NGÀY THỨ HAI MƯƠI MỐT
Buổi sáng, lúc tôi tỉnh lại, mặt trời đã soi thẳng vào trán. Tôi mơ màng bò dậy, chỉnh lại mái tóc rối bù, xuống dưới nhà tìm Tiểu Sảnh.
Nhưng cô ấy không ở trong phòng, tôi ra hành lang gọi vang tìm cô ấy nhưng chẳng có bất cứ hồi âm nào. Quay đầu lại tôi mới phát hiện ra trên tủ có một tờ giấy, cô ấy nói cô ấy đi làm rồi, trong lò vi sóng có bữa sáng chuẩn bị cho tôi.
Mở lò vi sóng ra, vẫn giống hệt như bữa điểm tâm hôm qua. Ăn sáng xong, tôi ngồi đọc sách trong phòng một lúc, bỗng nhiên điện thoại đổ chuông.
Không ngờ đấy lại là điện thoại của Tôn Tử Sở, anh ấy nói đang đứng trước cửa nhà tôi, đến để trả những đồ ngọc nhưng tôi không có nhà. Tôi đành phải nói với anh ấy, mấy hôm nay tôi sống ở ngoài, địa chỉ là số 13 đường An Tức.
Hai mươi phút sau, chuông cửa dưới nhà vang lên, quả nhiên là Tôn Tử Sở đứng ngoài cửa, xách trên tay chiếc cặp trả tôi. Tôi vội vàng chạy ra ngoài dẫn anh ấy lên phòng.
Tôn Tử Sở cẩn trọng nhìn căn phòng, miệng không ngừng than vãn: “Cậu tìm chỗ giỏi quá đấy, kiểu nhà này chắc chắn là môi trường tốt nhất để viết truyện kinh dị nhỉ.”
Tôi thực sự không có tâm trí nào mà đùa với anh ấy, dẫn anh ta lên phòng trên tầng hai. May mà tôi đã chuẩn bị sẵn, tất cả những thứ liên quan tới Tiểu Sảnh đều đã bị tôi giấu trong tủ rồi.
Anh ấy lại đảo mắt một lượt khắp phòng, nói với giọng ngưỡng mộ: “Sau này tôi cũng được ở chỗ nào như thế này viết luận văn tốt quá.”
Sau đó, Tôn Tử Sở mở chiếc cặp, vẫn là những bọc báo cũ cuộn lại, anh ấy còn thêm cả rất nhiều bọt xốp, cẩn thận rón rén lấy năm thứ ngọc khí ra nói: “Cậu cẩn thận xem lại, xem có vấn đề gì thì báo.”
Năm vật bằng ngọc đến từ lòng đất Hoang thôn giờ đang chỉnh tề bày trước mặt tôi, tôi cầm chúng lên tỉ mỉ xem xét, không phát hiện bất cứ vết sứt mẻ hay rạn nứt nào. Tôi gật đầu: “Không vấn đề gì cả, cảm ơn. Vậy kế quả giám định thì thế nào?”
“Tôi nói rồi, tôi sẽ mời chuyên gia giám định đồ ngọc giỏi nhất, kết quả giám định của họ về năm vật bằng ngọc này là… đồ siêu thật.”
Tim tôi bỗng chốc rung động: “Chúng đúng thật là ngọc cổ Lương Chử?”
“Không sai, họ xác nhận chúng đích thực là đồ ngọc Lương Chử năm nghìn năm trước, bất luận là chất liệu hay là hình dạng, hoa văn và kĩ nghệ điêu khắc ra sao đều phù hợp với đặc trưng của đồ ngọc Lương Chử đã được khai quật. Những thứ đều đã qua giám định của chuyên gia thì cậu cứ yên tâm đi.”
“Có thể nói cụ thể hơn không?”
“Được thôi, từ góc độ khoáng vật học nhìn nhận, ngọc có thể phân thành hai loại, ngọc cứng và ngọc mềm. Ngọc cứng chính là phỉ thúy thường nói, chủ yếu ở Miến Điện, còn ngọc mềm là một chuỗi cấu trúc của nước với can xi và magiê silicat, nó là một khoáng vật đặc biệt được tạo thành bởi khoáng vật tạo đá chủ đạo thuộc nhóm Amphibole, Tremolite và Actinolite.”
Tôn Tử Sở nói một tràng toàn những thuật ngữ chuyên ngành, xem ra anh ấy đã học được rất nhiều từ những chuyên gia đồ ngọc. Tôi không muốn lãng phí thời gian, thẳng thừng nói: “Vậy thì văn minh Lương Chử dùng ngọc gì?”
“Văn minh Lương Chử là cội nguồn của văn minh đồ ngọc Trung Quốc, đồ ngọc Trung Quốc truyền thống chủ yếu dùng ngọc mềm, nổi tiếng nhất là ngọc Hòa Điền của Tân Cương, ngọc Na Âm Dương và ngọc Lam Điền của Trung Nguyên. Số lượng đồ ngọc văn minh Lương Chử khai quật không nhiều, tạo hình đẹp tinh xảo hiếm thấy trên thế giới, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả khắp nơi trên thế giới, thậm chí có người còn đề ra quan điểm thời đại đồ ngọc.”
“Tôi chỉ biết có thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt, lấy đâu ra thời đại đồ ngọc?”
“Trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc thần bí, sau khi thời đại đồ đá kết thúc, trước khi mở ra văn hóa đồ đồng còn tồn tại một ‘thời đại đồ ngọc,’ nhân loại trong thời đại đó cho rằng đồ ngọc có sức mạnh thần bí, ai thâu tóm được đồ ngọc thì người đó thâu tóm được văn minh. Còn về văn minh Lương Chử, do số lượng chất liệu ngọc được sử dụng quá lớn nên khẳng định là phải có rất nhiều mỏ ngọc dưới lòng đất để cung ứng.”
“Mỏ ngọc?” Tôi đột nhiên nhớ tới kho báu dưới lòng đất.
“Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong khai quật khảo cổ phạm vi văn hóa Lương Chử, từ trước tới nay chưa từng phát hiện ra di chỉ mỏ ngọc cổ đại. Cũng có người cho rằng chất liệu ngọc là từ Liêu Ninh hoặc Tân Cương chuyển tới, nhưng giao thông thời đó vô cùng bất tiện, khả năng vận chuyển một số lượng ngọc lớn như vậy từ nơi xa xôi nghìn dặm gần như bằng không.”
“Nhưng ngọc không thể từ trên trời rơi xuống.”
“Không sai, bởi vậy tôi cho rằng trong khu vực văn hóa Lương Chử hoặc là trong những dãy núi lân cận, nhất định tồn tại một mỏ ngọc cổ đại nào đó bị lãng quên. Văn minh cổ xưa có thể tiêu vong một cách thần bí, nhưng kho báu dưới lòng đất thì vĩnh viễn tồn tại.”
Tôi liên tiếp gật đầu: “Hàng vạn sự bí hiểm cổ xưa của văn minh Lương Chử… chính là kho báu dưới lòng đất?”
“Không, những bí ẩn mà văn minh Lương Chử để lại cho chúng ta vô cùng nhiều, bí ẩn về kho ngọc chỉ là một trong vô số những điều bí ẩn đó.”
“Ý của anh là: bản thân văn hóa Lương Chử chính là một điều bí ẩn?”
“Sự nổi lên của văn minh Lương Chử tương đối thần bí, khi nó vừa sản sinh ra, trình độ văn minh của những vùng lân cận vốn không cao, văn minh Tam Tinh Đôi nóng hổi gần đây muộn hơn nó một nghìn năm. Trước đây năm nghìn năm, tại Phương Đông, văn minh Lương Chử đã đạt đỉnh cao, đủ để sánh vai với văn minh Ai Cập cùng thời đại và văn minh Lưỡng Hà cổ đại.”
“Cái này nhất định phải có nguyên nhân đặc biệt nào đó.”
Tôn Tử Sở gật đầu: “Đúng vậy, trên ngọc cẩm thạch Lương Chử khai quật lên thường thấy xuất hiện một hình vẽ kì lạ được gọi là ‘tượng thần vi,’ phần trên có khắc một mặt thần hình bậc thang, hai con mắt tròn, răng lộ ra ngoài, trên đầu đội vương miện cắm đầy lông, đôi tay tóm lấy đầu quái thú phía dưới. Trong văn minh Maya và Inca cổ đại cũng có hình vẽ vương miện lông vũ tương tự. Chúng đều giống với văn minh Lương Chử, lưu lại rất nhiều phong cách kì dị của đồ ngọc và di tích, nhanh chóng nổi lên và cũng nhanh chóng suy tàn.”
“Anh cho rằng văn minh Lương Chử và văn minh Maya liên quan với nhau?”
“Đây chỉ là quan điểm của cá nhân tôi.”
“Vậy thì văn minh Lương Chử rốt cuộc đến trình độ nào?”
"Một nền văn minh có cả cung điện, lăng mộ vua chúa và kim tự tháp, cậu nói xem nó đến trình độ nào? Di chỉ Mạc Giác Sơn của Dư Hàng đủ để bất cứ ai cũng đều phải thốt lên kinh ngạc. Nó là trung tâm chính trị, kinh tế và tôn giáo của văn hóa Lương Chử, phát hiện ‘quảng trường cung điện’ có quy mô rộng lớn, nền kiến trúc hơn một vạn mét vuông được mệnh danh là Tử Cấm Thành của năm nghìn năm trước. Lại còn có cả số lượng lớn mồ mả cao cấp, trong những quan tài lớn có những đồ ngọc tinh xảo. Ai Cập bảo tồn hơn một trăm ngôi kim tự tháp, còn văn minh Lương Chử cũng có hơn một trăm ngôi cao đài được giới khảo cổ mệnh danh là kim tự tháp bằng đất.”
Tôi hít một hơi thật sâu: “Dù đã đạt tới trình độ huy hoàng như vậy, sao lại đột nhiên suy vong chứ?”
“Đây lại là một điều bí ẩn.” Tôn Tử Sở tỏ ý thở dài: “Cách giải thích nhiều nhất chính là hiểm họa tự nhiên: hơn bốn nghìn năm trước, bề mặt nước biển dâng cao trên toàn trái đất, đa số đất đai Giang Nam bị nhấn chìm, văn minh Lương Chử gặp phải ‘họa trong đỉnh diệt vong.’ Nhưng vẫn còn một cách nói khác, văn minh Lương Chử vô cùng si mê đồ ngọc, họ đem hết thời gian và tinh thần đổ vào việc khai thác và chế tác đồ ngọc. Ở bất cứ thời đại nào đồ ngọc đều vật xa xỉ, bởi vậy văn hóa Lương Chử rơi vào xu thế xa xỉ đó.”
“Vong quốc xa xỉ?”
“Không sai, nhưng bất luận là ‘họa trong đỉnh diệt vong’ hay là ‘vong quốc xa xỉ’ đều không có chứng cứ khẳng định. Có lẽ, văn minh Lương Chử thực sự giống với người Maya, vô hình và đi mất tích.”
Cứ như vậy hai tiếng đồng hồ qua đi, Tôn Tử Sở giống như người dẫn chương trình của kênh Discovery, thao thao bất tuyệt tường thuật lại sự thần bí của cổ quốc Lương Chử.
Nghe hết bài diễn văn của anh ấy, trong lòng tôi bất giác nảy sinh một cảm giác kì lạ, nền văn minh thần bí của vùng đất năm nghìn năm trước này rốt cuộc có liên quan gì tới Hoang thôn đây? Nhưng tôi thực sự không hiểu nổi, Hoang thôn nằm ở vùng ven biển phía đông Chiết Giang, vốn không nằm ở trung tâm văn minh Lương Chử thuộc lưu vực Thái Hồ, hơn nữa văn minh Lương Chử cách ngày nay thực sự quá xa, những đồ ngọc phát hiện ở Hoang thôn có lẽ nào là văn vật khai quật được ở chỗ khác?
Tôi chỉ biết lắc đầu, trong đầu rối tung thành một khối. Nhìn thấy năm vật bằng ngọc này, trong lòng lại như bị vật gì đó đâm chích. Tôn Tử Sở giúp tôi cất những vật này đi, anh ấy dặn dò tôi nhất định phải rất thận trọng, phải để ở một nơi an toàn, những vật này đều là báu vật cấp quốc gia.
“Nhưng nơi quỷ quái này cũng chẳng có ai tới cả, phải chăng tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi.”
Buổi chiều, tôi cùng Tôn Tử Sở ra ngoài ăn cơm tối, hôm nay đương nhiên là tôi mời tồi. Trong quán cơm tôi chẳng nói gì mấy, có một số chuyện tôi không dám nói với anh ấy, do tính cách của anh ấy, cộng thêm thói quen nghề nghiệp nhất định sẽ dò hỏi đến tận cùng. Như vậy sẽ lại thêm một người lằng nhằng với việc này, như thế thà để một mình mình làm còn hơn.
Tôn Tử Sở uống rất nhiều rượu, còn tôi không dính đến một giọt. Trong bữa ăn anh ấy đã ngà ngà say, nói năng lung tung, cuối cùng tôi dìu anh ấy ra khỏi quán cơm, nhét anh ấy vào trong tắc xi đưa về nhà.
Sau khi trở lại quán trọ Hoang thôn, tôi lập tức lên tầng hai, xách chiếc cặp đựng đồ ngọc cất trong căn phòng cuối cùng trên tầng ba. Ở đó vừa vặn đặt một chiếc thang thông lên gác xép trên trần nhà. Tôi cẩn thận rón rén leo lên cầu thang, cất chiếc cặp trong góc gác xép, như thế này chắc là an toàn rồi.
Đêm xuống, tôi ăn bữa tối từ sớm, giờ thì không dám tắt đèn nữa rồi. Theo như kinh nghiệm hai hôm trước, chỉ cần là trong bóng tối mắt tôi sẽ nhìn thấy những cảnh tượng kì lạ, người phụ nữ Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, những người đã từng sống trong ngôi nhà này. Sau đó, chỉ cần bật đèn, họ sẽ lập tức biến mất trước mắt tôi.
Đi khắp một lượt từ trên gác xuống dưới nhà trong quán trọ Hoang thôn, chỉ cần bóng điện không bóng, đèn trong tất cả các phòng đều được tôi bật lên. Tuy ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn cũ này chẳng khác gì ánh nến mù mịt, nhưng tôi nghĩ, nếu từ bên ngoài nhìn vào quán trọ Hoang thôn nhất định sẽ có cảm giác rất kì lạ, dường như mỗi ô cửa sổ đều lộ ra vài tia ánh sáng u ám, cả ngôi nhà giống như đang trở về những năm ba mươi, hệt như tên của một bộ phim tình cảm: “Thời gian quay trở lại năm bảy mươi.”
Nhưng nếu như những công nhân tháo dỡ bên ngoài bỗng nhiên nhìn thấy ngôi nhà cổ đóng cửa để không bao năm nay bỗng nhiên sáng lên rất nhiều ánh đèn, chắc là sẽ sợ chết khiếp cũng nên? Có lẽ người ta sẽ cho rằng ma quỷ mấy chục năm trước đều chạy hết cả ra để mở một dạ hội ma chỉ có ở quán trọ Hoang thôn.
Đáng tiếc, hôm nay không phải là ngày lễ Halloween.
Nghĩ tới đây, tôi bất giác bật cười, bản thân tôi cũng cảm thấy kì quái, đã tới nước này mà vẫn còn cười được.
Mười giờ tối, Tiểu Sảnh trở về, mái tóc đen nhánh phản chiếu ánh sáng lấp lánh, xem ra cô ấy đã tắm gội ở ngoài rồi. Mắt của phụ nữ vốn luôn nhạy bén, cô ấy lập tức phát hiện thấy gì đó trên mặt tôi: “Hôm nay xảy ra chuyện gì thế?”
“Chẳng chuyện gì cả. Hôm nay tôi nằm cả ngày trên tầng ba.”
Nhưng cô ấy mở tủ ra xem rồi nói: “Sao ai lại giấu hết đồ của tôi vào đây? Có phải hôm nay có người lên phòng không?”
Ái chà, lại bị cô ta phát hiện rồi, tôi bối rối cười vu vơ, đành phải thật thà kể lại cho cô ấy nghe chuyện Tôn Tử Sở tới đây. Nhân tiện đó tôi giới thiệu qua cho cô ấy về văn minh Lương Chử thần bí của năm nghìn năm trước.
Sau khi nghe xong tất cả những gì tôi kể, Tiểu Sảnh lạnh lùng nói: “Ý anh là những đồ ngọc thần bí đó có liên quan tới văn minh Lương Chử và Hoang thôn?”
“Đúng, hoặc đây chính là cánh cửa mở ra đường vào bí mật Hoang thôn?”
Ánh mắt sắc bén của Tiểu Sảnh nhìn thẳng vào tay trái của tôi: “Thế thứ trên tay anh thì sao? Nó cũng là đồ ngọc thần bí năm nghìn năm?”
Tim tôi lại “thình thịch,” nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay, nó giống như một kí sinh trùng “mọc” trên ngón tay tôi, dường như đã hòa cùng với tôi làm một. Tôi lấy tay phải che chiếc nhẫn ngọc lại, rầu rĩ nói: “Tôi thì đã làm sao? Giống một thằng ngốc co rúm lại, nhìn bốn người lần lượt chết mà không làm gì được, bây giờ trên tay lại bị đeo lên cái thứ như bị phép thuật nguyền rủa này, mắt thì chỉ nhìn thấy toàn mặt ma mặt quỷ. Tôi rốt cuộc sao đây?”
“Đây không phải là lỗi của anh.” Tiểu Sảnh bỗng nhiên lại gần tôi, cô ấy đổi giọng hết sức nhẹ nhàng: “Đừng lo lắng, có tôi bên cạnh anh, anh sẽ không có chuyện gì đâu.”
Cuối cùng tôi đã không kìm chế nổi bản thân, đem tất cả những bực bội của mấy ngày hôm nay phát tiết ra hết: “Có cô bên cạnh tôi? Cô nghĩ cô là ai? Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai hay là thầy mo Lương Chử của năm nghìn năm trước?”
Cô ấy im lặng nghe tôi nói hết, biểu hiện vô cùng bình tĩnh, không nói lấy một câu và cứ nhìn vào mắt tôi như thế.
Lúc này tôi mới ý thước được sự thất lễ của mình nên cúi đầu xin lỗi: “Xin lỗi, tôi không nên cáu giận với cô, cô biết rồi đấy, từ trước tới nay tôi có bao giờ tức giận đâu, nhưng tình cảnh hiện nay khiến tôi quá tuyệt vọng rồi.”
Tiểu Sảnh vẫn nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Không sao cả.”
“Thật không sao chứ? Vừa nãy không phải tôi làm cô sợ sao?”
“Không, anh không bao giờ có thể làm tôi sợ được.”
Đột nhiên, cô ấy lấy tay vuốt nhẹ lên má tôi, mỉm cười nói: “Nghỉ sớm đi nhé, ngủ rồi sẽ không hoảng sợ nữa.”
Tôi gật gật đầu, nhưng bước đến cửa lại quay đầu lại nói: ”Nhưng ngủ vẫn mơ thấy ác mộng thì sao?”
Tiểu Sảnh vẫn mỉm cười nói: “Ngủ ngon.”
Tắm gội trong phòng vệ sinh xong, tôi liền về lại căn phòng trên tầng ba. Đêm nay tất cả bóng đèn đều sáng trưng, thực ra tôi vốn rất không quen ngủ trong phòng bật đèn, nhưng cũng đành phải cắn răng, nhắm mắt ngủ trên chiếu.
Ánh đèn mờ ảo cứ chọc vào mí mắt tôi, tôi quay ngang quay dọc mãi mới thiếp đi được… Không biết mấy tiếng sau, bỗng nhiên có âm thanh đập vào màng nhĩ khiến tôi từ từ tỉnh dậy.
Tim tôi lại nhảy nhót, âm thanh đó có một giai điệu đặc biệt, thôi thúc tôi mở to mắt. Ánh đèn trên tầng ba vẫn sáng, âm thanh đó hình như vọng lên từ tầng trệt. Tôi hấp ta hấp tấp chạy ra ngoài, rốt cuộc cũng nghe ra là tiếng đàn dương cầm.
Trong quán trọ Hoang thôn sao lại có tiếng đàn dương cầm? Tôi dỏng tai nghe một lúc, cảm giác giai điệu này hơi quen thuộc. Đúng, là bản dương cầm “Cho tới tận mãi mãi” của Franz Liszt, đây cũng là bản nhạc mà tôi vô cùng thích.
Lần theo giai điệu của nhà soạn nhạc Hungary, tôi lập cà lập cập bước xuống cầu thang xoắn ốc. Phòng khách tầng trệt tối om, kì lạ thật, tôi nhớ đèn ở đây sáng cơ mà. Nhưng tiếng dương cầm như suối chảy và quyến rũ như thiếu nữ vô cùng hấp dẫn khiến tôi phút chốc quên đi sự khủng hoảng.
Lúc này, trong bóng tối của quán trọ Hoang thôn, tiếng dương cầm vang lên giai điệu của Liszt, tôi cảm giác mình đang ở giữa thế kỉ mười chín, trong rừng rậm tối đen của Hungary, lắng nghe tiếng đàn dương cầm cùng giọng ca của thiếu nữ trong tòa lâu đài. Tôi không thể hình dung bằng lời nhiều hơn nữa.
Tiếng dương cầm kì diệu đó, cộng thêm cả giai điệu của Liszt, giống như một đôi tình nhân trời sinh đang ở bên nhau, thì thầm to nhỏ, tình cảm dịu dàng như nước, thật giống với tên giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” này.
Tiếng dương cầm tuôn chảy trong ngôi nhà cổ, dẫn dắt tôi phát hiện ra tia ánh sáng, đó là căn phòng cạnh phòng khách, tiếng dương cầm từ đó bay ra. Đó là căn phòng mà gia tộc Âu Dương đã chụp ảnh cả gia đình, sát cạnh tường có chiếc đàn dương cầm nổi tiếng và quý hiếm, nhưng phía trong nó đã hỏng từ lâu rồi mà, không thể phát ra âm thanh như thế.
Tôi lặng lẽ bước tới cửa phòng, một vùng ánh sáng êm dịu kì lạ khiến mắt tôi lóe sáng, tôi nhìn thấy rồi.
Trong căn phòng rộng rãi này, chiếc đàn dương cầm mới tinh rực rỡ đang mở nắp, mười ngón tay như những búp ngà đang nhảy múa trên những phím đàn, tiếng nhạc tuôn chảy theo từng ngón tay của cô ta vang vọng khắp quán trọ Hoang thôn.
Ánh mắt tôi đưa theo đôi bàn tay trắng nõn đó, từ từ di chuyển lên cánh tay và cổ cô ta, không biết ánh sáng âm u từ đâu tới như nước tỏa hắt lên làn da, phản chiếu thành những đốm sáng, bắn thẳng vào con ngươi của tôi.
Không sai, vẫn là cô ấy… Nhược Vân.
Tôi giống như đang nằm mơ, nhìn người phụ nữ xinh đẹp của hơn năm mươi năm trước. Cô ta mặc một chiếc váy dài, chân váy trắng phủ kín đôi chân, tóc đen nhánh xõa sau lưng. Cô ta tập trung hết tâm trí vào những phím đàn, đôi mắt giống như khép hờ, mười đầu ngón tay chỉ cần chạm nhẹ vào phím đàn là đã vang lên nốt nhạc, cô ta ngây ngất đắm say như vậy, dường như đang lĩnh hội linh hồn của giai điệu này, một tình yêu đau buồn vĩnh hằng.
Đúng lúc tôi gần như không thể kìm chế được nữa, tiếng dương cầm đột ngột ngắt quãng, đôi tay của Nhược Vân khựng lại trên không trung, những ngón tay run run. Sau đó, cô ấy từ từ quay đầu lại, ánh mắt nhìn thẳng về phía sau lưng.
Lúc này tôi mới phát hiện ra còn có một người đang đứng trong phòng, một thanh niên trẻ tuổi phong độ, mặc trang phục màu đen, đứng thẳng cạnh cửa sổ, ánh sáng soi rọi lên khuôn mặt anh ta trắng bệch ra.
Anh ta chính là chồng của Nhược Vân, người kế thừa của gia đình Âu Dương.
Trong phòng lặng ngắt như tờ, ánh sáng đung đưa trên gương mặt người đàn ông, anh ta từ từ đến bên cạnh Nhược Vân, đặt tay lên vai cô ấy…
Tim tôi bất giác treo ngược lên, không biết mình nên làm gì? Lúc này tôi mới cảm thấy ngón tay mình đau âm ỉ, hóa ra sự đau đớn này duy trì từ lâu rồi, tôi run rẩy nhìn tay trái, ánh sáng êm dịu chiếu lên chiếc nhẫn ngọc, vệt đỏ đun dường như càng lúc càng rực rỡ.
“Không!”
Tôi hét lên trong sự khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, vùng ánh sáng trắng tức khắc biến mất, căn phòng lại chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy những gì trước mắt, tôi hoảng loạn tìm công tắc đèn trên tường, nhưng mãi mà vẫn chưa sờ thấy đâu.
Đột nhiên, một bàn tay đặt trên vai, tôi run rẩy quay đầu lại, liền ngửi thấy ngay một mùi hương dịu mát, vài sợi tóc chọc vào mặt tôi.
Đèn trong phòng sáng lên, một khuôn mặt quen thuộc hiện ra trước mắt tôi, hóa ra là Tiểu Sảnh. Cô ấy đang tròn xoe mắt đứng trước mặt tôi, chỉ cách tôi có vài cen ti mét, tôi thậm chí còn có thể cảm nhận hơi thở của cô ấy phả lên mặt mình.
Chúng tôi cứ như vậy bốn mắt nhìn nhau, mấy giây sau Tiểu Sảnh liền lùi lại mấy bước, hai má đỏ ửng nói: “Sao anh lại ở đây?”
“Tôi cũng đang muốn hỏi cô như thế đấy.”
Tiểu Sảnh mặc một bộ quần áo ngủ mỏng tang, hai tay cô ấy ôm lấy bờ vai nói: “Ban nãy tôi nằm mơ.”
“Ác mộng?” Tôi liên tục lắc đầu, “ác mộng” đã trở thành từ xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong câu chuyện này.
“Không phải ác mộng.” Cô ấy thấp thỏm bất an bước tới trước cây đàn dương cầm nói: “Tôi mơ thấy tiếng đàn dương cầm, bản dương cầm đó rất tuyệt, hình như là…”
“Giai điệu ‘Cho tới tận mãi mãi’ của nhà đại soạn nhạc dương cầm Hungary – Liszt.”
Tiểu Sảnh cúi đầu nói: “Khúc dương cầm trong đó khiến tôi nảy sinh một cảm giác kì lạ. Vậy là tôi bước ra khỏi phòng, lúc tới cửa cầu thang thì bỗng nghe thấy tiếng hét của anh, tôi lập tức đi tới đây thì nhìn thấy một bóng đen đứng ngoài cửa.”
“Sau đó cô đã bật đèn?”
Vừa nói tôi cũng vừa bước tới cạnh chiếc đàn dương cầm, nhìn chiếc đàn rách nát thảm hại, thật không thể tưởng tượng nổi nó lại có thể cất lên những âm thanh tuyệt vời như vậy. Tôi mở nắp đàn lên, thò tay ấn lên những phím đàn, vẫn chẳng có âm thanh nào phát ra.
Vậy thì tiếng đàn ban nãy tôi nghe thấy phát ra kiểu gì đây? Lẽ nào đấy cũng là tiếng đàn dương cầm của hơn năm mươi năm trước? Nhưng tại sao tiếng đàn này lại bay vào cả trong giấc mơ của Tiểu Sảnh?”
Tiểu Sảnh lấy tay chọc chọc tôi nói: “Anh đang thẫn thờ gì đó?”
Tôi cười đau khổ: “Tôi đang nghĩ tới những gì ban nãy nghe thấy và cả nhìn thấy nữa.”
“Anh rốt cuộc nghe thấy gì? Nhìn thấy gì? Thôi được rồi, tôi bây giờ đã tin lời anh nói.”
Nhìn đôi mắt cuốn hút của cô ấy, tôi bất giác gật gật đầu, kể lại hết tất cả những cảnh tượng li kì vừa nhìn thấy ban nãy cho Tiểu Sảnh nghe.
Nhưng sau khi nghe xong, cô ấy vẫn bán tín bán nghi hỏi: “Anh thực sự nhìn thấy người của hơn năm mươi năm trước?”
“Đúng vậy, tôi đã nhìn thấy Nhược Vân.” Tôi thì thào thốt ra cái tên đó, đồng thời ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, giống như đang nói ột u hồn nào đó nghe, sau đó nói như đọc thơ: “Tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy, tuyệt phi mộng cảnh.”
Tôi đảo mắt khắp phòng một lượt, lắc lắc đầu nói: “Nửa đêm không nên đứng ở đây, chúng ta lên lầu đi.”
Tiểu Sảnh hình như đã tin lời tôi nói, cô ấy vội vàng chạy ra khỏi phòng.
Trở lại tầng hai, tôi cảm thấy toàn thân vô cùng mệt mỏi, khẽ nói với Tiểu Sảnh: “Ngủ ngon nhé.”
Sau đó tôi chạy lên tầng ba, ngả người ra chiếu. Lúc này tôi mới phát hiện ngón tay mình không còn đau nữa, chiếc nhẫn ngọc cũng không còn cảm giác dị thương, nhìn vào vệt đỏ đun, tôi bỗng nhiên cảm thấy điều gì đó…
Lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc này? Không, tôi vội vàng nhắm mắt lại.
Bên ngoài cửa sổ, đêm dài đang chầm chậm trôi…
Buổi sáng, lúc tôi tỉnh lại, mặt trời đã soi thẳng vào trán. Tôi mơ màng bò dậy, chỉnh lại mái tóc rối bù, xuống dưới nhà tìm Tiểu Sảnh.
Nhưng cô ấy không ở trong phòng, tôi ra hành lang gọi vang tìm cô ấy nhưng chẳng có bất cứ hồi âm nào. Quay đầu lại tôi mới phát hiện ra trên tủ có một tờ giấy, cô ấy nói cô ấy đi làm rồi, trong lò vi sóng có bữa sáng chuẩn bị cho tôi.
Mở lò vi sóng ra, vẫn giống hệt như bữa điểm tâm hôm qua. Ăn sáng xong, tôi ngồi đọc sách trong phòng một lúc, bỗng nhiên điện thoại đổ chuông.
Không ngờ đấy lại là điện thoại của Tôn Tử Sở, anh ấy nói đang đứng trước cửa nhà tôi, đến để trả những đồ ngọc nhưng tôi không có nhà. Tôi đành phải nói với anh ấy, mấy hôm nay tôi sống ở ngoài, địa chỉ là số 13 đường An Tức.
Hai mươi phút sau, chuông cửa dưới nhà vang lên, quả nhiên là Tôn Tử Sở đứng ngoài cửa, xách trên tay chiếc cặp trả tôi. Tôi vội vàng chạy ra ngoài dẫn anh ấy lên phòng.
Tôn Tử Sở cẩn trọng nhìn căn phòng, miệng không ngừng than vãn: “Cậu tìm chỗ giỏi quá đấy, kiểu nhà này chắc chắn là môi trường tốt nhất để viết truyện kinh dị nhỉ.”
Tôi thực sự không có tâm trí nào mà đùa với anh ấy, dẫn anh ta lên phòng trên tầng hai. May mà tôi đã chuẩn bị sẵn, tất cả những thứ liên quan tới Tiểu Sảnh đều đã bị tôi giấu trong tủ rồi.
Anh ấy lại đảo mắt một lượt khắp phòng, nói với giọng ngưỡng mộ: “Sau này tôi cũng được ở chỗ nào như thế này viết luận văn tốt quá.”
Sau đó, Tôn Tử Sở mở chiếc cặp, vẫn là những bọc báo cũ cuộn lại, anh ấy còn thêm cả rất nhiều bọt xốp, cẩn thận rón rén lấy năm thứ ngọc khí ra nói: “Cậu cẩn thận xem lại, xem có vấn đề gì thì báo.”
Năm vật bằng ngọc đến từ lòng đất Hoang thôn giờ đang chỉnh tề bày trước mặt tôi, tôi cầm chúng lên tỉ mỉ xem xét, không phát hiện bất cứ vết sứt mẻ hay rạn nứt nào. Tôi gật đầu: “Không vấn đề gì cả, cảm ơn. Vậy kế quả giám định thì thế nào?”
“Tôi nói rồi, tôi sẽ mời chuyên gia giám định đồ ngọc giỏi nhất, kết quả giám định của họ về năm vật bằng ngọc này là… đồ siêu thật.”
Tim tôi bỗng chốc rung động: “Chúng đúng thật là ngọc cổ Lương Chử?”
“Không sai, họ xác nhận chúng đích thực là đồ ngọc Lương Chử năm nghìn năm trước, bất luận là chất liệu hay là hình dạng, hoa văn và kĩ nghệ điêu khắc ra sao đều phù hợp với đặc trưng của đồ ngọc Lương Chử đã được khai quật. Những thứ đều đã qua giám định của chuyên gia thì cậu cứ yên tâm đi.”
“Có thể nói cụ thể hơn không?”
“Được thôi, từ góc độ khoáng vật học nhìn nhận, ngọc có thể phân thành hai loại, ngọc cứng và ngọc mềm. Ngọc cứng chính là phỉ thúy thường nói, chủ yếu ở Miến Điện, còn ngọc mềm là một chuỗi cấu trúc của nước với can xi và magiê silicat, nó là một khoáng vật đặc biệt được tạo thành bởi khoáng vật tạo đá chủ đạo thuộc nhóm Amphibole, Tremolite và Actinolite.”
Tôn Tử Sở nói một tràng toàn những thuật ngữ chuyên ngành, xem ra anh ấy đã học được rất nhiều từ những chuyên gia đồ ngọc. Tôi không muốn lãng phí thời gian, thẳng thừng nói: “Vậy thì văn minh Lương Chử dùng ngọc gì?”
“Văn minh Lương Chử là cội nguồn của văn minh đồ ngọc Trung Quốc, đồ ngọc Trung Quốc truyền thống chủ yếu dùng ngọc mềm, nổi tiếng nhất là ngọc Hòa Điền của Tân Cương, ngọc Na Âm Dương và ngọc Lam Điền của Trung Nguyên. Số lượng đồ ngọc văn minh Lương Chử khai quật không nhiều, tạo hình đẹp tinh xảo hiếm thấy trên thế giới, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả khắp nơi trên thế giới, thậm chí có người còn đề ra quan điểm thời đại đồ ngọc.”
“Tôi chỉ biết có thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt, lấy đâu ra thời đại đồ ngọc?”
“Trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc thần bí, sau khi thời đại đồ đá kết thúc, trước khi mở ra văn hóa đồ đồng còn tồn tại một ‘thời đại đồ ngọc,’ nhân loại trong thời đại đó cho rằng đồ ngọc có sức mạnh thần bí, ai thâu tóm được đồ ngọc thì người đó thâu tóm được văn minh. Còn về văn minh Lương Chử, do số lượng chất liệu ngọc được sử dụng quá lớn nên khẳng định là phải có rất nhiều mỏ ngọc dưới lòng đất để cung ứng.”
“Mỏ ngọc?” Tôi đột nhiên nhớ tới kho báu dưới lòng đất.
“Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong khai quật khảo cổ phạm vi văn hóa Lương Chử, từ trước tới nay chưa từng phát hiện ra di chỉ mỏ ngọc cổ đại. Cũng có người cho rằng chất liệu ngọc là từ Liêu Ninh hoặc Tân Cương chuyển tới, nhưng giao thông thời đó vô cùng bất tiện, khả năng vận chuyển một số lượng ngọc lớn như vậy từ nơi xa xôi nghìn dặm gần như bằng không.”
“Nhưng ngọc không thể từ trên trời rơi xuống.”
“Không sai, bởi vậy tôi cho rằng trong khu vực văn hóa Lương Chử hoặc là trong những dãy núi lân cận, nhất định tồn tại một mỏ ngọc cổ đại nào đó bị lãng quên. Văn minh cổ xưa có thể tiêu vong một cách thần bí, nhưng kho báu dưới lòng đất thì vĩnh viễn tồn tại.”
Tôi liên tiếp gật đầu: “Hàng vạn sự bí hiểm cổ xưa của văn minh Lương Chử… chính là kho báu dưới lòng đất?”
“Không, những bí ẩn mà văn minh Lương Chử để lại cho chúng ta vô cùng nhiều, bí ẩn về kho ngọc chỉ là một trong vô số những điều bí ẩn đó.”
“Ý của anh là: bản thân văn hóa Lương Chử chính là một điều bí ẩn?”
“Sự nổi lên của văn minh Lương Chử tương đối thần bí, khi nó vừa sản sinh ra, trình độ văn minh của những vùng lân cận vốn không cao, văn minh Tam Tinh Đôi nóng hổi gần đây muộn hơn nó một nghìn năm. Trước đây năm nghìn năm, tại Phương Đông, văn minh Lương Chử đã đạt đỉnh cao, đủ để sánh vai với văn minh Ai Cập cùng thời đại và văn minh Lưỡng Hà cổ đại.”
“Cái này nhất định phải có nguyên nhân đặc biệt nào đó.”
Tôn Tử Sở gật đầu: “Đúng vậy, trên ngọc cẩm thạch Lương Chử khai quật lên thường thấy xuất hiện một hình vẽ kì lạ được gọi là ‘tượng thần vi,’ phần trên có khắc một mặt thần hình bậc thang, hai con mắt tròn, răng lộ ra ngoài, trên đầu đội vương miện cắm đầy lông, đôi tay tóm lấy đầu quái thú phía dưới. Trong văn minh Maya và Inca cổ đại cũng có hình vẽ vương miện lông vũ tương tự. Chúng đều giống với văn minh Lương Chử, lưu lại rất nhiều phong cách kì dị của đồ ngọc và di tích, nhanh chóng nổi lên và cũng nhanh chóng suy tàn.”
“Anh cho rằng văn minh Lương Chử và văn minh Maya liên quan với nhau?”
“Đây chỉ là quan điểm của cá nhân tôi.”
“Vậy thì văn minh Lương Chử rốt cuộc đến trình độ nào?”
"Một nền văn minh có cả cung điện, lăng mộ vua chúa và kim tự tháp, cậu nói xem nó đến trình độ nào? Di chỉ Mạc Giác Sơn của Dư Hàng đủ để bất cứ ai cũng đều phải thốt lên kinh ngạc. Nó là trung tâm chính trị, kinh tế và tôn giáo của văn hóa Lương Chử, phát hiện ‘quảng trường cung điện’ có quy mô rộng lớn, nền kiến trúc hơn một vạn mét vuông được mệnh danh là Tử Cấm Thành của năm nghìn năm trước. Lại còn có cả số lượng lớn mồ mả cao cấp, trong những quan tài lớn có những đồ ngọc tinh xảo. Ai Cập bảo tồn hơn một trăm ngôi kim tự tháp, còn văn minh Lương Chử cũng có hơn một trăm ngôi cao đài được giới khảo cổ mệnh danh là kim tự tháp bằng đất.”
Tôi hít một hơi thật sâu: “Dù đã đạt tới trình độ huy hoàng như vậy, sao lại đột nhiên suy vong chứ?”
“Đây lại là một điều bí ẩn.” Tôn Tử Sở tỏ ý thở dài: “Cách giải thích nhiều nhất chính là hiểm họa tự nhiên: hơn bốn nghìn năm trước, bề mặt nước biển dâng cao trên toàn trái đất, đa số đất đai Giang Nam bị nhấn chìm, văn minh Lương Chử gặp phải ‘họa trong đỉnh diệt vong.’ Nhưng vẫn còn một cách nói khác, văn minh Lương Chử vô cùng si mê đồ ngọc, họ đem hết thời gian và tinh thần đổ vào việc khai thác và chế tác đồ ngọc. Ở bất cứ thời đại nào đồ ngọc đều vật xa xỉ, bởi vậy văn hóa Lương Chử rơi vào xu thế xa xỉ đó.”
“Vong quốc xa xỉ?”
“Không sai, nhưng bất luận là ‘họa trong đỉnh diệt vong’ hay là ‘vong quốc xa xỉ’ đều không có chứng cứ khẳng định. Có lẽ, văn minh Lương Chử thực sự giống với người Maya, vô hình và đi mất tích.”
Cứ như vậy hai tiếng đồng hồ qua đi, Tôn Tử Sở giống như người dẫn chương trình của kênh Discovery, thao thao bất tuyệt tường thuật lại sự thần bí của cổ quốc Lương Chử.
Nghe hết bài diễn văn của anh ấy, trong lòng tôi bất giác nảy sinh một cảm giác kì lạ, nền văn minh thần bí của vùng đất năm nghìn năm trước này rốt cuộc có liên quan gì tới Hoang thôn đây? Nhưng tôi thực sự không hiểu nổi, Hoang thôn nằm ở vùng ven biển phía đông Chiết Giang, vốn không nằm ở trung tâm văn minh Lương Chử thuộc lưu vực Thái Hồ, hơn nữa văn minh Lương Chử cách ngày nay thực sự quá xa, những đồ ngọc phát hiện ở Hoang thôn có lẽ nào là văn vật khai quật được ở chỗ khác?
Tôi chỉ biết lắc đầu, trong đầu rối tung thành một khối. Nhìn thấy năm vật bằng ngọc này, trong lòng lại như bị vật gì đó đâm chích. Tôn Tử Sở giúp tôi cất những vật này đi, anh ấy dặn dò tôi nhất định phải rất thận trọng, phải để ở một nơi an toàn, những vật này đều là báu vật cấp quốc gia.
“Nhưng nơi quỷ quái này cũng chẳng có ai tới cả, phải chăng tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi.”
Buổi chiều, tôi cùng Tôn Tử Sở ra ngoài ăn cơm tối, hôm nay đương nhiên là tôi mời tồi. Trong quán cơm tôi chẳng nói gì mấy, có một số chuyện tôi không dám nói với anh ấy, do tính cách của anh ấy, cộng thêm thói quen nghề nghiệp nhất định sẽ dò hỏi đến tận cùng. Như vậy sẽ lại thêm một người lằng nhằng với việc này, như thế thà để một mình mình làm còn hơn.
Tôn Tử Sở uống rất nhiều rượu, còn tôi không dính đến một giọt. Trong bữa ăn anh ấy đã ngà ngà say, nói năng lung tung, cuối cùng tôi dìu anh ấy ra khỏi quán cơm, nhét anh ấy vào trong tắc xi đưa về nhà.
Sau khi trở lại quán trọ Hoang thôn, tôi lập tức lên tầng hai, xách chiếc cặp đựng đồ ngọc cất trong căn phòng cuối cùng trên tầng ba. Ở đó vừa vặn đặt một chiếc thang thông lên gác xép trên trần nhà. Tôi cẩn thận rón rén leo lên cầu thang, cất chiếc cặp trong góc gác xép, như thế này chắc là an toàn rồi.
Đêm xuống, tôi ăn bữa tối từ sớm, giờ thì không dám tắt đèn nữa rồi. Theo như kinh nghiệm hai hôm trước, chỉ cần là trong bóng tối mắt tôi sẽ nhìn thấy những cảnh tượng kì lạ, người phụ nữ Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, những người đã từng sống trong ngôi nhà này. Sau đó, chỉ cần bật đèn, họ sẽ lập tức biến mất trước mắt tôi.
Đi khắp một lượt từ trên gác xuống dưới nhà trong quán trọ Hoang thôn, chỉ cần bóng điện không bóng, đèn trong tất cả các phòng đều được tôi bật lên. Tuy ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn cũ này chẳng khác gì ánh nến mù mịt, nhưng tôi nghĩ, nếu từ bên ngoài nhìn vào quán trọ Hoang thôn nhất định sẽ có cảm giác rất kì lạ, dường như mỗi ô cửa sổ đều lộ ra vài tia ánh sáng u ám, cả ngôi nhà giống như đang trở về những năm ba mươi, hệt như tên của một bộ phim tình cảm: “Thời gian quay trở lại năm bảy mươi.”
Nhưng nếu như những công nhân tháo dỡ bên ngoài bỗng nhiên nhìn thấy ngôi nhà cổ đóng cửa để không bao năm nay bỗng nhiên sáng lên rất nhiều ánh đèn, chắc là sẽ sợ chết khiếp cũng nên? Có lẽ người ta sẽ cho rằng ma quỷ mấy chục năm trước đều chạy hết cả ra để mở một dạ hội ma chỉ có ở quán trọ Hoang thôn.
Đáng tiếc, hôm nay không phải là ngày lễ Halloween.
Nghĩ tới đây, tôi bất giác bật cười, bản thân tôi cũng cảm thấy kì quái, đã tới nước này mà vẫn còn cười được.
Mười giờ tối, Tiểu Sảnh trở về, mái tóc đen nhánh phản chiếu ánh sáng lấp lánh, xem ra cô ấy đã tắm gội ở ngoài rồi. Mắt của phụ nữ vốn luôn nhạy bén, cô ấy lập tức phát hiện thấy gì đó trên mặt tôi: “Hôm nay xảy ra chuyện gì thế?”
“Chẳng chuyện gì cả. Hôm nay tôi nằm cả ngày trên tầng ba.”
Nhưng cô ấy mở tủ ra xem rồi nói: “Sao ai lại giấu hết đồ của tôi vào đây? Có phải hôm nay có người lên phòng không?”
Ái chà, lại bị cô ta phát hiện rồi, tôi bối rối cười vu vơ, đành phải thật thà kể lại cho cô ấy nghe chuyện Tôn Tử Sở tới đây. Nhân tiện đó tôi giới thiệu qua cho cô ấy về văn minh Lương Chử thần bí của năm nghìn năm trước.
Sau khi nghe xong tất cả những gì tôi kể, Tiểu Sảnh lạnh lùng nói: “Ý anh là những đồ ngọc thần bí đó có liên quan tới văn minh Lương Chử và Hoang thôn?”
“Đúng, hoặc đây chính là cánh cửa mở ra đường vào bí mật Hoang thôn?”
Ánh mắt sắc bén của Tiểu Sảnh nhìn thẳng vào tay trái của tôi: “Thế thứ trên tay anh thì sao? Nó cũng là đồ ngọc thần bí năm nghìn năm?”
Tim tôi lại “thình thịch,” nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay, nó giống như một kí sinh trùng “mọc” trên ngón tay tôi, dường như đã hòa cùng với tôi làm một. Tôi lấy tay phải che chiếc nhẫn ngọc lại, rầu rĩ nói: “Tôi thì đã làm sao? Giống một thằng ngốc co rúm lại, nhìn bốn người lần lượt chết mà không làm gì được, bây giờ trên tay lại bị đeo lên cái thứ như bị phép thuật nguyền rủa này, mắt thì chỉ nhìn thấy toàn mặt ma mặt quỷ. Tôi rốt cuộc sao đây?”
“Đây không phải là lỗi của anh.” Tiểu Sảnh bỗng nhiên lại gần tôi, cô ấy đổi giọng hết sức nhẹ nhàng: “Đừng lo lắng, có tôi bên cạnh anh, anh sẽ không có chuyện gì đâu.”
Cuối cùng tôi đã không kìm chế nổi bản thân, đem tất cả những bực bội của mấy ngày hôm nay phát tiết ra hết: “Có cô bên cạnh tôi? Cô nghĩ cô là ai? Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai hay là thầy mo Lương Chử của năm nghìn năm trước?”
Cô ấy im lặng nghe tôi nói hết, biểu hiện vô cùng bình tĩnh, không nói lấy một câu và cứ nhìn vào mắt tôi như thế.
Lúc này tôi mới ý thước được sự thất lễ của mình nên cúi đầu xin lỗi: “Xin lỗi, tôi không nên cáu giận với cô, cô biết rồi đấy, từ trước tới nay tôi có bao giờ tức giận đâu, nhưng tình cảnh hiện nay khiến tôi quá tuyệt vọng rồi.”
Tiểu Sảnh vẫn nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Không sao cả.”
“Thật không sao chứ? Vừa nãy không phải tôi làm cô sợ sao?”
“Không, anh không bao giờ có thể làm tôi sợ được.”
Đột nhiên, cô ấy lấy tay vuốt nhẹ lên má tôi, mỉm cười nói: “Nghỉ sớm đi nhé, ngủ rồi sẽ không hoảng sợ nữa.”
Tôi gật gật đầu, nhưng bước đến cửa lại quay đầu lại nói: ”Nhưng ngủ vẫn mơ thấy ác mộng thì sao?”
Tiểu Sảnh vẫn mỉm cười nói: “Ngủ ngon.”
Tắm gội trong phòng vệ sinh xong, tôi liền về lại căn phòng trên tầng ba. Đêm nay tất cả bóng đèn đều sáng trưng, thực ra tôi vốn rất không quen ngủ trong phòng bật đèn, nhưng cũng đành phải cắn răng, nhắm mắt ngủ trên chiếu.
Ánh đèn mờ ảo cứ chọc vào mí mắt tôi, tôi quay ngang quay dọc mãi mới thiếp đi được… Không biết mấy tiếng sau, bỗng nhiên có âm thanh đập vào màng nhĩ khiến tôi từ từ tỉnh dậy.
Tim tôi lại nhảy nhót, âm thanh đó có một giai điệu đặc biệt, thôi thúc tôi mở to mắt. Ánh đèn trên tầng ba vẫn sáng, âm thanh đó hình như vọng lên từ tầng trệt. Tôi hấp ta hấp tấp chạy ra ngoài, rốt cuộc cũng nghe ra là tiếng đàn dương cầm.
Trong quán trọ Hoang thôn sao lại có tiếng đàn dương cầm? Tôi dỏng tai nghe một lúc, cảm giác giai điệu này hơi quen thuộc. Đúng, là bản dương cầm “Cho tới tận mãi mãi” của Franz Liszt, đây cũng là bản nhạc mà tôi vô cùng thích.
Lần theo giai điệu của nhà soạn nhạc Hungary, tôi lập cà lập cập bước xuống cầu thang xoắn ốc. Phòng khách tầng trệt tối om, kì lạ thật, tôi nhớ đèn ở đây sáng cơ mà. Nhưng tiếng dương cầm như suối chảy và quyến rũ như thiếu nữ vô cùng hấp dẫn khiến tôi phút chốc quên đi sự khủng hoảng.
Lúc này, trong bóng tối của quán trọ Hoang thôn, tiếng dương cầm vang lên giai điệu của Liszt, tôi cảm giác mình đang ở giữa thế kỉ mười chín, trong rừng rậm tối đen của Hungary, lắng nghe tiếng đàn dương cầm cùng giọng ca của thiếu nữ trong tòa lâu đài. Tôi không thể hình dung bằng lời nhiều hơn nữa.
Tiếng dương cầm kì diệu đó, cộng thêm cả giai điệu của Liszt, giống như một đôi tình nhân trời sinh đang ở bên nhau, thì thầm to nhỏ, tình cảm dịu dàng như nước, thật giống với tên giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” này.
Tiếng dương cầm tuôn chảy trong ngôi nhà cổ, dẫn dắt tôi phát hiện ra tia ánh sáng, đó là căn phòng cạnh phòng khách, tiếng dương cầm từ đó bay ra. Đó là căn phòng mà gia tộc Âu Dương đã chụp ảnh cả gia đình, sát cạnh tường có chiếc đàn dương cầm nổi tiếng và quý hiếm, nhưng phía trong nó đã hỏng từ lâu rồi mà, không thể phát ra âm thanh như thế.
Tôi lặng lẽ bước tới cửa phòng, một vùng ánh sáng êm dịu kì lạ khiến mắt tôi lóe sáng, tôi nhìn thấy rồi.
Trong căn phòng rộng rãi này, chiếc đàn dương cầm mới tinh rực rỡ đang mở nắp, mười ngón tay như những búp ngà đang nhảy múa trên những phím đàn, tiếng nhạc tuôn chảy theo từng ngón tay của cô ta vang vọng khắp quán trọ Hoang thôn.
Ánh mắt tôi đưa theo đôi bàn tay trắng nõn đó, từ từ di chuyển lên cánh tay và cổ cô ta, không biết ánh sáng âm u từ đâu tới như nước tỏa hắt lên làn da, phản chiếu thành những đốm sáng, bắn thẳng vào con ngươi của tôi.
Không sai, vẫn là cô ấy… Nhược Vân.
Tôi giống như đang nằm mơ, nhìn người phụ nữ xinh đẹp của hơn năm mươi năm trước. Cô ta mặc một chiếc váy dài, chân váy trắng phủ kín đôi chân, tóc đen nhánh xõa sau lưng. Cô ta tập trung hết tâm trí vào những phím đàn, đôi mắt giống như khép hờ, mười đầu ngón tay chỉ cần chạm nhẹ vào phím đàn là đã vang lên nốt nhạc, cô ta ngây ngất đắm say như vậy, dường như đang lĩnh hội linh hồn của giai điệu này, một tình yêu đau buồn vĩnh hằng.
Đúng lúc tôi gần như không thể kìm chế được nữa, tiếng dương cầm đột ngột ngắt quãng, đôi tay của Nhược Vân khựng lại trên không trung, những ngón tay run run. Sau đó, cô ấy từ từ quay đầu lại, ánh mắt nhìn thẳng về phía sau lưng.
Lúc này tôi mới phát hiện ra còn có một người đang đứng trong phòng, một thanh niên trẻ tuổi phong độ, mặc trang phục màu đen, đứng thẳng cạnh cửa sổ, ánh sáng soi rọi lên khuôn mặt anh ta trắng bệch ra.
Anh ta chính là chồng của Nhược Vân, người kế thừa của gia đình Âu Dương.
Trong phòng lặng ngắt như tờ, ánh sáng đung đưa trên gương mặt người đàn ông, anh ta từ từ đến bên cạnh Nhược Vân, đặt tay lên vai cô ấy…
Tim tôi bất giác treo ngược lên, không biết mình nên làm gì? Lúc này tôi mới cảm thấy ngón tay mình đau âm ỉ, hóa ra sự đau đớn này duy trì từ lâu rồi, tôi run rẩy nhìn tay trái, ánh sáng êm dịu chiếu lên chiếc nhẫn ngọc, vệt đỏ đun dường như càng lúc càng rực rỡ.
“Không!”
Tôi hét lên trong sự khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, vùng ánh sáng trắng tức khắc biến mất, căn phòng lại chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy những gì trước mắt, tôi hoảng loạn tìm công tắc đèn trên tường, nhưng mãi mà vẫn chưa sờ thấy đâu.
Đột nhiên, một bàn tay đặt trên vai, tôi run rẩy quay đầu lại, liền ngửi thấy ngay một mùi hương dịu mát, vài sợi tóc chọc vào mặt tôi.
Đèn trong phòng sáng lên, một khuôn mặt quen thuộc hiện ra trước mắt tôi, hóa ra là Tiểu Sảnh. Cô ấy đang tròn xoe mắt đứng trước mặt tôi, chỉ cách tôi có vài cen ti mét, tôi thậm chí còn có thể cảm nhận hơi thở của cô ấy phả lên mặt mình.
Chúng tôi cứ như vậy bốn mắt nhìn nhau, mấy giây sau Tiểu Sảnh liền lùi lại mấy bước, hai má đỏ ửng nói: “Sao anh lại ở đây?”
“Tôi cũng đang muốn hỏi cô như thế đấy.”
Tiểu Sảnh mặc một bộ quần áo ngủ mỏng tang, hai tay cô ấy ôm lấy bờ vai nói: “Ban nãy tôi nằm mơ.”
“Ác mộng?” Tôi liên tục lắc đầu, “ác mộng” đã trở thành từ xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong câu chuyện này.
“Không phải ác mộng.” Cô ấy thấp thỏm bất an bước tới trước cây đàn dương cầm nói: “Tôi mơ thấy tiếng đàn dương cầm, bản dương cầm đó rất tuyệt, hình như là…”
“Giai điệu ‘Cho tới tận mãi mãi’ của nhà đại soạn nhạc dương cầm Hungary – Liszt.”
Tiểu Sảnh cúi đầu nói: “Khúc dương cầm trong đó khiến tôi nảy sinh một cảm giác kì lạ. Vậy là tôi bước ra khỏi phòng, lúc tới cửa cầu thang thì bỗng nghe thấy tiếng hét của anh, tôi lập tức đi tới đây thì nhìn thấy một bóng đen đứng ngoài cửa.”
“Sau đó cô đã bật đèn?”
Vừa nói tôi cũng vừa bước tới cạnh chiếc đàn dương cầm, nhìn chiếc đàn rách nát thảm hại, thật không thể tưởng tượng nổi nó lại có thể cất lên những âm thanh tuyệt vời như vậy. Tôi mở nắp đàn lên, thò tay ấn lên những phím đàn, vẫn chẳng có âm thanh nào phát ra.
Vậy thì tiếng đàn ban nãy tôi nghe thấy phát ra kiểu gì đây? Lẽ nào đấy cũng là tiếng đàn dương cầm của hơn năm mươi năm trước? Nhưng tại sao tiếng đàn này lại bay vào cả trong giấc mơ của Tiểu Sảnh?”
Tiểu Sảnh lấy tay chọc chọc tôi nói: “Anh đang thẫn thờ gì đó?”
Tôi cười đau khổ: “Tôi đang nghĩ tới những gì ban nãy nghe thấy và cả nhìn thấy nữa.”
“Anh rốt cuộc nghe thấy gì? Nhìn thấy gì? Thôi được rồi, tôi bây giờ đã tin lời anh nói.”
Nhìn đôi mắt cuốn hút của cô ấy, tôi bất giác gật gật đầu, kể lại hết tất cả những cảnh tượng li kì vừa nhìn thấy ban nãy cho Tiểu Sảnh nghe.
Nhưng sau khi nghe xong, cô ấy vẫn bán tín bán nghi hỏi: “Anh thực sự nhìn thấy người của hơn năm mươi năm trước?”
“Đúng vậy, tôi đã nhìn thấy Nhược Vân.” Tôi thì thào thốt ra cái tên đó, đồng thời ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, giống như đang nói ột u hồn nào đó nghe, sau đó nói như đọc thơ: “Tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy, tuyệt phi mộng cảnh.”
Tôi đảo mắt khắp phòng một lượt, lắc lắc đầu nói: “Nửa đêm không nên đứng ở đây, chúng ta lên lầu đi.”
Tiểu Sảnh hình như đã tin lời tôi nói, cô ấy vội vàng chạy ra khỏi phòng.
Trở lại tầng hai, tôi cảm thấy toàn thân vô cùng mệt mỏi, khẽ nói với Tiểu Sảnh: “Ngủ ngon nhé.”
Sau đó tôi chạy lên tầng ba, ngả người ra chiếu. Lúc này tôi mới phát hiện ngón tay mình không còn đau nữa, chiếc nhẫn ngọc cũng không còn cảm giác dị thương, nhìn vào vệt đỏ đun, tôi bỗng nhiên cảm thấy điều gì đó…
Lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc này? Không, tôi vội vàng nhắm mắt lại.
Bên ngoài cửa sổ, đêm dài đang chầm chậm trôi…
Danh sách chương