Chương 119



Như thể muốn chứng minh lời Văn Xuân Tương nói không hề sai ngay ngày hôm sau sau khi Văn Xuân Tương vừa phân tích xong vài đệ tử Quy Nguyên tông cùng nhau đi tới trước động phủ của Tạ Chinh Hồng người của Nhân Chân tự tới thăm cũng gửi đn một

Như thể muốn chứng minh lời Văn Xuân Tương nói không hề sai, ngay ngày hôm sau sau khi Văn Xuân Tương vừa phân tích xong, vài đệ tử Quy Nguyên tông cùng nhau đi tới trước động phủ của Tạ Chinh Hồng, người của Nhân Chân tự tới thăm cũng gửi đến một phần bái thiếp (Thiệp thăm hỏi).

Tạ Chinh Hồng đã có lời Văn Xuân Tương căn dặn trước đó, giờ phút này lại có một loại cảm giác “Điều nên đến cuối cùng rồi cũng sẽ đến”. Những gì viết trên bái thiếp đều là lời nói suông, gần như chẳng có tính thực chất gì, cuối cùng là thăm hỏi quan tâm tình hình gần đây của Tạ Chinh Hồng, mời Tạ Chinh Hồng ghé đến gặp mặt ở một ngôi miếu nhỏ cách đó không xa.

Nói đến đây, tấm bái thiếp này cũng thực kỳ lạ. Nếu bọn họ muốn gặp hắn, hoàn toàn có thể trực tiếp đến Quy Nguyên tông, không cần gửi bái thiếp tới cửa rồi lại rời đi như thế. Hơn nữa nơi gặp mặt cũng không phải tửu lâu gì đó mà lại là một ngôi miếu nhỏ.

Binh đến tướng chặn, nước đến đất ngăn.

Tạ Chinh Hồng đóng thiếp lại, vẫn quyết định đi gặp trước rồi tính sau.

“Đa tạ mấy vị, bần tăng sẽ đi bây giờ.” Tạ Chinh Hồng khẽ thở dài, đi ra khỏi động phủ, phát hiện mấy đệ tử chẳng dám nhìn mình. Sau khi thấy hắn đi ra, càng không tự chủ được lùi về sau vài mét.

“Làm phiền ba vị.” Tạ Chinh Hồng mỉm cười nói.

“Không, không phiền, mời thiền sư.” Ba đệ tử Quy Nguyên tông liên tục xua tay nói.

Tạ Chinh Hồng xác định vị trí của ngôi miếu kia, thi triển độn pháp, chỉ trong mấy giây đã xuất hiện ở trên không của ngôi miếu. Song hắn cũng không vội đi xuống mà thi triển một pháp thuật nhỏ che giấu khí tức của bản thân, tiện thể dùng thần tảo xem xét tình hình trong miếu nhỏ bên dưới. (Thần tảo giống thần thức ấy, Tảo () nghĩa là quét)

Đây là một ngôi miếu gần như bị bỏ hoang, là nơi mà khi xưa vài tu sĩ tu hành ở gần đó tùy tay tạo nên. Ưu điểm duy nhất có lẽ là ở đây tầm nhìn bốn phía rộng lớn, nếu có người nào đi đến thì sẽ rất dễ bị phát hiện. Có điều ưu điểm đó đối với tu sĩ kỳ Xuất Khiếu thì quả thực chẳng tính là gì.

Trong miếu có Phổ Quảng, Hiền Giác và khoảng năm sáu hòa thượng khác, Phổ Quảng là người tu vi cao nhất, đạt đến Kim Đan trung kỳ, mấy người còn lại hầu hết đều là kỳ Trúc Cơ. Chẳng những lớn tuổi mà tu vi cũng bình thường, sắc mặt thì nặng xị dọa người, ngay cả lúc tụng kinh cũng rõ là không yên lòng. Tu vi như vậy mà đi ra ngoài, e là chẳng có mấy ai cho rằng bọn họ là Phật tu xuất thân chính thống.

Truyền thừa của Nhân Chân tự, xem ra vẫn sẽ hết.

Nghĩ đến đây, Tạ Chinh Hồng không khỏi dâng lên một cảm giác trướng nhiên nhược thất (thất vọng chán nản). Mặc dù nhân quả giữa hắn và Nhân Chân tự đã kết thúc từ lâu, song giờ phút này thấy họ như vậy, cũng khó tránh khỏi có chút xúc động. Hắn không tu theo đạo thống của Nhân Chân tự, dù muốn giúp cũng bất lực.

Văn Xuân Tương ở trong phòng nhìn chăm chú nhất cử nhất động của Tạ Chinh Hồng. Xét thấy mình có quan hệ rất lớn tới sự suy tàn của Nhân Chân tự, tuy rằng y chẳng hề thấy áy náy, song cứ để mặc tiểu hòa thượng yên lặng một chút đi.

Bỗng nhiên, Tạ Chinh Hồng chú ý, ánh mắt đặt trên đám người Phổ Quảng bên trong ngôi miếu.

Phổ Quảng ngồi trên bồ đoàn, ngừng tụng kinh, lên tiếng nói, “Các ngươi thấy Tạ Chinh Hồng bao giờ thì đến?”

Mấy hòa thượng thấy Phổ Quảng lên tiếng thì cùng dừng lại, chẳng có tâm trí nào tụng kinh nữa. Một người tiếp lời, “Phương trượng không cần sốt ruột, đệ tử nghĩ có lẽ Tạ Chinh Hồng phải đến ban đêm mới tới. Bây giờ mặt trời còn chưa xuống núi, hẳn còn phải chờ thêm chút nữa.”

Phổ Quảng nghe vậy, gật đầu, “Không sai, với tu vi và địa vị hiện giờ của Tạ Chinh Hồng, nhất định là muốn làm bộ làm tịch đây mà.”

Cũng không biết là từ bao giờ xuất hiện quy củ này, tu sĩ càng cao thâm thì lại càng không có khái niệm về thời gian. Đừng nói là đến đúng giờ, có đôi khi muộn mấy tháng mấy năm cũng là chuyện thường. Đối với những tu sĩ đại năng đó, tuổi thọ hầu hết đều là con số khổng lồ, ít có người sống đến thọ chung chính tẩm (sống thọ và chết tại nhà), phần lớn đều bỏ mạng trên đường hoặc trùng kích thất bại. Đám Phổ Quảng suy bụng ta ra bụng người, mấy người bọn họ nói dễ nghe thì là bạn cũ của Tạ Chinh Hồng, nói không dễ nghe thì là tống tiền. Tạ Chinh Hồng mà đến đúng giờ thì mới là chuyện lạ.

Có lời này của Phổ Quảng mở đầu, Hiền Giác và mấy hòa thượng còn lại cũng nhao nhao phụ họa hắn.

Nói một hồi, một hòa thượng liền nhịn không được dời đề tài đến chuyện Xá Lợi, “Tạ Chinh Hồng sẽ đưa ra thành ý cỡ nào vì Xá Lợi đây?”

Lời này vừa nói ra, sắc mặt của những người trong miếu đều không quá tốt.

Mặc dù bọn họ chắc chắn Tạ Chinh Hồng sẽ không bỏ qua Xá Lợi của Tuệ Chính, song hắn có thể cho bao nhiêu thứ thì lại không thể đoán trước được. Hắn là Phật tu, đương nhiên sẽ không dễ dàng làm hại bọn họ. Nhưng với địa vị hiện tại của Tạ Chinh Hồng, chỉ cần hắn lộ ra một chút biểu hiện không thích bọn họ, sẽ có tu sĩ vì lấy lòng hắn mà nhắm vào bọn họ.

“Trước đừng tự làm loạn trận tuyến.” Phổ Quảng nhấc tay, “Nơi này cách Quy Nguyên tông không xa, chẳng may có chuyện gì, Tạ Chinh Hồng cũng không dám ra tay với chúng ta ở ngay gần Quy Nguyên tông.”

Dứt lời, đám người lại im lặng.

Xá Lợi? Tạ Chinh Hồng nghe được hai chữ này, tâm thần lại động.

Thứ này hình như có không ít quan hệ với hắn.

Tạ Chinh Hồng cẩn thận suy nghĩ, đã có thể đoán được đại khái Xá Lợi mà bọn họ nói rốt cuộc là gì.

Có lẽ năm đó Tuệ Chính cũng không ngờ được rằng, Xá Lợi mà ông lưu lại với mong muốn bảo vệ bình an của tông môn, hôm nay lại bị dùng để làm giao dịch với một “người ngoài” như hắn? Đúng là đáng châm chọc.

Tạ Chinh Hồng sửa sang lại quần áo, hiện ra thân hình, thả ra một chút khí thế của tu sĩ kỳ Xuất Khiếu, khiến những người trong miếu chú ý đến mình.

Ấn tượng của Phổ Quảng về Tạ Chinh Hồng, vẫn dừng lại ở đứa trẻ lạnh lùng năm đó bước vào cửa Nhân Chân tự.

Mà hôm nay, hắn lại thấy một một người mặc tăng y trắng toát, mặt mang nụ cười mỉm, chậm rãi đi tới từ trong hư không……….. là Phật tu.

Đúng vậy, Phật tu.

Dù hắn không quy y, dù trên người trên tay hắn không hề mang theo phật châu hay kinh sách tượng trưng cho Phật tu, song vẫn có thể khiến người ta vừa nhìn đã nhận ra thân phận Phật tu của hắn.

Toàn thân trên dưới hắn đều biểu hiện hình tượng mà một Phật tu hẳn nên có, xuất trần, lạnh nhạt, và sự từ bi mãi không tan biến.

“Bần tăng Tạ Chinh Hồng, xin chào chư vị.”

Tạ Chinh Hồng hạ xuống mặt đất, không hề dấy lên chút bụi đất nào.

Ngôi miếu nhỏ cũ nát không người thăm hỏi lập tức trở nên tràn ngập thiền ý. (Thiền ý ở đây là chỉ sự trống rỗng, tĩnh lặng, an bình mà thiền định mang đến.)

“Xin chào Tạ………. Tạ tiền bối.” Đám người Phổ Quảng vốn đang định gọi là “Sư huynh” hoặc “Sư đệ” để lôi kéo quan hệ, song khi Tạ Chinh Hồng xuất hiện, bọn họ đã vứt phăng ý nghĩ này.

Trong Tu Chân giới, dù tu vi chỉ cao hơn chút ít thì cũng phải giữ thái độ cung kính với kẻ mạnh, huống chi cấp bậc của Tạ Chinh Hồng còn cao hơn bọn họ mấy phần?

Tạ Chinh Hồng có tu vi như vậy mà lại chịu đến gặp bọn họ, đã là niệm tình xưa ở Nhân Chân tự rồi.

“Mấy vị không cần khách khí.” Tạ Chinh Hồng cười nói.

“Không dám, không dám.” Phổ Quảng vội vàng trả lời, cúi đầu đồng thời thuận tiện dùng ánh mắt ngầm ám chỉ Hiền Giác đứng bên cạnh.

Hiền Giác làm bộ như không phát hiện.

Phổ Quảng thầm hận, lúc trước khi đưa ra chủ ý thì Hiền Giác nói năng hùng hổ lắm, bây giờ thấy chân thân của Tạ Chinh Hồng thì lại chẳng dám nói chữ nào.

Hừ!

“Tạ tiền bối đồng ý đến đây, thực sự khiến bần tăng vui sướng. Mời tiền bối vào trong nghỉ ngơi, xin chớ ghét bỏ.” Phổ Quảng cười gượng mời.

“Được.” Tạ Chinh Hồng gật đầu, không hề do dự cùng Phổ Quảng tiến vào trong miếu.

Phổ Quảng đi vào, liền cảm thấy không ổn lắm, bên trong chỉ đặt bồ đoàn của mấy người bọn họ, vẫn chưa chuẩn bị cho Tạ Chinh Hồng. Khi Phổ Quảng đang định ngăn Tạ Chinh Hồng, lại phát hiện Tạ Chinh Hồng chẳng buồn nhìn đống bồ đoàn trên đất, phủi cỏ tranh và tro bụi, vén vạt áo tăng y, ngồi xuống.

“Cái này………. Tạ tiền bối, chỗ bần tăng còn mấy cái bồ đoàn……….” Phổ Quảng nhìn chiếc bồ đoàn đang cầm trên tay, đặt xuống cũng không được mà không đặt cũng không xong.

“Đa tạ Phổ Quảng đạo hữu. Bồ đoàn chẳng qua chỉ là ngoại vật trợ giúp chúng ta tu hành thôi, không cần quá coi trọng làm gì.” Tạ Chinh Hồng nhẹ nhàng lắc đầu nói.

“Tiền bối nói phải.” Phổ Quảng ngượng ngùng cất bồ đoàn đi, cũng trực tiếp ngồi xuống đất cùng Tạ Chinh Hồng.

Mấy đệ tử khác cũng cất bồ đoàn, ngồi xuống đất, cố gắng làm quen.

Văn Xuân Tương thầm thấy buồn cười.

Hành động trông như thể lơ đãng này của tiểu hòa thượng, lại lừa hết đám người Phổ Quảng này.

Mặc dù Tạ Chinh Hồng cũng ngồi, nhưng hắn là tu sĩ kỳ Xuất Khiếu, pháp y cũng là đồ cao đẳng, đừng nói là ngồi như thế, dù có lăn lộn trên đất thì cũng chẳng dính một hạt bụi. Tuy rằng hắn đang ngồi, song vẫn có một tầng linh khí ngăn cách với mặt đất.

Nhưng đám Phổ Quảng thì khác.

Bọn họ là ngồi trên sàn thật.

Văn Xuân Tương nhìn tăng y của bọn họ, liền biết mấy thứ này gần như không tính là pháp y. Chắc là đám này định giả bộ đáng thương nên ngay cả tăng bào của phàm nhân cũng lôi ra mặc. Phổ Quảng thì còn đỡ, tốt xấu gì cũng là kỳ Kim Đan. Còn mấy đệ tử khác thì không ngăn được cái rét. Ngồi dưới đất như vậy, cực kỳ không thoải mái.

Ha ha, thú vị thú vị.

Y đoán. Chắc là mấy con lừa trọc này cho rằng Tạ Chinh Hồng làm vậy để cố ý ra oai phủ đầu, muốn cho bọn chúng biết lợi hại đây mà.

Văn Xuân Tương thầm thích chí trong lòng.

Mặc dù có đôi khi y cũng sẽ bị kích thích bởi những hành động vô ý thức như thế của Tạ Chinh Hồng, song nhìn tiểu hòa thượng kích thích kẻ khác, hơn nữa còn là đám lừa trọc mà y chẳng ưa nổi, thì rõ ràng là một tình huống khác.

Đúng như Văn Xuân Tương đoán, trong mắt đám người Phổ Quảng, hành động này của Tạ Chinh Hồng thực đúng là cố ý ra vẻ với bọn họ.

Không biết rằng, ý của Tạ Chinh Hồng là khiến bọn họ đừng để ý tới thứ khác, chuyên tâm tu hành, vì có lòng nhắc nhở mới cố ý nói ra. Đáng tiếc, lòng tốt lại bị xem như lòng lang dạ thú.

“Nghe nói dạo gần đây tu vi của tiền bối tăng tiến rất nhanh, chúng bần tăng đều vô cùng bội phục, mạo muội gửi bái thiếp đến, tiền bối đồng ý tới đây quả thực khiến bần tăng rất vui mừng.” Phổ Quảng tận lực khiến nụ cười của mình trông thật chân thành hòa ái.

“Đạo hữu quá khen.” Tạ Chinh Hồng thản nhiên trả lời.

“Đâu có, tiền bối có thể đạt được thành tựu bậc ấy chỉ trong thời gian ngắn như vậy, có lẽ dù ở trong đại thế giới cũng chẳng tìm được mấy người. Thứ cho bần tăng ngu dốt, không biết tiền bối có gì tâm đắc để cho chúng ta học tập một chút hay không.” Phổ Quảng tiếp tục cười hỏi.

“Đáng nói, chỉ là hai chữ “Chuyên tâm” mà thôi.” Tạ Chinh Hồng nghiêm túc nói, “Dốc lòng nghiên cứu kinh văn Phật pháp, xây dựng nền tảng vững chắc, vấn đạo vấn tâm, ắt sẽ có thu hoạch.”

Đám người Phổ Quảng vốn tưởng rằng sẽ được nghe bí pháp cao thâm gì đó, trong lòng đều âm thầm thất vọng, càng khẳng định rằng Tạ Chinh Hồng là một lão hồ ly dầu muối không ăn. Nếu chẳng có bản lĩnh tâm kế gì, sao có thể từ một tán tu trở nên phong sinh thủy khởi như vậy được?

(Phong sinh thủy khởi ý chỉ sự thịnh vượng, sung túc, vững mạnh. Ẩn dụ để chỉ làm việc tốt thì theo thời gian sẽ ngày càng gặt hái được nhiều thành công hơn, giống như gió thổi và nước gợn lan ra mang lại sự sống vậy.)

Tạ Chinh Hồng thấy sự thất vọng trong ánh mắt tươi cười của Phổ Quảng, trong lòng cũng yên lặng thở dài.

Hắn đã cố gắng chỉ bảo, tiếc rằng những người này căn bản nghe không lọt.

Thôi.

Hắn cũng không phải người thích làm chuyện vô ích, loại chuyện như tu hành, nếu vốn sinh ra đã kém cỏi thì về sau còn có thể bù lại. Nhưng ngay cả lòng kính đạo cũng không có thì dù Phật Tổ tại thế cũng bất lực thôi.

Đạo Tâm của Phổ Quảng đã mất, tuy rằng bên ngoài là Kim Đan trung kỳ, nhưng thực tế ra sao thì e rằng bản thân hắn đã rõ ràng.

“Tiền bối nói có lý.” Phổ Quảng vui tươi hớn hở nói tiếp, “Năm đó khi tiền bối còn chưa bước vào con đường tu hành, Tuệ Chính phương trượng từng khen ngợi tiền bối, hiện giờ xem ra quả thực không sai. Nếu là Tuệ Chính phương trượng dưới suối vàng mà biết, chắc hẳn sẽ rất vui mừng.”

Tạ Chinh Hồng chỉ cười không nói tiếp.

Nụ cười của Phổ Quảng hơi đanh lại, không hiểu vì sao Tạ Chinh Hồng nghe thấy cái tên Tuệ Chính mà lại chẳng mảy may phản ứng, nhưng đã nói đến nước này rồi, nếu không nói tiếp thì chuyến này của bọn họ sẽ vô ích mất.

Có lẽ là do tầm mắt của Phổ Quảng quá mức nhiệt liệt, đám người Hiền Giác cũng không dày mặt ngồi một bên giả chết nữa, đành phải kiên trì tiếp lời, “Tiếc rằng Tuệ Chính phương trượng năm đó đã viên tịch sau trận chiến với ma đầu Văn Xuân Tương để bảo vệ Đạo Xuân trung thế giới, tên ma đầu kia cũng quá mức giả dối, bằng không………..”

Tạ Chinh Hồng nhướn mày, rốt cuộc cũng mở miệng, “Mấy vị đạo hữu mời bần tăng đến đây là để nói những chuyện này sao?”

“Cái này……….. Tiền bối nói gì vậy chứ?” Phổ Quảng không biết vì sao Tạ Chinh Hồng lại phản ứng như vậy, đành phải miễn cưỡng trả lời.

“Bần tăng sực nhớ là còn có chút việc quan trọng, nếu mấy vị đạo hữu muốn nói những chuyện này, vậy để hôm khác nói cũng được.” Tạ Chinh Hồng định đứng dậy rời đi.

“Xin tiền bối hãy dừng bước!”

Phổ Quảng vừa âm thầm mắng Tạ Chinh Hồng không ra bài theo lẽ thường, vừa không thể không nói chuyện theo tiết tấu của Tạ Chinh Hồng.

“Đạo hữu có gì chỉ giáo?” Tạ Chinh Hồng quay đầu nhìn Phổ Quảng.

“Tiền bối hãy để bần tăng từ từ nói đã.” Phổ Quảng thấy Tạ Chinh Hồng bất cận nhân tình như thế, trong lòng thầm dập tắt mong muốn lôi kéo quan hệ với hắn. Phải cố kiếm chác một ít thì sẽ có lời hơn, bằng không, về sau không chừng sẽ bị Tạ Chinh Hồng ngáng chân.

“Bần tăng tư chất bình thường, sau khi phương trượng tiền nhiệm lâm nguy chịu khổ mà viên tịch thì trở thành trụ trì của Nhân Chân tự, một lòng muốn phát triển chùa, song khổ nỗi năng lực lại có hạn. Mấy năm trước, khi bần tăng đi tế bái cho Tuệ Chính phương trượng, phát hiện Tuệ Chính phương trượng có lưu lại một viên Xá Lợi.” Phổ Quảng vừa lén quan sát sắc mặt của Tạ Chinh Hồng vừa nói, “Bần tăng nghĩ, năm đó Tuệ Chính phương trượng rất sủng ái tiền bối, Xá Lợi của ngài ấy chỉ tiền bối mới sở hữu được, vậy nên dự định dâng lên cho tiền bối.”

Thực ra năm đó sau khi Tuệ Chính viên tịch có lưu lại những ba viên Xá Lợi, vài đệ tử còn sót lại của Nhân Chân tự chia bè kết phái đánh nhau để tranh đoạt vị trí trụ trì, mà Phổ Quảng nhân lúc hỗn loạn đã vụng trộm giấu đi một viên Xá Lợi của Tuệ Chính. Sau này, một vài môn phái nhỏ thấy Nhân Chân tự không có người chèo chống, bèn nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của. Một ít đệ tử có năng lực của Nhân Chân tự cũng lần lượt rời đi, không muốn hao mòn ở nơi đây nữa, vài người còn lại cũng đến chùa miếu khác làm đệ tử, rời đi chỉ bỏ lại Phổ Quảng năm đó vẫn chưa kịp kết Đan. Những tu sĩ đại năng luôn ao ước truyền thừa của Nhân Chân tự lại không muốn gánh vác nhân quả to lớn từ đạo thống diệt tuyệt của Nhân Chân tự, bèn tùy tiện ném vài thứ cho Phổ Quảng, để hắn kết Đan rồi tiếp nhận chức vụ chưởng môn của Nhân Chân tự. Mà tung tích của viên Xá Lợi cũng chẳng ai quan tâm, thậm chí nhiều người còn cho rằng, tổng cộng chỉ có hai viên Xá Lợi.

Nếu không phải do Hiền Giác lôi chuyện này ra, Phổ Quảng cũng không muốn lấy Xá Lợi ra.

Song, ngoài Xá Lợi của Tuệ Chính, hắn quả thực chẳng có thứ gì khiến Tạ Chinh Hồng sinh lòng hứng thú được. Càng không có cách nào kiếm chác được từ Tạ Chinh Hồng cả. Đương nhiên, cũng chính bởi vì Xá Lợi của Tuệ Chính nên hắn căn bản không dùng được.

“Ồ?” Tạ Chinh Hồng như cười như không nhìn Phổ Quảng, “Đạo hữu vất vả rồi.”

“Đâu có.” Phổ Quảng cười giả lả, “Có điều nhiều năm như vậy, bần tăng gìn giữ viên Xá Lợi này, không có công lao cũng có khổ lao, mong tiền bối thông cảm cho.” Đã nói đến mức này, Phổ Quảng cũng không muốn khách sáo với Tạ Chinh Hồng nữa.

“Đạo hữu muốn thứ gì?” Tạ Chinh Hồng hỏi.

“Vậy phải xem tiền bối nguyện ý đưa ra thứ gì đã?” Phổ Quảng vốn đang định nói mình muốn Kết Anh đan, song lại nghĩ Tạ Chinh Hồng có thể cho được nhiều hơn, vậy nên lời nói chực ra khỏi miệng lại nhanh chóng sửa lại.

Đám người Hiền Giác đi đến phía sau Phổ Quảng, cẩn thận dè chừng nhìn Tạ Chinh Hồng, “Mong tiền bối lập lời thề Đạo Tâm, đừng khiến chúng ta khó xử.”

Phổ Quảng được nhắc nhở, lập tức gật đầu nói, “Không sai.”

“Bần tăng có thể xem Xá Lợi trước được không?” Tạ Chinh Hồng hỏi ngược lại.

Phổ Quảng cười, “Tiền bối tu vi cao thâm, bần tăng không dám dễ dàng lấy đồ ra. Mong tiền bối tỏ chút thành ý trước đã.”

“Đúng, lập lời thề Đạo Tâm trước.” Hiền Giác lập tức kêu lên, vừa nói vừa móc ra một khối tinh thạch từ trong tay áo, “Chỗ ta có tinh thạch, truyền hết mọi cảnh tượng ở đây cho những đồng môn khác, nếu tiền bối định ỷ mạnh hiếp yếu, không để ý mặt mũi cướp đoạt ấy hả, ha ha.”

Trên mặt đám người Phổ Quảng đều lộ ra nụ cười đắc ý.

Vì hôm nay, bọn họ đã chuẩn bị không ít.

“Thành ý?” Tạ Chinh Hồng lạnh nhạt nhìn đám người Phổ Quảng, “Thứ gì mới được xem là thành ý?”

“Pháp bảo linh thạch linh mạch đan dược, đều tính là thành ý.” Phổ Quảng đắc ý cười nói, “Vả lại, năm đó tiền bối tốt xấu gì cũng xuất thân từ Nhân Chân tự, bây giờ không định báo đáp một hai thì đúng là không thể nào nói nổi. Mấy người chúng ta đã bảo vệ Nhân Chân tự bấy lâu, chẳng nhận được bao nhiêu thứ, trong lòng có điều bất mãn cũng là chuyện thường. Tiền bối có tu vi như thế, tùy ý lấy ra vài thứ đưa cho chúng ta, mọi người đều vui vẻ chẳng phải là việc tốt hay sao?”

“Khi Tuệ Chính phương trượng viên tịch, tu vi mới chỉ là kỳ Nguyên Anh.” Tạ Chinh Hồng thở dài một tiếng.

“Tiền bối cớ sao lại nói vậy.” Phổ Quảng buồn cười lắc đầu, “Xá Lợi có không ít công dụng, nhất định sẽ có chỗ dùng. Dù có mang ra ngoài đấu giá, cũng đáng một viên Kết Anh đan. Hơn nữa, Tuệ Chính phương trượng và tiền bối có nhân qua thâm sâu, dù tiền bối suy nghĩ cho bản thân thì cũng nên nhận lấy nó.”

Tạ Chinh Hồng yên lặng không nói gì.

Hắn nhớ rõ năm đó khi lần đầu gặp gỡ Phổ Quảng, mặc dù trong lòng Phổ Quảng lúc đó cũng phòng bị cảnh giác hắn, nhưng cũng không đến mức này.

Như thể biết được suy nghĩ của Tạ Chinh Hồng, Văn Xuân Tương vẫn luôn giữ im lặng rốt cuộc nhịn không được nói, “Phàm nhân chỉ khác nhau một ý nghĩ còn có thể làm ra chuyện không thể tưởng tượng được, huống chi là tu sĩ? Tư chất và ngộ tính của Phổ Quảng như thế, tu vi nhiều năm khó tiến triển, đã sớm mất đi Đạo Tâm, tâm ma lại quấn thân, bây giờ thành ra như vậy, dù mắng hắn là lừa trọc thì cũng là vũ nhục lừa trọc.”

“Về phần Nhân Chân tự, nó từng có thời kỳ huy hoàng, từng có khi suy tàn, hôm nay đến thời điểm khúc chung nhân tán, cũng là chuyện thường, ngươi không cần để ý làm gì.” (Khúc chân nhân tán: đi đến hồi kết, mọi thứ biến mất, con người tan rã, cảnh mất người cũng mất.)

Tạ Chinh Hồng khẽ than một tiếng, “Đại đạo gian nan, cho dù là Phật Như Lai của chúng ta, cũng phải trải qua vô vàn khó khăn gian khổ mới đạt thành đại đạo. Năm đó Phổ Quảng cũng là người ý khí phong phát, chỉ ngắn ngủi mấy chục năm, lại đi đến tình cảnh này. Nhưng đứng trước đại đạo, nửa bước cũng không được đi sai.” (Ý khí phong phát: khí thế hiên ngang, ngạo nghễ mạnh mẽ.)

Văn Xuân Tương cười, “Không sai.”

Tỷ như y, coi như là xui xẻo.

“Tiền bối suy xét thế nào?” Hiền Giác lầm tưởng rằng Tạ Chinh Hồng đang cân nhắc, không nhịn được bèn hỏi.

“Mấy vị đạo hữu làm chuẩn bị không tồi.” Tạ Chinh Hồng vỗ tay cười, “Có điều bần tăng tuy rằng không buồn để ý ngoại vật, nhưng cũng không thích bị người khác bức ép đưa ra quyết định.”

“Tạ Chinh Hồng, ngươi muốn chuyện mình bất kính với tôn trưởng bị chiêu cáo cho toàn thiên hạ sao?” Trực giác Phổ Quảng thầm kêu không ổn, ngay cả giọng nói cũng đanh lại.

“Tôn trưởng?” Tạ Chinh Hồng buồn cười lắc đầu, “Giữa ta và Tuệ Chính phương trượng, không có tình sư đồ.”

Tuệ Chính chưa từng nhận hắn làm đồ đệ, chưa từng truyền thụ công pháp của Nhân Chân tự cho hắn.

“Ngươi……. Ngươi định không nhận!”Phổ Quảng quát lớn.

Dẫu vậy trong lòng hắn vẫn tin những lời Tạ Chinh Hồng nói. Nếu Tuệ Chính và Tạ Chinh Hồng thực sự có nhân quả sư đồ, Nhân Chân tự bọn họ căn bản sẽ không rơi đến tình cảnh hôm nay. Năm đó Tạ Chinh Hồng xảy ra chuyện, những tu sĩ tìm kiếm Tạ Chinh Hồng cũng không có khả năng dễ dàng bỏ qua Nhân Chân tự như vậy.

“Chẳng có gì mà nhận hay không nhận cả, đây là sự thật.” Tạ Chinh Hồng chậm rãi nói, “Còn về Xá Lợi, ý đạo hữu là thứ này hả?”

Tạ Chinh Hồng xòe tay, trong lòng bàn tay là một viên đá hình bầu dục, lấp lóe kim quang.

Phổ Quảng sửng sốt, bấy giờ mới phát hiện túi và nhẫn trữ vật của mình đã biến mất không thấy tăm tích.

“Chỗ ta còn có tinh thạch, ngươi…….. ngươi chớ có xằng bậy.” Đám người Hiền Giác đại kinh thất sắc, vội vàng lấy tinh thạch ghi hình ra, như thể đang cầm pháp bảo hộ thân của mình vậy.

“Khi bần tăng đến đây, đã bố trí trận pháp rồi.” Tạ Chinh Hồng buồn cười trả lời, “Mấy vị khinh suất quá đấy.”

Tu sĩ kỳ Xuất Khiếu, chỉ một khối tinh thạch thì làm được gì?

Dù có truyền ra ngoài, theo quỹ tích của tinh thạch này mà hủy hết những tinh thạch nhận hình ảnh cũng chỉ là chuyện trong nháy mắt mà thôi.

Cái nhìn của Phổ Quảng và đám người Hiền Giác vẫn còn hạn chế ở kỳ Trúc Cơ và Kim Đan, ngay cả tu sĩ kỳ Nguyên Anh có phép thần thông gì cũng không biết, huống chi là kỳ Xuất Khiếu? Bọn họ dùng biện pháp của tu sĩ kỳ Kim Đan để đối phó với Tạ Chinh Hồng, sao có thể thành công được?

Văn Xuân Tương sửa lại trí nhớ của những người này, chẳng biết nên nói bọn họ là đáng cười hay đáng buồn nữa?

“Con đường tu tính là ở chỗ tự thân. Nếu mấy vị cứ như vậy, e rằng cách ngày thân tử đạo tiêu không còn xa nữa.” Tạ Chinh Hồng lắc đầu, ống tay áo phất lên, lập tức biến mất khỏi nơi này, “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai.[1]“

———————————–Tiểu phiên ngoại————————————

Ở Lưu gia trấn có một đồ tể chuyên giết heo mổ bò, tay nghề xài dao có thể xưng là hạng nhất ở Lưu gia trấn.

Bộ dạng của ông thật thà chất phác, tính tình cũng tốt, trong nhà có chút của cải, ngày nào cũng đủ ăn đủ mặc, ở Lưu gia trấn này như vậy đã là một gia đình tốt hiếm có. Cũng không biết có phải vì làm nhiều việc sát sinh hay không mà Lưu đồ tể cưới vợ đã mười năm, song vẫn chưa có nổi một mụn con. Vốn còn cưới một tiểu thiếp nữa, song cũng chẳng có bất cứ động tĩnh gì, sau này tiểu thiếp kia còn bỏ trốn với người khác. Lưu đồ tể đành từ bỏ mong muốn sinh con, dự định về sau xin mấy đứa con thừa tự từ chỗ họ hàng, nuôi nấng như con ruột.

Bỗng nhiên có một ngày, khi Lưu đồ tể đi giao thịt heo cho một nhà giàu nọ, chợt thấy một tiểu nha hoàn đáng thương đang khóc thút thít trong phòng bếp.

Lưu đồ tể biết tiểu nha hoàn nọ, nàng là người trong Lưu gia trấn, mấy năm nay cũng coi như qua lại quen mặt với Lưu đồ tể, mới mười bảy tuổi, đang là độ tuổi xuân thì. Mà giờ phút này, tiểu nha hoàn đang bưng lấy cái bụng to, sắc mặt vàng như nến, lén kéo Lưu đồ tể vào trong phòng bếp, “Bịch” một tiếng quỳ xuống trước mặt Lưu đồ tể.

Ra là đứa bé trong bụng nha hoàn là của lão gia nhà này. Nhưng lão phu nhân rất độc ác, trong tối ngoài sáng hạ dược nàng, khiến bụng nàng đau hồi lâu, song đứa trẻ vẫn kiên cường sống được. Bây giờ nàng tự biết thời gian chẳng còn nhiều, lại biết Lưu đồ tể không có con, muốn xin Lưu đồ tể mang con của mình đi.

Lưu đồ tể thấy nàng thực sự rất đáng thương, hơn nữa mình không con không cái, sau khi suy xét thì liền đồng ý.

Nha hoàn vui mừng quá đỗi, nói rằng chừng vài ngày nữa mình sẽ sinh con, đến lúc đó sẽ nhờ một người chị em thân thiết mang đứa nhỏ đi.

Lưu đồ tể về nhà kể lại với vợ, hai người đều cảm thấy ổn, bèn đáp ứng.

Không quá nửa tháng sau, có một đứa trẻ sơ sinh được lén đặt trước cổng nhà bọn họ, sau đó không lâu cũng nghe tin tiểu nha hoàn nọ đã qua đời.

Lưu đồ tể và vợ ôm đứa bé về, vụng trộm nuôi lớn.

******

★Chú thích:

[1]Bồ đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai: Đây là bốn câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng, trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học.  4 câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng ý nói mọi thứ chỉ là hư ảo, vậy nên đừng để tâm vướng bận, không thù hận oán trách.

Dịch nghĩa: Bồ đề vốn chẳng cây, gương sáng cũng không đài (giá gương), xưa nay không một vật, bụi trần bám vào đâu?

Trong dịp Ngũ tổ bảo chư tăng trong chùa Huỳnh Mai phải trình kệ để ngài thấy được chỗ tu hành của các vị tiến đến đâu, đạt thế nào để ngài truyền y bát làm Tổ thứ sáu thì Lục Tổ Huệ Năng đã làm 4 câu kệ này để phủ nhận 4 câu kệ của Thượng tọa Thần Tú là: “Thân thị bồ đề thụ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai.” (Dịch nghĩa: Thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, phải luôn lau chùi sạch, chớ để bụi trần bám.) Sau này Lục Tổ Huệ Năng được Ngũ Tổ truyền thừa y bát và trở thành Lục Tổ của Thiền tông.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện