Dịch: 707DefenderOfJustice

Quận Đông thành phố Backlund, tại một ngã tư đường.

Mike Joseph nhìn thấy vô số đứa trẻ mặc quần áo rách rưới có vẻ mặt đáng thương ở bên kia đường, anh ta lấy khăn tay ra lau miệng, định đến cho chúng vài penny.

Tuy nhiên, hành động đó đã bị người lang thang là lão Kohler ngăn lại:

“Bọn nó là trộm đấy!”

“Trộm? Cha mẹ chúng đâu? Hay chúng bị khống chế bởi đám băng đảng?” Là một phóng viên có thâm niên, dù Mike chưa tới quận Đông, nhưng cũng lờ mờ nghe nói chỗ này có vài băng đảng chuyên điều khiển đám trẻ con trộm cắp hoặc ăn xin.

“Cha mẹ? Không còn, hoặc cũng từng làm kẻ trộm, hoặc đến giờ vẫn làm kẻ trộm. Tất nhiên, ngài phóng viên đây nói cũng không sai, trong số bọn nó có không ít đứa bị đám băng đảng khống chế, nghe bảo còn dạy cho bọn nó cách trộm cắp. Ví dụ như, treo chiếc áo khoác của một quý ông lên tường, nhét một chiếc khăn tay vào trong túi, bên ngoài treo một cái đồng hồ bỏ túi, cứ luyện tập lặp đi lặp lại, cho đến khi có thể trộm được chiếc khăn mà không làm lay động cái đồng hồ bỏ túi. Ha, đấy là những gì tôi nghe được khi còn lang thang, phải làm việc trong tại tế bần.” Lão Kohler lảm nhảm không ngớt, “Tôi nhớ đứa ăn trộm nhỏ nhất từng bị bắt được ở con phố này chỉ sáu tuổi. Hầy, sáu tuổi…”

Lão như thể đang nhớ lại đứa con đã mất vì bạo bệnh, không nhịn được móc trong túi áo ra một điếu thuốc lá nhăn nhúm, nhưng lại không nỡ hút, chỉ hít hít ngửi ngửi.

“Sáu tuổi…” Mike choáng váng trước con số này.

Klein lẳng lặng nghe, đoạn thở dài:

“Đây chính là quận Đông.”

Hắn nhìn quanh một vòng, điều chỉnh lại tâm tình, nói:

“Nơi này gần rừng rậm hơn là xã hội loài người.”

“Cuộc phỏng vấn của chúng ta phải được coi là một cuộc phiêu lưu, phải vừa tránh được địa bàn của đám sinh vật nguy hiểm, lại vừa phải tránh những thứ mang vẻ không quá nguy hại cho bản thân. Ừm, tôi đang nói đến đám muỗi trong rừng.”

“Mike, nếu anh để lộ chiếc ví dày cộp của mình trước mắt đám trẻ kia, thì dù có giữ kín đáo cẩn thận đến đâu, có không bị bọn nó trộm mất, cũng chắc chắn gặp cướp bóc nguy hiểm trong suốt chuyến đi. Nếu anh dám kháng cự, thì có lẽ sáng mai sẽ có thêm một thi thể trôi nổi trên sông Torquack.”

“Ngài thám tử nói rất chính xác! Quận Đông nhiều người như thế, mỗi ngày có mất tích thêm một, thêm hai cũng chả ai để ý đâu.” Lão Kohler đồng tình.

Mike nghe xong lộ vẻ trầm ngâm, im lặng vài giây, anh ta mới mở miệng nói:

“135 vạn.”

“Hả?” Đang bị cảm, cổ họng Klein hơi khàn khàn.

Mike tiến bước, nói:

“Đây là ước tính sơ bộ về dân số quận Đông.”

“Nhưng tôi biết thực tế chắc chắn là lớn hơn.”

“Nhiều đến thế sao?” Lão Kohler giật nảy mình.

Dù lão đã trải qua vài ngày đêm ở quận Đông, biết rằng cư dân ở đây rất đông đúc, nhưng cũng không ngờ rằng lại nhiều thế này.

Nhiều gấp mấy lần nhân khẩu thành phố Tingen… Klein vô thức so sánh với nơi gần gũi nhất.

Hắn nhìn ngã tư cách đó vài bước, hỏi:

“Chúng ta nên đi đường nào tiếp?”

Lão Kohler ngẩng đầu bảo:

“Tuyệt đối không phải đường thẳng, khu đó đang bị băng nhóm Zhemage kiểm soát. Chúng rất hung ác, rất vô lý, nếu biết có phóng viên đến phỏng vấn, chắc chắn sẽ đánh chúng ta một trận!”

Băng nhóm Zhemage? Chẳng phải đó là băng nhóm “ngu ngốc” đã khiến mình tốn mất 1 vạn bảng sao? Cái gã đó giống kiểu một dạng người xử phạt. Hừm, mình không nhớ nổi tên gã… Cũng may là dùng 1 vạn bảng đổi được ma dược phối phương đối ứng với “Thầy Bói” là Danh sách 7, 6 và 5, đổi lấy ‘Con Mắt Đen Kịt’, đổi mạng với đại sứ Entis… Không biết cuối cùng ai mới là người lấy được bản thảo nghiên cứu máy tính đời thứ ba… Klein hồi tưởng lại chuyện xảy ra đầu tháng trước.

“Băng Zhemage? Băng nhóm chủ yếu là người vùng cao nguyên?” Mike nghĩ nghĩ hỏi.

“Ngài phóng viên đã nghe về chúng rồi sao?” Lão Kohler kinh ngạc.

Mike cười nhạo.

“Chúng tham gia vào không ít vụ việc, tiếng tăm đã lan ra tận bên ngoài quận Đông, nghe nói từng có thành viên liên quan đến vụ án gián điệp Entis.”

…Người bên cạnh anh chính là người trong cuộc, người báo án, cũng là người bị hại đây… Klein thầm bồi một câu.

“Các quý ngài đây đều biết đến băng Zhemage, tại sao không tố cáo cảnh sát bắt chúng đi?” Lão Kohler dùng góc nhìn giai tầng thấp nhất hỏi lại.

Biểu cảm Mike đột nhiên hơi khó coi, anh ta ho hai tiếng.

“Chúng tôi chỉ có thể lùng được những kẻ có bản án, còn nếu không có chứng cứ, không thể bắt giữ. Hơn nữa quận Đông lớn thế này, đông dân như này, muốn giấu người sẽ rất khó tìm ra.”

Vừa nói, anh ta vừa thở dài.

“Triệt phá băng Zhemage cũng dễ thôi, nhưng chừng nào người cao nguyên còn lui tới Backlund, vẫn tiếp tục duy trì phong tục bền vững là chiến đấu tàn nhẫn mà không chịu tìm việc khác mưu sinh, một băng Zhemage mới xuất hiện chỉ còn là vấn đề thời gian.”

Đây chính là vấn đề của xã hội phức tạp… Klein chỉ hai hướng trái phải.

“Chọn một bên đi.”

Lão Kohler nhìn về phía con phố bên phải.

“Đó là nơi băng Hulley hoạt động. Chỉ cần không chọc vào đám gái đứng đường hay mấy quán rượu, chúng sẽ không để ý đến chúng ta. Ha ha, trời còn sáng, không có vấn đề gì, chúng vẫn đang ngủ.”

Từ “Hulley” trong tiếng Ruen nghĩa là “kẻ ngoài vòng pháp luật”, có thể nói băng nhóm đã đặt cho mình một cái tên tự ý thức được.

Mike và Klein không ý kiến gì, cùng người dẫn đường đi vào khu phố.

Những tòa nhà ở đây trông khá hơn, con phố đỡ bẩn thỉu hơn nhiều. Không khí tràn ngập mùi canh hàu, cá tươi, bia gừng và rất nhiều hương vị khác từ các gian hàng của người bán hàng trên phố, cũng như mùi tanh của các loại hải sản.

Đi đến đây, Klein cảm nhận được một sự quen thuộc khó hiểu, như thể hắn đã quay lại thành phố Tingen, quay về phố Thiết Thập Tự, quay về con phố nơi có căn hộ hắn đã sống ban đầu.

Điểm khác biệt duy nhất có lẽ là do Backlund gần biển hơn, giao thông phát triển, có rất nhiều cá biển.

“Đây là một tòa chung cư khá tốt trong khu vực này. Trước kia tôi có đi quanh đây vài lần, tôi phát hiện ra những quý ông quý bà ở đây đều ăn mặc, ừm— khá sạch sẽ.” Lão Kohler chỉ vào một tòa nhà ba tầng màu vàng nhạt.

Ba người tiến lại gần, nhận ra có một tấm bảng treo trước cổng chung cư, vẽ hình đồng hồ bỏ túi, đồng hồ treo tường và tua vít, ghi dòng chữ “Sửa chữa đồng hồ”.

“Chỗ này có một thợ đồng hồ?” Klein đào bới hình ảnh tương ứng từ trong ký ức của nguyên chủ ra.

Lúc ấy, Benson, Melissa và hắn cùng đi đến một nơi tương tự để sửa lại chiếc đồng hồ bỏ túi bạc mà người cha quá cố để lại, nhưng dù có sửa bao lần, nó đều nhanh bị hỏng. Đến khi Melissa chơi đùa với nó, cuối cùng hoàn toàn sửa chữa được. Nó đã trở thành vật có thể diện nhất trên người Klein suốt khoảng thời gian đó.

Sau khi Klein “qua đời”, chiếc đồng hồ bỏ túi vừa có giá trị tiền tài, vừa có giá trị tình cảm này lại không đem chôn cùng hắn.

Nó nên thuộc về Benson, nhỉ? Không biết mỗi lần anh ấy lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ấy ra, có lại nghĩ về mình không… Klein bỗng chớp mắt, khóe miệng rủ xuống.

“Có lẽ vậy.” Mike không dám chắc.

Nếu đồng hồ bỏ túi có vấn đề, thường anh ta sẽ gửi nó lại cửa hàng chỗ mình mua, chiếc đồng hồ sẽ được ủy thác cho một thợ sửa chữa hoặc thợ thủ công đã hợp tác từ trước để xử lý.

Vừa bước vào chung cư, họ đã nhìn thấy một người đàn ông trung niên với bộ râu xồm xoàm.

Người này mới đi từ nhà vệ sinh ra, đang định quay về phòng, chợt thấy ba người lạ bước vào, vội hỏi:

“Các người muốn sửa đồng hồ à?”

Thật khéo… Trực tiếp gặp ngay người thợ đồng hồ kia… Klein cảm thấy kỳ quái.

Mike móc đồng hồ bỏ túi ra, cười nói:

“Đúng thế, đồng hồ bỏ túi của tôi gần đây hay bị lệch giờ, anh xem giúp tôi một chút.”

Anh ta không thể hiện thân phận của mình, chủ ý phỏng vấn thông qua nói chuyện phiếm bình thường.

Người đàn ông trung niên lập tức nở nụ cười, dẫn họ vào một căn hộ có hai phòng ngủ ngăn cách bởi cánh cửa khép hờ, chỉ vào cái ghế bên cạnh bàn gỗ, nói:

“Các anh ngồi chờ chút, để tôi đi lấy dụng cụ.”

“Dụng cụ của anh không để trong nhà?” Mike ngạc nhiên hỏi.

Người thợ đồng hồ lắc đầu cười:

“Sao thế được?”

“Một bộ dụng cụ rất đắt đỏ, đời nào tôi tự mua nổi. Chỉ có cách là mọi người cùng gom tiền vào, mua khoảng ba bốn bộ, ai có việc gì cần thì sử dụng. Thế nên chúng tôi mới chuyển đến cùng một chỗ. Ha ha, thế cũng tiện hơn nhiều. Nếu sống quá xa, chúng tôi sẽ phải chi thêm thời gian và tốn tiền thuê xe ngựa công cộng để đi mượn dụng cụ.”

Vừa nói, anh ta vừa bước khỏi phòng, đi ra bên cạnh.

Hóa ra gặp ngay thợ đồng hồ không phải là trùng hợp, nơi này có rất nhiều hộ gia đình đều hành nghề thợ đồng hồ… Klein chợt bừng tỉnh.

Lão Kohler ngắm nghía kỹ gian phòng, hâm mộ nói:

“Trước khi bị bệnh, tôi cũng sống ở nơi kiểu này, vợ tôi ở nhà sẽ giúp người ta may vá quần áo, còn hai đứa con, hai đứa con tôi…”

Mike thì thở dài, đè thấp giọng xuống:

“Tôi cứ tưởng là thợ đồng hồ thì đều giàu có.”

“Tôi cũng thế…” Klein che miệng.



Sau cuộc trao đổi thân thiết với một số cư dân căn hộ, đám Klein lại tiếp tục cuộc phiêu lưu của mình.

Họ vừa đi được trăm mét, bỗng nghe thấy tiếng cãi nhau bên kia đường.

Hai người phụ nữ dùng đủ thể loại ngôn từ tục tĩu, hét vào mặt nhau đến khàn cả giọng, khiến Klein mở mang đầu óc, học được bao nhiêu là từ mới.

Nguyên nhân cuộc cãi vã này là người bên trái chỉ trích việc người bên phải đã làm cho căn hộ họ sống trở nên bẩn thỉu và ồn ào. Trong khi người bên phải thì mắng lại người bên trái, cho rằng đấy mới là vấn đề của người đó, chả ai bắt cô ta chào mời khách vào ban đêm rồi ngủ vào ban ngày.

“Đó là một người giúp việc giặt là?” Mike nghe xong hơi cau mày, hỏi.

“Đúng vậy, tôi biết cô ấy, cô ấy là một góa phụ, có hai đứa con đang giúp người khác giặt là quần áo.” Lão Kohler đáp lại chắc chắn.

Mike suy nghĩ vài giây rồi nói:

“Đưa tôi đến chỗ các cô ấy.”

Lão Kohler gật đầu, dẫn hai người đi vòng qua chỗ cãi cọ, tiến vào tòa chung cư đổ nát, trông tệ hơn nhiều so với nơi họ vừa thăm.

Vừa lại gần bên ngoài căn phòng giặt là, Klein ngay lập tức cảm nhận được sự ẩm ướt.

Bên trong căn phòng treo một chiếc váy chưa khô, một cô gái khoảng mười bảy, mười tám tuổi đang ngồi xổm trước một cái chậu lớn, chà giặt chỗ quần áo dính đầy bọt nước. Một cô gái nữa trông trẻ hơn, đang cầm một chiếc bàn ủi nóng rực được bọc trong tấm vải đay ẩm ướt, cẩn thận là chỗ quần áo đã được giặt sạch và phơi khô. Động tác của cô cẩn thận từng li từng tí, ngụ ý đã bị bỏng hơi nhiều lần.

Đây vừa là nơi làm việc, vừa là chốn ngủ đêm của các cô, hơi ẩm thấm đẫm căn phòng, thấm cả vào thân thể các cô.

Hơn nữa còn có một mùi hôi thối hỗn tạp rất đặc trưng.

“Anh không cảm thấy khó chịu à?” Mike bịt mũi lại.

Klein trả lời bằng giọng ngàn ngạt:

“Tôi bị cảm…”

Chẳng có cảm giác hài hước nào trong lời nói của hắn.

Mike bỏ tay ra, bước vào căn phòng, nói với hai cô gái đang rất đỗi kinh ngạc:

“Tôi là phóng viên, tôi muốn phỏng vấn một người giúp việc giặt là.”

Cô gái đang vò quần áo, chết lặng, lắc đầu nói:

“Chúng tôi còn rất nhiều việc phải làm, không thể lãng phí thời gian.”

Thỉnh cầu phỏng vấn của Mike đã bị từ chối.

Anh ta bước ra ngoài với biểu cảm nặng nề, lặng lẽ qua đường.

Sau khi nhìn ngó một chút, anh ta mím môi lại, lên tiếng:

“Chúng ta đi tiếp.”



Thành Bạch Ngân. Sau khi bị kiểm tra kỹ lưỡng, Dereck Berg, người đã trải qua ảo giác cả về thính giác lẫn thị giác, bị đưa xuống dưới đáy tòa tháp tròn.

——là nơi trông giữ những cư dân có dấu hiệu mất khống chế, cũng dùng nhiều biện pháp để cố cứu vãn bọn họ.

Bước đi trong hành lang u ám và rùng rợn, cậu đột nhiên cảm thấy lạnh sống lưng.

“Cứu mạng!”

Một tiếng hét thảm thiết đột ngột vọng lên từ một căn phòng kín.

“Cứu…”

Thanh âm bỗng im bặt, bốn phía hoàn toàn tĩnh lặng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện