sự không chống đỡ nổi mới chịu chợp mắt chốc lát. Để không đến nỗi ngủ như chết, ông đổi cái gối thành một vòng gỗ tròn, như vậy chỉ cần xoay người, thì sẽ tỉnh dậy.
Hơn nữa Phú Bật cũng chú trọng đến việc xoa bóp tâm lý của bá tính bị nạn hơn Văn Ngạn Bác... Những nạn dân này, là thần dân Đại Tống kiêu ngạo bắt bẻ nhất cả thiên hạ. Không phải chỉ cho bọn họ chỗ ngủ, cho bọn họ ăn lương khô, thì có thể không quan tâm nữa. Vì để tụ tập dân chúng cùng một chỗ, không đến mức vì cảm xúc bực bội, mà xảy ra vụ án trị an ác tính làm gây xôn xao. Phú tướng công hạ lệnh tất cả quan kỹ thành Khai Phong mỗi ngày biểu diễn cho bá tính, các Giám Sinh của Thái Học Sinh và Quốc Tự Giám cũng được ông ta triệu tập, mỗi ngày đi thăm hỏi bá tính, hiểu rõ bất mãn của bọn họ, hội báo thiếu sót việc làm của các quan viên làm giám sát.
Chính là dưới sự phối hợp hoàn mỹ của hai quan văn cấp đỉnh này, phủ Khai Phong mới có thể có được trật tự như trước trong đại nạn này. Cảm xúc dân chúng ổn định, không có vụ án ác tính nào xảy ra... Đương nhiên, hình phạt nghiêm khắc dưới sự dịu dàng càng có tác dụng quan trọng.
Vì nạn lũ lụt, Thái Học viện sớm đã nghĩ, tòa nhà Trần gia ở cũng chứa mấy trăm nạn dân. Tuy họ cũng rất tán đồng quyết định này của triều đình, nhưng không có nghĩa họ có thể chịu cùng mấy trăm người chen chúc ở trong một khu viện.
Hắn liền dùng số tiền lớn mua một con thuyền... lúc nước ngập Biện Kinh, giá thuyền gấp mười lần bình thường, hơn nữa cũng không có ai bán, nhưng Trần Khác vẫn mua được thông qua Triệu Tông Tích. Một con thuyền đáy bằng có khoang, tối thì ở trên thuyền, ban ngày thì cùng mấy huynh đệ chèo thuyền, chơi đùa khắp thành Biện Kinh.
Hành động của bọn họ tuyệt không cao ngạo mà chỉ là một trong ngàn vạn người mà thôi. Thị dân Đông Kinh quen tự do, làm sao cả ngày bám và cái chỗ một mét vuông? Thế là lần lượt tìm thuyền xuống nước, giống như ngày thường đi thăm người thân bạn bè, du ngoạn mua vui. Nhưng số lượng thuyền có hạn, giá tiền cũng cao ngất ngưởng, phần lớn thị dân cho dù mua được, cũng sẽ không vì nước lớn mấy tháng mà tiêu khoản tiền này.
Cũng may thành thị triều Tống là thương nghiệp hóa, thành Biện Lương càng như vậy. Còn, cái gì là thương nghiệp hóa? Chính là nhu cầu dẫn đến sản xuất, lập tức có thương nhân dùng tấm gỗ ván, cây trúc, làm ra các loại bè. Cũng không bán, ấn ngày thuê cho thị dân muốn du ngoạn. Kinh doanh này một khi đưa ra, lập tức rất sốt nóng, mỗi ngày thị dân thuê thuyền lên đến ngàn, vạn, bao nhiêu bè cũng bị cướp sạch.
Thế là thành Biện Kinh im lặng mấy ngày lại bắt đầu trở nên náo nhiệt. Chỉ là xe ngựa, người đi đường trên phố được thay thế bằng chi chít thuyền. Sau thời gian ngắn ngủi mọi người không thích ứng, cũng bắt đầu hưởng thụ loại thể nghiệm không giống ngày thường này. Ngoại trừ thuyền đi du ngoạn ra, những người giỏi bơi lội trức tiếp lột trần trụi, bùm bũm nhảy xuống nghịch nước
Nhưng muốn thu hút tầm nhìn, bơi lội thật ra không phải cách hay làm gì, chơi những trò đu dây mới là tiêu điểm của mọi người chú ý. Bọn họ dựng cái giá đu ngút trời trên thuyền, tạo nên bàn đu dây. Chỉ thấy bọn họ càng đánh đu càng nhanh, càng đánh đu càng cao, cho đến khi bàn đu lên ngang đỉnh đu, mới mạnh mẽ hai tay tháo dây bàn đu ra, bay lên không trung, nháy mắt, trong trời xanh mây trắng trở mình bổ nhào, giống như chim yến nhẹ nhàng sa vào mặt nước, mặt nước gợn sóng.
Loại biểu diễn độ khó cao này cần kỹ xảo và dũng khí, từ trước đến nay được xem là trò chơi của người dũng cảm. Thiếu niên trong kinh tranh nhau diễn để chứng tỏ dũng khí của mình.
Còn có một loại hoạt động được yêu thích là đánh cầu nước... Thực chất là đá cầu ở đất liền, chỉ là dùng tay đánh trong nước mà thôi.
Ngoại trừ những hoạt động thể dục tự phát này ra, còn có nghệ nhân biểu diễn múa rối trong nước, nước khói lửa, diễn trò lấy tiền thưởng của mọi người. Những người này càng có tính thưởng thức, tăng thêm rất nhiều hoan lạc cho cuộc sống trên nước của các thị dân.
Tất nhiên cũng không thể thiếu chèo thuyền buôn bán rượu, thức ăn, trà. Tuy bị lũ lụt ảnh hưởng, cung cấp loại thương phẩm khác xa với lúc trước, nhưng cũng được gọi là phong phú đa dạng, mặc cho mọi người lựa chọn.
Trần Khác chưa từng thấy qua thành thị nào như thế này, bá tính nơi nào như nơi này. Bọn họ không chỉ không có bị thủy tai trăm năm hiếm có đùa chết, mà ngược lại còn sống sót đùa chết thủy tai.
Đối với cuộc sống có quá nhiều tự tin và nhiệt ái, mới có thể có tâm tình và hưng trí thế này.
Sợ cũng chỉ có vương triều bình yên không có bạo chính này, mới có thể có những cảnh kỳ lạ này. Từ góc độ này nói, quan văn triều Đại Tống là ưu tú nhất...
Vì khơi thông đường sông thoát nước, Bao Chửng phủ Khai Phong xin thánh chỉ suất lĩnh quân đội, tháo dỡ toàn bộ viên lâm tư gia trên đường sông hạ du Biện Hà, Thái Hà, Ngũ Trượng Hà xây dựng ở bên ngoài thành. Lúc này mới tránh cho bá tính trong thành gặp tai ương ngập đầu.
Nhưng địa thế gay go của phủ Khai Phong đã quyết định, trước khi mưa lớn ngừng, hồng thủy rút, thì nạn ngập úng trong thành sẽ vẫn tiếp tục. Đường phố trở thành lòng sông, nhà cửa trở thành hòn đảo, xe ngựa được thay thế bằng thuyền. Trong thành nơi nơi vô số rác rưởi tạp vật trôi nổi, thậm chí cũng có thể nhìn thấy thi thể chết chìm.
Cả triệu cư dân trong tòa thành siêu cấp này lâm vào trong nguy cơ sinh tồn nghiêm trọng. Nếu không giải quyết thỏa đáng sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới ổn định chính quyền quốc gia. Cái này yêu cầu triều đình phải thực hiện chức năng hành chính, chế định ra chính sách cứu tế hữu hiệu, trên dưới một lòng, đồng tâm hiệp lực mới có thể vượt qua ải khó khăn.
May mà chính phủ quan văn triều Tống có ưu thế không gì sánh bằng trong mặt chính trị. Sĩ phu yêu nước yêu dân, lấy thiên hạ làm thâm tình của mình. Số lượng quan viên đông đúc, tố chất quan viên rất cao, năng lực chính trị cường mạnh. Cùng với hai vị tể tướng có năng lực phi phàm, càng không thể không nhắc tới còn có một vị nhân quân thiên cổ.
Hội tụ tất cả nhân tố này, làm cho việc chống lũ cứu tế của triều Tống, đủ để làm cho bất luận triều đại nào trên dưới hai ngàn năm phải xấu hổ.
Đầu tiên là Quan gia Triệu Trinh. Sau khi xảy ra nạn lũ lụt ông ta liền hạ chỉ trị tội mình và ăn chay cầu khẩn Thượng Đế, “khắp nơi có tội, tội ở mình trẫm”, cầu khẩn ông trời đổ tai họa lên người mình, và hạ chỉ đình chỉ tất cả hoạt động giải trí trong cung, quan phủ, lệnh tất cả mọi người đặt tâm lực vào cứu tế.
Đồng thời ông liên tiếp ban bố chiếu lệnh cứu tế, cam đoan với dân chúng triều đình sẽ phụ trách cuộc sống của họ lúc lũ lụt, và xây dựng lại sau nạn lũ, ra sức trấn an tinh thần của người dân, để họ có thể nghe theo chỉ huy của triều đình.
Quan gia chấp thuận lời hứa thiện lương, đối với tập đoàn quan văn mà hai vị tể tướng suất lĩnh mà nói lại là nhiệm vụ gian khổ. Cứu trợ và xây dựng lại một triệu năm trăm ngàn người đấy, ngẫm nghĩ có thể làm người ta phát run da đầu.
Cũng may Triệu Trinh luôn kiên trì lưu dùng Văn Ngạn Bác và Phú Bật làm Tể tướng trong tiếng thị phi của cả triều. Bây giờ cuối cùng được hồi báo rồi, hai người đều có khả năng trị thế hiếm có, kinh nghiệm cứu tế phong phú. Phú Bật càng là từng ở Thanh Châu, cứu tế qua năm trăm ngàn nạn dân, lúc này tuy nhiệm vụ gian khổ nhưng hai người lại có thể duy trì bình tĩnh, trù tính cả công tác cứu tế đâu vào đấy.
Có câu phòng ngừa chu đáo, thật ra cứu tế cũng là đạo lý như vậy. Trước đó bạn chuẩn bị đầy đủ, gặp chuyện tất nhiên sẽ không hoang mang. Khai quốc tới nay triều Tống liên tiếp xảy ra các loại tai họa, cho nên triều đình luôn vô cùng xem trọng thi hành việc cất vào kho dự phòng, xây dựng mở rộng các loại kho Thường Bình, kho Nghĩa, kho Huệ Dân, kho Quảng Huệ... Trong đó, kho Thường Bình chủ yếu phụ trách cứu tế và bán lương thực. Kho Huệ Dân chủ yếu phụ trách tế bần, bốn loại kho hàng phối hợp lẫn nhau, trong phạm vi cả nước tạo thành hệ thống kho trữ cứu tế hoàn chỉnh.
Là vùng đất của kinh sư, hiển nhiên càng dày đặc đủ các loại kho lương chuẩn bị cho thiên tai, chừng hơn một trăm ba mươi kho. Văn Ngạn Bác sau khi nhậm chức đích thân thị sát tất cả kho lương cứu tế, xét xử đám tham ô sâu bọ, và cắt cử giám sát Ngự sử, đem việc giám sát ngày thường hình thành chế độ.
Dưới yêu cầu nghiêm khắc của ông ta, một trăm ba mươi kho lương từ đầu đến cuối trong trạng thái đầy ắp, đủ cho bá tính kinh thành dùng hai tháng. Đây là niềm tin lớn nhất của ông ta và Phú Bật, trong tay có lương thực, trong lòng không hoang mang. Văn Ngạn Bác cụ thể phân phát ngàn người quan viên nhàn rỗi và tại chức ở thành Khai Phong tới mỗi phố phường, mỗi một quan viên toàn bộ hành trình phụ trách cứu tế sắp xếp ổn thỏa của mười hộ gia đình.
Ông ta yêu cầu tất cả quan viên đều phải hiểu rõ người nhà mà bản thân phụ trách, như tuổi tác, tên họ, biệt danh để đăng ký làm sổ sách, phân phát thức ăn, bố trí ổn thỏa việc làm cho bá tính, cũng dễ dàng đánh giá thành quả làm việc của quan viên sau tai họa.
Đồng thời tất cả hành cung xây dựng ở chỗ cao, công trình quân doanh, thậm chí phủ trạch tư nhân đều bị triều đình trưng dựng, bố trí bá tính từ chỗ trũng tới chỗ cao... Thậm chí phủ đệ của vương công đại thân, cũng bị yêu cầu tiếp nạp số lượng tai dân nhất định.
Mà các vương công quý tộc của triều Tống lúc này cũng biểu hiện phong độ rất cao. Bọn họ không chỉ cho phép nạn dân ở phòng xá nhà mình, còn phụ trách quần áo, ăn uống của bọn họ. Không khí xã hội “Nhân ái” của Triều Tống như vậy, nếu cự tuyệt sẽ bị người ta cho là máu lạnh ích kỷ, hoàn toàn không thể sống yên. Đương nhiên, càng nhiều là xuất phát từ tự giác của mọi người do tư tưởng nhà Nho ở thời đại này hun đúc ra.
Văn Ngạn Bác còn sai người dựng lều trại ở Di Sơn, giải quyết vấn đề chỗ ở của mấy chục ngàn người. Lại chiêu mộ nam đinh trong thành đi gia cố đắp đê Hoàng Hà cao thêm... Vì đê Hoàng Hà phải cao hơn Khai Phong mấy trượng, do đó trở thành khu vực đất liền hiếm có trong lũ lụt. Nhưng nếu một khi Hoàng Hà vỡ đê, thành Biện Lương hoàn toàn biến thành cung Thủy Tinh, cũng không biết Quan gia có thể thành Long Vương gia không. Hơn nữa chiêu này của Văn Ngạn Bác còn giải quyết vấn đề chỗ ở của bá tính trong kinh thành, cũng làm hơn mười vạn tráng sĩ không đến mức không việc gì làm, làm hại kinh đô.
Kỳ thật triều Đại Tống luận kinh nghiệm cứu tế phong phú, Phú tướng công nói mình thứ hai, không có ai dám xưng thứ nhất. Nhưng ông ta càng rõ, lúc cần đến loại nhân vật lãnh đạo quan trọng này mạnh mẽ quyết định, hai âm thanh đồng thời nói, chỉ có thể làm làm cho công việc trở nên hỗn loạn. Cho nên Văn Ngạn Bác nắm phương diện lớn, lão thì chú ý chi tiết, tra chỗ nào thiếu sót lắp đầy vào.
Đừng cho rằng như vậy thì thoải mái rồi, hoàn toàn ngược lại. Những công việc vặt vãnh chi tiết bình thường này cực kỳ nặng nề. Phú Bật lại không câu nào oán hận mà gánh vác, mỗi ngày lặng lẽ làm việc mười canh giờ, chỉ lúc thật sự không chống đỡ nổi mới chịu chợp mắt chốc lát. Để không đến nỗi ngủ như chết, ông đổi cái gối thành một vòng gỗ tròn, như vậy chỉ cần xoay người, thì sẽ tỉnh dậy.
Hơn nữa Phú Bật cũng chú trọng đến việc xoa bóp tâm lý của bá tính bị nạn hơn Văn Ngạn Bác... Những nạn dân này, là thần dân Đại Tống kiêu ngạo bắt bẻ nhất cả thiên hạ. Không phải chỉ cho bọn họ chỗ ngủ, cho bọn họ ăn lương khô, thì có thể không quan tâm nữa. Vì để tụ tập dân chúng cùng một chỗ, không đến mức vì cảm xúc bực bội, mà xảy ra vụ án trị an ác tính làm gây xôn xao. Phú tướng công hạ lệnh tất cả quan kỹ thành Khai Phong mỗi ngày biểu diễn cho bá tính, các Giám Sinh của Thái Học Sinh và Quốc Tự Giám cũng được ông ta triệu tập, mỗi ngày đi thăm hỏi bá tính, hiểu rõ bất mãn của bọn họ, hội báo thiếu sót việc làm của các quan viên làm giám sát.
Chính là dưới sự phối hợp hoàn mỹ của hai quan văn cấp đỉnh này, phủ Khai Phong mới có thể có được trật tự như trước trong đại nạn này. Cảm xúc dân chúng ổn định, không có vụ án ác tính nào xảy ra... Đương nhiên, hình phạt nghiêm khắc dưới sự dịu dàng càng có tác dụng quan trọng.
Vì nạn lũ lụt, Thái Học viện sớm đã nghĩ, tòa nhà Trần gia ở cũng chứa mấy trăm nạn dân. Tuy họ cũng rất tán đồng quyết định này của triều đình, nhưng không có nghĩa họ có thể chịu cùng mấy trăm người chen chúc ở trong một khu viện.
Hắn liền dùng số tiền lớn mua một con thuyền... lúc nước ngập Biện Kinh, giá thuyền gấp mười lần bình thường, hơn nữa cũng không có ai bán, nhưng Trần Khác vẫn mua được thông qua Triệu Tông Tích. Một con thuyền đáy bằng có khoang, tối thì ở trên thuyền, ban ngày thì cùng mấy huynh đệ chèo thuyền, chơi đùa khắp thành Biện Kinh.
Hành động của bọn họ tuyệt không cao ngạo mà chỉ là một trong ngàn vạn người mà thôi. Thị dân Đông Kinh quen tự do, làm sao cả ngày bám và cái chỗ một mét vuông? Thế là lần lượt tìm thuyền xuống nước, giống như ngày thường đi thăm người thân bạn bè, du ngoạn mua vui. Nhưng số lượng thuyền có hạn, giá tiền cũng cao ngất ngưởng, phần lớn thị dân cho dù mua được, cũng sẽ không vì nước lớn mấy tháng mà tiêu khoản tiền này.
Cũng may thành thị triều Tống là thương nghiệp hóa, thành Biện Lương càng như vậy. Còn, cái gì là thương nghiệp hóa? Chính là nhu cầu dẫn đến sản xuất, lập tức có thương nhân dùng tấm gỗ ván, cây trúc, làm ra các loại bè. Cũng không bán, ấn ngày thuê cho thị dân muốn du ngoạn. Kinh doanh này một khi đưa ra, lập tức rất sốt nóng, mỗi ngày thị dân thuê thuyền lên đến ngàn, vạn, bao nhiêu bè cũng bị cướp sạch.
Thế là thành Biện Kinh im lặng mấy ngày lại bắt đầu trở nên náo nhiệt. Chỉ là xe ngựa, người đi đường trên phố được thay thế bằng chi chít thuyền. Sau thời gian ngắn ngủi mọi người không thích ứng, cũng bắt đầu hưởng thụ loại thể nghiệm không giống ngày thường này. Ngoại trừ thuyền đi du ngoạn ra, những người giỏi bơi lội trức tiếp lột trần trụi, bùm bũm nhảy xuống nghịch nước
Nhưng muốn thu hút tầm nhìn, bơi lội thật ra không phải cách hay làm gì, chơi những trò đu dây mới là tiêu điểm của mọi người chú ý. Bọn họ dựng cái giá đu ngút trời trên thuyền, tạo nên bàn đu dây. Chỉ thấy bọn họ càng đánh đu càng nhanh, càng đánh đu càng cao, cho đến khi bàn đu lên ngang đỉnh đu, mới mạnh mẽ hai tay tháo dây bàn đu ra, bay lên không trung, nháy mắt, trong trời xanh mây trắng trở mình bổ nhào, giống như chim yến nhẹ nhàng sa vào mặt nước, mặt nước gợn sóng.
Loại biểu diễn độ khó cao này cần kỹ xảo và dũng khí, từ trước đến nay được xem là trò chơi của người dũng cảm. Thiếu niên trong kinh tranh nhau diễn để chứng tỏ dũng khí của mình.
Còn có một loại hoạt động được yêu thích là đánh cầu nước... Thực chất là đá cầu ở đất liền, chỉ là dùng tay đánh trong nước mà thôi.
Ngoại trừ những hoạt động thể dục tự phát này ra, còn có nghệ nhân biểu diễn múa rối trong nước, nước khói lửa, diễn trò lấy tiền thưởng của mọi người. Những người này càng có tính thưởng thức, tăng thêm rất nhiều hoan lạc cho cuộc sống trên nước của các thị dân.
Tất nhiên cũng không thể thiếu chèo thuyền buôn bán rượu, thức ăn, trà. Tuy bị lũ lụt ảnh hưởng, cung cấp loại thương phẩm khác xa với lúc trước, nhưng cũng được gọi là phong phú đa dạng, mặc cho mọi người lựa chọn.
Trần Khác chưa từng thấy qua thành thị nào như thế này, bá tính nơi nào như nơi này. Bọn họ không chỉ không có bị thủy tai trăm năm hiếm có đùa chết, mà ngược lại còn sống sót đùa chết thủy tai.
Đối với cuộc sống có quá nhiều tự tin và nhiệt ái, mới có thể có tâm tình và hưng trí thế này.
Sợ cũng chỉ có vương triều bình yên không có bạo chính này, mới có thể có những cảnh kỳ lạ này. Từ góc độ này nói, quan văn triều Đại Tống là ưu tú nhất...
Danh sách chương