Hôm sau.
Tôn Thượng Hương vẫn còn buồn ngủ, hết sức hậm hực vì bị đánh thức, nói: “Quân sư nghỉ khóa sớm không phải hợp ý con sao, không ngủ nướng cho đã đi, tảng sáng tới đây làm gì?”
A Đẩu chỉ cười không nói, cùng Khương Duy bận bịu đến quên trời quên đất, trước mặt hai người bày một bộ võ y bằng thép mỏng, chính là giáp trụ nữ tử mang đến lúc bồi giá Tôn Thượng Hương. Đã lâu không tập võ, bộ sấn* võ y thép này đã sớm bị nhét dưới đáy hòm, tảng sáng bị Lưu Thiện hưng trí bừng bừng tới tìm, lục ra, Tôn Thượng Hương mở to đôi mắt hạnh, không biết hắn vừa tháo vừa sửa để làm gì. [*sấn là áo lót bên trong]
Hờn dỗi hôm trước đã sớm tan tám phần, Tôn Thượng Hương thấy Khương Duy và Lưu Thiện đều là thiếu niên tuấn tú, nhịn không được trêu ghẹo: “Hai hài tử như ngọc nhân, còn di nương dường như già đi rồi”
“Làm gì có” A Đẩu cũng không ngẩng đầu, chỉ lấy cái nhíp khều sợi chỉ lên, “bựt” một tiếng vảy thép rớt đầy bàn, cười nói: “Ở Giang Đông di nương chính là đại mỹ nữ nổi danh ngang nhị Kiều*, nhưng không giống lưỡng Kiều kia mắc bệnh Tây Thi suốt ngày yếu đuối ủ rũ, lan có hương ngầm của lan, mai có khí chất kiên cường của mai, sao lại nói…” [*là hai người con gái của Kiều Công những năm cuối Đông Hán, đại Kiều gả cho Tôn Sách, còn nhị Kiều gả cho Chu Du]
Tôn Thượng Hương vừa nghe lời này cười to nói: “Ai bảo vậy? Trưởng tẩu của ta đâu có mắc bệnh Tây Thi”
A Đẩu cười nói tiếp: “Nghe đồn trong tứ đại mỹ nhân thì Giang Đông được ba, Lạc Dương được một; Điêu Thiền nhị Kiều Tôn Thượng Hương, Kinh Châu ta ngược lại, một người cũng chẳng có, may nhờ di nương viễn giá, bằng không mặt mũi phụ thân con để nơi nào?”
Khương Duy nghe đến nổi da gà da vịt cùng mình, vuốt đuôi kiểu này cũng quá mức đi, Tôn Thượng Hương cùng lắm chỉ có thể coi là diện dung mỹ lệ, đem so sánh cùng Điêu Thiền bế nguyệt tu hoa quả thật là cách xa một vạn tám ngàn dặm.
Nhưng Tôn Thượng Hương nào biết lời này xảo quyệt nói bừa, chỉ nghĩ rằng A Đẩu là tiểu hài nhơ nhỡ, nghe sao nói vậy, tám phần là học lại lời Lưu Bị; lại nghĩ tới dung mạo mình vậy mà có thể cùng đại tiểu Kiều, Điêu Thiền…Ách, cái này tuy hơi miễn cưỡng, nhưng ai mà chẳng thích được người ta tâng bốc, nói không chừng trong mắt quân nhân, mình cùng Điêu Thiền thực sự bất phân cao thấp.
Tức khắc bị A Đẩu dụ đến mát lòng mát mát dạ, tươi cười rạng rỡ nói: “Đại di của con tuy không thiện võ kỹ, nhưng bản lĩnh so với đấng tu mi chắc chắn chỉ có hơn chứ không kém, sau này nếu có duyên tiếp kiến, ngàn vạn lần không được nói mấy câu kiểu như bệnh Tây Thi này nọ, biết chưa?”
A Đẩu thắc mắc: “Nàng có bản lĩnh gì?”
Khương Duy đột nhiên xen miệng vào: “Nữ tử hiếm khi tập võ kỹ, đa phần không học kỳ môn độn giáp cũng học thuật Kỳ Hoàng”
Tâm tình Tôn Thượng Hương đang tốt, thấy Khương Duy xen vào cũng không nổi cáu, chỉ cười nói: “Đúng vậy, tiểu Kiều thiện y, đại Kiều thiện độc; tự cổ y độc không tách rời, tiểu cô tử* ta đây cũng phải nhường các nàng ba phần. Nếu con có lòng muốn học, hôm nào đó ta về nhà mẹ sẽ dẫn con theo, hai nàng ấy nể mặt ta, chỉ bảo vài phần là đủ để trở thành một đại danh y rồi” [*em chồng]
Trong lúc nói Tôn Thượng Hương lấy kéo qua, giúp A Đẩu cắt vải, than thở: “Ta gả tới đây cũng được một thời gian rồi mà không thể sinh cho con một đứa đệ đệ, lần sau về nhà mẹ phải bảo tiểu Kiều xem thử cho ta, rốt cuộc là nguyên nhân gì, không quen khí hậu cũng quá lâu đi”
A Đẩu đang định nói tương lai còn dài, chợt nghe ngoài cửa có thị tỳ thỉnh an, bê cái mâm gỗ chậm rãi tiến vào, nói: “Quân sư thỉnh chủ mẫu dùng thuốc” Đó chính là thị tỳ mà hắn gặp vào hôm rời khỏi phòng quân cơ.
Tôn Thượng Hương chưa kịp nhìn, lúc định nhận bát sứ thì thị tỳ kia vấp chân một cái, cả kinh thất sắc, bổ nhào tới trước. Chén sứ kia rơi đúng ngay đầu A Đẩu và Khương Duy.
Tôn Thượng Hương quát lớn: “Lớn mật!” Thuận tay tát lên mặt thị tỳ nọ, cả người lẫn chén thuốc bị ném thẳng ra ngoài, tiếng lầm rầm loảng xoảng vang khắp cả phòng.
Phát sinh đột biến, vài danh thị nữ trong phòng bị dọa thảm, vội hốt hoảng tiến lên thu dọn, A Đẩu còn chưa biết phát sinh chuyện gì thì Khương Duy đã cười giảo hoạt một tiếng, đem cái chân vừa mới đưa ngang ra thu vào gầm bàn, giật giật môi với A Đẩu, làm cái khẩu hình “Báo thù”, A Đẩu rốt cuộc hồi thần, mắc cười như điên nhưng ráng nhịn, thấy trên mặt thị tỳ kia in năm dấu tay của Tôn Thượng Hương, xám xịt đi ra ngoài.
Dưới sự giúp đỡ của Tôn Thượng Hương, A Đẩu và Khương Duy đã chỉnh sửa xong xuôi, giáp bạc bị tháo gỡ biến thành một bộ mã giáp* thép, A Đẩu thử thử, rồi nâng mã giáp cáo biệt Tôn Thượng Hương, dẫn Khương Duy rời đi. [*áo giáp mặc lót bên trong]
Tôn Thượng Hương vốn không giỏi nữ công, ba người hợp lực chỉ có thể vá bộ mã giáp kia xiêu xiêu vẹo vẹo, sứt sẹo tùm lum, thê thảm không chịu nổi, A Đẩu nhìn mà buồn cười, bất ngờ lúc rời cửa phủ thì bị một tên thủ vệ quát dọc đường.
“Khương Bá Ước đứng lại, quân sư cho mời!”
Trong lòng A Đẩu giật thót một cái, nhất định là do thị nữ kia quay về cáo trạng, ăn đòn tới nơi rồi, bèn bảo hộ Khương Duy ở phía sau, nói với phủ vệ kia: “Ngươi trở về nói với quân sư, ta triệu Bá Ước làm chính sự, không thể trễ nãi”
Phủ vệ kia thấy rõ là A Đẩu thì sợ hết hồn, đống bùn này trở nên lợi hại từ bao giờ vậy? Nhất thời không biết làm sao, chốc lát lại nói: “Thuộc hạ không dám tự tiện làm chủ, nếu tiểu chủ công muốn giữ Bá Ước, hoàn thỉnh theo thuộc hạ cùng diện kiến quân sư”
Nhưng Khương Duy thè thè lưỡi, cười nói: “Không sao đâu, ta đi chút rồi về, ngươi làm việc trước đi, đừng chậm trễ” Nói xong lại vỗ vỗ mã giáp trên tay Lưu Thiện, nháy mắt, A Đẩu hết cách, đành phải để Khương Duy đi.
Một mình A Đẩu đi tới phía sau Châu Mục phủ, đứng trước một gian viện lạc vắng vẻ hẻo lánh phía cuối trường nhai. Mùa thu ngô đồng xơ xác, thấy điều kiện ngôi nhà này tốt hơn chỗ ở của Triệu Vân không biết bao nhiêu, thầm mắng Lưu Bị đúng là một gã chủ kiết xác, Triệu Vân liều sống liều chết, giúp ông ta cứu con cứu vợ, vậy mà còn thua cả một tên sư gia lãnh chức nhàn, thời đại này trí tuệ quả nhiên đáng giá hơn thể lực.
Lại nghe trong viện truyền đến tiếng ghế tre đung đưa, chủ nhân có nhà, bèn chỉnh vạt áo, nói: “Lưu Công Tự có chuyện thỉnh giáo”
Đứng một hồi, không nghe trả lời, A Đẩu nào có hưng trí ba lần đến mời* như Lưu Bị, vừa oán thầm vừa nhấc chân bước vào trong viện. Thấy dưới bóng cây ngô đồng có một nam tử mập mạp nửa nằm trên ghế trúc, nam tử nheo hai mắt, để mặc ánh mặt trời cuối thu xuyên qua kẽ lá ngô đồng, chiếu lên gương mặt đầy dữ tợn. [*Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát Lượng để mời bằng được Gia Cát Lượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp. Ý nói chân thành, khẩn khoản, năm lần bảy lượt mời cho được]
A Đẩu giả trang một bộ dáng cẩn thận, cung kính nói: “Tiên sinh”
Trường bào trên người béo ú dầu mỡ lếch thếch, đầu tóc như ổ gà quấn thành một cục, hai tay đan nhau, đặt trên cái bụng gồ lên, y chang một con heo nằm trong nôi. A Đẩu gọi liên tục mấy tiếng, béo ú đều mặc kệ, chốc lát sau, giơ tay chùi nước miếng chảy xuống khóe miệng, vẫy qua Lưu Thiện, “Bẹp” một tiếng, vẫy trúng ngay mặt hắn.
“…”
Cả nửa ngày A Đẩu cũng nói không ra một lời nào, giận quá hóa cười, nắm chặt tay trái, chỉ muốn đấm một quyền vào mũi tên heo mập này, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng kiềm chế, nếu không biết nhẫn nhục thì sao tránh khỏi bị người ta xem thường.
A Đẩu hắng hắng giọng, nói: “Thế gian phỉ báng ta, ức hiếp ta, nhục mạ ta, cười ta, khinh ta, tiện ta, ghét ta, lừa ta, ta phải xử phạt thế nào?”
Mí mắt béo ú kia khẽ động, khóe miệng lộ ra một nụ cười mỉm, trong tiếng lắc lư “Cót két” của ghế trúc, chậm rãi nói: “Cứ nhịn hắn, nhường hắn, kệ hắn, tránh hắn, chịu đựng hắn, cung kính hắn, không cần quan tâm tới hắn…”
Béo ú mở hai mắt, tinh quang trong mắt chỉ nhoáng một cái rồi lập tức thu lại, nhìn Lưu Thiện, nói tiếp: “…Qua tiếp mấy năm nữa, ngươi hãy nhìn lại hắn”
“A Đẩu kiến quá Bàng Thống tiên sinh”
Béo ú lười biếng đáp: “Bàng Thống tiên sinh kiến quá A Đẩu”
A Đẩu phì cười, cảm thấy Phượng Sồ Bàng Thống thú vị vô cùng, bèn lau mặt, nghiêm giọng nói:
“Đêm trước A Đẩu nằm mơ, hỏi tiên sinh, tiên sinh không rảnh trả lời ta, nghe nói Bàng tiên sinh cũng thông minh như tiên sinh, nghĩ tới nghĩ lui, đành phải tới tìm Bàng tiên sinh giải mộng”
“Mộng gì?”
“Trong mộng có một địa phương, gọi là Lạc Thành, quanh thành có rất nhiều oan quỷ, tiếng kêu gào dọa cho ta đổ mồ hôi lạnh ướt lưng”
“Ờ, e rằng Lạc Thành sẽ có họa đao binh”
“A Đẩu từ Lạc Thành đi ra, khắp nơi đều là sương trắng, sông lớn cuồn cuộn chảy về phương xa”
“Ờ, âm tào mười dặm đường đằng đẵng, cảnh sắc dọc đường âm ti như thế nào?”
“Quên rồi, sương mù vừa tan…Thấy một tấm bia đá, bị tiễn gãy chi chít che khuất, A Đẩu hiếu kỳ, gạt đám tên gãy ngoài bia ra, thấy trên bia đề ba chữ lớn không hoàn chỉnh, mơ hồ đoán đại, hình như là…Dốc, Lạc, Phượng.
Bàng Thống đột nhiên ngồi thẳng người, trợn to hai mắt, nhìn chằm chằm A Đẩu, A Đẩu lại cười dài nâng mã giáp kia, cúi người nói: “Đây là mã giáp ta đích thân chế cho Bàng tiên sinh, lúc xuất chinh hoàn thỉnh tiên sinh mặc bên trong áo bào, đừng để A Đẩu thấp thỏm lo sợ”
Cuối cùng cũng giải quyết xong chuyện quan trọng, Bàng Thống có mặc chiếc mã giáp kia hay không, A Đẩu cũng không lo lắng, mưu sĩ nhìn như cuồng ngạo, nhưng rất sợ chết, hơn nữa hết sức tin tưởng thiên mệnh, bằng không sao lại có câu “Khí số”?? Rời khỏi Phượng Sồ cư, A Đẩu ba bước còn hai chạy về phủ, chẳng biết Khương Duy có bị mắng đến cẩu huyết lâm đầu hay không, thầm khẩn cầu, đừng vì giúp mình trút giận mà bị ăn đòn nha.
Nào ngờ mồ hôi đầm đìa chạy về phía phòng quân cơ, lại thấy đại môn thư phòng của Gia Cát Lượng đóng kín, có một tảng đá đen dài hơn trượng vắt ngang trong sân, và cái người xoắn ống quần, quỳ trong viện, hai gối dán trên tảng đá đen, không phải Khương Duy thì còn ai?! “Tiên sinh đâu?” A Đẩu vừa nhìn thấy suýt nữa tức nổ phổi, tiến lên kéo Khương Duy, nơi Khương Duy quỳ chính là tảng đá mài đao dùng để hành quân, trên tảng đá đó có vô số cát sỏi sắc lẻm, đầu gối Khương Duy chống trên thứ thô ráp này đã sưng đỏ, ánh nắng gay gắt, chỗ quỳ đã ướt một vũng. Chẳng những vậy, y khố toàn thân còn bị mồ hôi thấm ướt như mới từ trong nước chui ra.
Khương Duy vốn bị nắng chiếu đến mơ mơ màng màng, thấy A Đẩu trở về liền lên tinh thần, vội nói: “Bàng tiên sinh không làm khó ngươi chứ”
“Tiên sinh!”A Đẩu hướng về phía cánh cửa gỗ khép chặt hô to, sau đó muốn tiến lên đạp cửa, nhưng bị Khương Duy kéo lại, nói: “Tiên sinh không có đây! Đi nghị sư rồi”
A Đẩu tức không có chỗ xả, oán hận nói: “Không phải bảo chỉ bị mắng vài câu là xong chuyện sao?”
Khương Duy nói: “Ta cũng đâu biết, hôm nay cơn giận của tiên sinh rất dữ, phạt ta quỳ tới giờ Dậu, bình thường sẽ không như vậy”
A Đẩu hết cách, bị Khương Duy kéo tay áo, nếu vùng ra sẽ khiến Khương Duy đang quỳ bị rách da, nên đành quay lại, Khương Duy mới buông tay, ngượng ngùng nói: “Ngươi về phòng đi, kẻo cảm nắng”
A Đẩu mắng: “Con bà nó!” Đoạn không để ý tới Khương Duy, tự xoắn ống quần, quỳ lên tảng đá mài đao kia, sau đó bất động.
Khương Duy vừa đấm vừa xoa, nhưng A Đẩu chỉ trừng mắt mà chống đỡ, không nói nửa câu, Khương Duy đành mặc kệ hắn. Quỳ chưa được nửa canh giờ, a Đẩu đã cảm thấy đầu gối khó chịu như bị vạn châm xuyên loạn, hai chân vừa đau vừa tê, mặt trời gay gắt chiếu đến đầu óc ù ù, trước mặt như có con ruồi bay tới bay lui, sợ nhịn không được té xỉu, đành phải gắng gượng tinh thần nói: “Hắc, không biết đồ hỗn trướng nào nghĩ ra hình phạt này”
Khương Duy đồng tình nói: “Vừa rồi ta cũng vậy, lúc mới quỳ rất đau, qua một hồi sẽ đỡ thôi”
Lát sau, quả nhiên A Đẩu cảm thấy cơn đau đớn trên đầu gối mất dần, hai chân mất cảm giác như cây cọc gỗ. Thấy Khương Duy nghiêng đông ngã tây, vội nghiêng nhẹ người qua, đỡ lấy hắn, hai thiếu niên chống vai nhau, tà tà dựa cùng một chỗ. Thuận miệng tán dóc vài câu, tìm vui trong cái khổ, cũng không đến nỗi nhàm chán.
A Đẩu đã sớm đem mười tám đời tổ tông của Gia Cát Lượng ra mắng một trận, Khương Duy nghe đến rét run cả người, A Đẩu lại nói: “Ngươi nói đi, đánh đổ có chén thuốc, di nương không uống thuốc đó có chết đâu? Đáng để phát hỏa tới độ này sao, quân sư tới tuổi mãn kinh rồi hay sao…”
Khương Duy linh cơ vừa động, cười nói: “Tại ta ngốc, lẽ ra phải để chủ mẫu uống thuốc trước, uống xong hãy gạt chân ả thị nữ kia, như vậy tám phần sẽ không bị phạt. Lần tới phải đợi đưa thuốc xong, chuẩn bị ra khỏi phòng hả chỉnh nàng”
A Đẩu cười nói: “Đúng, quân sư nhất định là tức giận vì chén…”
Không biết sao, trong lòng bỗng nảy sinh một ý niệm, A Đẩu dừng câu chuyện, quay đầu nhìn Khương Duy một cái, nói: “Tại sao tiên sinh lại phải đích thân nấu thuốc, rồi sai người đem đi, không để di nương tự…”
Trong mắt Khương Duy toát lên vẻ sợ hãi, dường như cả hai đang cùng nghĩ về một chuyện, thất thanh nói: “Công Tự, ngươi nghĩ nhiều rồi, thân thể chủ mẫu không phải đang rất tốt sao?”
A Đẩu vội “Suỵt” một tiếng, nhíu mày thấp giọng nói: “Di nương không sinh được tiểu hài, có lẽ nào là do tiên sinh giở trò quỷ hay không?” Hai thiếu niên nghĩ tới đây, mặt trời trên đầu nóng cháy, nhưng toàn thân lại như rơi vào hầm băng mà run lẩy bẩy. Đều hứa hẹn sẽ không đề cập tới vấn đề này nữa.
Điểm tâm ăn ở chỗ Tôn Thượng Hương, ngọ phạn chưa kịp ăn đã bị phạt quỳ, chính chủ bị phạt vẫn còn chưa ngã, mà kẻ quỳ theo đã sắp ngã rồi. A Đẩu thật sự chịu không nổi, thấy Khương Duy từ từ nhắm hai mắt, bèn thả tay động động, lấy tay áo lót dưới gối, lúc quay đầu lại liếc Khương Duy, chỉ thấy khóe miệng hắn khẽ cong.
“Cười cái gì”
“Không cười gì cả” Khương Duy nghiêng đầu qua, cọ cọ thái dương A Đẩu, nói: “Ngươi đừng quỳ nữa, đứng lên đi, lát nữa lỡ hai ta đều ngã thì ai cõng chúng ta về đây”
A Đẩu nghĩ cũng đúng, thấy Gia Cát Lượng kiểu này chắc nhất thời nửa lúc không về đâu, hôm nay phòng quân cơ nhất định sẽ chẳng có ai, nếu quỳ xong đi không được, nói không chừng sẽ phải nằm đây tới sáng mai, mình không quỳ nữa mới có sức cõng Khương Duy về nhà.
A Đẩu dùng cả tay lẫn chân, xoay người, cắn răng ngồi trên tảng đá mài đao, xoa xoa chân, đầu gối đã sưng phù, nói: “Ta tuy người không quỳ, nhưng tâm quỳ theo ngươi”
Khương Duy càng buồn cười, gật gật đầu, hai người cùng ngước nhìn quầng mặt trời trong viện, sắp tới giờ Dậu rồi.
Hồi lâu sau, Khương Duy chợt nói: “Sau này ta sẽ làm tướng quân của ngươi, mặc giáp chinh chiến vì ngươi. Chỉ cần ngươi vui vẻ, thắng trận, ta chẳng màng phong thưởng; thua trận, ta chiến tử sa trường”
Cả nửa ngày A Đẩu nói không ra câu nào, chốc lát sau mới đáp: “Giống như cha ta và nhị thúc, tam thúc, quân sư, sư phụ bọn họ sao”
Khương Duy “Ừm” một tiếng, không nói gì nữa.
Thời khắc này, A Đẩu mơ hồ cảm giác được, lão ba tai to tay dài kia của mình, kỳ thực cũng có chút bản lĩnh.
Tôn Thượng Hương vẫn còn buồn ngủ, hết sức hậm hực vì bị đánh thức, nói: “Quân sư nghỉ khóa sớm không phải hợp ý con sao, không ngủ nướng cho đã đi, tảng sáng tới đây làm gì?”
A Đẩu chỉ cười không nói, cùng Khương Duy bận bịu đến quên trời quên đất, trước mặt hai người bày một bộ võ y bằng thép mỏng, chính là giáp trụ nữ tử mang đến lúc bồi giá Tôn Thượng Hương. Đã lâu không tập võ, bộ sấn* võ y thép này đã sớm bị nhét dưới đáy hòm, tảng sáng bị Lưu Thiện hưng trí bừng bừng tới tìm, lục ra, Tôn Thượng Hương mở to đôi mắt hạnh, không biết hắn vừa tháo vừa sửa để làm gì. [*sấn là áo lót bên trong]
Hờn dỗi hôm trước đã sớm tan tám phần, Tôn Thượng Hương thấy Khương Duy và Lưu Thiện đều là thiếu niên tuấn tú, nhịn không được trêu ghẹo: “Hai hài tử như ngọc nhân, còn di nương dường như già đi rồi”
“Làm gì có” A Đẩu cũng không ngẩng đầu, chỉ lấy cái nhíp khều sợi chỉ lên, “bựt” một tiếng vảy thép rớt đầy bàn, cười nói: “Ở Giang Đông di nương chính là đại mỹ nữ nổi danh ngang nhị Kiều*, nhưng không giống lưỡng Kiều kia mắc bệnh Tây Thi suốt ngày yếu đuối ủ rũ, lan có hương ngầm của lan, mai có khí chất kiên cường của mai, sao lại nói…” [*là hai người con gái của Kiều Công những năm cuối Đông Hán, đại Kiều gả cho Tôn Sách, còn nhị Kiều gả cho Chu Du]
Tôn Thượng Hương vừa nghe lời này cười to nói: “Ai bảo vậy? Trưởng tẩu của ta đâu có mắc bệnh Tây Thi”
A Đẩu cười nói tiếp: “Nghe đồn trong tứ đại mỹ nhân thì Giang Đông được ba, Lạc Dương được một; Điêu Thiền nhị Kiều Tôn Thượng Hương, Kinh Châu ta ngược lại, một người cũng chẳng có, may nhờ di nương viễn giá, bằng không mặt mũi phụ thân con để nơi nào?”
Khương Duy nghe đến nổi da gà da vịt cùng mình, vuốt đuôi kiểu này cũng quá mức đi, Tôn Thượng Hương cùng lắm chỉ có thể coi là diện dung mỹ lệ, đem so sánh cùng Điêu Thiền bế nguyệt tu hoa quả thật là cách xa một vạn tám ngàn dặm.
Nhưng Tôn Thượng Hương nào biết lời này xảo quyệt nói bừa, chỉ nghĩ rằng A Đẩu là tiểu hài nhơ nhỡ, nghe sao nói vậy, tám phần là học lại lời Lưu Bị; lại nghĩ tới dung mạo mình vậy mà có thể cùng đại tiểu Kiều, Điêu Thiền…Ách, cái này tuy hơi miễn cưỡng, nhưng ai mà chẳng thích được người ta tâng bốc, nói không chừng trong mắt quân nhân, mình cùng Điêu Thiền thực sự bất phân cao thấp.
Tức khắc bị A Đẩu dụ đến mát lòng mát mát dạ, tươi cười rạng rỡ nói: “Đại di của con tuy không thiện võ kỹ, nhưng bản lĩnh so với đấng tu mi chắc chắn chỉ có hơn chứ không kém, sau này nếu có duyên tiếp kiến, ngàn vạn lần không được nói mấy câu kiểu như bệnh Tây Thi này nọ, biết chưa?”
A Đẩu thắc mắc: “Nàng có bản lĩnh gì?”
Khương Duy đột nhiên xen miệng vào: “Nữ tử hiếm khi tập võ kỹ, đa phần không học kỳ môn độn giáp cũng học thuật Kỳ Hoàng”
Tâm tình Tôn Thượng Hương đang tốt, thấy Khương Duy xen vào cũng không nổi cáu, chỉ cười nói: “Đúng vậy, tiểu Kiều thiện y, đại Kiều thiện độc; tự cổ y độc không tách rời, tiểu cô tử* ta đây cũng phải nhường các nàng ba phần. Nếu con có lòng muốn học, hôm nào đó ta về nhà mẹ sẽ dẫn con theo, hai nàng ấy nể mặt ta, chỉ bảo vài phần là đủ để trở thành một đại danh y rồi” [*em chồng]
Trong lúc nói Tôn Thượng Hương lấy kéo qua, giúp A Đẩu cắt vải, than thở: “Ta gả tới đây cũng được một thời gian rồi mà không thể sinh cho con một đứa đệ đệ, lần sau về nhà mẹ phải bảo tiểu Kiều xem thử cho ta, rốt cuộc là nguyên nhân gì, không quen khí hậu cũng quá lâu đi”
A Đẩu đang định nói tương lai còn dài, chợt nghe ngoài cửa có thị tỳ thỉnh an, bê cái mâm gỗ chậm rãi tiến vào, nói: “Quân sư thỉnh chủ mẫu dùng thuốc” Đó chính là thị tỳ mà hắn gặp vào hôm rời khỏi phòng quân cơ.
Tôn Thượng Hương chưa kịp nhìn, lúc định nhận bát sứ thì thị tỳ kia vấp chân một cái, cả kinh thất sắc, bổ nhào tới trước. Chén sứ kia rơi đúng ngay đầu A Đẩu và Khương Duy.
Tôn Thượng Hương quát lớn: “Lớn mật!” Thuận tay tát lên mặt thị tỳ nọ, cả người lẫn chén thuốc bị ném thẳng ra ngoài, tiếng lầm rầm loảng xoảng vang khắp cả phòng.
Phát sinh đột biến, vài danh thị nữ trong phòng bị dọa thảm, vội hốt hoảng tiến lên thu dọn, A Đẩu còn chưa biết phát sinh chuyện gì thì Khương Duy đã cười giảo hoạt một tiếng, đem cái chân vừa mới đưa ngang ra thu vào gầm bàn, giật giật môi với A Đẩu, làm cái khẩu hình “Báo thù”, A Đẩu rốt cuộc hồi thần, mắc cười như điên nhưng ráng nhịn, thấy trên mặt thị tỳ kia in năm dấu tay của Tôn Thượng Hương, xám xịt đi ra ngoài.
Dưới sự giúp đỡ của Tôn Thượng Hương, A Đẩu và Khương Duy đã chỉnh sửa xong xuôi, giáp bạc bị tháo gỡ biến thành một bộ mã giáp* thép, A Đẩu thử thử, rồi nâng mã giáp cáo biệt Tôn Thượng Hương, dẫn Khương Duy rời đi. [*áo giáp mặc lót bên trong]
Tôn Thượng Hương vốn không giỏi nữ công, ba người hợp lực chỉ có thể vá bộ mã giáp kia xiêu xiêu vẹo vẹo, sứt sẹo tùm lum, thê thảm không chịu nổi, A Đẩu nhìn mà buồn cười, bất ngờ lúc rời cửa phủ thì bị một tên thủ vệ quát dọc đường.
“Khương Bá Ước đứng lại, quân sư cho mời!”
Trong lòng A Đẩu giật thót một cái, nhất định là do thị nữ kia quay về cáo trạng, ăn đòn tới nơi rồi, bèn bảo hộ Khương Duy ở phía sau, nói với phủ vệ kia: “Ngươi trở về nói với quân sư, ta triệu Bá Ước làm chính sự, không thể trễ nãi”
Phủ vệ kia thấy rõ là A Đẩu thì sợ hết hồn, đống bùn này trở nên lợi hại từ bao giờ vậy? Nhất thời không biết làm sao, chốc lát lại nói: “Thuộc hạ không dám tự tiện làm chủ, nếu tiểu chủ công muốn giữ Bá Ước, hoàn thỉnh theo thuộc hạ cùng diện kiến quân sư”
Nhưng Khương Duy thè thè lưỡi, cười nói: “Không sao đâu, ta đi chút rồi về, ngươi làm việc trước đi, đừng chậm trễ” Nói xong lại vỗ vỗ mã giáp trên tay Lưu Thiện, nháy mắt, A Đẩu hết cách, đành phải để Khương Duy đi.
Một mình A Đẩu đi tới phía sau Châu Mục phủ, đứng trước một gian viện lạc vắng vẻ hẻo lánh phía cuối trường nhai. Mùa thu ngô đồng xơ xác, thấy điều kiện ngôi nhà này tốt hơn chỗ ở của Triệu Vân không biết bao nhiêu, thầm mắng Lưu Bị đúng là một gã chủ kiết xác, Triệu Vân liều sống liều chết, giúp ông ta cứu con cứu vợ, vậy mà còn thua cả một tên sư gia lãnh chức nhàn, thời đại này trí tuệ quả nhiên đáng giá hơn thể lực.
Lại nghe trong viện truyền đến tiếng ghế tre đung đưa, chủ nhân có nhà, bèn chỉnh vạt áo, nói: “Lưu Công Tự có chuyện thỉnh giáo”
Đứng một hồi, không nghe trả lời, A Đẩu nào có hưng trí ba lần đến mời* như Lưu Bị, vừa oán thầm vừa nhấc chân bước vào trong viện. Thấy dưới bóng cây ngô đồng có một nam tử mập mạp nửa nằm trên ghế trúc, nam tử nheo hai mắt, để mặc ánh mặt trời cuối thu xuyên qua kẽ lá ngô đồng, chiếu lên gương mặt đầy dữ tợn. [*Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát Lượng để mời bằng được Gia Cát Lượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp. Ý nói chân thành, khẩn khoản, năm lần bảy lượt mời cho được]
A Đẩu giả trang một bộ dáng cẩn thận, cung kính nói: “Tiên sinh”
Trường bào trên người béo ú dầu mỡ lếch thếch, đầu tóc như ổ gà quấn thành một cục, hai tay đan nhau, đặt trên cái bụng gồ lên, y chang một con heo nằm trong nôi. A Đẩu gọi liên tục mấy tiếng, béo ú đều mặc kệ, chốc lát sau, giơ tay chùi nước miếng chảy xuống khóe miệng, vẫy qua Lưu Thiện, “Bẹp” một tiếng, vẫy trúng ngay mặt hắn.
“…”
Cả nửa ngày A Đẩu cũng nói không ra một lời nào, giận quá hóa cười, nắm chặt tay trái, chỉ muốn đấm một quyền vào mũi tên heo mập này, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng kiềm chế, nếu không biết nhẫn nhục thì sao tránh khỏi bị người ta xem thường.
A Đẩu hắng hắng giọng, nói: “Thế gian phỉ báng ta, ức hiếp ta, nhục mạ ta, cười ta, khinh ta, tiện ta, ghét ta, lừa ta, ta phải xử phạt thế nào?”
Mí mắt béo ú kia khẽ động, khóe miệng lộ ra một nụ cười mỉm, trong tiếng lắc lư “Cót két” của ghế trúc, chậm rãi nói: “Cứ nhịn hắn, nhường hắn, kệ hắn, tránh hắn, chịu đựng hắn, cung kính hắn, không cần quan tâm tới hắn…”
Béo ú mở hai mắt, tinh quang trong mắt chỉ nhoáng một cái rồi lập tức thu lại, nhìn Lưu Thiện, nói tiếp: “…Qua tiếp mấy năm nữa, ngươi hãy nhìn lại hắn”
“A Đẩu kiến quá Bàng Thống tiên sinh”
Béo ú lười biếng đáp: “Bàng Thống tiên sinh kiến quá A Đẩu”
A Đẩu phì cười, cảm thấy Phượng Sồ Bàng Thống thú vị vô cùng, bèn lau mặt, nghiêm giọng nói:
“Đêm trước A Đẩu nằm mơ, hỏi tiên sinh, tiên sinh không rảnh trả lời ta, nghe nói Bàng tiên sinh cũng thông minh như tiên sinh, nghĩ tới nghĩ lui, đành phải tới tìm Bàng tiên sinh giải mộng”
“Mộng gì?”
“Trong mộng có một địa phương, gọi là Lạc Thành, quanh thành có rất nhiều oan quỷ, tiếng kêu gào dọa cho ta đổ mồ hôi lạnh ướt lưng”
“Ờ, e rằng Lạc Thành sẽ có họa đao binh”
“A Đẩu từ Lạc Thành đi ra, khắp nơi đều là sương trắng, sông lớn cuồn cuộn chảy về phương xa”
“Ờ, âm tào mười dặm đường đằng đẵng, cảnh sắc dọc đường âm ti như thế nào?”
“Quên rồi, sương mù vừa tan…Thấy một tấm bia đá, bị tiễn gãy chi chít che khuất, A Đẩu hiếu kỳ, gạt đám tên gãy ngoài bia ra, thấy trên bia đề ba chữ lớn không hoàn chỉnh, mơ hồ đoán đại, hình như là…Dốc, Lạc, Phượng.
Bàng Thống đột nhiên ngồi thẳng người, trợn to hai mắt, nhìn chằm chằm A Đẩu, A Đẩu lại cười dài nâng mã giáp kia, cúi người nói: “Đây là mã giáp ta đích thân chế cho Bàng tiên sinh, lúc xuất chinh hoàn thỉnh tiên sinh mặc bên trong áo bào, đừng để A Đẩu thấp thỏm lo sợ”
Cuối cùng cũng giải quyết xong chuyện quan trọng, Bàng Thống có mặc chiếc mã giáp kia hay không, A Đẩu cũng không lo lắng, mưu sĩ nhìn như cuồng ngạo, nhưng rất sợ chết, hơn nữa hết sức tin tưởng thiên mệnh, bằng không sao lại có câu “Khí số”?? Rời khỏi Phượng Sồ cư, A Đẩu ba bước còn hai chạy về phủ, chẳng biết Khương Duy có bị mắng đến cẩu huyết lâm đầu hay không, thầm khẩn cầu, đừng vì giúp mình trút giận mà bị ăn đòn nha.
Nào ngờ mồ hôi đầm đìa chạy về phía phòng quân cơ, lại thấy đại môn thư phòng của Gia Cát Lượng đóng kín, có một tảng đá đen dài hơn trượng vắt ngang trong sân, và cái người xoắn ống quần, quỳ trong viện, hai gối dán trên tảng đá đen, không phải Khương Duy thì còn ai?! “Tiên sinh đâu?” A Đẩu vừa nhìn thấy suýt nữa tức nổ phổi, tiến lên kéo Khương Duy, nơi Khương Duy quỳ chính là tảng đá mài đao dùng để hành quân, trên tảng đá đó có vô số cát sỏi sắc lẻm, đầu gối Khương Duy chống trên thứ thô ráp này đã sưng đỏ, ánh nắng gay gắt, chỗ quỳ đã ướt một vũng. Chẳng những vậy, y khố toàn thân còn bị mồ hôi thấm ướt như mới từ trong nước chui ra.
Khương Duy vốn bị nắng chiếu đến mơ mơ màng màng, thấy A Đẩu trở về liền lên tinh thần, vội nói: “Bàng tiên sinh không làm khó ngươi chứ”
“Tiên sinh!”A Đẩu hướng về phía cánh cửa gỗ khép chặt hô to, sau đó muốn tiến lên đạp cửa, nhưng bị Khương Duy kéo lại, nói: “Tiên sinh không có đây! Đi nghị sư rồi”
A Đẩu tức không có chỗ xả, oán hận nói: “Không phải bảo chỉ bị mắng vài câu là xong chuyện sao?”
Khương Duy nói: “Ta cũng đâu biết, hôm nay cơn giận của tiên sinh rất dữ, phạt ta quỳ tới giờ Dậu, bình thường sẽ không như vậy”
A Đẩu hết cách, bị Khương Duy kéo tay áo, nếu vùng ra sẽ khiến Khương Duy đang quỳ bị rách da, nên đành quay lại, Khương Duy mới buông tay, ngượng ngùng nói: “Ngươi về phòng đi, kẻo cảm nắng”
A Đẩu mắng: “Con bà nó!” Đoạn không để ý tới Khương Duy, tự xoắn ống quần, quỳ lên tảng đá mài đao kia, sau đó bất động.
Khương Duy vừa đấm vừa xoa, nhưng A Đẩu chỉ trừng mắt mà chống đỡ, không nói nửa câu, Khương Duy đành mặc kệ hắn. Quỳ chưa được nửa canh giờ, a Đẩu đã cảm thấy đầu gối khó chịu như bị vạn châm xuyên loạn, hai chân vừa đau vừa tê, mặt trời gay gắt chiếu đến đầu óc ù ù, trước mặt như có con ruồi bay tới bay lui, sợ nhịn không được té xỉu, đành phải gắng gượng tinh thần nói: “Hắc, không biết đồ hỗn trướng nào nghĩ ra hình phạt này”
Khương Duy đồng tình nói: “Vừa rồi ta cũng vậy, lúc mới quỳ rất đau, qua một hồi sẽ đỡ thôi”
Lát sau, quả nhiên A Đẩu cảm thấy cơn đau đớn trên đầu gối mất dần, hai chân mất cảm giác như cây cọc gỗ. Thấy Khương Duy nghiêng đông ngã tây, vội nghiêng nhẹ người qua, đỡ lấy hắn, hai thiếu niên chống vai nhau, tà tà dựa cùng một chỗ. Thuận miệng tán dóc vài câu, tìm vui trong cái khổ, cũng không đến nỗi nhàm chán.
A Đẩu đã sớm đem mười tám đời tổ tông của Gia Cát Lượng ra mắng một trận, Khương Duy nghe đến rét run cả người, A Đẩu lại nói: “Ngươi nói đi, đánh đổ có chén thuốc, di nương không uống thuốc đó có chết đâu? Đáng để phát hỏa tới độ này sao, quân sư tới tuổi mãn kinh rồi hay sao…”
Khương Duy linh cơ vừa động, cười nói: “Tại ta ngốc, lẽ ra phải để chủ mẫu uống thuốc trước, uống xong hãy gạt chân ả thị nữ kia, như vậy tám phần sẽ không bị phạt. Lần tới phải đợi đưa thuốc xong, chuẩn bị ra khỏi phòng hả chỉnh nàng”
A Đẩu cười nói: “Đúng, quân sư nhất định là tức giận vì chén…”
Không biết sao, trong lòng bỗng nảy sinh một ý niệm, A Đẩu dừng câu chuyện, quay đầu nhìn Khương Duy một cái, nói: “Tại sao tiên sinh lại phải đích thân nấu thuốc, rồi sai người đem đi, không để di nương tự…”
Trong mắt Khương Duy toát lên vẻ sợ hãi, dường như cả hai đang cùng nghĩ về một chuyện, thất thanh nói: “Công Tự, ngươi nghĩ nhiều rồi, thân thể chủ mẫu không phải đang rất tốt sao?”
A Đẩu vội “Suỵt” một tiếng, nhíu mày thấp giọng nói: “Di nương không sinh được tiểu hài, có lẽ nào là do tiên sinh giở trò quỷ hay không?” Hai thiếu niên nghĩ tới đây, mặt trời trên đầu nóng cháy, nhưng toàn thân lại như rơi vào hầm băng mà run lẩy bẩy. Đều hứa hẹn sẽ không đề cập tới vấn đề này nữa.
Điểm tâm ăn ở chỗ Tôn Thượng Hương, ngọ phạn chưa kịp ăn đã bị phạt quỳ, chính chủ bị phạt vẫn còn chưa ngã, mà kẻ quỳ theo đã sắp ngã rồi. A Đẩu thật sự chịu không nổi, thấy Khương Duy từ từ nhắm hai mắt, bèn thả tay động động, lấy tay áo lót dưới gối, lúc quay đầu lại liếc Khương Duy, chỉ thấy khóe miệng hắn khẽ cong.
“Cười cái gì”
“Không cười gì cả” Khương Duy nghiêng đầu qua, cọ cọ thái dương A Đẩu, nói: “Ngươi đừng quỳ nữa, đứng lên đi, lát nữa lỡ hai ta đều ngã thì ai cõng chúng ta về đây”
A Đẩu nghĩ cũng đúng, thấy Gia Cát Lượng kiểu này chắc nhất thời nửa lúc không về đâu, hôm nay phòng quân cơ nhất định sẽ chẳng có ai, nếu quỳ xong đi không được, nói không chừng sẽ phải nằm đây tới sáng mai, mình không quỳ nữa mới có sức cõng Khương Duy về nhà.
A Đẩu dùng cả tay lẫn chân, xoay người, cắn răng ngồi trên tảng đá mài đao, xoa xoa chân, đầu gối đã sưng phù, nói: “Ta tuy người không quỳ, nhưng tâm quỳ theo ngươi”
Khương Duy càng buồn cười, gật gật đầu, hai người cùng ngước nhìn quầng mặt trời trong viện, sắp tới giờ Dậu rồi.
Hồi lâu sau, Khương Duy chợt nói: “Sau này ta sẽ làm tướng quân của ngươi, mặc giáp chinh chiến vì ngươi. Chỉ cần ngươi vui vẻ, thắng trận, ta chẳng màng phong thưởng; thua trận, ta chiến tử sa trường”
Cả nửa ngày A Đẩu nói không ra câu nào, chốc lát sau mới đáp: “Giống như cha ta và nhị thúc, tam thúc, quân sư, sư phụ bọn họ sao”
Khương Duy “Ừm” một tiếng, không nói gì nữa.
Thời khắc này, A Đẩu mơ hồ cảm giác được, lão ba tai to tay dài kia của mình, kỳ thực cũng có chút bản lĩnh.
Danh sách chương