Dịch giả: Lioncoeur, Hoa Thần, Christie, Twiness_nast, Beautiful_ada, Machinator
Sau khi dặn dò và phái Athen đi làm nhiệm vụ, hắn chuẩn bị những ống tiêm và chọn một nơi để trú tạm. Chẳng còn gì cho hắn làm ngoài việc chờ đợi. Thay cho cái cảm giác tin tưởng lúc ban đầu, hắn bắt đầu trở lên lo lắng và cứ đi qua di lại trong phòng thí nghiệm không ngừng.
“ Điều gì sẽ xảy ra nếu Athen quên cách nạp đạn cho khẩu Rifle? Nếu bộ phận mở rào chắn không hoạt động, hoặc những kẻ đột nhập có đủ hỏa lực để ngăn chặn tụi Ma7?”
Hắn đã cố chuẩn bị cho mọi tình huống không mong đợi, mọi kế hoạch đều đã có chứa những phương án dự phòng sẵn, “ nhưng nếu tất cả đều đổ bể thì sao? nếu tất cả chúng đều thất bại hết?.Tao sẽ giết chúng nó, tao sẽ siết cổ chúng bằng chính đôi tay trần này, chúng không thể ngăn ta làm những việc phải được làm. Chúng không thể, không phải sau tất cả những gì mà ta đã hoàn thành, không phải sau mọi thứ ta đã phải trải qua để tới được vị trí mà ta đang đứng … “
Lần thứ hai trong ngày, trong đầu hắn lóe lên những hình …. Những hình ảnh sống động lạ lùng vào cái ngày nắng rực rỡ cách đây không đầy một tháng. Thay vì cố ngăn cản những ý nghĩ này như trước, hắn để chúng tràn tới, mời mọc chúng gợi lại cho mình về những gì hắn có thể làm một khi hắn muốn. Hắn bất ngờ ngừng đi lại và tiến tới chiếc ghế, đổ người vào nó và nhắm mắt lại.
“ Cái ngày nắng rực rỡ ấy…”
Cuối cùng, hắn đã nhận ra cần phải làm những gì, và lên kế hoạch cho nó trong suốt hai tuần liền, cân nhắc cẩn thận mỗi chi tiết một cách say sưa cho tới khi hài lòng rằng mọi thứ đều đã được dự kiến. Hắn đã dành nhiều thời gian đọc về Trisquads và rà qua những phần tổng thể, ghi nhớ những công việc hàng ngày trong khu nghiên cứu.
Hắn đã theo dõi những thói quen của các đồng nghiệp, học thuộc thời gian biểu của họ cho tới khi có thể đọc ngược được những thời gian biểu đó, hắn đã nhìn hàng giờ vào những bức phác họa mà hắn vẽ về mỗi tòa nhà, tập đi lại ở đó trong trí tưởng tượng hàng nghìn lần. Sau khi cân nhắc cẩn thận, hắn chọn ngày hành động và trước đó vài ngày, hắn đã đột nhập vào trong phòng chế tạo Trisquad để lấy trộm vài lọ nhỏ đựng những dược phẩm có tác dụng cực mạnh: Kylosynthesine, Mamesidine, Tralphenide – thuốc an thần của sinh vật và ma túy tổng hợp – một trong những sản phẩm tốt nhất của Umbrella.
Chỉ trong một buổi chiều, hắn đã pha chế xong các thứ thuốc ấy theo đúng cái cách mà hắn muốn. Sau đó là sự chờ đợi, như hắn đang đợi bây giờ…
Cái ngày trước khi kế hoạch được tiến hành, hắn đã theo dõi tiến trình tạo Trisquad, sau đó mời Tom Athen tới phòng thí nghiệm sau bữa tối để thảo luận riêng về một vài ý tưởng hắn có, để làm tăng tính hợp lí cho các hệ số kĩ thuật. Athen rất vui mừng chấp nhận và đã hăm hở nghe Griffith nói về giống loài do hắn tạo ra – tất nhiên là diễn tả trên lí thuyết – để rồi sau khi dùng một tách cà phê nóng, Athen trở thành kẻ đầu tiên nếm trải cái phép màu của Griffith.
Griffith cười và nhớ lại thời khắc huy hoàng đầu tiên đó, thí nghiệm đầu tiên và quan trọng nhất về tính hiệu quả của dòng giống mới. Hắn bảo Athen rằng tiếng nói duy nhất mà anh ta có thể nghe theo là tiếng của Nicolas Griffith, rằng những lời bép xép hay đề xuất này nọ đều là vô nghĩa. Vào cái buổi sáng định mệnh ấy, Griffith đã bật một trong những băng ghi âm bài thuyết giảng của Athen cho vị bác sĩ cả tin nghe, và anh chàng chẳng có phản ứng gì hơn là phát âm lắp bắp. Nếu kế hoạch thất bại thì Griffith có thể ngưng sự tiếp quản này lại, không ai có thể biết. Hắn đã hoạch định sẵn một vụ tai nạn trong trường hợp giống loài mới không vận hành như mong đợi, khi đó xác của Athen sẽ được tìm thấy vào ngày hôm sau, bị giạt vào bãi biển lởm chởm đá. Nhưng sự thành công ngoài tưởng tượng của tạo vật đó đã đánh tan mọi nghi ngại, và hắn chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục…
…Và kế đến là nhà bếp. Thuốc được bỏ vào trong những tách cà phê, được tẩm cẩn thận vào hoa quả và hòa tan vào trong sữa, nước trái cây … của mười chín người đàn ông và phụ nữ sống ở vịnh Caliban. Chỉ trừ một người thường xuyên bỏ ăn sáng và không uống cà phê, Kim D’Santo, một phụ nữ trẻ lố bịch làm việc với T-Virus, Griffith đã phái Athen tới để cắt cổ cô ta khi đang ngủ, trước khi mặt trời mọc…
… và đó là một ngày nắng rực rỡ, trời không mây và trong trẻo khi họ ngấu nghiến ăn sáng, uống từng ngụm cà phê, tản bộ ngoài không khí lành lạnh của buổi sáng, rồi quỵ xuống đất, nhiều kẻ còn chẳng kịp bước ra khỏi quầy ăn thì đã lảo đảo và ngã sóng xoài, một số gào lên rằng mình bị đầu độc tới khi không thể nói được nữa và chìm vào giấc ngủ dưới tác dụng của thuốc…
Griffith nhún vai, cố nhớ lại những gì đã xảy ra tiếp theo. Hắn nhắm vào Thurman, không thể kìm được nỗi khoái trá bệnh hoạn khi trình diễn cho vị bác sĩ tài giỏi này thứ hắn đã sáng chế. Sau đó là Alan Kinneson, trước giờ hắn chưa từng tặng thứ gì cho Alan cả, hy vọng món quà lần này sẽ làm anh ta dịu đi …
Hắn còn biết thêm nữa: Thurman và Athen đã xắp xếp bọn công nhân và dồn chúng vào khu A. Lyle Amman đã cố xoay xở trốn được một lúc nhưng sau đó vẫn bị phát hiện bởi bọn Trisquad vào xế chiều hôm đó, Griffith ăn bữa ăn nhẹ muộn và đi ngủ, dậy sớm hơn thường lệ vào sáng hôm sau để chuyển tài liệu và phần mềm vào phòng thí nghiệm. Đó là những gì hắn biết, nhưng vì một vài lí do nào đó, diễn tiến đã bị xóa nhòa và hắn thực sự không thể nhớ đã chứng kiến những gì, cái gì đã diễn ra với hắn vào phần còn lại của ngày hôm đó,
Griffith cố tập trung và lần mò lại những suy tưởng của mình, nhưng rốt cục chỉ có thể tìm được những cảnh tượng mờ nhạt và không rõ ràng: mặt trời giữa trưa nắng chói, những cơ thể ngủ chìm trong máu đỏ. Tiếng kêu rít của mòng biển vang khắp vịnh, chói tai và hoang dại, vang vọng trên những cơn gió nóng bỏng. Một cái mùi nồng nặc của rác bẩn và, và …
“ Máu thấm đầy tay ta, trên con dao mổ sắc lẻm ướt sũng, đang cắm sâu vào trong một bộ mặt mềm mềm, và những con mắt, những cái dạ dày, tiếng động ầm ầm đinh tai của sóng biển trong bóng tối và cuộn dây câu, và Amman, Amman, vẫy tay ……"
Đôi mắt hắn mở trợn tròn, và cơn ác mộng biến mất. Griffith lắc lắc đầu, nhìn thấy ánh sáng dìu dịu của phòng thí nghiệm. Ắt hẳn hắn đã ngủ gật được một lúc, đúng thế, phải, chắc chắn như vậy, hắn đã ngủ gật và có một cơn ác mộng thật khủng khiếp.
Hắn nhìn lên chiếc đồng hồ, thấy rằng đã được một lúc kể từ khi hắn phái hai tay bác sĩ đi làm việc. Hắn cảm thấy nhẹ bớt trong lòng khi nhận ra rằng mình đã không ngủ gật quá lâu, nhưng cái cảm giác thoải mái ấy nhanh chóng biến mất, sự bực dọc đang quay trở lại, hắn không ngừng băn khoăn lo lắng về những kẻ đang đột nhập vào khu nghiên cứu.
“ Chúng không thể ngăn ta lại, nó là của ta."
Griffith đứng dậy và lại tiếp tục đi ra đi vào không ngừng, chờ đợi..
Bài kiểm tra “cầu vồng thời gian”, số bảy, chỉ lâu hơn tí chút so với bài kiểm tra số bốn, cái David cho nên gọi là ‘bài kiểm tra quân cờ‘. John và Karen đã chỉ cho anh cái bàn nhỏ ở trong phòng lớn, đứng cạnh khi anh lật đi lật lại những quân đomino nhiều màu. Ngay bên cạnh cái đống gồm chín miếng có màu-của-cầu-vồng là một cái rãnh dài, có lẽ dài độ 1 foot và rộng khoảng 2 inch.
Rõ ràng là chỉ có thể đặt 7 miếng domino vào đó.
“ Cầu vồng có bảy màu, bảy miếng, đơn giản thế thì tại sao lại có tới chín miếng?"
David sắp xếp những miếng domino theo màu sắc của chúng, đặt thành một hàng bên cạnh cái rãnh. Mỗi miếng đều được khoan những chữ cái khác nhau bằng mực đen. Đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, và ba miếng màu tím với 3 chữ cái khác nhau.
“Chúng có nghĩa gì đây?",John hỏi.
Đi từ trái qua phải, sáu miếng đầu tiên ghi: J, F, M, A, M, J.
“Không phải tiếng Anh”,Karen ôn tồn nói."Ba miếng màu tím là: J, M và P."
David thở dài:“Chúng ta phải đặt một trong số chúng vào vị trí kế tiếp trong cái dãy xắp xếp này, hình như là có liên quan tới thời gian, có ý kiến nào không?“
John và Karen đều nhìn chăm chăm vào câu đố, ngâm cứu những chữ cái; và anh tự hỏi không biết họ có mệt mỏi như anh đang bắt đầu cảm thấy không? John rõ ràng có vẻ không hoạt bát như thường lệ, còn Karen trông như thể bị ai giáng cho một đòn vậy, da cô tái nhợt, và đang lẩm bẩm một thứ gì đó về khoảng cách.
“ Tất nhiên là họ mệt mỏi, nhưng ít nhất là họ đang cố gắng …"
David nhìn vào những miếng đomino nhiều màu và cố tập trung, nhưng không có vẻ gì là anh có thể xoay ra được một ý tưởng cho ra hồn. Hôm nay là một ngày tồi tệ, những thời điểm phải tập trung cao độ xem lẫn với hành động khiến anh có cảm giác máu nóng dồn hết lên đầu. Anh đã trải qua sự sợ hãi, cảm giác tự ngờ vực, quyết tâm rồi lại sợ hãi, và đầy những cảm xúc không rõ ràng khác. Bây giờ anh cảm thấy thật kiệt quệ, chờ đợi cái gì sẽ tiếp tục xảy ra tiếp theo ….
Đột nhiên John nhe răng cười, một tia sáng chiến thắng hiện lên trong mắt John.
“Những từ này ám chỉ các tháng: tháng 1 (January), tháng 2 (February), tháng 3 (March), tháng 4 (April), tháng 5 (May), tháng 6 (June), tháng 7 (July). Đó là lí do tại sao chữ cuối cùng là J”.
“Tuyệt vời”,David kêu lên, anh bắt đầu xếp những miếng đomino vào cái rãnh trong khi John thúc cùi trỏ vào Karen, vẫn nhe răng cười. “Tôi không chỉ giỏi trò khêu gợi như cô nghĩ đâu nhé.”
Như mọi khi, Karen chẳng buồn trả lời. Tin tưởng là sẽ vượt qua được bài kiểm tra thứ hai thứ hai này, David đặt nốt miếng đomino cuối cùng vào vị trí. Một tiếng Click yếu ớt và cầu vồng hạ xuống một chút, có lẽ chỉ chừng 1 mm. Phía trên họ, tiếng chuông vang lên từ một chiếc loa được che đi bởi một đèn huỳnh quang.
“Có vậy thôi à?”, John chua cay nói. “Không có màn trình diễn nào khác sao?”
David đứng dậy cười một cách mệt mỏi:
“Tôi cũng cảm thấy như các bạn vậy, chúng ta nên tiếp tục tiến lên, xem Steve và Rebecca làm ăn thế nào rồi?”
“Một đề xuất hấp dẫn đó David”,John tặc lưỡi. “Rất tuyệt.”
Mất một thoáng David mới nhận ra Karen bất chợt ôm lấy mắt cô, sau đó cào chúng. Khi cô bỏ tay ra, David thấy mắt phải của cô đỏ ngầu. Mắt trái cũng hơi đổi màu, mặc dù không rõ rệt. Cô để ý cái nhìn chăm chú của David, cười với anh và nhún vai:“Tôi hơi khó chịu, nó ngứa, nhưng không sao đâu.”
“Đừng dụi mắt, cô sẽ làm nó thêm tệ thôi”,David nói, tiến ra sau cánh cửa. “Và hãy để cho Rebecca xem xét nó khi chúng ta gặp họ.”
Họ đi trở ra hành lang và bắt đầu hướng tới cửa sau. David tự lên tinh thần cho mình khi lao qua khu hàng rào. Theo tính toán của anh, họ đã xoay sở xử lí xong được ba nhóm Trisquad, ba tên bên ngoài nhà để thuyền, tên thứ tư khi đang tiến về tòa nhà đầu tiên. Sau đó năm tên của John và Karen hạ khi đang ở giữa khối nhà C và D.
“ Phải chi mà mình biết ngay từ đầu là có bao nhiêu nhóm.”
Anh xua tan những lời mỉa mai trong thâm tâm khi họ tới cánh cửa sắt, Karen với tay lên tắt ngọn đèn trên đầu, họ rút vũ khí ra, hít thở thật sâu, chuẩn bị. David nhận ra một cảm giác quen thuộc, cái cảm giác vô danh mà anh hay trải qua trong những tình huống căng thẳng. Không hẳn là lo lắng về sinh tử, và mặc dù không phải là người theo đạo nhưng anh vẫn cho nó là thứ gì đó rất gần gũi với đức tin vào số phận, thứ cảm giác tiêu biểu khi phải chiến đấu trong lĩnh vực ngoài phạm vi chi phối của con người.
Dú có chuyện gì đã và đang xảy ra thì họ cũng đã bỏ nó lại phía sau rồi – giờ đây mọi nhân tố quyết định có vẻ như đều nằm ở đúng vị trí, ăn khớp vào nhau như các mảnh ghép của trò chơi ô chữ. Anh cảm nhận một cách chắn chắn về điều này. Nó giống một cái bánh xe may rủi khổng lồ đóng vai trò quyết định kết cuộc. Nó có thể lăn đến điểm sống hoặc chết, thành công hoặc thất bại, tất cả đều dồn vào những vòng quay, và lúc này nó đang xoay tròn đến một đoạn kết không thể tránh khỏi – chỉ có điều thay vì chậm đi, thì nó lại nhanh hơn, không ngừng tăng tốc và lộ rõ cho họ thấy một sự xếp đặt từ trước.
Trong quá khứ, anh thường cảm thấy an ủi mỗi khi bất chợt bắt gặp guồng quay này, một thứ cảm giác không thể định nghĩa được, khi nhận ra kết cuộc đã được định sẵn và tất cả những gì con người có thể làm là chứng kiến nó diễn ra. Khi anh còn bé và bị cha mình trút thịnh nộ lên đầu trong cơn say xỉn, niềm tin vào một viễn cảnh tươi sáng hơn là thứ duy nhất cứu vớt anh khỏi tuyệt vọng hoàn toàn. Lúc này, thế nhưng… lúc này mọi thứ thật tồi tệ, họ đã sơ xuất chui vào một mớ hỗn độn tối tăm quay cuồng, không nhận ra sự thật cho tới khi quá muộn, họ không thể quay trở lại nữa, không thể tránh những gì đang ở phía trước.
“ Phải kiên định đã, sau đó chúng ta sẽ làm những gì có thể làm.”
David bước tới cửa, bật chốt an toàn của khẩu Barreta. Dù cho họ có thể làm chủ những gì sẽ đến hay không thì Steve và Rebecca cũng đang đợi.
Căn phòng thử nghiệm rất yên lặng ngoại trừ tiếng kêu nhè nhẹ của chiếc máy được đánh dấu bởi những số màu xanh, chín tới mười hai, và tiếng lật giấy thỉnh thoảng sột soạt của Rebecca khi cô xem qua những báo cáo hàng ngày của Athen. Steve ngồi ở mép bàn và nhìn cô đọc, tư tưởng của anh bồn chồn và lo lắng khi phải chờ tín hiệu của những người kia. Ngực anh cứ tưng tức, vừa do mấy viên đạn bắn trúng anh lúc nãy, vừa bởi sự nóng ruột cho John và Karren.
Sau khi đã xem qua các phòng khác trong tòa nhà, họ đều đồng ý rằng phòng thử nghiệm là nơi để ngồi chờ. Có vẻ tòa nhà B trong khu nghiên cứu Umbrella hầu hết được dành cho những lĩnh vực phẫu thuật của các nghiên cứu hóa sinh về vũ khí sinh học, các phòng đều màu trắng và bọc thép, ảm đạm và không dễ chịu tý nào. Mặc dù tòa nhà cũng ngột ngạt và nóng như những chỗ mà họ đã tìm kiếm, nhưng Steve vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh khắp cơ thể khi họ đi qua những phòng mổ, như thể chúng có những đặc điểm giống các sinh vật nhiễm T-virus vậy. Lạnh lẽo và ko có sự sống, thậm chí tối tăm một cách có chủ đích …
Rebecca ngẩng lên, trong mắt cô lộ rõ sự thú vị.
“Nghe này,
Họ vẫn đợi sự phản hồi của chúng tôi về phần mở rộng từ khi Griffith tăng thời gian amp, chúng tôi có đủ chỗ cho 20 đơn vị, nhưng tôi sẽ chỉ giữ chắc tối đa là tới 12 thôi, chúng tôi không thể tập trung vào việc huấn luyện nhiều hơn bốn nhóm một lúc. Ammon nói sẽ gọi tôi nếu có bất cứ sự bất thường nào.“
Steve gật đầu, nửa mất hết can đảm, nửa bị hồi tưởng lại bởi thông tin trên. Họ đã đánh bại một nhóm Trisquad, cộng thêm với việc gây ra thương tích nghiêm trọng hoặc giết một cặp cá thể trong một nhóm khác nữa; thật là tốt. Nhưng mặt khác, điều này có nghĩa là còn hai nhóm khác đang lởn vởn đâu đó ngoài kia, trừ khi chúng hiện đang “bận rộn” với David và những người khác…
Anh tự cau có trong lòng, cố gắng nghĩ đến chuyện gì khác:
“Em có biết ‘tăng thời gian amp‘ có nghĩa gì không?”
Rebecca chậm rãi gật đầu, sự lo lắng thể hiện rõ trên trán cô:
“Em chắc chắn hắn ta ám chỉ rằng Griffith đã tăng tốc cho quá trình khuếch đại. Khuếch đại là kỳ hạn cho virus phát tán vào trong cơ thể vật chủ.”
Đó không có vẻ gì là cái anh muốn nghĩ tới. Bởi vài sự thoả thuận ngầm nào đó mà họ đã không hề nói về khả năng bị nhiễm virus của John và Karen từ khi David bỏ đi.
“Tuyệt, còn gì khác nữa không?”
Cô lắc đầu:“Không hẳn, hắn có nhắc tới Ma7 một đôi lần, nhưng không có gì đặc biệt hơn việc chúng là sản phẩm thử nghiệm T-virus không có hiệu quả. Và hắn ta đúng là một thằng asshole.”
“Thằng gì?”
Rebecca cười:“Được rồi, đó chỉ là một cách nói ám chỉ. Hắn là một tên tham tiền, một thằng khốn vô luân lí.”
Steve gật đầu, nghĩ về những báo cáo mà họ đã tìm thấy về Trisquad, cái quyết định cho sự tồn tại của khu nghiên cứu. Gọi những nạn nhân của T-virus là “các đơn vị”, tạo nên những phòng mổ và vận hành những bài kiểm tra kỹ năng trên họ, như thể họ là những con chuột trong mê cung vậy.
“ Như thể là chúng không biết chúng đang thực hiện các thí nghiệm trên con người vậy, trên những con người thực sự …”
“Làm sao mà chúng có thể làm vậy?”,anh nhẹ nhàng hỏi, như thể là tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi Rebecca. “Làm sao chúng có thể ngon giấc vào ban đêm chứ?“
Rebecca nhìn anh một cách trang trọng, như thể là cô có câu trả lời nhưng không biết làm sao diễn tả nó. Cuối cùng cô thở dài:
“Khi người ta quá đi sâu vào một lĩnh vực, cá biệt hơn khi đó là lĩnh vực đòi hỏi sự suy nghĩ sâu sắc và có đặc điểm tập trung vào chỉ một yếu tố bé nhỏ của cái gì đó - thật khó diễn tả, nhưng điều kinh khủng là rất dễ bị lạc lối vào cái yếu tố duy nhất ấy mà quên mất tất cả những thứ ở bên ngoài nó. Một khi dành cả ngày để nhìn vào kính hiển vi, bị bao quanh bởi các con số, những ghi chú và các quá trình… một số người sẽ bị lạc lối. Và khi họ không còn kiên định như lúc ban đầu, tham vọng theo đuổi cái yếu tố ấy sẽ chiếm giữ họ, làm cho mọi thứ khác đều trở nên vô nghĩa…”
Steve thấy được sự thấu hiểu của cô, và một lần nữa anh bị ấn tượng bởi những tư tưởng của cô, rõ ràng là cô đã tự liên hệ với chính bản thân mình…
“...Tất cả điều đó và một nụ cười thắp sáng căn phòng. Nếu – khi chúng ta thoát khỏi đây, tôi sẽ tới thành phố Racoon, ít nhất để tìm hiểu xem em có cần một người…”
Có âm thanh vang lên đâu đó ở trong tòa nhà, tiếng bước chân. Steve nhảy xuống khỏi chiếc bàn và đi mau về phía cửa.
Anh thò người ra hành lang và nghe tiếng David gọi qua những khối nhà trống rỗng.
“Phía sau!”,Steve hét lên, sau đó chờ đợi, nôn nóng dõi về phía góc hành lang, chờ David đi vào trong tầm nhìn, chờ thấy cả John và Karen đều khỏe và cười bên cạnh David. Rebecca chạy ra đứng cạnh Steve, và anh nhìn thấy sự quan tâm và hi vọng hiện rõ trên những nét thanh tú của khuôn mặt cô.
Theo bản năng, anh lần tìm bàn tay cô, một cảm giác náo nức rộn lên khi những ngón tay họ chạm vào nhau, nửa mong cô giật tay ra, nhưng cô không làm vậy, cô vươn tới gần anh và nhẹ nhàng nắm tay anh, làn da mềm và ấm chạm vào tay anh.
Cái giọng oang oang của John vọng khắp hành lang, to và đầy hài hước:
“Mặc quần áo vào nào, lũ nhóc, chúng ta còn phải tập hợp đấy.”
Cô giật nhanh tay ra, nhưng cái cách cô nhìn trộm anh đã nói lên nhiều thứ – dáng vẻ dịu dàng và nuối tiếc của cô làm tim anh rộn đập, nhưng anh hiểu đó là một biểu hiện của sự chín chắn, sự nhận thức tình huống họ đang mắc phải, sự thấu hiểu cái gì cần được ưu tiên.
“ Đừng tiến xa hơn cho tới khi chúng ta ra khỏi đây.”
Anh gật đầu nhẹ, và họ quay lại đợi những người kia.
Sau khi dặn dò và phái Athen đi làm nhiệm vụ, hắn chuẩn bị những ống tiêm và chọn một nơi để trú tạm. Chẳng còn gì cho hắn làm ngoài việc chờ đợi. Thay cho cái cảm giác tin tưởng lúc ban đầu, hắn bắt đầu trở lên lo lắng và cứ đi qua di lại trong phòng thí nghiệm không ngừng.
“ Điều gì sẽ xảy ra nếu Athen quên cách nạp đạn cho khẩu Rifle? Nếu bộ phận mở rào chắn không hoạt động, hoặc những kẻ đột nhập có đủ hỏa lực để ngăn chặn tụi Ma7?”
Hắn đã cố chuẩn bị cho mọi tình huống không mong đợi, mọi kế hoạch đều đã có chứa những phương án dự phòng sẵn, “ nhưng nếu tất cả đều đổ bể thì sao? nếu tất cả chúng đều thất bại hết?.Tao sẽ giết chúng nó, tao sẽ siết cổ chúng bằng chính đôi tay trần này, chúng không thể ngăn ta làm những việc phải được làm. Chúng không thể, không phải sau tất cả những gì mà ta đã hoàn thành, không phải sau mọi thứ ta đã phải trải qua để tới được vị trí mà ta đang đứng … “
Lần thứ hai trong ngày, trong đầu hắn lóe lên những hình …. Những hình ảnh sống động lạ lùng vào cái ngày nắng rực rỡ cách đây không đầy một tháng. Thay vì cố ngăn cản những ý nghĩ này như trước, hắn để chúng tràn tới, mời mọc chúng gợi lại cho mình về những gì hắn có thể làm một khi hắn muốn. Hắn bất ngờ ngừng đi lại và tiến tới chiếc ghế, đổ người vào nó và nhắm mắt lại.
“ Cái ngày nắng rực rỡ ấy…”
Cuối cùng, hắn đã nhận ra cần phải làm những gì, và lên kế hoạch cho nó trong suốt hai tuần liền, cân nhắc cẩn thận mỗi chi tiết một cách say sưa cho tới khi hài lòng rằng mọi thứ đều đã được dự kiến. Hắn đã dành nhiều thời gian đọc về Trisquads và rà qua những phần tổng thể, ghi nhớ những công việc hàng ngày trong khu nghiên cứu.
Hắn đã theo dõi những thói quen của các đồng nghiệp, học thuộc thời gian biểu của họ cho tới khi có thể đọc ngược được những thời gian biểu đó, hắn đã nhìn hàng giờ vào những bức phác họa mà hắn vẽ về mỗi tòa nhà, tập đi lại ở đó trong trí tưởng tượng hàng nghìn lần. Sau khi cân nhắc cẩn thận, hắn chọn ngày hành động và trước đó vài ngày, hắn đã đột nhập vào trong phòng chế tạo Trisquad để lấy trộm vài lọ nhỏ đựng những dược phẩm có tác dụng cực mạnh: Kylosynthesine, Mamesidine, Tralphenide – thuốc an thần của sinh vật và ma túy tổng hợp – một trong những sản phẩm tốt nhất của Umbrella.
Chỉ trong một buổi chiều, hắn đã pha chế xong các thứ thuốc ấy theo đúng cái cách mà hắn muốn. Sau đó là sự chờ đợi, như hắn đang đợi bây giờ…
Cái ngày trước khi kế hoạch được tiến hành, hắn đã theo dõi tiến trình tạo Trisquad, sau đó mời Tom Athen tới phòng thí nghiệm sau bữa tối để thảo luận riêng về một vài ý tưởng hắn có, để làm tăng tính hợp lí cho các hệ số kĩ thuật. Athen rất vui mừng chấp nhận và đã hăm hở nghe Griffith nói về giống loài do hắn tạo ra – tất nhiên là diễn tả trên lí thuyết – để rồi sau khi dùng một tách cà phê nóng, Athen trở thành kẻ đầu tiên nếm trải cái phép màu của Griffith.
Griffith cười và nhớ lại thời khắc huy hoàng đầu tiên đó, thí nghiệm đầu tiên và quan trọng nhất về tính hiệu quả của dòng giống mới. Hắn bảo Athen rằng tiếng nói duy nhất mà anh ta có thể nghe theo là tiếng của Nicolas Griffith, rằng những lời bép xép hay đề xuất này nọ đều là vô nghĩa. Vào cái buổi sáng định mệnh ấy, Griffith đã bật một trong những băng ghi âm bài thuyết giảng của Athen cho vị bác sĩ cả tin nghe, và anh chàng chẳng có phản ứng gì hơn là phát âm lắp bắp. Nếu kế hoạch thất bại thì Griffith có thể ngưng sự tiếp quản này lại, không ai có thể biết. Hắn đã hoạch định sẵn một vụ tai nạn trong trường hợp giống loài mới không vận hành như mong đợi, khi đó xác của Athen sẽ được tìm thấy vào ngày hôm sau, bị giạt vào bãi biển lởm chởm đá. Nhưng sự thành công ngoài tưởng tượng của tạo vật đó đã đánh tan mọi nghi ngại, và hắn chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục…
…Và kế đến là nhà bếp. Thuốc được bỏ vào trong những tách cà phê, được tẩm cẩn thận vào hoa quả và hòa tan vào trong sữa, nước trái cây … của mười chín người đàn ông và phụ nữ sống ở vịnh Caliban. Chỉ trừ một người thường xuyên bỏ ăn sáng và không uống cà phê, Kim D’Santo, một phụ nữ trẻ lố bịch làm việc với T-Virus, Griffith đã phái Athen tới để cắt cổ cô ta khi đang ngủ, trước khi mặt trời mọc…
… và đó là một ngày nắng rực rỡ, trời không mây và trong trẻo khi họ ngấu nghiến ăn sáng, uống từng ngụm cà phê, tản bộ ngoài không khí lành lạnh của buổi sáng, rồi quỵ xuống đất, nhiều kẻ còn chẳng kịp bước ra khỏi quầy ăn thì đã lảo đảo và ngã sóng xoài, một số gào lên rằng mình bị đầu độc tới khi không thể nói được nữa và chìm vào giấc ngủ dưới tác dụng của thuốc…
Griffith nhún vai, cố nhớ lại những gì đã xảy ra tiếp theo. Hắn nhắm vào Thurman, không thể kìm được nỗi khoái trá bệnh hoạn khi trình diễn cho vị bác sĩ tài giỏi này thứ hắn đã sáng chế. Sau đó là Alan Kinneson, trước giờ hắn chưa từng tặng thứ gì cho Alan cả, hy vọng món quà lần này sẽ làm anh ta dịu đi …
Hắn còn biết thêm nữa: Thurman và Athen đã xắp xếp bọn công nhân và dồn chúng vào khu A. Lyle Amman đã cố xoay xở trốn được một lúc nhưng sau đó vẫn bị phát hiện bởi bọn Trisquad vào xế chiều hôm đó, Griffith ăn bữa ăn nhẹ muộn và đi ngủ, dậy sớm hơn thường lệ vào sáng hôm sau để chuyển tài liệu và phần mềm vào phòng thí nghiệm. Đó là những gì hắn biết, nhưng vì một vài lí do nào đó, diễn tiến đã bị xóa nhòa và hắn thực sự không thể nhớ đã chứng kiến những gì, cái gì đã diễn ra với hắn vào phần còn lại của ngày hôm đó,
Griffith cố tập trung và lần mò lại những suy tưởng của mình, nhưng rốt cục chỉ có thể tìm được những cảnh tượng mờ nhạt và không rõ ràng: mặt trời giữa trưa nắng chói, những cơ thể ngủ chìm trong máu đỏ. Tiếng kêu rít của mòng biển vang khắp vịnh, chói tai và hoang dại, vang vọng trên những cơn gió nóng bỏng. Một cái mùi nồng nặc của rác bẩn và, và …
“ Máu thấm đầy tay ta, trên con dao mổ sắc lẻm ướt sũng, đang cắm sâu vào trong một bộ mặt mềm mềm, và những con mắt, những cái dạ dày, tiếng động ầm ầm đinh tai của sóng biển trong bóng tối và cuộn dây câu, và Amman, Amman, vẫy tay ……"
Đôi mắt hắn mở trợn tròn, và cơn ác mộng biến mất. Griffith lắc lắc đầu, nhìn thấy ánh sáng dìu dịu của phòng thí nghiệm. Ắt hẳn hắn đã ngủ gật được một lúc, đúng thế, phải, chắc chắn như vậy, hắn đã ngủ gật và có một cơn ác mộng thật khủng khiếp.
Hắn nhìn lên chiếc đồng hồ, thấy rằng đã được một lúc kể từ khi hắn phái hai tay bác sĩ đi làm việc. Hắn cảm thấy nhẹ bớt trong lòng khi nhận ra rằng mình đã không ngủ gật quá lâu, nhưng cái cảm giác thoải mái ấy nhanh chóng biến mất, sự bực dọc đang quay trở lại, hắn không ngừng băn khoăn lo lắng về những kẻ đang đột nhập vào khu nghiên cứu.
“ Chúng không thể ngăn ta lại, nó là của ta."
Griffith đứng dậy và lại tiếp tục đi ra đi vào không ngừng, chờ đợi..
Bài kiểm tra “cầu vồng thời gian”, số bảy, chỉ lâu hơn tí chút so với bài kiểm tra số bốn, cái David cho nên gọi là ‘bài kiểm tra quân cờ‘. John và Karen đã chỉ cho anh cái bàn nhỏ ở trong phòng lớn, đứng cạnh khi anh lật đi lật lại những quân đomino nhiều màu. Ngay bên cạnh cái đống gồm chín miếng có màu-của-cầu-vồng là một cái rãnh dài, có lẽ dài độ 1 foot và rộng khoảng 2 inch.
Rõ ràng là chỉ có thể đặt 7 miếng domino vào đó.
“ Cầu vồng có bảy màu, bảy miếng, đơn giản thế thì tại sao lại có tới chín miếng?"
David sắp xếp những miếng domino theo màu sắc của chúng, đặt thành một hàng bên cạnh cái rãnh. Mỗi miếng đều được khoan những chữ cái khác nhau bằng mực đen. Đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, và ba miếng màu tím với 3 chữ cái khác nhau.
“Chúng có nghĩa gì đây?",John hỏi.
Đi từ trái qua phải, sáu miếng đầu tiên ghi: J, F, M, A, M, J.
“Không phải tiếng Anh”,Karen ôn tồn nói."Ba miếng màu tím là: J, M và P."
David thở dài:“Chúng ta phải đặt một trong số chúng vào vị trí kế tiếp trong cái dãy xắp xếp này, hình như là có liên quan tới thời gian, có ý kiến nào không?“
John và Karen đều nhìn chăm chăm vào câu đố, ngâm cứu những chữ cái; và anh tự hỏi không biết họ có mệt mỏi như anh đang bắt đầu cảm thấy không? John rõ ràng có vẻ không hoạt bát như thường lệ, còn Karen trông như thể bị ai giáng cho một đòn vậy, da cô tái nhợt, và đang lẩm bẩm một thứ gì đó về khoảng cách.
“ Tất nhiên là họ mệt mỏi, nhưng ít nhất là họ đang cố gắng …"
David nhìn vào những miếng đomino nhiều màu và cố tập trung, nhưng không có vẻ gì là anh có thể xoay ra được một ý tưởng cho ra hồn. Hôm nay là một ngày tồi tệ, những thời điểm phải tập trung cao độ xem lẫn với hành động khiến anh có cảm giác máu nóng dồn hết lên đầu. Anh đã trải qua sự sợ hãi, cảm giác tự ngờ vực, quyết tâm rồi lại sợ hãi, và đầy những cảm xúc không rõ ràng khác. Bây giờ anh cảm thấy thật kiệt quệ, chờ đợi cái gì sẽ tiếp tục xảy ra tiếp theo ….
Đột nhiên John nhe răng cười, một tia sáng chiến thắng hiện lên trong mắt John.
“Những từ này ám chỉ các tháng: tháng 1 (January), tháng 2 (February), tháng 3 (March), tháng 4 (April), tháng 5 (May), tháng 6 (June), tháng 7 (July). Đó là lí do tại sao chữ cuối cùng là J”.
“Tuyệt vời”,David kêu lên, anh bắt đầu xếp những miếng đomino vào cái rãnh trong khi John thúc cùi trỏ vào Karen, vẫn nhe răng cười. “Tôi không chỉ giỏi trò khêu gợi như cô nghĩ đâu nhé.”
Như mọi khi, Karen chẳng buồn trả lời. Tin tưởng là sẽ vượt qua được bài kiểm tra thứ hai thứ hai này, David đặt nốt miếng đomino cuối cùng vào vị trí. Một tiếng Click yếu ớt và cầu vồng hạ xuống một chút, có lẽ chỉ chừng 1 mm. Phía trên họ, tiếng chuông vang lên từ một chiếc loa được che đi bởi một đèn huỳnh quang.
“Có vậy thôi à?”, John chua cay nói. “Không có màn trình diễn nào khác sao?”
David đứng dậy cười một cách mệt mỏi:
“Tôi cũng cảm thấy như các bạn vậy, chúng ta nên tiếp tục tiến lên, xem Steve và Rebecca làm ăn thế nào rồi?”
“Một đề xuất hấp dẫn đó David”,John tặc lưỡi. “Rất tuyệt.”
Mất một thoáng David mới nhận ra Karen bất chợt ôm lấy mắt cô, sau đó cào chúng. Khi cô bỏ tay ra, David thấy mắt phải của cô đỏ ngầu. Mắt trái cũng hơi đổi màu, mặc dù không rõ rệt. Cô để ý cái nhìn chăm chú của David, cười với anh và nhún vai:“Tôi hơi khó chịu, nó ngứa, nhưng không sao đâu.”
“Đừng dụi mắt, cô sẽ làm nó thêm tệ thôi”,David nói, tiến ra sau cánh cửa. “Và hãy để cho Rebecca xem xét nó khi chúng ta gặp họ.”
Họ đi trở ra hành lang và bắt đầu hướng tới cửa sau. David tự lên tinh thần cho mình khi lao qua khu hàng rào. Theo tính toán của anh, họ đã xoay sở xử lí xong được ba nhóm Trisquad, ba tên bên ngoài nhà để thuyền, tên thứ tư khi đang tiến về tòa nhà đầu tiên. Sau đó năm tên của John và Karen hạ khi đang ở giữa khối nhà C và D.
“ Phải chi mà mình biết ngay từ đầu là có bao nhiêu nhóm.”
Anh xua tan những lời mỉa mai trong thâm tâm khi họ tới cánh cửa sắt, Karen với tay lên tắt ngọn đèn trên đầu, họ rút vũ khí ra, hít thở thật sâu, chuẩn bị. David nhận ra một cảm giác quen thuộc, cái cảm giác vô danh mà anh hay trải qua trong những tình huống căng thẳng. Không hẳn là lo lắng về sinh tử, và mặc dù không phải là người theo đạo nhưng anh vẫn cho nó là thứ gì đó rất gần gũi với đức tin vào số phận, thứ cảm giác tiêu biểu khi phải chiến đấu trong lĩnh vực ngoài phạm vi chi phối của con người.
Dú có chuyện gì đã và đang xảy ra thì họ cũng đã bỏ nó lại phía sau rồi – giờ đây mọi nhân tố quyết định có vẻ như đều nằm ở đúng vị trí, ăn khớp vào nhau như các mảnh ghép của trò chơi ô chữ. Anh cảm nhận một cách chắn chắn về điều này. Nó giống một cái bánh xe may rủi khổng lồ đóng vai trò quyết định kết cuộc. Nó có thể lăn đến điểm sống hoặc chết, thành công hoặc thất bại, tất cả đều dồn vào những vòng quay, và lúc này nó đang xoay tròn đến một đoạn kết không thể tránh khỏi – chỉ có điều thay vì chậm đi, thì nó lại nhanh hơn, không ngừng tăng tốc và lộ rõ cho họ thấy một sự xếp đặt từ trước.
Trong quá khứ, anh thường cảm thấy an ủi mỗi khi bất chợt bắt gặp guồng quay này, một thứ cảm giác không thể định nghĩa được, khi nhận ra kết cuộc đã được định sẵn và tất cả những gì con người có thể làm là chứng kiến nó diễn ra. Khi anh còn bé và bị cha mình trút thịnh nộ lên đầu trong cơn say xỉn, niềm tin vào một viễn cảnh tươi sáng hơn là thứ duy nhất cứu vớt anh khỏi tuyệt vọng hoàn toàn. Lúc này, thế nhưng… lúc này mọi thứ thật tồi tệ, họ đã sơ xuất chui vào một mớ hỗn độn tối tăm quay cuồng, không nhận ra sự thật cho tới khi quá muộn, họ không thể quay trở lại nữa, không thể tránh những gì đang ở phía trước.
“ Phải kiên định đã, sau đó chúng ta sẽ làm những gì có thể làm.”
David bước tới cửa, bật chốt an toàn của khẩu Barreta. Dù cho họ có thể làm chủ những gì sẽ đến hay không thì Steve và Rebecca cũng đang đợi.
Căn phòng thử nghiệm rất yên lặng ngoại trừ tiếng kêu nhè nhẹ của chiếc máy được đánh dấu bởi những số màu xanh, chín tới mười hai, và tiếng lật giấy thỉnh thoảng sột soạt của Rebecca khi cô xem qua những báo cáo hàng ngày của Athen. Steve ngồi ở mép bàn và nhìn cô đọc, tư tưởng của anh bồn chồn và lo lắng khi phải chờ tín hiệu của những người kia. Ngực anh cứ tưng tức, vừa do mấy viên đạn bắn trúng anh lúc nãy, vừa bởi sự nóng ruột cho John và Karren.
Sau khi đã xem qua các phòng khác trong tòa nhà, họ đều đồng ý rằng phòng thử nghiệm là nơi để ngồi chờ. Có vẻ tòa nhà B trong khu nghiên cứu Umbrella hầu hết được dành cho những lĩnh vực phẫu thuật của các nghiên cứu hóa sinh về vũ khí sinh học, các phòng đều màu trắng và bọc thép, ảm đạm và không dễ chịu tý nào. Mặc dù tòa nhà cũng ngột ngạt và nóng như những chỗ mà họ đã tìm kiếm, nhưng Steve vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh khắp cơ thể khi họ đi qua những phòng mổ, như thể chúng có những đặc điểm giống các sinh vật nhiễm T-virus vậy. Lạnh lẽo và ko có sự sống, thậm chí tối tăm một cách có chủ đích …
Rebecca ngẩng lên, trong mắt cô lộ rõ sự thú vị.
“Nghe này,
Họ vẫn đợi sự phản hồi của chúng tôi về phần mở rộng từ khi Griffith tăng thời gian amp, chúng tôi có đủ chỗ cho 20 đơn vị, nhưng tôi sẽ chỉ giữ chắc tối đa là tới 12 thôi, chúng tôi không thể tập trung vào việc huấn luyện nhiều hơn bốn nhóm một lúc. Ammon nói sẽ gọi tôi nếu có bất cứ sự bất thường nào.“
Steve gật đầu, nửa mất hết can đảm, nửa bị hồi tưởng lại bởi thông tin trên. Họ đã đánh bại một nhóm Trisquad, cộng thêm với việc gây ra thương tích nghiêm trọng hoặc giết một cặp cá thể trong một nhóm khác nữa; thật là tốt. Nhưng mặt khác, điều này có nghĩa là còn hai nhóm khác đang lởn vởn đâu đó ngoài kia, trừ khi chúng hiện đang “bận rộn” với David và những người khác…
Anh tự cau có trong lòng, cố gắng nghĩ đến chuyện gì khác:
“Em có biết ‘tăng thời gian amp‘ có nghĩa gì không?”
Rebecca chậm rãi gật đầu, sự lo lắng thể hiện rõ trên trán cô:
“Em chắc chắn hắn ta ám chỉ rằng Griffith đã tăng tốc cho quá trình khuếch đại. Khuếch đại là kỳ hạn cho virus phát tán vào trong cơ thể vật chủ.”
Đó không có vẻ gì là cái anh muốn nghĩ tới. Bởi vài sự thoả thuận ngầm nào đó mà họ đã không hề nói về khả năng bị nhiễm virus của John và Karen từ khi David bỏ đi.
“Tuyệt, còn gì khác nữa không?”
Cô lắc đầu:“Không hẳn, hắn có nhắc tới Ma7 một đôi lần, nhưng không có gì đặc biệt hơn việc chúng là sản phẩm thử nghiệm T-virus không có hiệu quả. Và hắn ta đúng là một thằng asshole.”
“Thằng gì?”
Rebecca cười:“Được rồi, đó chỉ là một cách nói ám chỉ. Hắn là một tên tham tiền, một thằng khốn vô luân lí.”
Steve gật đầu, nghĩ về những báo cáo mà họ đã tìm thấy về Trisquad, cái quyết định cho sự tồn tại của khu nghiên cứu. Gọi những nạn nhân của T-virus là “các đơn vị”, tạo nên những phòng mổ và vận hành những bài kiểm tra kỹ năng trên họ, như thể họ là những con chuột trong mê cung vậy.
“ Như thể là chúng không biết chúng đang thực hiện các thí nghiệm trên con người vậy, trên những con người thực sự …”
“Làm sao mà chúng có thể làm vậy?”,anh nhẹ nhàng hỏi, như thể là tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi Rebecca. “Làm sao chúng có thể ngon giấc vào ban đêm chứ?“
Rebecca nhìn anh một cách trang trọng, như thể là cô có câu trả lời nhưng không biết làm sao diễn tả nó. Cuối cùng cô thở dài:
“Khi người ta quá đi sâu vào một lĩnh vực, cá biệt hơn khi đó là lĩnh vực đòi hỏi sự suy nghĩ sâu sắc và có đặc điểm tập trung vào chỉ một yếu tố bé nhỏ của cái gì đó - thật khó diễn tả, nhưng điều kinh khủng là rất dễ bị lạc lối vào cái yếu tố duy nhất ấy mà quên mất tất cả những thứ ở bên ngoài nó. Một khi dành cả ngày để nhìn vào kính hiển vi, bị bao quanh bởi các con số, những ghi chú và các quá trình… một số người sẽ bị lạc lối. Và khi họ không còn kiên định như lúc ban đầu, tham vọng theo đuổi cái yếu tố ấy sẽ chiếm giữ họ, làm cho mọi thứ khác đều trở nên vô nghĩa…”
Steve thấy được sự thấu hiểu của cô, và một lần nữa anh bị ấn tượng bởi những tư tưởng của cô, rõ ràng là cô đã tự liên hệ với chính bản thân mình…
“...Tất cả điều đó và một nụ cười thắp sáng căn phòng. Nếu – khi chúng ta thoát khỏi đây, tôi sẽ tới thành phố Racoon, ít nhất để tìm hiểu xem em có cần một người…”
Có âm thanh vang lên đâu đó ở trong tòa nhà, tiếng bước chân. Steve nhảy xuống khỏi chiếc bàn và đi mau về phía cửa.
Anh thò người ra hành lang và nghe tiếng David gọi qua những khối nhà trống rỗng.
“Phía sau!”,Steve hét lên, sau đó chờ đợi, nôn nóng dõi về phía góc hành lang, chờ David đi vào trong tầm nhìn, chờ thấy cả John và Karen đều khỏe và cười bên cạnh David. Rebecca chạy ra đứng cạnh Steve, và anh nhìn thấy sự quan tâm và hi vọng hiện rõ trên những nét thanh tú của khuôn mặt cô.
Theo bản năng, anh lần tìm bàn tay cô, một cảm giác náo nức rộn lên khi những ngón tay họ chạm vào nhau, nửa mong cô giật tay ra, nhưng cô không làm vậy, cô vươn tới gần anh và nhẹ nhàng nắm tay anh, làn da mềm và ấm chạm vào tay anh.
Cái giọng oang oang của John vọng khắp hành lang, to và đầy hài hước:
“Mặc quần áo vào nào, lũ nhóc, chúng ta còn phải tập hợp đấy.”
Cô giật nhanh tay ra, nhưng cái cách cô nhìn trộm anh đã nói lên nhiều thứ – dáng vẻ dịu dàng và nuối tiếc của cô làm tim anh rộn đập, nhưng anh hiểu đó là một biểu hiện của sự chín chắn, sự nhận thức tình huống họ đang mắc phải, sự thấu hiểu cái gì cần được ưu tiên.
“ Đừng tiến xa hơn cho tới khi chúng ta ra khỏi đây.”
Anh gật đầu nhẹ, và họ quay lại đợi những người kia.
Danh sách chương