Tácdăng vác Gian Potorova xuyên qua mê cung của rừng sâu. Lúc thì chàng đi trên những ngọn cây nhờ những đám dây leo, lúc thì túm những rễ cây lộ thiên, đánh đu vượt qua khoảng trống. Con đường đi của Tácdăng lúc tối lúc sáng. Những lùm cây mở ra rồi khép lại sau lưng hai người. Potorova không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Cũng có lúc cô phải nín thở vì những cú đánh đu vượt qua các miệng vực sâu. Nhưng ngay sau đó cô lại yên tâm vì sự vận động nhịp nhàng và khả năng giữ thăng bằng của chàng trai. Chàng đưa cô đi xuyên qua rừng rậm cũng chẳng khác gì con cá bơi tung tăng trong nước. Cô bình tĩnh tới mức đã bắt đầu ngắm nhìn thật kỹ khuôn mặt Tácdăng. Chàng người rừng này có một chiếc sẹo trắng dài từ mắt trái ngược lên vầng trán. Cô còn nhớ là khi chàng nhảy xổ vào con đười ươi hung dữ thì chiếc sẹo trắng đó đỏ hồng lên. Có thể vết sẹo đó là một chiến tích sau những trận đánh của chàng nhằm cứu sống những người trong nhóm của cô.
Con đường dọc bìa rừng khá dài. Tất nhiên với một thân thể yếu mềm của cô gái trên vai, Tácdăng không thể chạy như mọi ngày. Ngoài việc phải vác cô gái vừa nặng vừa dễ chịu đó ra, bóng hoàng hôn trong rừng cũng xuống rất sớm. Đang đi trên cây, tự nhiên Tácdăng tụt xuống mặt đất. Chàng đặt cô gái lên một đám cỏ rồi lại nhảy lên cây, biến mất.
Potorôva hoảng hốt nhìn quanh. Chàng người rừng đó chạy đi đâu? Chàng ta bỏ cô ở lại đây mất rồi! Vừa nghĩ như thế, cô đã cảm thấy trong mỗi rừng cây đều có cặp mắt thú dữ đang nhìn mình. Mỗi một tiếng động đều làm cô tưởng tượng tới hai hàm răng thú. Có thể chúng đang chuẩn bị để vồ cô.
Mới chỉ vài phút mà cô đã cảm thấy thời gian dài như hàng tiếng đồng hồ. Đột nhiên cô nghe thấy có tiếng động mạnh sau lưng. Cô thét lên một tiếng, co chân và quay đầu nhìn lại. Hóa ra là chàng trai người rừng. Chàng đang ôm trong tay một đống hoa quả.
Cả hai ngồi xuống. Chàng trai dùng dao găm tách từng hột hồ đào, lấy nhân đưa cho cô ăn. Hai người lặng lẽ nhai, thỉnh thoảng lại nhìn trộm nhau.
- Tôi rất muốn nghe anh nói tiếng Anh. - Cô gái lên tiếng trước.
Nhưng Tácdăng chỉ lắc đầu rồi cười. Cô gái thử nói mấy câu tiếng Pháp rồi lại chuyển sang tiếng Đức. Lúc đó cô hơi xấu hổ vì cách phát âm tiếng Pháp của cô rất dở. Nhưng rõ ràng là chàng trai này chẳng biết một thứ tiếng nào cả.
Potơrôva thất vọng, đành trao đổi với Tácdăng bằng cách ra hiệu. Nhưng chợt cô nhìn thấy sợi dây chuyền vàng trên cổ Tácdăng. Chiếc dây chuyền có gắn một mẩu gia huy nho nhỏ. Cô chỉ tay vào sợi dây chuyền. Tácdăng liên tháo ra ngay, sốt sắng thả vào lòng bàn tay cô gái. Potơrova xác định ngay được rằng thứ đồ trang sức này là một thứ đồ mỹ nghệ của các thế kỷ trước. Cô lật mặt sau tấm gia huy, dùng chiếc bút máy bật chốt, tách đôi ra. Hai mặt trong của tấm gia huy đều được lót bằng một lớp ngà voi rất mỏng. Trên nền ngà voi, nổi bật chân dung của một cô gái xinh đẹp và một người đàn ông trẻ, có khuôn mặt sắc nét, hơi nheo cười.
Potơrova nhìn Tácdăng, cô thấy chàng nhìn hai tấm ảnh bằng cặp mắt sửng sốt. Chàng đưa tay ra, thẫn thờ cầm tấm gia huy và quan sát rất kỹ. Điều đó chứng tỏ rằng Tácdăng đeo tấm gia huy đã lâu nhưng không hề biết rằng nó có thể mở ra được. Chàng chưa bao giờ trông thấy hai chiếc ảnh. Quan sát một lúc, chàng xoay ống đựng tên ra phía trước, dốc hết tên ra rồi moi ra một gói nhỏ bọc bằng cỏ khô. Chàng mở gói cỏ khô và đưa cho cô gái xem cái vật được bảo quản trong đó. Hóa ra là chân dung một người đàn ông. Chàng chỉ tay vào tấm chân dung rồi lại chỉ tay vào bức ảnh trong gia huy. Cô gái hết sức ngạc nhiên. Người đàn ông trong tranh và trong ảnh chỉ là một. Chính Tácdăng đã nhận ra điều đó. Khuôn mặt chàng trở nên tư lự, có vẻ muốn hỏi cô gái điều gì.
Potơrova chỉ vào người trong ảnh rồi lại chỉ vào Tácdăng có ý muốn hỏi rằng đó có phải là ảnh của chàng không. Bởi vì chàng có khuôn mặt rất giống người trong bức ảnh. Nhưng Tácdăng chỉ lắc đàu. Chàng lấy lại bức ảnh, gói ghém nó thật cẩn thận rồi đút vào ống tên như cũ. Po tơ rova vẫn cầm tấm gia huy đã mở. Cô hết sức xúc động vì cái đồ trang sức bí ẩn này. Chiếc gia huy đó rõ ràng là của huân tước Grayxtau. Hai chiếc ảnh đó, một là chân dung huân tước, một là chân dung Alice. Chàng trai người rừng này đã tìm thấy chiếc gia huy và tấm ảnh trong ngôi nhà gỗ ven biển. Nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt người rừng rất giống khuôn mặt người trong ảnh
Tácdăng ngồi quan sát cô gái. Chàng không biết cô đang nghĩ gì. Chàng đoán là cô có vẻ thích sợi dây đeo cổ. Khi cô gái trả lại cho chàng, chàng liền mở rộng vòng dây, đeo luôn vào cổ cô. Cô gái rụt đầu lại, có vẻ lượng lự giây lát rồi lại để yên cho chiếc gia huy tụt xuống ngực mình. Thay cho lời cảm ơn món quà tặng của Tácdăng, cô gái đứng dậy cúi đầu thật thấp. Tácdăng không hiểu cử chỉ của cô gái có nghĩa là như thế nào. Chàng cũng đứng dậy bắt chước cô, cúi đầu xuống. Hai mái tóc mượt mà của tuổi trẻ chạm vào nhau. Cả hai cùng cười.
Nhưng lúc này trời đã tối. Tácdăng lại chạy đi một lúc rồi trở về với một bó cỏ khô trong tay. Chàng chuẩn bị cho cô một chiếc đệm dưới đất và dựng một mái che phía trên. Cô gái chui vào nằm, còn chàng trai lùi ra ngoài đứng gác.
Sáng hôm sau Potorova tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Thoạt đầu cô nhìn ngơ ngác ra xung quanh. Nhớ lại câu chuyện hôm trước, cô thở dài nhẹ nhõm. Cô hoàn toàn yên tâm về hiện tại của mình. Nhưng kìa! Cô chẳng thấy bóng chàng trai đâu cả. Cô sợ hãi nhưng vẫn tin rằng chàng trai sẽ quay trở lại.
Đúng như vậy! Cô đã nghe thấy tiếng động xào xạc trên cành cây. Cô nhìn lên cao, nhận ra bóng dáng người rừng đang chuyền thoăn thoắt qua các cành cây mềm. Chàng trai đem về cho cô một ôm quả rừng. Hai người ngồi xuống, cùng ăn.
Ăn sáng xong, Tácdăng ra hiệu cho cô gái đi theo mình tới những gốc cây ở rìa khu rừng đốn. Tới nơi, hai cánh tay săn chắc của chàng nâng bổng cô lên, đặt cô lên một cành cây. Đứng trên cây, cô gái hiểu ngay rằng chàng trai đang đưa cô về ngôi nhà ven biển. Suốt mấy tiếng đồng hồ, hai người lại xuyên rừng mà chân không hề bén đất. Lúc này Tácdăng không vội vã nữa. Hai người ngồi trên cây nghỉ vài lần và uống nước. Đi một lúc nữa, Tácdăng đột nhiên nhảy xuống đất, nhổ một búi cỏ xanh tốt, đưa cho cô gái. Potorova chẳng hiểu gì. Nghĩ một lát cô mới biết rằng chàng trai muốn cô hiểu là loài cỏ đó chỉ mọc ven bờ biển. Điều đó cũng có nghĩa là ngôi nhà gỗ không còn xa nữa. Quả thật, sau khi leo lên cây, cô đã nghe thấy tiếng sóng biển rì rầm và nhìn thấy những đường nét lờ mờ của ngôi nhà gỗ.
Potorova cầm tay Tácdăng. Cô muốn đưa chàng vào ngôi nhà gỗ và kể cho cha mình biết rằng đây là người đã cứu cô. Nhưng đột nhiên khuôn mặt chàng trai lại bộc lộ sự rụt rè, lo âu. Chàng rút tay lại và lắc đầu. Potorova không hiểu vì sao chàng trai này lại muốn quay trở lại với những cánh rừng già độc địa, trong khi chẳng bị ai thúc ép. Cô không hiểu vì sao chàng lại không muốn vào nhà.
Vừa lúc đó vọng tới chỗ hai người một âm thanh yếu ớt của những phát súng xa. Hai người ngẩng đầu nhìn quanh.
Từ trong ngôi nhà gỗ Philando và người đàn bà da đen bước ra, nhìn đất, nhìn trời. Tácdăng chỉ về phía có tiếng súng, sau đó lại chỉ vào ngực mình. Cô gái hiểu: chàng người rừng này muốn đi giúp đỡ ai đó. Tất nhiên là chàng muốn giúp đỡ những người đồng hành của cô đang lâm vào tình thế nguy hiểm mới. Potorova lúc này tất nhiên không dự đoán được những gì đã xảy ra ở ngôi nhà gỗ sau khi cô bị bắt cóc. Từ chỗ hai người đứng, không thể nhìn thấy hai con thuyền thả neo ngoài vịnh.
Tác dăng chạy vào rừng sâu. Còn cô gái chạy đến khu đất trống trước căn nhà gỗ. Philando là người trông thấy bóng cô đầu tiên. Nhưng vì cận thị nên từ xa ông lại kêu ầm lên:
- Exmeranda! Chạy ngay vào nhà! Sư tử! lại sư tử! Exmeranda vừa nghe thấy đã tin là thật. Chỉ bằng vài bước nhảy, người đàn bà da đen đã chui được vào trong nhà, đóng chặt cửa. Viên trợ lý già chạy phía sau nhưng không kịp lọt vào nhà. Cánh cửa sập ngay trước mũi ông. Ông đứng ngoài, đấm cửa như điên.
- Mở ra đi! Exmeranda! Mở cửa nhanh cho tôi vào với!
Nhưng người đàn bà nhút nhát nghe tiếng đập cửa lại nghĩ là mõm con sư tử đang thúc vào cửa. Theo phản xạ cũ, cô ta lại ngất đi. Trong cơn hoảng hốt, lúng túng vì "con sư tử" sau lưng, viên trợ lý già không thể nào đẩy nổi cửa. Ông vội chạy ra sau nhà, định trèo lên mái. Nhưng mái nhà cũ lợp bằng lá đã qua hai mươi năm sương gió, nên ông già vừa túm được nắm lá khô, định đánh đu, co người lên thì rơi huỵch xuống đất. Rơi xuống đất rồi, trong tay ông vẫn còn cầm nguyên nắm lá.
Nằm trên mặt đất, đau ê ẩm, nhưng ông không quên con sư tử. Chợt nhớ là có cuốn sách viết rằng: sư tử không ăn thịt người chết, thậm chí nó không thèm đến gần những xác chết, viên trợ lý vội vàng nằm xõng xoài ra mặt đất, dang hai tay, hai chân ra thật rộng.
Gian Potorova chạy đến nơi, trông thấy ông Philando đang nằm giả vờ chết, cô không nhìn được cười. Nghe tiếng khúc khích, ông Philando ngồi nhổm dậy, sửa lại cặp kính cận để nhìn cho kĩ. Ông đã nhận ra Potorova.
- Cô đấy à? - Ông ôm ngực kêu lên - Lạy Chúa tôi! Chúa ở trên trời.
Ông vội đứng dậy, chạy đến chỗ cô gái. Ông chạy rất nhanh, hình như muốn tự kiểm tra lại xem mình có phải thật sự đang còn sống hay không.
- Lạy Chúa tôi! - ông lại cầu Chúa lượt nữa - cô từ đâu ra thế? Cô đã ở đâu? Thế nào?...
- Ông Philando ơi! - Potorova cười - ông hỏi chừng ấy câu hỏi thì tôi trả lời một lúc làm sao nổi.
° ° °
Ngay từ sáng sớm trung đội thủy thủ đã bị lạc rừng. Việc tìm kiếm Potorova dường như là một việc làm vô nghĩa. Chỉ vì thấy vị giáo sư già quá đau khổ và xót xa cho con gái nên trung úy Ácnốt không ra lệnh trở về. Chính trung úy cũng cho rằng, trong trường hợp may mắn nhất, cũng chỉ tìm được xác nạn nhân mà thôi. Mọi chuyện hình như đã quá muộn! Lấy chỗ người đàn bà da đen bị ngất làm tâm điểm, trung úy Ácnốt ra lệnh mở rộng bán kính tìm kiếm. Trung đội thủy thủ chia thành từng nhóm, tỏa ra các hướng lùng sục. Cứ mỗi lúc họ lại xa nhau, cho tới khi người nào cũng phải vật vã xiêu vẹo vì phải len lỏi qua những bụi rậm um tùm, tưởng chừng con rắn cũng không chui qua nổi. Mặc dù vậy, mệnh lệnh và lòng nhiệt tình vẫn thôi thúc họ tiến lên phía trước.
Khoảng giữa trưa họ dừng lại nghỉ ngơi lấy sức. Sau khi nghỉ, họ tưởng chừng như đã gặp may. Bởi vì họ phát hiện ra một con đường mòn dễ đi. Đó là lối mòn mà đàn voi thường qua lại. Con đường hướng về phía đông bắc. Sau khi thảo luận với giáo sư Poto và Clayton, viên trung úy liền ra lệnh cho cả trung đội tập trung hành quân theo lối mòn.
Dẫn đầu hàng quân là viên trung úy. Đường dễ đi, nên trung úy đi rất nhanh. Đi sau trung úy là vị giáo sư già chậm chạp. Mọi người không muốn để cho giáo sư tụt lại sau cùng nên đã để cho ông đi ngay sau viên trung úy. Tuy vậy, chỉ một lúc sau, ông lại tụt về phía sau trung úy hàng trăm mét.
Tới một khoảng rừng thưa, viên trung úy bị lọt vào ổ phục kích của sáu người da đen. Anh kêu to, báo động cho những người phía sau biết. Nhưng anh chưa kịp rút súng ngắn thì đã bị sa lưới và bị khênh luôn vào rừng sâu. Tốp thủy thủ đi sau giáo sư đã nghe thấy tiếng kêu. Họ chạy bổ lên phía trước để cứu viên trung úy nhưng chẳng thấy đâu, trừ vị giáo sư đang đứng im phăng phắc như cây sồi cụt ngọn. Trung đội thủy thủ chạy dồn lên phía trước, tới đúng chỗ trung úy bị bắt. Ngay lập tức từ trong các bụi cây vùn vụt lao ra năm sáu ngọn lao. Có mũi lao đã cắm trúng vào lưng một thủy thủ. Mọi người chưa kịp định thần thì lại một loạt lao nữa phóng ra. Không chần chừ gì nữa, các thủy thủ xả hàng loạt đạn vào các bụi cây.
Tốp thủy thủ đi sau cùng đã chạy tới nơi. Trung úy Sapinto chạy vọt lên phía trước, thay quyền chỉ huy. Cả trung đội xông vào các bụi rậm lùng sục. Chỉ vài phút sau họ đã thực sự bước vào trận chiến đấu gian nan, quyết liệt với khoảng năm chục người lính tự vệ của làng người da đen. Giáo mác, dao rừng, súng tiểu liên và cả mái chèo va đập vào nhau tạo thành một không khí đầy huyết chiến. Nhưng chẳng bao lâu sau, những người da đen của Bonga đã phải bỏ chạy vào rừng. Khu rừng trống chỉ còn trơ lại những chàng thủy thủ chiến thắng - một chiến thắng phải trả bằng giá đắt: trong số hai chục người đi biển có bốn bị chết, năm người bị thương, chưa kể tới trung úy Ácnốt bị bắt.
Đêm đã bắt đầu xuống. Không dễ gì tìm được con đường mòn lúc trước, trung úy Sapinto ra lệnh nghỉ đêm. Chỗ nằm của các thủy thủ phải có hàng rào bảo vệ bằng những bụi gai nhọn. Đó là mệnh lệnh. Mệnh lệnh này dường như vượt quá khả năng của các thủy thủ mệt mỏi sau trận đánh. Nhưng họ không thể làm khác. Việc xây dựng chỗ nằm thật vất vả, nhưng các thủy thủ làm tới nửa đêm thì cũng xong. Các thủy thủ đốt những đống lửa thật to xung quanh để người gác đêm dễ phát hiện thú dữ và những người da đen đánh lén. Sau khi cắt phiên gác cho từng người, Sapinto ra lệnh nghỉ ngơi. Mệnh lệnh đó có vẻ là thừa, vì họ vừa đặt lưng xuống là thiếp đi như chết.
Trời vừa hửng sáng, trung úy Sapinto liền cử người đi tìm lối mòn hôm trước. Chỉ nửa giờ sau họ đã tìm được con đường. Các thủy thủ lên đường trở lại bờ biển. Họ đi rất chậm, vì còn phải mang trên vai bốn thi hài và hai người đồng đội bị thương nặng. Những thủy thủ bị thương nhẹ cũng không thể đi nhanh.
Về tới nơi, trung úy Sapinto khẩn khoản yêu cầu vị thuyền trưởng giúp đỡ. Anh muốn xin thêm vài tay súng để đi tìm trung úy Ácnốt.
Con đường dọc bìa rừng khá dài. Tất nhiên với một thân thể yếu mềm của cô gái trên vai, Tácdăng không thể chạy như mọi ngày. Ngoài việc phải vác cô gái vừa nặng vừa dễ chịu đó ra, bóng hoàng hôn trong rừng cũng xuống rất sớm. Đang đi trên cây, tự nhiên Tácdăng tụt xuống mặt đất. Chàng đặt cô gái lên một đám cỏ rồi lại nhảy lên cây, biến mất.
Potorôva hoảng hốt nhìn quanh. Chàng người rừng đó chạy đi đâu? Chàng ta bỏ cô ở lại đây mất rồi! Vừa nghĩ như thế, cô đã cảm thấy trong mỗi rừng cây đều có cặp mắt thú dữ đang nhìn mình. Mỗi một tiếng động đều làm cô tưởng tượng tới hai hàm răng thú. Có thể chúng đang chuẩn bị để vồ cô.
Mới chỉ vài phút mà cô đã cảm thấy thời gian dài như hàng tiếng đồng hồ. Đột nhiên cô nghe thấy có tiếng động mạnh sau lưng. Cô thét lên một tiếng, co chân và quay đầu nhìn lại. Hóa ra là chàng trai người rừng. Chàng đang ôm trong tay một đống hoa quả.
Cả hai ngồi xuống. Chàng trai dùng dao găm tách từng hột hồ đào, lấy nhân đưa cho cô ăn. Hai người lặng lẽ nhai, thỉnh thoảng lại nhìn trộm nhau.
- Tôi rất muốn nghe anh nói tiếng Anh. - Cô gái lên tiếng trước.
Nhưng Tácdăng chỉ lắc đầu rồi cười. Cô gái thử nói mấy câu tiếng Pháp rồi lại chuyển sang tiếng Đức. Lúc đó cô hơi xấu hổ vì cách phát âm tiếng Pháp của cô rất dở. Nhưng rõ ràng là chàng trai này chẳng biết một thứ tiếng nào cả.
Potơrôva thất vọng, đành trao đổi với Tácdăng bằng cách ra hiệu. Nhưng chợt cô nhìn thấy sợi dây chuyền vàng trên cổ Tácdăng. Chiếc dây chuyền có gắn một mẩu gia huy nho nhỏ. Cô chỉ tay vào sợi dây chuyền. Tácdăng liên tháo ra ngay, sốt sắng thả vào lòng bàn tay cô gái. Potơrova xác định ngay được rằng thứ đồ trang sức này là một thứ đồ mỹ nghệ của các thế kỷ trước. Cô lật mặt sau tấm gia huy, dùng chiếc bút máy bật chốt, tách đôi ra. Hai mặt trong của tấm gia huy đều được lót bằng một lớp ngà voi rất mỏng. Trên nền ngà voi, nổi bật chân dung của một cô gái xinh đẹp và một người đàn ông trẻ, có khuôn mặt sắc nét, hơi nheo cười.
Potơrova nhìn Tácdăng, cô thấy chàng nhìn hai tấm ảnh bằng cặp mắt sửng sốt. Chàng đưa tay ra, thẫn thờ cầm tấm gia huy và quan sát rất kỹ. Điều đó chứng tỏ rằng Tácdăng đeo tấm gia huy đã lâu nhưng không hề biết rằng nó có thể mở ra được. Chàng chưa bao giờ trông thấy hai chiếc ảnh. Quan sát một lúc, chàng xoay ống đựng tên ra phía trước, dốc hết tên ra rồi moi ra một gói nhỏ bọc bằng cỏ khô. Chàng mở gói cỏ khô và đưa cho cô gái xem cái vật được bảo quản trong đó. Hóa ra là chân dung một người đàn ông. Chàng chỉ tay vào tấm chân dung rồi lại chỉ tay vào bức ảnh trong gia huy. Cô gái hết sức ngạc nhiên. Người đàn ông trong tranh và trong ảnh chỉ là một. Chính Tácdăng đã nhận ra điều đó. Khuôn mặt chàng trở nên tư lự, có vẻ muốn hỏi cô gái điều gì.
Potơrova chỉ vào người trong ảnh rồi lại chỉ vào Tácdăng có ý muốn hỏi rằng đó có phải là ảnh của chàng không. Bởi vì chàng có khuôn mặt rất giống người trong bức ảnh. Nhưng Tácdăng chỉ lắc đàu. Chàng lấy lại bức ảnh, gói ghém nó thật cẩn thận rồi đút vào ống tên như cũ. Po tơ rova vẫn cầm tấm gia huy đã mở. Cô hết sức xúc động vì cái đồ trang sức bí ẩn này. Chiếc gia huy đó rõ ràng là của huân tước Grayxtau. Hai chiếc ảnh đó, một là chân dung huân tước, một là chân dung Alice. Chàng trai người rừng này đã tìm thấy chiếc gia huy và tấm ảnh trong ngôi nhà gỗ ven biển. Nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt người rừng rất giống khuôn mặt người trong ảnh
Tácdăng ngồi quan sát cô gái. Chàng không biết cô đang nghĩ gì. Chàng đoán là cô có vẻ thích sợi dây đeo cổ. Khi cô gái trả lại cho chàng, chàng liền mở rộng vòng dây, đeo luôn vào cổ cô. Cô gái rụt đầu lại, có vẻ lượng lự giây lát rồi lại để yên cho chiếc gia huy tụt xuống ngực mình. Thay cho lời cảm ơn món quà tặng của Tácdăng, cô gái đứng dậy cúi đầu thật thấp. Tácdăng không hiểu cử chỉ của cô gái có nghĩa là như thế nào. Chàng cũng đứng dậy bắt chước cô, cúi đầu xuống. Hai mái tóc mượt mà của tuổi trẻ chạm vào nhau. Cả hai cùng cười.
Nhưng lúc này trời đã tối. Tácdăng lại chạy đi một lúc rồi trở về với một bó cỏ khô trong tay. Chàng chuẩn bị cho cô một chiếc đệm dưới đất và dựng một mái che phía trên. Cô gái chui vào nằm, còn chàng trai lùi ra ngoài đứng gác.
Sáng hôm sau Potorova tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Thoạt đầu cô nhìn ngơ ngác ra xung quanh. Nhớ lại câu chuyện hôm trước, cô thở dài nhẹ nhõm. Cô hoàn toàn yên tâm về hiện tại của mình. Nhưng kìa! Cô chẳng thấy bóng chàng trai đâu cả. Cô sợ hãi nhưng vẫn tin rằng chàng trai sẽ quay trở lại.
Đúng như vậy! Cô đã nghe thấy tiếng động xào xạc trên cành cây. Cô nhìn lên cao, nhận ra bóng dáng người rừng đang chuyền thoăn thoắt qua các cành cây mềm. Chàng trai đem về cho cô một ôm quả rừng. Hai người ngồi xuống, cùng ăn.
Ăn sáng xong, Tácdăng ra hiệu cho cô gái đi theo mình tới những gốc cây ở rìa khu rừng đốn. Tới nơi, hai cánh tay săn chắc của chàng nâng bổng cô lên, đặt cô lên một cành cây. Đứng trên cây, cô gái hiểu ngay rằng chàng trai đang đưa cô về ngôi nhà ven biển. Suốt mấy tiếng đồng hồ, hai người lại xuyên rừng mà chân không hề bén đất. Lúc này Tácdăng không vội vã nữa. Hai người ngồi trên cây nghỉ vài lần và uống nước. Đi một lúc nữa, Tácdăng đột nhiên nhảy xuống đất, nhổ một búi cỏ xanh tốt, đưa cho cô gái. Potorova chẳng hiểu gì. Nghĩ một lát cô mới biết rằng chàng trai muốn cô hiểu là loài cỏ đó chỉ mọc ven bờ biển. Điều đó cũng có nghĩa là ngôi nhà gỗ không còn xa nữa. Quả thật, sau khi leo lên cây, cô đã nghe thấy tiếng sóng biển rì rầm và nhìn thấy những đường nét lờ mờ của ngôi nhà gỗ.
Potorova cầm tay Tácdăng. Cô muốn đưa chàng vào ngôi nhà gỗ và kể cho cha mình biết rằng đây là người đã cứu cô. Nhưng đột nhiên khuôn mặt chàng trai lại bộc lộ sự rụt rè, lo âu. Chàng rút tay lại và lắc đầu. Potorova không hiểu vì sao chàng trai này lại muốn quay trở lại với những cánh rừng già độc địa, trong khi chẳng bị ai thúc ép. Cô không hiểu vì sao chàng lại không muốn vào nhà.
Vừa lúc đó vọng tới chỗ hai người một âm thanh yếu ớt của những phát súng xa. Hai người ngẩng đầu nhìn quanh.
Từ trong ngôi nhà gỗ Philando và người đàn bà da đen bước ra, nhìn đất, nhìn trời. Tácdăng chỉ về phía có tiếng súng, sau đó lại chỉ vào ngực mình. Cô gái hiểu: chàng người rừng này muốn đi giúp đỡ ai đó. Tất nhiên là chàng muốn giúp đỡ những người đồng hành của cô đang lâm vào tình thế nguy hiểm mới. Potorova lúc này tất nhiên không dự đoán được những gì đã xảy ra ở ngôi nhà gỗ sau khi cô bị bắt cóc. Từ chỗ hai người đứng, không thể nhìn thấy hai con thuyền thả neo ngoài vịnh.
Tác dăng chạy vào rừng sâu. Còn cô gái chạy đến khu đất trống trước căn nhà gỗ. Philando là người trông thấy bóng cô đầu tiên. Nhưng vì cận thị nên từ xa ông lại kêu ầm lên:
- Exmeranda! Chạy ngay vào nhà! Sư tử! lại sư tử! Exmeranda vừa nghe thấy đã tin là thật. Chỉ bằng vài bước nhảy, người đàn bà da đen đã chui được vào trong nhà, đóng chặt cửa. Viên trợ lý già chạy phía sau nhưng không kịp lọt vào nhà. Cánh cửa sập ngay trước mũi ông. Ông đứng ngoài, đấm cửa như điên.
- Mở ra đi! Exmeranda! Mở cửa nhanh cho tôi vào với!
Nhưng người đàn bà nhút nhát nghe tiếng đập cửa lại nghĩ là mõm con sư tử đang thúc vào cửa. Theo phản xạ cũ, cô ta lại ngất đi. Trong cơn hoảng hốt, lúng túng vì "con sư tử" sau lưng, viên trợ lý già không thể nào đẩy nổi cửa. Ông vội chạy ra sau nhà, định trèo lên mái. Nhưng mái nhà cũ lợp bằng lá đã qua hai mươi năm sương gió, nên ông già vừa túm được nắm lá khô, định đánh đu, co người lên thì rơi huỵch xuống đất. Rơi xuống đất rồi, trong tay ông vẫn còn cầm nguyên nắm lá.
Nằm trên mặt đất, đau ê ẩm, nhưng ông không quên con sư tử. Chợt nhớ là có cuốn sách viết rằng: sư tử không ăn thịt người chết, thậm chí nó không thèm đến gần những xác chết, viên trợ lý vội vàng nằm xõng xoài ra mặt đất, dang hai tay, hai chân ra thật rộng.
Gian Potorova chạy đến nơi, trông thấy ông Philando đang nằm giả vờ chết, cô không nhìn được cười. Nghe tiếng khúc khích, ông Philando ngồi nhổm dậy, sửa lại cặp kính cận để nhìn cho kĩ. Ông đã nhận ra Potorova.
- Cô đấy à? - Ông ôm ngực kêu lên - Lạy Chúa tôi! Chúa ở trên trời.
Ông vội đứng dậy, chạy đến chỗ cô gái. Ông chạy rất nhanh, hình như muốn tự kiểm tra lại xem mình có phải thật sự đang còn sống hay không.
- Lạy Chúa tôi! - ông lại cầu Chúa lượt nữa - cô từ đâu ra thế? Cô đã ở đâu? Thế nào?...
- Ông Philando ơi! - Potorova cười - ông hỏi chừng ấy câu hỏi thì tôi trả lời một lúc làm sao nổi.
° ° °
Ngay từ sáng sớm trung đội thủy thủ đã bị lạc rừng. Việc tìm kiếm Potorova dường như là một việc làm vô nghĩa. Chỉ vì thấy vị giáo sư già quá đau khổ và xót xa cho con gái nên trung úy Ácnốt không ra lệnh trở về. Chính trung úy cũng cho rằng, trong trường hợp may mắn nhất, cũng chỉ tìm được xác nạn nhân mà thôi. Mọi chuyện hình như đã quá muộn! Lấy chỗ người đàn bà da đen bị ngất làm tâm điểm, trung úy Ácnốt ra lệnh mở rộng bán kính tìm kiếm. Trung đội thủy thủ chia thành từng nhóm, tỏa ra các hướng lùng sục. Cứ mỗi lúc họ lại xa nhau, cho tới khi người nào cũng phải vật vã xiêu vẹo vì phải len lỏi qua những bụi rậm um tùm, tưởng chừng con rắn cũng không chui qua nổi. Mặc dù vậy, mệnh lệnh và lòng nhiệt tình vẫn thôi thúc họ tiến lên phía trước.
Khoảng giữa trưa họ dừng lại nghỉ ngơi lấy sức. Sau khi nghỉ, họ tưởng chừng như đã gặp may. Bởi vì họ phát hiện ra một con đường mòn dễ đi. Đó là lối mòn mà đàn voi thường qua lại. Con đường hướng về phía đông bắc. Sau khi thảo luận với giáo sư Poto và Clayton, viên trung úy liền ra lệnh cho cả trung đội tập trung hành quân theo lối mòn.
Dẫn đầu hàng quân là viên trung úy. Đường dễ đi, nên trung úy đi rất nhanh. Đi sau trung úy là vị giáo sư già chậm chạp. Mọi người không muốn để cho giáo sư tụt lại sau cùng nên đã để cho ông đi ngay sau viên trung úy. Tuy vậy, chỉ một lúc sau, ông lại tụt về phía sau trung úy hàng trăm mét.
Tới một khoảng rừng thưa, viên trung úy bị lọt vào ổ phục kích của sáu người da đen. Anh kêu to, báo động cho những người phía sau biết. Nhưng anh chưa kịp rút súng ngắn thì đã bị sa lưới và bị khênh luôn vào rừng sâu. Tốp thủy thủ đi sau giáo sư đã nghe thấy tiếng kêu. Họ chạy bổ lên phía trước để cứu viên trung úy nhưng chẳng thấy đâu, trừ vị giáo sư đang đứng im phăng phắc như cây sồi cụt ngọn. Trung đội thủy thủ chạy dồn lên phía trước, tới đúng chỗ trung úy bị bắt. Ngay lập tức từ trong các bụi cây vùn vụt lao ra năm sáu ngọn lao. Có mũi lao đã cắm trúng vào lưng một thủy thủ. Mọi người chưa kịp định thần thì lại một loạt lao nữa phóng ra. Không chần chừ gì nữa, các thủy thủ xả hàng loạt đạn vào các bụi cây.
Tốp thủy thủ đi sau cùng đã chạy tới nơi. Trung úy Sapinto chạy vọt lên phía trước, thay quyền chỉ huy. Cả trung đội xông vào các bụi rậm lùng sục. Chỉ vài phút sau họ đã thực sự bước vào trận chiến đấu gian nan, quyết liệt với khoảng năm chục người lính tự vệ của làng người da đen. Giáo mác, dao rừng, súng tiểu liên và cả mái chèo va đập vào nhau tạo thành một không khí đầy huyết chiến. Nhưng chẳng bao lâu sau, những người da đen của Bonga đã phải bỏ chạy vào rừng. Khu rừng trống chỉ còn trơ lại những chàng thủy thủ chiến thắng - một chiến thắng phải trả bằng giá đắt: trong số hai chục người đi biển có bốn bị chết, năm người bị thương, chưa kể tới trung úy Ácnốt bị bắt.
Đêm đã bắt đầu xuống. Không dễ gì tìm được con đường mòn lúc trước, trung úy Sapinto ra lệnh nghỉ đêm. Chỗ nằm của các thủy thủ phải có hàng rào bảo vệ bằng những bụi gai nhọn. Đó là mệnh lệnh. Mệnh lệnh này dường như vượt quá khả năng của các thủy thủ mệt mỏi sau trận đánh. Nhưng họ không thể làm khác. Việc xây dựng chỗ nằm thật vất vả, nhưng các thủy thủ làm tới nửa đêm thì cũng xong. Các thủy thủ đốt những đống lửa thật to xung quanh để người gác đêm dễ phát hiện thú dữ và những người da đen đánh lén. Sau khi cắt phiên gác cho từng người, Sapinto ra lệnh nghỉ ngơi. Mệnh lệnh đó có vẻ là thừa, vì họ vừa đặt lưng xuống là thiếp đi như chết.
Trời vừa hửng sáng, trung úy Sapinto liền cử người đi tìm lối mòn hôm trước. Chỉ nửa giờ sau họ đã tìm được con đường. Các thủy thủ lên đường trở lại bờ biển. Họ đi rất chậm, vì còn phải mang trên vai bốn thi hài và hai người đồng đội bị thương nặng. Những thủy thủ bị thương nhẹ cũng không thể đi nhanh.
Về tới nơi, trung úy Sapinto khẩn khoản yêu cầu vị thuyền trưởng giúp đỡ. Anh muốn xin thêm vài tay súng để đi tìm trung úy Ácnốt.
Danh sách chương