Trong lúc đó, Trương Lãng đặc biệt chú ý trong kỵ binh tam quốc còn chưa có bàn đạp, yên ngựa cũng chẳng qua là một loại đệm ngồi mềm mà thôi, cưỡi loại đệm mềm này không khác gì cưỡi lưng ngựa không. Bàn đạp là công cụ phụ trợ kỵ sĩ lên xuống ngựa, khống chế nó. Nó hợp với yên ngựa có thể hữu hiệu đem ngựa và người cưỡi hợp thành một thể, trở thành đơn độc chiến đấu hữu hiệu, phát huy uy lực rất lớn. Yên ngựa không phối hợp bàn đạp, kỵ binh không thể nương đùi kẹp chặt bụng ngựa để khống chế tọa kỵ, càng khó rảnh hai tay dùng vũ khí đối địch.
Trương Lãng ra lệnh làm bàn đạp, tự mình vẽ ra bản vẽ, trước vẻ mặt mit mờ của thợ rèn nêu ra ý tưởng của mình, mất hết nửa ngày thợ rèn mới ngơ ngác rời đi, bắt đầu chuẩn bị chế tạo hàng.
Cùng lúc đó, dù là khinh kỵ hay trọng kỵ đều vứt bỏ các binh khí như trường mâu, kiếm hai lưỡi, thống nhất thượng kỵ binh xung phong vác trường thiết đao. Chiều dài từ tám mươi, một trăm centimet hoặc lớn đến một trăm hai mươi, một trăm năm mươi centimet. Loại đao này có đặc điểm là: lưỡi dao thẳng thân hẹp, một bên là lưỡi một bên khác là đao tích dày. Thân đao không có giới hạn rõ ràng, chuôi đào bên ngoài có kẹp mảnh gỗ, quấn chặt dây thừng để nắm. Tiện cho đâm chém mà không dễ gãy, tăng lớn chiều dài mà không tăng bao nhiêu sức nặng, càng thích hợp kỵ binh mãnh liệt trùng kích dễ dàng chém chặt. Kỵ binh cầm trường đao dài nhẹ có thể bắn từ xa, có thể xông vào cận chiến, chẳng những phối hợp bộ binh linh hoạt tiếp viện, càng có thể là chủ lực xông pha chiến đấu.
Về bộ binh thì cũng cải tiến binh khí không nhỏ.
Trương Lãng vốn định làm súng, pháo ở thế kỷ hai mươi mốt. Nhưng ngẫm nghĩ bây giờ trình độ thủ công còn thấp, thiết cũng chất lượng không tốt. Cho dù có bào chế khai quật ra súng thổ pháo, uy lực không bằng cường nỏ. Nếu thêm vào khoa học kỹ thuật phát triển siêu thời đại, không biết sẽ đem đến náo động gì cho xã hội nữa. Cuối cùng hắn quyết định nghiên cứu ra cường lực liên phát nỏ, là loại hậu kỳ Thục quốc để dùng cho thủ thành.
Về mặt nội chính, bởi vì nhiều năm chiến loạn, nhân khẩu giảm thấp rất nhiều, đất bỏ hoang. Vì bảo đảm quân lương đầy đủ, Trương Lãng quyết định sử dụng ‘Đồn điền chế’ của Tào Tháo sau này. Đồn điền chế là chế độ phong kiến, đất của quốc gia có chế độ, con dần đồn điền có quyền sử dụng đất, đồn điền lại phân ra quân trú và dân trú. Quân trú do binh sĩ đóng quân khai hoang. Dân trú thì chiêu mộ lưu vong nông dân tiến hành khai hoang. Đồn điền nông dân cần theo biên chế quân sự tổ chức, chính phủ thiết quan quản lý. Đồn điền dân theo tình huống khác nhau mà ấn tỷ lệ giao nộp vật thu hoạch cho quan phủ, nhưng họ sẽ không cần đi binh dịch. Như vậy thì an bày rất nhiều nông dân lưu vong, có lợi cho ổn định trật tự xã hội, hòa hoãn xã hội mâu thuẫn, khiến sinh sản càng phát triển nhanh hơn. Điều kiện sử dụng đồn điền chế là chế độ sẽ không xúc phạm ích lợi của phú hào địa phương. Vùng đất họ chiếm hữu không được xâm phạm, chỉ phân phối đất không có chủ, như vậy thì đại gia tộc địa phương mới đồng ý, hết sức hỗ trợ.
Cùng lúc đó, đồn điền bắt đầu sử dụng trâu cày, dùng kỹ thuật sinh sản, khiến kỹ thuật nông nghiệp sinh sản dần tăng cao.
Địa khu Từ Châu, khu thủ công, công nghiệp cực kỳ phát đạt. Với điều kiện đó, Trương Lãng quyết định thực hành quốc doanh, thiết lập quan viên chuyên môn tăng cường quản lý, bảo đảm thu thuế, có thể có càng nhiều tiền tài đầu tư vào khai phá quân sự.
Trương Lãng lập bản dự thảo, bởi vì bản thân không hiểu lắm về nội chính nên để các quan văn thương lượng xem có được hay không. Kết quả là tuy có người phản đối nhưng đa số đồng ý, quyết định thực hiện.Đến đây thì mặt nội, ngoại Trương Lãng đều giao cho thuộc hạ đi làm, thực hiện triệt để dùng tất tần tật người có thể dùng, phát huy sở trường của mỗi người, cùng quản lý Từ Châu.
Hắn lại phái người đem thư đến Tào Tháo, ý muốn kết minh.
Tào Tháo ở Duyện Châu đại chiến cùng Lữ Bố, không có năng lực lo bên Từ Châu, lại nghe Trương Lãng lĩnh Từ Châu Mục, thời gian ngắn ngủi khó mà làm được gì, nên đồng ý việc kết minh, để mình không phải lo lắng hậu phương, hết sức tấn công Lữ Bố.
Đến đây thì Trương Lãng nội trị Từ Châu, ngoại kết cường hào, chiêu hiền nạp sĩ, bổ sung lương thảo, để thành bá nghiệp.
Sơ bình năm thứ ba, mùa xuân năm một trăm chín mươi ba công nguyên, Từ Châu trải qua Trương Lãng điều chỉnh một tháng, có gia tộc địa phương hết mực ủng hộ đã là sự sống dào dạt, mạnh mẽ hướng lên trên. Cùng lúc đó, để đẹp lòng đám gia tộc địa phương Mi Trúc, Trương Lãng quyết định cưới đệ nhất mỹ nữ Từ Châu, Mi Hoàn. Tuy hôn sự này bên trong xen lẫn rất nhiều sắc thái chính trị, nhưng anh hùng và mỹ nhân vẫn trở thành giai thoại đẹp trong những buổi nói chuyện của dân chúng Từ Châu.
Nửa tháng sau, Từ Châu vững vàng bước qua cải cách, tuy vội đến khí thế ngất trời nhưng Trương Lãng thì giống như thất nghiệp, cả ngày ăn không ngồi rồi. Trừ có quyết sách quan trọng ra, còn lại việc nội chính quân sự đều giao cho thuộc hạ xử lý, hết mực tin tưởng năn lực và sự trung tâm của họ, hắn rất ít can thiệp vào. Bình thường hắn chỉ có thể luyện võ, cưỡi ngựa, cùng người nhà nói chuyện tầm phào.
Sáng sớm hôm nay, Trương Lãng còn đang nằm trên giường thơm ngào ngạt ngủ nướng.
Thì ra tối hôm qua Trương Lãng cùng đôi tỷ muội đại chiến mấy hiệp, cuối cùng ba người đều kiệt sức cùng nhau đi ngủ.
Trương Lãng đang ngủ say sưa cảm thấy cái mũi rất ngứa, kiềm không được hắt xì, sau đó mở ra mí mắt nặng nề. Đập vào mắt là khuôn mặt mỹ miều nửa cười nửa không. Đó chính là người cùng Trương Lãng ra sống vào chết, Dương Dung. Lúc này nàng đang úp sấp một bên giường, bĩu môi đáng yêu, nhàm chán cầm nhúm tóc đen thỉnh thoảng quát mũi thọc ngứa hắn.
Trương Lãng vừa tức vừa buồn cười. Dương Dung bình thường không có việc gì làm hay kiếm hắn gây chuyện, khiến cho hắn vài lần mất mặt trước mặt mỹ nữ. Nhưng đây chính là người duy nhất có thể cùng mình nói chuyện thật lòng, cùng đến từ thế kỷ hai mươi mốt, càng có cộng đồng đề tài. Tuy nói mình rất yêu các mỹ nhân này, nhưng nếu thật sự phải sắp xếp vị trí số một, hai, ba thì không thể nghi ngờ, Dương Dung đứng vị trí thứ nhất. Các nàng cũng biết địa vị của Dương Dung, mơ hồ nàng trở thành đại tỷ trong nội đường. Lại thêm Dương Dung biết võ công, người thông minh, mỗi lần đều theo Trương Lãng xuất chinh, bình thường các nàng không có việc gì hay thích quấn quýt bọn họ.
Trương Lãng xoay người lại đè lên thân hình đầy đặn mê người của Dương Dung, cố ý háo sắc nói:
- Oa, Dung nhi thật là lão bà tốt, biết lão công đói bụng, sáng sớm đã đưa điểm tâm tới tận cửa.
Trương Lãng ra lệnh làm bàn đạp, tự mình vẽ ra bản vẽ, trước vẻ mặt mit mờ của thợ rèn nêu ra ý tưởng của mình, mất hết nửa ngày thợ rèn mới ngơ ngác rời đi, bắt đầu chuẩn bị chế tạo hàng.
Cùng lúc đó, dù là khinh kỵ hay trọng kỵ đều vứt bỏ các binh khí như trường mâu, kiếm hai lưỡi, thống nhất thượng kỵ binh xung phong vác trường thiết đao. Chiều dài từ tám mươi, một trăm centimet hoặc lớn đến một trăm hai mươi, một trăm năm mươi centimet. Loại đao này có đặc điểm là: lưỡi dao thẳng thân hẹp, một bên là lưỡi một bên khác là đao tích dày. Thân đao không có giới hạn rõ ràng, chuôi đào bên ngoài có kẹp mảnh gỗ, quấn chặt dây thừng để nắm. Tiện cho đâm chém mà không dễ gãy, tăng lớn chiều dài mà không tăng bao nhiêu sức nặng, càng thích hợp kỵ binh mãnh liệt trùng kích dễ dàng chém chặt. Kỵ binh cầm trường đao dài nhẹ có thể bắn từ xa, có thể xông vào cận chiến, chẳng những phối hợp bộ binh linh hoạt tiếp viện, càng có thể là chủ lực xông pha chiến đấu.
Về bộ binh thì cũng cải tiến binh khí không nhỏ.
Trương Lãng vốn định làm súng, pháo ở thế kỷ hai mươi mốt. Nhưng ngẫm nghĩ bây giờ trình độ thủ công còn thấp, thiết cũng chất lượng không tốt. Cho dù có bào chế khai quật ra súng thổ pháo, uy lực không bằng cường nỏ. Nếu thêm vào khoa học kỹ thuật phát triển siêu thời đại, không biết sẽ đem đến náo động gì cho xã hội nữa. Cuối cùng hắn quyết định nghiên cứu ra cường lực liên phát nỏ, là loại hậu kỳ Thục quốc để dùng cho thủ thành.
Về mặt nội chính, bởi vì nhiều năm chiến loạn, nhân khẩu giảm thấp rất nhiều, đất bỏ hoang. Vì bảo đảm quân lương đầy đủ, Trương Lãng quyết định sử dụng ‘Đồn điền chế’ của Tào Tháo sau này. Đồn điền chế là chế độ phong kiến, đất của quốc gia có chế độ, con dần đồn điền có quyền sử dụng đất, đồn điền lại phân ra quân trú và dân trú. Quân trú do binh sĩ đóng quân khai hoang. Dân trú thì chiêu mộ lưu vong nông dân tiến hành khai hoang. Đồn điền nông dân cần theo biên chế quân sự tổ chức, chính phủ thiết quan quản lý. Đồn điền dân theo tình huống khác nhau mà ấn tỷ lệ giao nộp vật thu hoạch cho quan phủ, nhưng họ sẽ không cần đi binh dịch. Như vậy thì an bày rất nhiều nông dân lưu vong, có lợi cho ổn định trật tự xã hội, hòa hoãn xã hội mâu thuẫn, khiến sinh sản càng phát triển nhanh hơn. Điều kiện sử dụng đồn điền chế là chế độ sẽ không xúc phạm ích lợi của phú hào địa phương. Vùng đất họ chiếm hữu không được xâm phạm, chỉ phân phối đất không có chủ, như vậy thì đại gia tộc địa phương mới đồng ý, hết sức hỗ trợ.
Cùng lúc đó, đồn điền bắt đầu sử dụng trâu cày, dùng kỹ thuật sinh sản, khiến kỹ thuật nông nghiệp sinh sản dần tăng cao.
Địa khu Từ Châu, khu thủ công, công nghiệp cực kỳ phát đạt. Với điều kiện đó, Trương Lãng quyết định thực hành quốc doanh, thiết lập quan viên chuyên môn tăng cường quản lý, bảo đảm thu thuế, có thể có càng nhiều tiền tài đầu tư vào khai phá quân sự.
Trương Lãng lập bản dự thảo, bởi vì bản thân không hiểu lắm về nội chính nên để các quan văn thương lượng xem có được hay không. Kết quả là tuy có người phản đối nhưng đa số đồng ý, quyết định thực hiện.Đến đây thì mặt nội, ngoại Trương Lãng đều giao cho thuộc hạ đi làm, thực hiện triệt để dùng tất tần tật người có thể dùng, phát huy sở trường của mỗi người, cùng quản lý Từ Châu.
Hắn lại phái người đem thư đến Tào Tháo, ý muốn kết minh.
Tào Tháo ở Duyện Châu đại chiến cùng Lữ Bố, không có năng lực lo bên Từ Châu, lại nghe Trương Lãng lĩnh Từ Châu Mục, thời gian ngắn ngủi khó mà làm được gì, nên đồng ý việc kết minh, để mình không phải lo lắng hậu phương, hết sức tấn công Lữ Bố.
Đến đây thì Trương Lãng nội trị Từ Châu, ngoại kết cường hào, chiêu hiền nạp sĩ, bổ sung lương thảo, để thành bá nghiệp.
Sơ bình năm thứ ba, mùa xuân năm một trăm chín mươi ba công nguyên, Từ Châu trải qua Trương Lãng điều chỉnh một tháng, có gia tộc địa phương hết mực ủng hộ đã là sự sống dào dạt, mạnh mẽ hướng lên trên. Cùng lúc đó, để đẹp lòng đám gia tộc địa phương Mi Trúc, Trương Lãng quyết định cưới đệ nhất mỹ nữ Từ Châu, Mi Hoàn. Tuy hôn sự này bên trong xen lẫn rất nhiều sắc thái chính trị, nhưng anh hùng và mỹ nhân vẫn trở thành giai thoại đẹp trong những buổi nói chuyện của dân chúng Từ Châu.
Nửa tháng sau, Từ Châu vững vàng bước qua cải cách, tuy vội đến khí thế ngất trời nhưng Trương Lãng thì giống như thất nghiệp, cả ngày ăn không ngồi rồi. Trừ có quyết sách quan trọng ra, còn lại việc nội chính quân sự đều giao cho thuộc hạ xử lý, hết mực tin tưởng năn lực và sự trung tâm của họ, hắn rất ít can thiệp vào. Bình thường hắn chỉ có thể luyện võ, cưỡi ngựa, cùng người nhà nói chuyện tầm phào.
Sáng sớm hôm nay, Trương Lãng còn đang nằm trên giường thơm ngào ngạt ngủ nướng.
Thì ra tối hôm qua Trương Lãng cùng đôi tỷ muội đại chiến mấy hiệp, cuối cùng ba người đều kiệt sức cùng nhau đi ngủ.
Trương Lãng đang ngủ say sưa cảm thấy cái mũi rất ngứa, kiềm không được hắt xì, sau đó mở ra mí mắt nặng nề. Đập vào mắt là khuôn mặt mỹ miều nửa cười nửa không. Đó chính là người cùng Trương Lãng ra sống vào chết, Dương Dung. Lúc này nàng đang úp sấp một bên giường, bĩu môi đáng yêu, nhàm chán cầm nhúm tóc đen thỉnh thoảng quát mũi thọc ngứa hắn.
Trương Lãng vừa tức vừa buồn cười. Dương Dung bình thường không có việc gì làm hay kiếm hắn gây chuyện, khiến cho hắn vài lần mất mặt trước mặt mỹ nữ. Nhưng đây chính là người duy nhất có thể cùng mình nói chuyện thật lòng, cùng đến từ thế kỷ hai mươi mốt, càng có cộng đồng đề tài. Tuy nói mình rất yêu các mỹ nhân này, nhưng nếu thật sự phải sắp xếp vị trí số một, hai, ba thì không thể nghi ngờ, Dương Dung đứng vị trí thứ nhất. Các nàng cũng biết địa vị của Dương Dung, mơ hồ nàng trở thành đại tỷ trong nội đường. Lại thêm Dương Dung biết võ công, người thông minh, mỗi lần đều theo Trương Lãng xuất chinh, bình thường các nàng không có việc gì hay thích quấn quýt bọn họ.
Trương Lãng xoay người lại đè lên thân hình đầy đặn mê người của Dương Dung, cố ý háo sắc nói:
- Oa, Dung nhi thật là lão bà tốt, biết lão công đói bụng, sáng sớm đã đưa điểm tâm tới tận cửa.
Danh sách chương