Tia chớp xẹt qua bầu trời, chiếu sáng bức tường thành đen kịt.
Dereck Berg đeo túi da trên lưng, tay cầm Rìu Gió Lốc, đứng ngoài ngưỡng cửa với mười người đồng đội.
Giương mắt nhìn lên, cậu trông thấy giữa những khe đá nứt trên tường thành, nơi đất đen khô cứng vỡ vụn là từng bụi cỏ dại ương ngạnh mọc lên. Chúng dày đặc, rậm rạp, bay bay như tóc người.
Đúng lúc ấy, cậu nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng, bèn vội vàng thu hồi tầm mắt, nhìn về phía cổng thành.
Dưới sự luân phiên của tia chớp và bóng đêm, một bóng hình cao lớn chậm rãi tiến tới, sau lưng là hai thanh kiếm thẳng đeo chéo.
Sau đó, mái tóc nhợt nhạt rối bời, đôi mắt sâu thẳm tang thương, vết sẹo cũ vừa sâu vừa vặn vẹo, cùng với chiếc áo khoác nâu và chiếc áo sơ mi nâu sẫm quanh năm không đổi, từng thứ lần lượt hiện lên trong con ngươi đám người Dereck.
Người đó chính là ‘Thủ lĩnh’ của Đoàn nghị sự Sáu người thành Bạch Ngân, Colin Iliad, một “Kẻ Săn Ma” mạnh mẽ.
Sau khi chào hỏi ông ta, Dereck vô thức đưa mắt nhìn vị trí thắt lưng của ‘Thủ lĩnh’. Nơi đó yên vị một chiếc dây lưng da chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn lại chứa một bình kim loại nhỏ khác nhau.
Đó là biểu tượng cho kinh nghiệm và sự cường đại của một “Kẻ Săn Ma”.
Trước kia Dereck đã từng nghe bố mẹ nhắc tới, rằng “Kẻ Săn Ma” rất giỏi trong việc phát hiện ra nhược điểm của các loại quái vật và nhận diện cách sử dụng của nhiều loại vật liệu. Họ có thể dùng hình thức minh tưởng đặc biệt để nhằm vào kẻ trước. Mượn nhờ thứ sau, họ có thể điều phối, chế tạo ra những loại thuốc, thánh cao, tinh dầu và những ấn ký thần kỳ đặc biệt tương ứng. Sau đó, thông qua việc ăn, bôi, sử dụng chúng, họ có thể đạt được hiệu ứng kiềm chế mục tiêu.
Nói theo một nghĩa nào đó, một “Kẻ Săn Ma” kinh nghiệm phong phú, kiến thức uyên bác, chuẩn bị đầy đủ, phản ứng nhanh nhạy, chính là khắc tinh của đại đa số quái vật. Số lượng và chủng loại của những chiếc bình nhỏ trên hông họ chính là đại diện cho “kinh nghiệm” của họ.
Đương nhiên, đây chỉ là một phần năng lực phi phàm của “Kẻ Săn Ma”. Chỉ dựa vào những thứ này, họ không thể được xưng là Bán Thần hay Thánh Giả.
Colin nhìn quanh một vòng, xác nhận tất cả đội viên đã có mặt, kế đó trầm giọng nói:
“Đốt đèn, xuất phát.”
Hai đội viên lập tức thắp nến trong đèn lồng, để ánh sáng vàng nhạt mờ ảo chiếu xuyên qua lớp da cực mỏng.
Vào “ban ngày”, khi tần suất tia chớp xuất hiện tương đối cao thì không cần thiết phải dùng nến trong thành Bạch Ngân, vì cách mỗi hai, ba giây, sẽ được “chiếu sáng”. Hơn nữa, quái vật ở khu vực chung quanh luôn được quét sạch liên tục. Tuy nhiên, một khi họ đã rời thành Bạch Ngân tiến vào bóng đêm, họ phải luôn duy trì ánh nến. Nếu không, chỉ cần một thời khắc nào đó mà tia chớp không soi sáng bầu trời, khiến toàn cảnh chìm trong bóng tối quá năm giây, thì khả năng cao cả đội ngũ sẽ bị quái vật đột kích.
Chiến đấu kịch liệt cũng không phải hướng phát triển đáng sợ nhất. Ký ức sống động nhất mà Dereck nhớ được chính là một câu chuyện mà bố mẹ từng kể lại cho cậu nghe.
Một lần nọ, khi họ đang thăm dò nơi sâu thẳm trong bóng tối, vì trước đó đã có một trận chiến với đám xác sống ăn mòn nên không kịp thay nến. Điều này đã khiến họ phải chịu đựng bóng đêm u ám đến tận tám giây đồng hồ. Khi tia chớp lóe sáng trở lại, ánh nến được thắp lên lần nữa, họ đã sửng sốt khi thấy chỉ còn năm trong số tám người đồng đội lúc đầu. Ba người kia đã lặng lẽ biến mất, không bao giờ còn xuất hiện nữa.
Hít một hơi thật sâu, Dereck nắm chặt Rìu Gió Lốc, đi giữa đội ngũ, theo chân ‘Thủ lĩnh’ đến một hướng đã định.
Một tia chớp lóe lên khiến vùng đồng bằng u ám trồng đầy cỏ đen dài hiện ra, hệt như một bức tranh sơn dầu.
Tiểu đội thăm dò bao gồm mười Người Phi Phàm đi dọc theo con đường trải đầy đá sỏi lởm chởm, tiến sâu vào vùng cỏ đen.
Tia chớp lắng xuống, bóng đêm dày đặc nháy mắt đã trở lại, suýt nữa nuốt chửng lấy toàn bộ bọn họ.
Ánh nến vàng nhạt chiếu qua lớp da thuộc, yếu ớt, lay lắt, nhưng vững vàng canh gác khu vực xung quanh.
…
Quận Đông, bên trong tiệm cà phê rẻ tiền đầy mùi dầu mỡ.
Klein dựa theo thỏa thuận trước đó, tìm thấy lão Kohler đang phết bơ lên bánh mì nướng.
Hắn nhìn mẩu thuốc lá dúm dó mà đối phương đặt trên bàn, cười một tiếng:
“Lão vừa mua à?”
“Không, là từ trước đó rồi. Tôi vẫn chưa hút thuốc trở lại nhưng luôn mang nó bên người, thỉnh thoảng lại bỏ ra hít hít một chút. Haha, nó khiến tôi nhớ lại cuộc sống lưu lạc khi trước. Hồi ấy, tôi thực sự cảm thấy mình có thể chết bất cứ khi nào.” Tông giọng của lão Kohler chất chứa chút sợ hãi.
Klein đưa 20 saule đã đổi sẵn thành tiền lẻ từ trước đó ra, vừa ngồi xuống vừa giao cho đối phương:
“Tôi rất hài lòng về tình báo lần trước.”
Không đợi lão Kohler tỏ vẻ khiêm tốn, hắn đã quay đầu nhìn về quầy tính tiền:
“Một ổ bánh mì yến mạch, hai lát bánh mì nướng, một khối bơ, một phần thịt bò hầm khoai tây, một cốc trà 1 penny.”
“Ngài Moriarty, hôm qua ngài không ăn tối à?” Lão Kohler cầm tiền mặt, sững sờ.
Klein lắc đầu cười:
“Thời gian tới tôi rất bận, chắc sẽ không có thời gian dùng bữa đâu.”
Hắn muốn ra vẻ mình rất tích cực, rất nghiêm túc, dù sao hắn cũng đã nhận 100 bảng kinh phí của hoàng tử Edessak rồi.
Lão Kohler không hỏi nhiều, cảnh giác nhìn quanh, nhét tiền vào túi áo.
“Chuyện lần trước ngài nhờ tôi hỏi thăm đã có kết quả rồi. Tiền thưởng săn tìm Azcot Ings là từ mấy ông trùm băng đảng và một số tay buôn tình báo. Ừm, tôi không biết người ủy thác bọn họ là ai, rất khó để tiếp xúc với họ.”
Khu 9 quân tình đấy… Klein nhẹ gật đầu:
“Thế là đủ rồi. Không cần phải điều tra sâu hơn, nguy hiểm lắm.”
Lão Kohler thở phào nhẹ nhõm, chuyển nói:
“Hai ngày trước có người nhìn thấy kẻ được nghi là Azcot Ings ở khách sạn giá rẻ trên phố Golden Cloak. Nghe nói, kẻ đó gần như giống hệt ảnh chụp của đơn treo thưởng.”
…Trái tim Klein đập thình thình, hắn không sợ hãi, ngược lại còn cười hỏi:
“Sau đó thì sao? Chẳng lẽ ngay khi tôi chuẩn bị thử săn chỗ tiền thưởng này, chuyện đã kết thúc rồi?”
“Sau đó á? Ngay khi có manh mối, không ít thợ săn tiền thưởng nhanh chóng chạy tới, nhưng lại chẳng phát hiện ra cái gì. À thì, bọn họ bảo, trong căn phòng kia có dấu vết đánh nhau.” Lão Kohler cố gắng nhớ lại những tin tức mình đã thu thập.
Tình báo chắc chắn đã được gửi trước cho Khu 9 quân tình… Có phải thầy Azcot đã đọ sức ngầm với họ không? Không biết kết quả thế nào nhỉ… Klein nhìn ông chủ đang bước tới với chiếc khay ăn, giả vờ ngập ngừng nói với lão Kohler:
“Lát nữa lão dẫn tôi tới phố Golden Cloak. Có lẽ tôi sẽ phát hiện ra manh mối nào đó.”
Lúc này đã qua thời gian bữa sáng của quận Đông, quán cà phê giá rẻ cũng rất ít khách.
“Được.” Lão Kohler nhận lời không chút do dự.
“Tổng cộng hết 16,5 penny.” Ông chủ đặt bữa sáng của Klein lên bàn. Không có nhiều thịt bò và khoai tây, nhưng món hầm được ninh rất nhừ, rõ ràng là đã được chuẩn bị từ trước. Mùi hương đặc trưng kích thích khứu giác của lão Kohler, khiến lão không tự chủ được nuốt một ngụm nước bọt.
Trả tiền xong, Klein cầm nĩa và muỗng lên, nói với lão Kohler:
“Tiếp đi.”
“Không còn mấy ai tìm kiếm tín đồ của “Kẻ Khờ” nữa, trừ mấy tay thợ săn tiền thưởng cố chấp… Rất nhiều công nhân dệt may nữ đã thất nghiệp, cả công nhân nam nữa, đang rời khỏi quận Đông…” Lão Kohler liệt kê từng chuyện một.
“Sao cơ?” Klein nuốt thịt bò, ngẩng đầu lên, “Rời khỏi quận Đông à?”
“Chắc họ đi tìm việc khác, nhưng cụ thể là nơi nào thì tôi không nghe ngóng được.” Lão Kohler thành thật trả lời.
“Người nhà của họ có biết không?” Klein hỏi.
“Có người mang theo thành viên thất nghiệp trong gia đình, có người đi một mình từ nơi khác tới Backlund tìm việc.” Lão Kohler đã sớm điều tra tới một mức nhất định.
Dựa trên việc lựa chọn đối tượng, chuyện này có vấn đề rồi… Klein ghi nhớ trong đầu, tiếp tục vừa dùng bữa vừa nghe lão Kohler tả lại những chuyện đã xảy ra ở quận Đông trong thời gian này.
Sau khi sắp xếp thời điểm gặp mặt lần tới, hắn bỏ bộ đồ ăn xuống, lau miệng, cầm mũ lên, cất tiếng:
“Tới phố Golden Cloak thôi.”
…
Khách sạn giá trẻ duy nhất trong phố Golden Cloak.
Sau khi nhận 2 penny tiền phí, ông chủ dẫn Klein và lão Kohler đến căn phòng được nghi là nơi Azcot Ings từng ở.
“Khoảng thời gian này có rất nhiều thợ săn tiền thưởng ghé qua đây. Khà khà, nhờ thế mà tôi kiếm được không ít lời, nên tôi vẫn để nó y nguyên tình trạng ban đầu.” Ông chủ tra chìa khóa và mở cửa phòng, chỉ vào trong, nói.
Chỉ liếc qua, Klein đã thấy chiếc ghế đổ rạp, những mảnh vải vụn rơi lả tả khắp nơi. Ngoài ra còn có dấu vết ẩu đả.
Nhờ linh cảm khá cao, Klein đưa mắt về phía gầm giường.
Hắn nhìn chằm chằm hai giây rồi bước tới, cúi xuống vỗ vỗ mặt giường.
Vù, bụi bay lên, một con chuột xám từ trong gầm giường chạy ra.
Trông nó bình thường, không có bất cứ vấn đề gì, nhưng trong linh thị của Klein, màu sắc khí tràng của nó chỉ còn lại màu xanh và đen.
Con chuột rẽ ngoặt, bò lên vách tường, lộ ra phần bụng trước mắt Klein.
Ngay nơi mềm mại ấy, máu thịt xanh lét, dịch mủ chảy ra, có thể trực tiếp nhìn thấy nội tạng đã gần như rữa nát ở trong.
Klein trầm ngâm, thu hồi tầm mắt, nói với lão Kohler hoàn toàn không để ý tới con chuột:
“Tiền thưởng săn Azcot Ings đã bị thu hồi chưa?”
“Chưa.” Lão Kohler lắc đầu chắn chắn.
Klein lại dò xét thêm lần nữa, bước ra ngoài rồi nói:
“Đi thôi, ở đây không có manh mối gì giá trị hết.”
…
Số 15 phố Minsk.
Đã “bận rộn” đi lại cả ngày, Klein nằm trong chăn, chìm vào thế giới mộng cảnh.
Những khung cảnh dần hiện ra, khi thì liền kề, khi thì rời rạc. Klein bỗng thanh tỉnh, biết mình đang nằm mơ.
Có sức mạnh nào đó đã xâm nhập vào giấc mơ của mình… Klein duy trì trạng thái mông lung vừa rồi, lơ đễnh nhìn xung quanh.
Hắn nhận ra mình đang ở giữa vùng ngoại ô, khắp nơi đều là ruộng đồng phì nhiêu.
Một dòng sông chảy từ xa tới, lượn vòng qua một sườn núi.
Vách núi kia có một mặt khá nhẵn nhụi, để lộ ra phần đá nham thạch màu trắng thuần, nhìn từ xa đã toát lên vẻ đẹp thần thánh lạ thường.
Tại vịnh sông, có gần mười người cả nam cả nữ mặc áo khoác đen hoặc áo jacket sẫm màu, mang theo đủ loại dụng cụ, đứng vây quanh một lối vào ẩn dưới lòng đất. Trong đó có người quen của Klein, Iseus Bernard.
Trấn Bạch Nhai… Khúc sông Stratford… Trái Tim Máy Móc… Họ đang khám phá lăng mộ gia tộc Amon sao? Nhưng tại sao khung cảnh này lại hiện lên trong giấc mơ của mình? Klein cực kỳ bối rối.
Đúng lúc ấy, hắn nhìn thấy nước trên bề mặt dòng sông rung động, nhanh chóng hiện ra một hàng chữ màu trắng:
“Người hầu trung thành của ngài, Harolds xin báo cáo tình hình thăm dò với ngài.”
…Khóe miệng Klein khẽ nhếch lên, nhất thời hắn không nói nên lời, trong đầu chỉ vang vọng một âm thanh:
Nói ta nghe, tại sao ngươi không đàng hoàng làm một chiếc gương, lại bày đặt đi làm phản đồ thế hả?
Dereck Berg đeo túi da trên lưng, tay cầm Rìu Gió Lốc, đứng ngoài ngưỡng cửa với mười người đồng đội.
Giương mắt nhìn lên, cậu trông thấy giữa những khe đá nứt trên tường thành, nơi đất đen khô cứng vỡ vụn là từng bụi cỏ dại ương ngạnh mọc lên. Chúng dày đặc, rậm rạp, bay bay như tóc người.
Đúng lúc ấy, cậu nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng, bèn vội vàng thu hồi tầm mắt, nhìn về phía cổng thành.
Dưới sự luân phiên của tia chớp và bóng đêm, một bóng hình cao lớn chậm rãi tiến tới, sau lưng là hai thanh kiếm thẳng đeo chéo.
Sau đó, mái tóc nhợt nhạt rối bời, đôi mắt sâu thẳm tang thương, vết sẹo cũ vừa sâu vừa vặn vẹo, cùng với chiếc áo khoác nâu và chiếc áo sơ mi nâu sẫm quanh năm không đổi, từng thứ lần lượt hiện lên trong con ngươi đám người Dereck.
Người đó chính là ‘Thủ lĩnh’ của Đoàn nghị sự Sáu người thành Bạch Ngân, Colin Iliad, một “Kẻ Săn Ma” mạnh mẽ.
Sau khi chào hỏi ông ta, Dereck vô thức đưa mắt nhìn vị trí thắt lưng của ‘Thủ lĩnh’. Nơi đó yên vị một chiếc dây lưng da chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn lại chứa một bình kim loại nhỏ khác nhau.
Đó là biểu tượng cho kinh nghiệm và sự cường đại của một “Kẻ Săn Ma”.
Trước kia Dereck đã từng nghe bố mẹ nhắc tới, rằng “Kẻ Săn Ma” rất giỏi trong việc phát hiện ra nhược điểm của các loại quái vật và nhận diện cách sử dụng của nhiều loại vật liệu. Họ có thể dùng hình thức minh tưởng đặc biệt để nhằm vào kẻ trước. Mượn nhờ thứ sau, họ có thể điều phối, chế tạo ra những loại thuốc, thánh cao, tinh dầu và những ấn ký thần kỳ đặc biệt tương ứng. Sau đó, thông qua việc ăn, bôi, sử dụng chúng, họ có thể đạt được hiệu ứng kiềm chế mục tiêu.
Nói theo một nghĩa nào đó, một “Kẻ Săn Ma” kinh nghiệm phong phú, kiến thức uyên bác, chuẩn bị đầy đủ, phản ứng nhanh nhạy, chính là khắc tinh của đại đa số quái vật. Số lượng và chủng loại của những chiếc bình nhỏ trên hông họ chính là đại diện cho “kinh nghiệm” của họ.
Đương nhiên, đây chỉ là một phần năng lực phi phàm của “Kẻ Săn Ma”. Chỉ dựa vào những thứ này, họ không thể được xưng là Bán Thần hay Thánh Giả.
Colin nhìn quanh một vòng, xác nhận tất cả đội viên đã có mặt, kế đó trầm giọng nói:
“Đốt đèn, xuất phát.”
Hai đội viên lập tức thắp nến trong đèn lồng, để ánh sáng vàng nhạt mờ ảo chiếu xuyên qua lớp da cực mỏng.
Vào “ban ngày”, khi tần suất tia chớp xuất hiện tương đối cao thì không cần thiết phải dùng nến trong thành Bạch Ngân, vì cách mỗi hai, ba giây, sẽ được “chiếu sáng”. Hơn nữa, quái vật ở khu vực chung quanh luôn được quét sạch liên tục. Tuy nhiên, một khi họ đã rời thành Bạch Ngân tiến vào bóng đêm, họ phải luôn duy trì ánh nến. Nếu không, chỉ cần một thời khắc nào đó mà tia chớp không soi sáng bầu trời, khiến toàn cảnh chìm trong bóng tối quá năm giây, thì khả năng cao cả đội ngũ sẽ bị quái vật đột kích.
Chiến đấu kịch liệt cũng không phải hướng phát triển đáng sợ nhất. Ký ức sống động nhất mà Dereck nhớ được chính là một câu chuyện mà bố mẹ từng kể lại cho cậu nghe.
Một lần nọ, khi họ đang thăm dò nơi sâu thẳm trong bóng tối, vì trước đó đã có một trận chiến với đám xác sống ăn mòn nên không kịp thay nến. Điều này đã khiến họ phải chịu đựng bóng đêm u ám đến tận tám giây đồng hồ. Khi tia chớp lóe sáng trở lại, ánh nến được thắp lên lần nữa, họ đã sửng sốt khi thấy chỉ còn năm trong số tám người đồng đội lúc đầu. Ba người kia đã lặng lẽ biến mất, không bao giờ còn xuất hiện nữa.
Hít một hơi thật sâu, Dereck nắm chặt Rìu Gió Lốc, đi giữa đội ngũ, theo chân ‘Thủ lĩnh’ đến một hướng đã định.
Một tia chớp lóe lên khiến vùng đồng bằng u ám trồng đầy cỏ đen dài hiện ra, hệt như một bức tranh sơn dầu.
Tiểu đội thăm dò bao gồm mười Người Phi Phàm đi dọc theo con đường trải đầy đá sỏi lởm chởm, tiến sâu vào vùng cỏ đen.
Tia chớp lắng xuống, bóng đêm dày đặc nháy mắt đã trở lại, suýt nữa nuốt chửng lấy toàn bộ bọn họ.
Ánh nến vàng nhạt chiếu qua lớp da thuộc, yếu ớt, lay lắt, nhưng vững vàng canh gác khu vực xung quanh.
…
Quận Đông, bên trong tiệm cà phê rẻ tiền đầy mùi dầu mỡ.
Klein dựa theo thỏa thuận trước đó, tìm thấy lão Kohler đang phết bơ lên bánh mì nướng.
Hắn nhìn mẩu thuốc lá dúm dó mà đối phương đặt trên bàn, cười một tiếng:
“Lão vừa mua à?”
“Không, là từ trước đó rồi. Tôi vẫn chưa hút thuốc trở lại nhưng luôn mang nó bên người, thỉnh thoảng lại bỏ ra hít hít một chút. Haha, nó khiến tôi nhớ lại cuộc sống lưu lạc khi trước. Hồi ấy, tôi thực sự cảm thấy mình có thể chết bất cứ khi nào.” Tông giọng của lão Kohler chất chứa chút sợ hãi.
Klein đưa 20 saule đã đổi sẵn thành tiền lẻ từ trước đó ra, vừa ngồi xuống vừa giao cho đối phương:
“Tôi rất hài lòng về tình báo lần trước.”
Không đợi lão Kohler tỏ vẻ khiêm tốn, hắn đã quay đầu nhìn về quầy tính tiền:
“Một ổ bánh mì yến mạch, hai lát bánh mì nướng, một khối bơ, một phần thịt bò hầm khoai tây, một cốc trà 1 penny.”
“Ngài Moriarty, hôm qua ngài không ăn tối à?” Lão Kohler cầm tiền mặt, sững sờ.
Klein lắc đầu cười:
“Thời gian tới tôi rất bận, chắc sẽ không có thời gian dùng bữa đâu.”
Hắn muốn ra vẻ mình rất tích cực, rất nghiêm túc, dù sao hắn cũng đã nhận 100 bảng kinh phí của hoàng tử Edessak rồi.
Lão Kohler không hỏi nhiều, cảnh giác nhìn quanh, nhét tiền vào túi áo.
“Chuyện lần trước ngài nhờ tôi hỏi thăm đã có kết quả rồi. Tiền thưởng săn tìm Azcot Ings là từ mấy ông trùm băng đảng và một số tay buôn tình báo. Ừm, tôi không biết người ủy thác bọn họ là ai, rất khó để tiếp xúc với họ.”
Khu 9 quân tình đấy… Klein nhẹ gật đầu:
“Thế là đủ rồi. Không cần phải điều tra sâu hơn, nguy hiểm lắm.”
Lão Kohler thở phào nhẹ nhõm, chuyển nói:
“Hai ngày trước có người nhìn thấy kẻ được nghi là Azcot Ings ở khách sạn giá rẻ trên phố Golden Cloak. Nghe nói, kẻ đó gần như giống hệt ảnh chụp của đơn treo thưởng.”
…Trái tim Klein đập thình thình, hắn không sợ hãi, ngược lại còn cười hỏi:
“Sau đó thì sao? Chẳng lẽ ngay khi tôi chuẩn bị thử săn chỗ tiền thưởng này, chuyện đã kết thúc rồi?”
“Sau đó á? Ngay khi có manh mối, không ít thợ săn tiền thưởng nhanh chóng chạy tới, nhưng lại chẳng phát hiện ra cái gì. À thì, bọn họ bảo, trong căn phòng kia có dấu vết đánh nhau.” Lão Kohler cố gắng nhớ lại những tin tức mình đã thu thập.
Tình báo chắc chắn đã được gửi trước cho Khu 9 quân tình… Có phải thầy Azcot đã đọ sức ngầm với họ không? Không biết kết quả thế nào nhỉ… Klein nhìn ông chủ đang bước tới với chiếc khay ăn, giả vờ ngập ngừng nói với lão Kohler:
“Lát nữa lão dẫn tôi tới phố Golden Cloak. Có lẽ tôi sẽ phát hiện ra manh mối nào đó.”
Lúc này đã qua thời gian bữa sáng của quận Đông, quán cà phê giá rẻ cũng rất ít khách.
“Được.” Lão Kohler nhận lời không chút do dự.
“Tổng cộng hết 16,5 penny.” Ông chủ đặt bữa sáng của Klein lên bàn. Không có nhiều thịt bò và khoai tây, nhưng món hầm được ninh rất nhừ, rõ ràng là đã được chuẩn bị từ trước. Mùi hương đặc trưng kích thích khứu giác của lão Kohler, khiến lão không tự chủ được nuốt một ngụm nước bọt.
Trả tiền xong, Klein cầm nĩa và muỗng lên, nói với lão Kohler:
“Tiếp đi.”
“Không còn mấy ai tìm kiếm tín đồ của “Kẻ Khờ” nữa, trừ mấy tay thợ săn tiền thưởng cố chấp… Rất nhiều công nhân dệt may nữ đã thất nghiệp, cả công nhân nam nữa, đang rời khỏi quận Đông…” Lão Kohler liệt kê từng chuyện một.
“Sao cơ?” Klein nuốt thịt bò, ngẩng đầu lên, “Rời khỏi quận Đông à?”
“Chắc họ đi tìm việc khác, nhưng cụ thể là nơi nào thì tôi không nghe ngóng được.” Lão Kohler thành thật trả lời.
“Người nhà của họ có biết không?” Klein hỏi.
“Có người mang theo thành viên thất nghiệp trong gia đình, có người đi một mình từ nơi khác tới Backlund tìm việc.” Lão Kohler đã sớm điều tra tới một mức nhất định.
Dựa trên việc lựa chọn đối tượng, chuyện này có vấn đề rồi… Klein ghi nhớ trong đầu, tiếp tục vừa dùng bữa vừa nghe lão Kohler tả lại những chuyện đã xảy ra ở quận Đông trong thời gian này.
Sau khi sắp xếp thời điểm gặp mặt lần tới, hắn bỏ bộ đồ ăn xuống, lau miệng, cầm mũ lên, cất tiếng:
“Tới phố Golden Cloak thôi.”
…
Khách sạn giá trẻ duy nhất trong phố Golden Cloak.
Sau khi nhận 2 penny tiền phí, ông chủ dẫn Klein và lão Kohler đến căn phòng được nghi là nơi Azcot Ings từng ở.
“Khoảng thời gian này có rất nhiều thợ săn tiền thưởng ghé qua đây. Khà khà, nhờ thế mà tôi kiếm được không ít lời, nên tôi vẫn để nó y nguyên tình trạng ban đầu.” Ông chủ tra chìa khóa và mở cửa phòng, chỉ vào trong, nói.
Chỉ liếc qua, Klein đã thấy chiếc ghế đổ rạp, những mảnh vải vụn rơi lả tả khắp nơi. Ngoài ra còn có dấu vết ẩu đả.
Nhờ linh cảm khá cao, Klein đưa mắt về phía gầm giường.
Hắn nhìn chằm chằm hai giây rồi bước tới, cúi xuống vỗ vỗ mặt giường.
Vù, bụi bay lên, một con chuột xám từ trong gầm giường chạy ra.
Trông nó bình thường, không có bất cứ vấn đề gì, nhưng trong linh thị của Klein, màu sắc khí tràng của nó chỉ còn lại màu xanh và đen.
Con chuột rẽ ngoặt, bò lên vách tường, lộ ra phần bụng trước mắt Klein.
Ngay nơi mềm mại ấy, máu thịt xanh lét, dịch mủ chảy ra, có thể trực tiếp nhìn thấy nội tạng đã gần như rữa nát ở trong.
Klein trầm ngâm, thu hồi tầm mắt, nói với lão Kohler hoàn toàn không để ý tới con chuột:
“Tiền thưởng săn Azcot Ings đã bị thu hồi chưa?”
“Chưa.” Lão Kohler lắc đầu chắn chắn.
Klein lại dò xét thêm lần nữa, bước ra ngoài rồi nói:
“Đi thôi, ở đây không có manh mối gì giá trị hết.”
…
Số 15 phố Minsk.
Đã “bận rộn” đi lại cả ngày, Klein nằm trong chăn, chìm vào thế giới mộng cảnh.
Những khung cảnh dần hiện ra, khi thì liền kề, khi thì rời rạc. Klein bỗng thanh tỉnh, biết mình đang nằm mơ.
Có sức mạnh nào đó đã xâm nhập vào giấc mơ của mình… Klein duy trì trạng thái mông lung vừa rồi, lơ đễnh nhìn xung quanh.
Hắn nhận ra mình đang ở giữa vùng ngoại ô, khắp nơi đều là ruộng đồng phì nhiêu.
Một dòng sông chảy từ xa tới, lượn vòng qua một sườn núi.
Vách núi kia có một mặt khá nhẵn nhụi, để lộ ra phần đá nham thạch màu trắng thuần, nhìn từ xa đã toát lên vẻ đẹp thần thánh lạ thường.
Tại vịnh sông, có gần mười người cả nam cả nữ mặc áo khoác đen hoặc áo jacket sẫm màu, mang theo đủ loại dụng cụ, đứng vây quanh một lối vào ẩn dưới lòng đất. Trong đó có người quen của Klein, Iseus Bernard.
Trấn Bạch Nhai… Khúc sông Stratford… Trái Tim Máy Móc… Họ đang khám phá lăng mộ gia tộc Amon sao? Nhưng tại sao khung cảnh này lại hiện lên trong giấc mơ của mình? Klein cực kỳ bối rối.
Đúng lúc ấy, hắn nhìn thấy nước trên bề mặt dòng sông rung động, nhanh chóng hiện ra một hàng chữ màu trắng:
“Người hầu trung thành của ngài, Harolds xin báo cáo tình hình thăm dò với ngài.”
…Khóe miệng Klein khẽ nhếch lên, nhất thời hắn không nói nên lời, trong đầu chỉ vang vọng một âm thanh:
Nói ta nghe, tại sao ngươi không đàng hoàng làm một chiếc gương, lại bày đặt đi làm phản đồ thế hả?
Danh sách chương