Tôi sẽ không giới thiệu việc di chuyển trong bóng tối nếu bạn sơ những điều sau:

Bóng tối.

Cái lạnh buốt xương sống của bạn.

Các âm thanh lạ.

Đi quá nhanh khiến bạn cảm thấy như da mặt mình đang bị bóc ra.

Nói cách khác, tôi nghĩ chuyện này thật kinh sợ. Trong một phút đầu, tôi không thể nhìn thấy được gì. Tôi chỉ có thể cảm nhận được lông của con O’Leary và các ngón tay tôi nắm chặt quanh các mắt xích đồng trên vòng cổ của con chó.

Phút tiếp theo bóng tối biến đổi dần thành cảnh mới. Chúng tôi đang đứng trên vách đá trong các cánh rừng của Connecticut. Hay ít ra nó giống bang Connecticut mà tôi có một vài lần ghé qua – nhiều cây xanh, các tường đá thấp, những ngôi nhà lớn. Bên dưới chân một bên của vách đá, một con đường cao tốc cắt ngang hẻm núi. Bên dưới mặt còn lại là sân sau của một người nào đó. Cơ ngơi đó thật rộng – hoang vu hơn cả bãi cỏ. Căn nhà ó là một căn nhà kiểu thuộc địa cao hai tầng, sơn màu trắng. Bất chấp sự thật rằng nó ở ngay phía bên kia đồi tính từ đường cao tốc, nhưng nó trông như thể đang ở một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó. Tôi có thể nhìn thấy ánh đèn phát sáng bên trong cửa sổ nhà bếp. Một cái đu cũ bạc màu đứng yên bên dưới gốc cây táo.

Tôi không thể tưởng tượng ra được việc sống trong một căn nhà như thế, với sân sau và mọi thứ như thế. Tôi đã sống trong một căn hộ bé tí hay phòng ngủ tập thể ở trường trong suốt cuộc đời. Nếu đây là nhà Luke, tôi tự hỏi sao hắn lại muốn bỏ nhà ra đi.

Con O’Leary lảo đảo. Tôi nhớ những gì Nico đã nói về việc di chuyển trong bóng tối sẽ rút cạn sức của nó, vì thế tôi trượt xuống khỏi lưng nó. Nó há miệng ngáp rõ to, khủng long T-Rex nhìn thấy cũng phải sợ phát khiếp. Sau đó, nó cuộn tròn người lại và thả mạnh người xuống làm cả mặt đất rung chuyển.

Nico hiện ra ngay cạnh tôi, như thể bóng tối tối sầm lại và tạo nên cậu ta. Cậu ta loạng choạng nhưng tôi đã bắt được cánh tay cậu ta.

“Em không sao,” Nico cố đứng vững, sau đó đưa tay dụi dụi mắt.

“Sao em làm được điều đó?”

“Luyện tập. Có đôi khi đâm sầm vào các bức tường. Một vài chuyến đi tình cờ sang tận Trung Quốc.”

Con O’Leary bắt đầu ngáy. Nếu không có tiếng ầm ầm của xe cộ đằng sau chúng tôi, tôi chắc nó sẽ đánh thức toàn bộ vùng lân cận.

“Em cũng sẽ chợp mắt một lát sao?”

Cậu ta lắc đầu. “Lần đầu tiên khi em thực hiện việc di chuyển trong bóng tối, em bất tỉnh trong đúng một tuần. Giờ nó chỉ làm em hơi uể oải, nhưng em không thể thực hiện việc đó một vài lần trong một đêm. Con O’Leary sẽ không đi bất cứ nơi đâu trong một quãng thời gian.”

“Vậy chúng ta có một ít thời gian tốt ở Connecticut.” Tôi liếc căn nhà thuộc địa màu trắng. “Giờ thì> “Chúng ta rung chuông thôi,” Nico nói.

Nếu tôi là mẹ của Luke, không đời nào tôi mở cửa đón hai thằng nhóc lạ mặt vào giữa đêm khuya. Nhưng tôi chẳng có chút nào giống mẹ của Luke cả.

Tôi biết điều đó thậm chí trước khi chúng tôi đi đến cửa trước. Xếp thành hàng dọc lối đi là những con thú nhồi hạt xốp nhỏ mà bạn thường thấy trong cửa hàng lưu niệm. Chúng là những con sư tử, lợn, rồng, rắn nhiều đầu thu nhỏ, thậm chí bà ấy còn có một con Minotaur nhỏ mang một chiếc tã lót hiệu Minotaur bé xíu xiu. Dựa theo hình dáng xẹp lép của chúng, những động vật hạt xốp này đã được đặt ở đây trong một thời gian dài, ít nhất là từ dạo tuyết tan vào mùa xuân năm ngoái. Một trong số các con rắn nhiều đầu có một cây non nhú ra giữa mấy cái cổ của nó.

Mái hiên trước nhà treo đầy chuông gió. Các mảnh thủy tinh và kim loại sáng bóng kêu leng keng mỗi khi có gió nhẹ thổi qua. Các dãy ruy băng kêu leng keng như nước và khiến tôi nhận ra mình cần sử dụng nhà vệ sinh. Tôi không biết làm thế nào mà bà Castellan có thể chịu được toàn bộ tiếng ồn này.

Cánh cửa trước được sơn màu ngọc lam. Cái tên CASTELLAN được viết bằng tiếng Anh và bên dưới là tiếng Hy Lạp:

Nico quay sang nhìn tôi. “Sẵn sàng chưa?”

Cậu ta còn chưa kịp gõ lên cánh cửa thì nó đã mở toang.

“Luke!” người phụ nữ già kêu lên đầy hạnh phúc.

Bà trông giống người thích nhét các ngón tay mình vào ổ cắm điện. Mái tóc trắng của bà ló ra từng chùm trên khắp đầu. Chiếc áo mặc ở nhà màu hồng của bà ấy đầy các vết sém và các đốm tro bẩn. Khi cười, khuôn mặt bà giãn ra không bình thường, và ánh sáng cao áp trong đôi mắt bà khiến tôi tự hỏi liệu bà ấy có phải bị mù hay không.

“Ôi, con trai yêu quý của tôi!” Bà ôm ấy chầm lấy Nico. Tôi đang cố đoán lại nghĩ Nico là Luke (họ hoàn toàn không giống nhau chút nào) thì bà quay sang mỉm cười với tôi và nói, “Luke à!”

Bà quên ngay Nico và ôm choàng lấy tôi. Bà có mùi bánh cookie cháy. Bà ấy gầy như con bù nhìn, nhưng điều đó không ngăn bà ấy khỏi việc nghiền nát tôi.

“Vào nhà đi!” bà ấy nói. “Mẹ đã nấu xong bữa trưa cho con đấy!”

Bà ấy đi cùng chúng tôi vào nhà. Phòng khách còn quái dị hơn bãi cỏ trước nhà. Gương và nến được đặt vào bất cứ chỗ còn trống nào. Tôi quay hướng nào cũng thấy bóng mình trong gương. Trên lò sưởi, một bức tượng thần Hermes bằng đồng nhỏ xíu quay quanh kim chỉ phút của đồng hồ treo tường. Tôi cố hình dung vị thần của những người đưa tin rơi vào tình yêu với phụ nữ già này, nhưng ý tưởng đó quả thật rất kỳ quái.

Rồi tôi chú ý đến bức ảnh lồng khung được bày trên mặt lò sưởi. Nó giống hệt bức vẽ phác thảo của Rachel – Luke năm lên chín, với mái tóc vàng và một nụ cười thật tươi và hai chiếc răng sún. Không có vết sẹo trên mặt, trông hắn như một người khác – vô tư và hạnh phúc. Làm thế nào mà Rachel lại biết được về bức ảnh này? “Lối này, con yêu!” Bà Castellan hướng tôi về phía sau nhà. “Ồ, mẹ đã nói với họ là con sẽ trở về. Mẹ biết mà!”

Bà bảo chúng tôi ngồi xuống bàn ăn. Xếp trên kệ bếp là hàng trăm – ý tôi là hàng trăm – hộp nhựa Tupperware đựng các miếng sandwich phết mứt và bơ đậu phộng. Những cái hộp bên dưới có màu xanh lục và mờ đi, như thể chúng đã ở đó từ lâu lắm rồi. Mùi của nó khiến tôi nhớ đến tủ đựng đồ năm lớp sáu của tôi – và đó chẳng phải là điều tốt lành gì.

Trên lò nướng là một chồng khay bánh cookie. Mỗi khay có mười hai cái cháy khét lẹt. Trong bồn rửa là một núi các bình Kool-Aid trống. Một con Medusa nhồi xốp được đặt cạnh vòi nước như thể nó đang canh giữ cái đống bẩn thỉu đó.

Bà Castellan ngâm nga khi bà lấy bơ đậu phộng và mứt ra, bắt đầu làm một cái bánh sandwich mới. Có thứ gì đó đang bốc cháy trong lò nướng. Tôi có cảm giác sẽ có th một tá cookie cháy nữa sắp ra lò.

Phía trên bồn rửa, được dán quanh cửa sổ, là hàng tá bức ảnh nhỏ được cắt ra từ các mẩu quảng cáo trong các tạp chí và báo: các bức ảnh thần Hermes trên logo của FTD Flowers và, trên nhãn mác của các sản phẩm của công ty Quickie Cleaners, các bức ảnh về y hiệu trên các quảng cáo y khoa.

Trái tim tôi se lại. Tôi muốn đi khỏi căn phòng đó, nhưng bà Castellan chốc chốc mỉm cười với tôi khi làm bánh sandwich, như thể bà ta muốn chắc là tôi không chạy trốn vậy.

Nico ho khẽ. “Ừm, bà Castellan?”

“Ừm?”

“Bọn cháu muốn hỏi về con trai bà.”

“Ồ, đúng rồi! Họ nói với ta rằng nó sẽ không bao giờ quay về. Nhưng ta hiểu con mình hơn họ.” Bàn tay bà âu yếm vỗ vỗ vào má tôi, để lại các dải bơ đậu phộng chạy dài trên mặt tôi.

“Lần cuối bà gặp con trai mình là khi nào?”

Đôi mắt bà nhìn xa xăm.

“Nó đã bỏ nhà đi khi còn rất nhỏ,” bà nói với giọng buồn buồn. “Năm lớp ba. Khi đó còn quá nhỏ cho việc bỏ nhà ra đi! Nó bảo sẽ quay về sau bữa trưa. Và ta đã chờ nó. Nó thích ăn sandwich bơ đậu phộng, cookie và thức uống Kool-Aid. Nó sẽ sớm quay về ăn trưa thôi...” Rồi bà quay sang nhìn tôi mỉm cười. “Sao, Luke, con đây rồi! Con trông đẹp trai quá. Con có đôi mắt giống hệt cha con.”

Bà quay về phía các bức ảnh thần Hermes phía trên bồn rửa. “Giờ nó đã trở thành một người trưởng thành tốt bụng. Đúng, thật thế đấy. Nó đến thăm tôi đấy, ông biết không.”

Đồng hồ phòng bên vẫn kêu tích tắc đều đều. Tôi lau vết bơ đậu phộng trên má và nhìn Nico đầy cầu xin, như muốn nói, Giờ chúng ta có thể đi khỏi đây không?

“Thưa bà,” Nico hỏi. “Chuyện gì, ừm... chuyện gì đã xảy ra với mắt của bà thế?”

Cái nhìn của bà dường như bị đứt gãy – như thể bà đang cố để nhìn vào cậu ta thông qua một cái kính vạn hoa. “Sao vậy, Luke, con biết rõ chuyện đó mà. Nó xảy ra trước khi con được sinh ra mà, chẳng phải sao? Ta luôn là một người đặc biệt, có thể nhìn xuyên qua... bất-cứ-cái-gì-họ-gọi-nó.”

“Màn Sương Mù?” tôi nói.

“Đúng vậy, con yêu,” bà gật gù đầy khích lệ. “Và họ đã giao cho ta một công việc quan trọng. Điều đó thể hiện được ta là một người đặc biệt như thế nào!”

Tôi liếc nhìn Nico, nhưng cậu ta cũng bối rối y hệt tôi.

“Kiểu công việc gì ạ?” tôi hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra?”

Bà Castellan nhíu mày. Con dao của bà lơ lửng phía trên miếng bánh mì sandwich. “Than ôi, nó không mang lại kết quả, đúng không? Cha con đã cảnh báo ta không được thử điều đó. Ông ấy nói điều đó quá nguy hiểm. Nhưng ta phải làm. Đó là số mệnh của ta! Và giờ... ta vẫn không thể làm cho các hình ảnh đó biến mất khỏi đầu ta. Chúng khiến mọi thứ trở nên dường như quá mờ nhạt. Con ăn một ít bánh cookie nhé?”

Bà lôi cái khay ra khỏi lò nướng và đổ một tá các cục than sô-cô-la chip lên mặt bàn.

“Luke rất tốt,” bà Castellan lẩm bẩm. “Nó bỏ đi để bảo vệ ta đấy, các cháu biết không. Nó nói nếu nó bỏ đi, lũ quái vật sẽ không đe dọa ta nữa. Nhưng ta đã nói với nó những con quái vật đó không phải là mối đe dọa! Ngày nào chúng cũng ngồi bên ngoài lối đi, và chúng chưa bao giờ vào nhà.” Bà cầm con Medusa nhồi bông từ bậu cửa sổ lên. “Đúng là vậy, phải không bà Medusa? Không, không đáng sợ chút nào.” Sau đó bà tươi cười nhìn tôi. “Mẹ rất vui vì con đã về nhà. Mẹ biết con sẽ không bao giờ xấu hổ vì mẹ!”

Tôi ngồi nhấp nha nhấp nhổm trên ghế. Tôi tưởng mình là Luke, đang ngồi bên chiếc bàn này, tám hay chín tuổibắt đầu nhận ra rằng mẹ mình trở nên không còn minh mẫn nữa.

“Bà Castellan,” tôi nói.

“Mẹ chứ,” bà sửa lại.

“Ừm, đúng vậy. Bà có gặp lại Luke kể từ khi anh ta bỏ nhà đi không?”

“Dĩ nhiên là có rồi!”

Tôi không biết liệu bà ấy có đang tưởng tượng ra điều đó hay không. Với tất cả những gì tôi biết, mỗi khi một người đưa thư đứng ở cánh cửa thì người đó là Luke. Nhưng Nico lại nhoài người ra trước đầy hy vọng.

“Khi nào ạ?” cậu ta hỏi. “Lần cuối Luke về thăm bà là khi nào ạ?

“Ừm, đó là... ôi trời...” Một sự tối tăm lướt qua trên khuôn mặt bà. “Lần cuối cùng, nó trông khá xa lạ. Một vết sẹo. Một vết sẹo kinh khủng, và giọng nó có quá nhiều đau đớn...”

“Đôi mắt của anh ta,” tôi hỏi. “Chúng là màu vàng phải không ạ?”

“Màu vàng?” Bà ấy chớp chớp mắt. “Không. Sao ngốc thế! Luke có mắt màu xanh dương. Một đôi mắt xanh thật xinh đẹp!”

Vậy hóa ra Luke có về thật, việc đó xảy ra trước hè năm ngoái – trước khi hắn biến thành Kronos.

“Bà Castellan?” Nico đặt tay mình lên cánh tay bà Castellan. “Điều này rất quan trọng. Anh ta có hỏi xin bà bất cứ điều gì không?”

Bà chau mày như thể đang cố nhớ lại. “Lời chúc phúc... của ta. Điều đó mới ngọt ngào làm sao.” Bà ấy ngập ngừng nhìn chúng tôi. “Nó sẽ đi đến một con sông, và nó nói cần lời chúc phúc của ta. Ta đã trao cho nó. Dĩ nhiên là ta đã làm thế.”

Nico vui mừng nhìn tôi. “Cám ơn, bà. Đó là tất cả thông tin chúng tôi...”

Bà Castellan thở hổn hển. Bà cúi gập người lại và khay bánh cookie rơi loảng xoảng trên sàn nhà. Nico và tôi đứng bật dậy.

“Bà Castellan?” tôi nói.

“AHHHH.” Bà ấy đứng thẳng dậy. Tôi lùi lại và gần ngã lộn nhào lên bàn bếp vì đôi mắt của bà ấy – đôi mắt bà ấy đang phát ra ánh sáng màu xanh lục.

“Con của ta,” bà ấy nói với giọng trầm hơn. “Phải bảo vệ nó! Hermes, cứu! Không phải con của ta! Không phải số mệnh của nó – không!”

Bà ấy túm lấy hai vai Nico và bắt đầu lắc lấy lắc để cậu ta như thể bà ấy muốn cậu ta hiểu. “Không phải số mệnh của nó!”

Nico phát ra một tiếng hét nghẹn ngào và đẩy bà ấy ra. Cậu ta nắm chặt lấy cán kiếm. “Anh Percy, chúng ta phải ra khỏi...”

Đột nhiên bà Castellan ngã quỵ xuống. Tôi lảo đảo tiến tới và đỡ được bà trước khi bà có thể đập đầu vào góc bàn. Tôi cố đưa bà lên ghế.

“Bà C?” tôi hỏi.

Bà ấy lẩm bẩm điều gì đó rất khó hiểu và lắc đầu. “Ôi trời. Ta... ta đã đánh rơi bánh cookie mất rồi. Ta mới ngớ ngẩn làm sao!”

Bà chớp chớp mắt, và đôi mắt bà trở lại bình thường – hay ít nhất là giống hệt như trước. Ánh sáng màu xanh lục đã biến mất.

“Bà ổn không?”

“Ừm, dĩ nhiên rồi, con yêu. Mẹ ổn mà. Sao con lại hỏi thế?”

Tôi liếc nhìn Nico, cậu ta đang nói không thành tiếng: Đi thôi.

“Bà C, bà đang nói với bọn cháu điều gì đó,” tôi nói. “Điều gì đó về con trai bà.”

“Vậy ư?” bà mơ màng nói. “Đúng rồi, đôi mắt màu xanh của nó. Chúng ta đang nói về đôi mắt màu xanh của nó. Nó thật là một anh chàng đẹp trai!”

“Chúng cháu phải đi,” Nico vội vàng nói. “Chúng cháu sẽ nói với Luke... ừm, chúng cháu sẽ nói là bà gửi lời hỏi thăm.”

“Nhưng con không thể đi!” Hai chân bà Castellan bắt đầu run run và tôi bước lùi lại. Tôi cảm thấy hơi ngốc nghếch khi sợ hãi một người phụ nữ già yếu ớt, nhưng giọng bà ấy thay đổi, cách bà ấy tóm lấy Nico...

“Hermes sẽ nhanh có mặt ở đây thôi,” bà ấy hứa. “Ông ấy muốn gặp con trai mình!”

“Có lẽ lần sau vậy,” tôi nói. “Cám ơn vì...” tôi nhìn xuống những cái bánh cookie cháy rơi lả tả trên sàn nhà. “Cám ơn về mọi thứ.”

Bà cố ngăn chúng tôi, mời chúng tôi Kool-Aid, nhưng tôi phải ra khỏi ngôi nhà đó. Ở mái hiên nhà trước, bà ấy tóm lấy cổ tay tôi và tôi gần như giật nảy mình. “Luke, ít nhất cũng phải an toàn nhé. Hãy hứa với mẹ là con sẽ an toàn đi.”

“Con hứa, thưa... mẹ.”

Điều đó khiến bà mỉm cười. Bà thả cổ tay tôi ra, và trước khi bà ấy đóng hẳn cửa trước lại, tôi có thể nghe bà đang nói chuyện với những ngọn nến. “Các ngươi nghe thấy không? Nó sẽ an toàn. Ta đã bảo với các ngươi là nó sẽ an toàn mà!”

Khi cánh cửa được đóng lại, Nico và tôi bỏ chạy thục mạng. Những con thú nhồi xốp bé tí được đặt trên đường vào nhà như nhe răng cười khi chúng tôi chạy ngang qua.

Trở lại mỏm đá, tôi thấy con O’Leary đã tìm được một người bạn.

Một đống lửa ấm áp cháy tí tách trong vòng tròn đá cuội. Một cô bé c tám tuổi đang ngồi bắt chéo chân kế bên con O’Leary, đang gãi gãi đôi tai nó.

Cô bé có mái tóc màu nâu xỉn và mặc chiếc áo đầm màu nâu giản dị. Cô bé quàng một tấm khăn quàng cổ lên trên đầu vì thế cô bé trông như một đứa nhóc của những người đi khai phá – giống như con ma trong phim Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên hay đại loại thế. Cô bé cời lửa bằng một cây gậy nhỏ, và lửa dường như trở nên đỏ hơn so với một ngọn lửa bình thường.

“Chào,” cô bé nói.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là: quái vật. Khi bạn là một á thần và bạn tìm thấy một cô bé dễ thương đang ở một mình trong rừng – điều đó tiêu biểu cho việc đây là lúc nên rút kiếm của bạn ra và tấn công. Thêm vào đó, việc gặp gỡ với bà Castellan làm tôi khá lo lắng.

Nhưng Nico cúi đầu chào cô bé. “Xin chào, Nữ thần.”

Cô bé nhìn chăm chăm vào tôi với đôi mắt đỏ như ánh lửa. Tôi quyết định cũng cúi chào vì sự an toàn.

“Ngồi xuống đi, Percy Jackson,” cô bé nói. “Có muốn ăn chút gì không?”

Sau khi nhìn chằm chằm vào những miếng sandwich bơ đậu phộng mốc meo và những chiếc bánh cookie cháy, tôi thấy không thèm ăn lắm, nhưng cô bé phẩy tay và một bữa ăn ngoài trời xuất hiện bên cạnh đống lửa. Đó là những đĩa bò bít tết, khoai tây nướng, cà rốt xào bơ, bánh mì nóng giòn, và cả một đống thức ăn khác mà tôi chưa ăn trong một thời gian dài. Bao tử tôi sôi ùng ục. Đây là kiểu món ăn nấu ở nhà mà mọi người nên ăn, nhưng không bao giờ làm. Cô bé tạo ra một chiếc bánh qui dành cho chó dài mét rưỡi dành cho con O’Leary, người đang vui sướng cắn nó ra thành từng mảnh vụn.

Tôi ngồi kế bên Nico. Chúng tôi lấy thức ăn lên đĩa và bắt đầu cúi xuống ăn thì tôi nhớ ra chuyện nên làm trước đó.

Tôi múc một phần thức ăn trong đĩa của mình và cho vào lửa, cách chúng tôi hay làm ở trại. “Xin dâng các vị thần,” tôi nói.

Cô gái nhỏ mỉm cười. “Cám ơn. Là người giữ lửa, ngươi biết đấy, ta có phần trong mọi lễ vật hiến tế.”

“Giờ tôi nhận ra người,” tôi nói. “Lần đầu tiên tôi đến trại, người đang ngồi bên cạnh đống lửa, ở giữa khu vực sinh hoạt chung.”

“Ngươi đã không ngừng lại nói chuyện với ta,” cô bé buồn bã nhớ lại. “Ôi chao, không ai làm điều đó. Nico đã nói chuyện với ta. Cậu ta là người đầu tiên trong nhiều năm qua. Mọi người đều vội vội vàng vàng. Không có giờ để về thăm gia đình.”

“Người là nữ thần Hestia,” tôi nói. “Nữ thần của gia đình.”

Nữ thần gật đầu.

Được rồi... vậy nữ thần trông giống một bé gái tám tuổi. Tôi không hỏi lý do. Tôi nhận ra rằng các vị thần có thể hiện thân dưới bất cứ ngoại hình nào mà họ cảm thấy hài lòng nhất.

“Thưa người,” Nico hỏi, “sao người không cùng với các vị thần khác trên đỉnh Olympus chiến đấu chống lại Typhon?”

“Ta không giỏi việc đánh nhau lắm.” Đôi mắt đỏ của cô bé lập lòe. Tôi nhận ra chúng không chỉ là hình ảnh phản chiếu của lửa. Mà chúng chứa lửa – nhưng không giống mắt thần Ares. Đôi mắt của nữ thần Hestia ấm áp và dễ chịu.

“Với lại,” nữ thần nói tiếp, “phải có ai đó giữ cho ngọn lửa nhà cháy khi các vị thần khác đi xa chứ.”

“Vậy người đang canh giữ đỉnh Olympus sao?” tôi hỏi.

“ ‘Canh giữ’ nghe to tát quá. Nhưng nếu có bao giờ các ngươi muốn một nơi ấm áp để nghỉ và một bữa ăn nhà nấu, các ngươi được chào đón đến thăm. Giờ thì ăn đi.”

Đĩa thức ăn của tôi nhanh chóng trống trơn trước khi tôi nhận ra điều đó. Nico cũng ngốn ngấu phần thức ăn của mình nhanh không

“Điều này quá tuyệt,” tôi nói. “Cảm ơn người, nữ thần Hestia.”

Nữ thần gật đầu. “Các ngươi vừa có một chuyến thăm thú vị với May Castellan đúng không?”

Trong khoảnh khắc, tôi hầu như quên biến bà lão với đôi mắt sáng và nụ cười ngây dại, cái cách bà ta như bị ma nhập.

“Chính xác thì có điều gì không ổn với bà ấy thế ạ?” tôi hỏi.

“Bà ấy được sinh ra với một món quà,” nữ thần Hestia đáp. “Bà ấy có thể nhìn xuyên qua Màn Sương Mù.”

“Giống mẹ tôi,” tôi nói. Và tôi cũng nghĩ: Giống Rachel. “Nhưng đôi mắt phát sáng của bà ấy...”

“Một vài người sẽ chịu lời nguyền về thị lực tốt hơn những người khác,” nữ thần buồn bã nói. “Có một thời gian, May Castellan có rất nhiều tài. Bà ấy đã thu hút được sự chú ý của chính Hermes. Họ có một bé trai xinh đẹp. Trong một thời gian ngắn, bà ấy đã rất hạnh phúc. Nhưng rồi bà ấy đi quá xa.”

Tôi nhớ những gì mà bà Castellan đã nói: Họ đã giao cho ta một công việc. Nó không mang lại kết quả. Tôi tự hỏi liệu kiểu công việc gì có thể biến bạn thành một người như thế.

“Phút trước, bà ấy đều rất vui,” tôi hỏi. “Nhưng rồi bà ấy lại hoảng sợ về số phận của con trai bà ấy, như thể bà ấy biết được Luke đã biến thành Kronos. Điều gì đã xảy ra... đã chia tách con người bà ấy ra như thế?”

Khuôn mặt nữ thần tối sầm lại. “Đó là một câu chuyện ta không thích kể. Nhưng May Castellan đã nhìn thấy quá nhiều. Nếu ngươi muốn hiểu được Luke – kẻ thù của mình, ngươi phải hiểu rõ về gia đình của hắn.”

Tôi nghĩ về các bức ảnh nhỏ buồn bã của thần Hermes được dán phía trên bồn rửa chén của bà May Castellan. Tôi tự hỏi không biết lúc Luke còn bé bà Castellan đã mắc chứng cuồng điên như vậy chưa. Đôi mắt màu xanh lục đó thật sự có thể làm cho một đứa bé lên chín sợ chết khiếp. Và nếu thần Hermes không bao giờ ghé thăm, nếu ông ấy để Luke một mình với người mẹ trong chừng ấy năm...

“Chả trách Luke bỏ nhà đi,” tôi nói. “Ý tôi là, không đúng khi bỏ rơi một người mẹ như thế, thế nhưng – hắn ta vẫn chỉ là một đứa nhỏ. Thần Hermes không nên bỏ rơi hai người họ.”

Nữ thần Hestia gãi gãi phía sau tai con O’Leary. Con chó ngao địa ngục vẫy đuôi mình và ngẫu nhiên đốn ngã luôn một cái cây.

“Thật dễ dàng khi lên án người khác,” nữ thần Hestia cảnh báo. “Nhưng ngươi sẽ đi theo con đường của Luke sao? Tìm kiếm các sức mạnh giống hệt như thế?”

Nico đặt đĩa xuống. “Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác, thưa nữ thần. Đó là cách duy nhất Percy có cơ hội chiến thắng.”

“Ừm.” Nữ thần Hestia mở tay ra và ngọn lửa bùng lên. Ngọn lửa bốc cao hơn chín mét trong không khí. Hơi nóng vỗ mạnh vào mặt tôi. Rồi sau đó nó dịu lại và quay trở lại bình thường.

“Không phải sức mạnh nào cũng tốt.” Nữ thần Hestia nhìn tôi. “Đôi khi sức mạnh khó khăn nhất để làm chủ lại là sức mạnh của sự nhường nhịn. Ngươi có tin ta không?”

“Ừm, tin ạ,” tôi nói. Bất cứ điều gì để giữ cho nữ thần khỏi việc làm tôi hoảng sợ lần nữa với sức mạnh của ngọn lửa.

Nữ thần mỉm cười. “Ngươi là một anh hùng tốt, Percy Jackson. Không quá kiêu ngạo. Ta thích điều đó. Nhưng ngươi còn phải học nhiều. Khi Dionysus được thành thần, ta đã nhường ngai mình cho ông ta. Đó là cách duy nhất để tránh một cuộc nội chiến giữa các vị thần.”

“Điều đó làm Hội đồng mất cân bằng,” tôi nhớ lại. “Đột nhiên biến thành bảy nam, năm nữ.”

Nữ thần nhún vai. “Đó là cách giải quyết tốt nhất, không phải là hoàn hảo nhất. Giờ ta trông nom lửa. Ta dần lui về hậu trường. Sẽ không ai viết các sử thi về chiến công của nữ thần Hestia. Thậm chí phần lớn các á thần ngừng việc nói chuyện với ta. Nhưng điều đó không quan trọng. Ta giữ hòa bình. Ta nhường nhịn khi cần thiết. Liệu ngươi có làm được như thế không?”

“Tôi không hiểu ý nữ thần.”

Nữ thần ngó tôi lom lom. “Có thể là chưa đến lúc. Nhưng sẽ sớm thôi. Ngươi sẽ vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình sao?”

“Đó có phải là lý do cho việc người ở đây – để cảnh báo tôi về những gì đang diễn ra?”

Nữ thần lắc đầu. “Ta ở đây bởi khi tất cả những người khác thất bại, khi tất cả các vị thần hùng mạnh khác đã ra đi vì chiến tranh, ta là người duy nhất còn sót lại. Gia đình. Tổ ấm. Ta là vị thần cuối cùng của đỉnh Olympus. Ngươi phải nhớ đến ta khi ngươi đối mặt với quyết định cuối cùng của mình.”

Tôi không thích cách bà ấy nói từ cuối cùng.

Tôi hết nhìn Nico, lại quay sang nhìn đôi mắt phát sáng của nữ thần Hestia. “Tôi phải tiếp tục, thưa nữ thần. Tôi phải ngăn Luke – ý tôi là Kronos.”

Nữ thần gật đầu. “Rất tốt. Ta không giúp được gì nhiều ngoài những điều ta vừa nói. Nhưng vì ngươi đã hiến tế cho ta, ta có thể đưa ngươi quay trở lại nhà của chính mình. Percy, hẹn gặp lại trên đỉnh Olympus.”

Giọng nữ thần thật đáng ngại, như thể lần tái ngộ kế tiếp của chúng tôi sẽ không mấy vui vẻ.

Nữ thần phẩy nhẹ bàn tay và mọi thứ mờ dần đi.

Chớp mắt tôi đã ở nhà mình. Nico và tôi đang ngồi trên ghế sofa trong căn hộ của mẹ tôi ở Upper East Side. Đó là tin tốt. Tin xấu là con O’Leary choán hết phần còn lại của phòng khách.

Tôi nghe một tiếng hét bị nghẹn lại từ phòng ngủ.ượng Paul: “Ai đem bức tường lông chắn ngang cửa thế này?”

“Percy?” mẹ tôi gọi lớn. “Con có ở đó không? Con không sao chứ?”

“Con ở đây!” tôi hét đáp lại.

“GU GU!” Con O’Leary cố xoay người lại tìm mẹ tôi, việc đó khiến toàn bộ ảnh trên tường rơi xuống đất. Tuy nó chỉ gặp mẹ tôi có một lần trước đây (chuyện dài lắm), nhưng nó mến bà lắm.

Phải mất mấy phút, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng thu xếp ổn thỏa. Sau khi phá hủy hầu hết đồ dùng trong phòng khách và chắc chắn làm cho hàng xóm tức điên, chúng tôi đưa được cha mẹ tôi ra khỏi phòng ngủ, vào phòng bếp, và sau đó, bốn chúng tôi quây quần bên bàn ăn. Con O’Leary vẫn chiếm toàn bộ phòng khách, nhưng nó đặt đầu mình ở cửa phòng bếp để có thể nhìn thấy chúng tôi, điều đó khiến nó rất thích thú. Mẹ tôi ném cho nó bốn ký thịt bò xay dùng cho cả gia đình, và nhanh chóng biến mất trong cổ họng của nó. Dượng Paul rót nước chanh cho bốn người khi tôi giải thích về chuyến viếng thăm Connecticut của chúng tôi.

“Vậy chuyện đó có thật.” Dượng Paul nhìn tôi như thể ông chưa bao giờ nhìn thấy tôi trước đây. Dượng đang mặc chiếc áo choàng tắm trắng, hiện đang dính đầy lông của con chó ngao địa ngục, và mái tóc muối tiêu của ông chĩa ra mọi hướng. “Tất cả những cuộc chuyện trò về quái vật, và việc là một á thần... đều là thật.”

Tôi gật đầu. Mùa thu năm ngoái, tôi đã giải thích về thân thế của tôi. Mẹ cũng đã nói thêm vào. Nhưng cho đến thời điểm này, tôi nghĩ ông vẫn chưa thực sự tin lời hai mẹ con tôi nói lúc trước cho lắm.

“Con xin lỗi vì con O’Leary đã phá hỏng phòng khách và mọi việc.”

Dượng Paul cười đầy vui vẻ. “Con đùa sao? Điều này thật tuyệt! Ý ta là, khi nhìn thấy các dấu móng trên chiếc Prius, ta đã nghĩ có thể những gì con nói là thật. Nhưng điều này thì!”

Ông ấy vỗ nhẹ lên mũi con O’Leary. Cả phòng khách rung chuyển – BÙM! BÙM! BÙM! – điều đó có nghĩ một đội SWAT đang đạp đổ cánh cửa hoặc con O’Leary đang vẫy đuôi của nó.

Tôi bất giác mỉm cười. Dượng Paul là một người đàn ông rất tuyệt, dù ông ấy là thầy dạy Anh văn và cũng là cha dượng của tôi.

“Cảm ơn vì dượng đã không sợ hãi,” tôi nói.

“Ồ, ta đang sợ hãi ư,” ông bày tỏ, đôi mắt ông mở lớn. “Ta chỉ nghĩ điều này mới tuyệt làm sao!”

“Ừm, đúng thế,” tôi nói, “dượng có thể sẽ không còn thích thú nữa khi nghe về những gì đang diễn ra.”

Tôi kể cho mẹ và dượng nghe về Typhon, về các vị thần và về cuộc chiến chắc chắn sẽ diễn ra. Rồi sau đó, tôi nói cho họ nghe về kế hoạch của Nico.

Mẹ tôi đan những ngón tay mình quanh ly nước chanh. Bà đang mặc một chiếc áo choàng tắm bằng vải flanen màu xanh biển đã cũ và tóc được cột gọn ra sau. Gần đây, mẹ bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết, đó là dự định mẹ ấp ủ bấy lâu. Tôi có thể nói bà làm việc khuya, vì những quầng thâm dưới mắt thẫm hơn bình thường.

Bên ngoài cửa sổ bếp sau lưng bà, cây mảnh trăng bạc phát sáng trong chậu hoa. Hè năm ngoái, tôi đã mang cây phép thuật này về từ đảo của Calypso, và nó nở rộ dưới bàn tay chăm sóc của mẹ tôi. Mùi hương của nó luôn làm tôi bớt căng thẳng, nhưng đồng thời nó cũng làm tôi buồn, vì nó nhắc tôi nhớ đến những người bạn đã mất.

Mẹ hít thật sâu, như thể bà đang nghĩ cách để nói không với tôi.

“Percy, chuyện đó quá nguy hiểm,” bà nói. “Ngay cả đối với con.”

“Mẹ, con biết điều đó. Con có thể chết. Nico đã giải thích điều đó. Nhưng nếu chúng ta không thử...”

“Tất cả chúng ta sẽ chết,” Nico nói. Cậu ta đã không uống một chút nước chanh nào. “Cô Jackson, chúng ta không có lấy một cơ hội chă đứng cuộc xâm lăng. Và đó sẽ là một cuộc xâm lăng thật sự.”

“Một cuộc xâm lăng vào New York sao?” dượng Paul nói. “Điều đó có thể xảy ra sao? Sao chúng ta vẫn không nhìn thấy... quái vật?”

Ông nói như thể ông vẫn không thể tin điều này là thật vậy.

“Con không biết,” tôi thừa nhận. “Con không biết làm thế nào Kronos có thể đưa quân vào Manhattan, nhưng Màn Sương Mù đang rất mạnh. Typhon hiện đang giày xéo khắp nước Mỹ và con người nghĩ rằng hắn ta chỉ là một cơn bão lớn vậy thôi.”

“Cô Jackson,” Nico nói. “Anh Percy cần lời chúc phúc của cô. Tiến trình phải được bắt đầu theo cách đó. Cháu không chắc cho đến khi chúng cháu gặp được mẹ của Luke, nhưng giờ cháu đã rất tự tin. Chuyện này chỉ thành công có hai lần trước đây. Cả hai lần, người mẹ đã trao lời chúc phúc. Người mẹ phải quyết tâm để cho con trai mình chấp nhận rủi ro.”

“Con muốn mẹ chúc phúc cho con sao?” Bà lắc đầu. “Điều đó thật điên rồ. Percy, làm ơn...”

“Mẹ, con không thể làm điều này nếu không có mẹ.”

“Và nếu con qua được điều đó – tiến trình đó?”

“Con sẽ ra trận,” tôi nói. “Con sẽ chiến đấu với Kronos. Và chỉ một trong hai bọn con sẽ sống sót.”

Tôi đã không kể cho mẹ nghe về toàn bộ lời tiên tri – về việc linh hồn bị thu nhận và ngày kết thúc của cuộc đời tôi. Bà không cần biết về việc tôi chắc chắn sẽ chết. Tôi chỉ có thể hy vọng mình tiêu diệt được Kronos và cứu cả thế giới trước khi nhắm mắt xuôi tay.

“Con là con trai mẹ,” bà nói đầy đau khổ. “Con không thể...”

Tôi có thể nói tôi phải ép mẹ hơn nữa nếu tôi muốn bà đồng ý, nhưng tôi không làm thế. Tôi nhớ đến hình ảnh bà Castellan tội nghiệp ở trong bếp, đang chờ con quay về nhà. Và tôi nhận ra mình đã may mắn như thế nào. Tôi luôn có mẹ ở bên, luôn cố làm cho mọi thứ trở nên bình thường đối với tôi, dù là với các vị thần và quái vật và các thứ linh tinh khác. Mẹ phải kiên nhẫn chịu đựng việc tôi lao đầu vào bao cuộc phiêu lưu. Nhưng giờ tôi lại đang yêu cầu bà ban cho tôi lời chúc phúc để làm điều có thể sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Tôi nhìn dượng Paul, và một sự thấu hiểu được hình thành giữa hai chúng tôi.

“Sally.” Ông đặt tay lên hai tay mẹ tôi. “Anh không thể nói anh hiểu hết những gì em và Percy đã trải qua trong suốt ngần ấy năm. Nhưng với anh mà nói... dường như Percy đang làm điều gì đó thật đáng khâm phục. Anh ước gì mình cũng có nhiều can đảm như thế.”

Tôi nghẹn ngào cảm động. Có mấy khi tôi được khen thế đâu.

Mẹ đăm đăm nhìn ly nước chanh, cố nuốt nước mắt vào trong. Tôi nhớ về những gì mà nữ thần Hestia đã nói, về việc thật khó như thế nào khi phải nhường nhịn, và tôi đoán có thể mẹ tôi đang khám phá ra điều đó.

“Percy,” bà nói, “mẹ trao cho con lời chúc phúc của mẹ.”

Tôi chẳng cảm thấy gì khác biệt. Chẳng có ánh sáng ma thuật tỏa sáng rực rỡ, thắp sáng cả phòng bếp hay bất cứ điều gì đại loại như thế.

Tôi liếc nhìn Nico.

Cậu ta trông lo lắng hơn mọi khi, nhưng cậu ta gật đầu khẳng định. “Đã đến lúc.”

“Percy,” mẹ tôi nói. “Một điều cuối cùng. Nếu con... nếu con còn sống sau trận chiến với Kronos, hãy gởi cho mẹ một dấu hiệu nhé.” Bà lục lọi khắp ví tiền và đưa cho tôi chiếc điện thoại di động của bà.

“Mẹ,” tôi kêu lên, “mẹ biết là các á thần và điện thoại di động...”

“Mẹ biết,” bà nói. “Chỉ phòng hờ thôi mà. Nếu con không gọ được... thì chỉ cần một dấu hiệu nào đó mà mẹ có thể nhìn thấy từ bất cứ đâu ở Manhattan. Để mẹ biết là con vẫn ổn.”

“Như Theseus ấy,” dượng Paul gợi ý. “Ông ta được cho là giương buồm trắng khi về nhà từ Athens.”

“Chỉ có điều ông ta quên mất,” Nico lẩm bẩm. “Và cha ông ta đã nhảy xuống từ nóc cung điện vì tuyệt vọng. Nhưng ngoài điều đó ra, đó cũng là một ý tưởng thật tuyệt.”

“Thế một ngọn cờ hay một pháo sáng thì sao?” mẹ tôi góp ý. “Từ đỉnh Olympus – Tòa nhà Empire State nhé.”

“Một thứ gì đó có màu xanh biển mẹ nhé,” tôi nói.

Chúng tôi đã luôn nói đùa trong nhiều năm về thức ăn có màu xanh biển. Đó là màu yêu thích của tôi, và mẹ tôi đã làm tất cả để chiều tôi. Bánh sinh nhật, giỏ trứng Phục sinh, kẹo gậy Giáng sinh mỗi năm của tôi đều luôn có màu xanh biển.

“Đúng thế,” mẹ tôi đồng ý. “Mẹ sẽ đợi dấu hiệu màu xanh biển từ con. Còn nữa, mẹ sẽ cố không nhảy xuống từ nóc cung điện đâu.”

Mẹ ôm tôi lần cuối. Tôi cố không cảm nhận như thể mình đang nói lời từ biệt. Tôi bắt tay dượng Paul. Rồi Nico và tôi đi ra khỏi cửa bếp và nhìn con O’Leary.

“Xin lỗi mày,” tôi nói. “Thêm một lần di chuyển trong bóng tối nữa. “

Nó rên rỉ, đưa hai chân trước lên che lấy mũi.

“Giờ đi đâu đây?” tôi hỏi Nico. “Los Angeles?”

“Không cần đâu,” cậu ta nói. “Có một lối vào Địa ngục gần hơn ở đây.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện