Nói về Quan Âm thấy Thiện Tài ngã lăn, mới thôi niệm chú, Thiện Tài hết đau hết nhức, coi lại trên đầu và tay chơn đều có Kim cô. Biết là vật ấy riết lại làm đau làm nhức, nên rán sức cổi hoài, mà cổi không đặng, vì nó dính liền với da thịt, cổi chừng nào đau chừng nấy, không biết tính làm sao.
Khi ấy Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
- Bồ Tát biết tánh nàng không chịu ở, nên cho đeo vòng vàng cho vui lòng.
Thiện Tài nghe càng giận thêm, đâm Hành Giả một giáo.
Tôn Hành Giả chạy núp sau lưng Quan Âm mà bạch rằng:
- Xin Bồ Tát niệm chú cho mau!
Quan Âm cầm nhành dương nhúng nước cam lộ rảy cho Thiện Tài mà bảo rằng: "Nhập lại!".
Thiện Tài quăng giáo chắp hai tay, vì cặp Kim cô nó dính lại.
Thiện Tài lấy tay ra không đặng, mới chịu phép lạy Phật Quan Âm. (Nên nay bức tượng Quan Âm có vẻ Thiện Tài đeo Kim cô năm cái, chắp tay lạy Phật).
Khi ấy Quan Âm cầm Tịnh bình chúc xuống và niệm chú nước tuôn ra chảy về biển, còn cái bình không.
Rồi nói với Hành Giả rằng:
- Tuy Thiện Tài đã quy y, song còn tánh rừng rú, để ta bắt nó nhứt bộ nhứt bái, cho tới Phổ đà sơn, còn ngươi về cứu thầy cho kiếp.
Tôn Hành Giả mừng rở từ tạ lui về. Còn Thiện Tài nhứt bộ nhứt bái tới gành Lạc đà, rồi lạy Phật Quan Âm 53 lạy mới thành chánh quả.
Nói qua Tôn Hành Giả về gần tới rừng Tòng, thấy Sa Tăng đương dắt ngựa đi kiếm, anh em gặp nhau mừng rỡ, Sa Tăng hỏi thăm rằng:
- Anh đi thỉnh Bồ Tát đã lâu lắm, sao bây giờ mới về? Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, Sa Tăng mừng rở mười phần. Anh em đồng nhảy khỏi suối, xông vào động giết yêu tinh, mở túi da thả Bát Giới ra, sau mở Tam Tạng, và thuật chuyện vân vân. Tam Tạng quì day mặt về hướng Nam, lạy tạ ơn Bồ Tát.
Còn Sa Tăng coi dọn cơm, thầy trò đồng ăn uống. Rồi cùng nhau ra khỏi động, thẳng chỉ Tây Phương.
Cách một tháng đi đến cụm rừng kia, Tam Tạng nghe tiếng sóng bủa.
Liền hỏi rằng:
- Các đồ đệ ôi! Tiếng sóng ở đâu dữ vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Ba đứa tôi không nghe tiếng sóng, sao có một mình thầy nghe mà thôi, chẳng qua thầy nghi quá, nên quên hết tâm kinh!
Tam Tạng nói:
- Từ khi Ô Sào thiền sư truyền tâm kinh đến nay, ngày ngào ta không đóc! Thầy quên câu nào ở đâu?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Thầy quên câu nầy: Vô nhãn nhỉ tỉ thiệt thân ý. Nghĩa là: Không biết tới con mắt, lổ tai, lỗ mũi, cái lưởi, cái mình, cái ý. Nên người tu hành, con mắt chẳng xem sắc tốt, lỗ tai chẳng nghe tiếng tục tiểu, lỗ mũi chẳng ngửi hơi thơm, cái lưỡi chẳng nếm mùi ngon, cái mình chẳng thèm sung sướng, cái ý chẳng hay vọng tưởng, ấy là trừ sáu môi giặc trong mình. Chớ thầy trong ý hay nghi sợ yêu quái, lỗ tai nghe tiếng sóng cũng giật mình, sao gọi là nhờ tâm kinh, e đi Tây Phương không đặng.
Tam Tạng nói:
- Ta nghĩ từ khi phụng chỉ ra khỏi Trường An, chải gió tắm mưa, ăn sương nằm tuyết, biết ngày nào đến Phật mà thỉnh kinh.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy cứ nhớ quê hương hoài, thì đi khó tới Tây Phương lắm. Nếu bền lòng tri chí, lẽ nào thỉnh chẳng đặng bửu kinh.
Bát Giới nói:
- Nếu bị yêu bắt mãi, dục dặc như vầy hoài, dầu đi một ngàn năm cũng không tới Phật.
Sa Tăng nói:
- Nhị ca với tôi tuy bất tài, song bền lòng quảy gánh đi hoài, cũng có ngày đặng thành chánh quả.
Giây phút đi khỏi cụm rừng, đến mé sông lớn; nước đen như mực, sóng bủa có vòi! Tam Tạng hỏi rằng:
- Ðồ đệ ôi! Nước gì đen dữ vậy?
Bát Giới nói:
- Tại thợ nhuộm đổ chàm.
Sa Tăng nói:
- Không phải đâu, chàm gì đen dữ vậy? Chắc là gần lò mực, họ rửa mực đen nước cả sông.
Tôn Hành Giả dứt rằng:
- Chúng bây đừng nói vô ích, hãy lo kết đưa sư phụ qua sông.
Tam Tạng hỏi:
- Sông nầy lớn chừng mấy dặm?
Bát Giới nói:
- Chừng hơn mười dặm mà thôi.
Tam Tạng hỏi: "Ba đứa bây, tính ai cõng ta lội qua sông ấy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Bát Giới cõng đặng.
Bát Giới nói:
- Tôi cõng không đặng đâu. Rất đổi cõng người phàm mà đằng vân hỏng đất ba thước còn nặng như núi thay, huống chi cõng mà lội qua sông sâu, chắc chôn tôi nơi đất cái!.
Khi ấy thầy trò đương bàn luận, xảy thấy có một người chèo đò, ở trên dòng nước thả xuống.
Tam Tạng mừng rõ nói rằng:
- Có đò chèo tới đó, kêu lại cho mau?
Sa Tăng cả kêu rằng:
- Ðò, ghé đưa thầy trò ta, sẽ tạ ơn xứng đáng.
Tên chèo đò ghé lại nói rằng:
- Chiếc xuồng nầy nhỏ xiếu, chở một lần sao hết bốn thầy!
Tam Tạng coi lại thiệt là chiếc ghe lường, ngồi trước chừng hai người thì khẩm. Liền hỏi rằng:
- Như vầy biết tính làm sao?
Sa Tăng thưa:
- Không hề chi, đi hai chuyến cũng đặng.
Bát Giới nói:
Ðể tôi đi trước với thầy.
Nói rồi đỡ Tam Tạng xuống thuyền, tên đò chèo riết. Ðến giữa dòng nổi gió nổi sóng, đò ấy đã chìm.
Còn Sa Tăng hoảng hốt nói rằng:
- Sư huynh ôi! Ðò chìm rồi, chắc thầy uống nước!
Tôn Hành Giả nói:
- Không phải chìm đâu. Nếu thiệt chìm thì Bát Giới cỏng thầy lên đặng. Ta coi tướng thằng chèo đò có hơi yêu khí, chắc là quái vật, giã dạng mà bắt thầy rồi.
Sa Tăng trách rằng:
- Sao anh không nói trước! Thôi, anh coi chừng ngựa và hành lý, để tôi lặn xuống kiếm thầy.
Nói rồi cởi áo, cầm Bữu trượng nhả xuống sông.
Nghe tiếng người nói chuyện, Sa Tăng men tới, thấy có một cái nhà lớn, ngoài treo tam biển có tám chữ như vầy: Hoành dương cốc, Hắc thủy Hà thần phủ. Nghĩa là dinh thần sông Hắc thủy, tại hang Hoành dương.
Sa Tăng nép dựa cửa, nghe tiếng nói rằng:
- Công bấy lâu cực khổ, nay mới về tay, Hòa Thượng nầy tu hành đã mười đời, ăn thịt nó thì sống hoài chẳng thác. Vậy chúng bây khiêng cái lồng sắt ra đây, bỏ thầy trò nó vào lồng, mà nấu cho thiệt chín, đặng mời cậu hai uống rượu cho trường thọ. Sa Tăng nghe rõ nổi giận, vác gậy phá cửa mà mắng rằng:
- Ðồ quái gở, trả sư phụ và sư huynh cho ta!
Tiểu yêu kinh hãi vào phi báo, vân vân.
Con quái ấy nghe nói, liền nai nịt tề chỉnh, cầm roi sắt ra cửa động mắng rằng:
- Ai cả gan dám phá cửa ta đó?
Sa Tăng nói:
- Loài yêu quái giả hình bắt thầy ta, phải trả cho mau kẻo mà chết.
Con quái cười ha hả nói rằng:
- Hòa Thượng nầy không muốn sống, mới đến đây nạp mình. Ta bắt đặng thầy ngươi, tinh lan, thịt mà đãi khách. Nay ngươi tới đây, ta bắt nấu luôn một chảo, hết trông đi thỉnh kinh.
Sa Tăng nổi giận đập đùa, con quái ấy đỡ rồi đánh lại. Hai người giao chiến ba mươi hiệp cầm đồng.
Khi ấy Sa Tăng nghĩ thầm rằng:
- Con yêu nầy đồng lực với mình, đánh hoài vô ích, chi bằng trá bại dụ nó lên mé đặng anh ta đập một bãng cho rồi đời.
Nghĩ rồi liền bại tẩu.
Con quái ầy đứng dừng lại nói rằng:
- Ngươi chạy về cho rãnh, ta chẳng đuổi làm chi. Ðể viết thiệp mời người ăn tiệc.
Còn Sa Tăng thở hào hển, nhảy lên mé, thuật chuyện vân vân.
Tôn Hành Giả nói:
- Không biết con quái ấy thuộc về loại gì?
Sa Tăng nói:
- Tôi coi hình dạng nó, chắc là con trạch thành tinh, không cũng loài cù chi đó.
Tôn Hành Giả nói:
- Không biết cậu nó là ai?
Xảy thấy ông già ở dưới sông bước lên là lễ thưa rằng:
- Tôi là thần sông nầy ra mắt Ðại Thánh.
Tôn Hành Giả nói:
- Hay là con yêu giả người đưa đò hồi nãy, bây giờ đến gạt ta chăng?
Ông già ấy lạy và khóc rằng:
- Tôi thiệt là thần sông Hắc thủy, không phải là yêu tinh, nguyên tháng 5 năm rồi, con yêu ấy ở Tây hải, thừa dịp nước lụt đến đây. Nó giao chiến với tôi, bởi sức già phải sút, nên nó chiếm cứ hang Hoành dương là chỗ ở của tôi. Tôi vào đơn kiện với Tây Hải Long Vương, chẳng ngờ là cậu nó, xử hiếp tôi phải nhường cho nó ở. Tôi muốn cáo với Thượng Ðế, ngặt chức mọn không dám đến cửa Trời. Nay nghe Ðại Thánh đến đây, nên tôi xin lấy lòng công bình trị tội loài độc ác.
Tôn Hành Giả nói:
- Như vậy thì Tây Hải long vương cũng có tội nữa. Thôi, Hà thần ở đây với Sa Tăng, ta đi bắt Ngao Thuận đến đây thâu nó.
Hà thần lạy tạ ơn.
Khi ấy Tôn Hành Giả đằng vân tới Tây hải sa xuống, đương đi dưới đáy biển, xảy thấy con các mực ôm phong thơ trong hộp mà lội như tên bay.
Tôn Hành Giả đập chết, mợ hộp lấy thơ xem thấy như vầy:
"Cháu là Ðã Khiết, trăm lạy dưng thơ cho cậu hai là Ngao lão đại nhơn. Trước saÜn mang ơn, nay lo đáp ngãi, cháu bắt đặng hai thịt ngon, trong đời ít có. Ngày sanh nhựt của cậu cũng gần đây. Sẳn dịp cháu làm tiệc chúc mừng cho cậu muôn tuổi. Xin cụ dời gót, cháu rất đội ơn".
Tôn Hành Giả xem rồi cười rằng:
- Con quỷ nầy nó bưng cái án cho ta.
Nói rồi bỏ thơ vào tay áo. Ði gần tới, gặp Dạ Xoa tuần tiểu.
Dạ Xoa thấy Ðại Thánh, trở vào báo lời Tây Hải Long Vương.
Ngao Thuận liền ra nghinh tiếp ngồi xong mời uống trà.
Tôn Hành Giả nói:
- Thôi, tôi không uống trà, để mời ông nhậu rượu.
Ngao Thuận mời rằng:
- Ðại Thánh bấy lâu tu hành theo phép Phật, cử tiêng tửu tục rất nghiêm. Sao lại mời tôi uống rượu?
Tôn Hành Giả nói:
- Tuy ông chưa uống rượu mặc lòng, mà ông đã mang tội uống rượu nặng lắm!
Nói rồi lấy thơ mời đưa ra.
Ngao Thuận mới xem qua, kinh hồn mất vía! Liền quì xuống thưa rằng:
- Xin Ðại Thánh thứ tội, nó là con trai thứ nhì của em gái tôi. Bởi cha nó khi xưa tráo bờ bớt nước, bị Nguy Trưng chém đầu, nên tôi thấy cháu còn nhỏ dại, cho nó vào ở sông Hắc thủy mà tu thân, không dè nó làm dữ như vậy! Ðể tôi sai người đi bắt nó tức thì.
Nói rồi đòi Thái Tử Ma Ngang truyền điểm 500 lính bắt Tiểu Ðà về nạp.
Thái Tử Ma Ngang vưng lịnh Tôn Hành Giả cũng từ biệt đi theo.
Khi đến ấy cửa sông Hắc thủy, Ma Ngang Thái Tử sai người vào báo tin rằng:
- Có con Tây hải Long vương là Ma Ngang đến.
Con quái ấy nghe báo hồ nghi rằng:
- Mình nghi người đem thơ mời không thấy trở lại, sao cậu chẳng đến, lại sai anh nầy tới!
Xảy thấy tiểu yêu vào báo rằng:
- Có một đạo binh đóng tại phía Tây.
Yêu Ðà nói:
- Anh ta phó hội, sao lại đem binh, chắc có cớ chi đó!
Nói rồi nai nịt cầm roi sắt ra ngoài chào rằng:
- Ðại biểu huynh, có tiểu đệ nghinh tiếp.
Thái Tử Ma Ngang cầm giản bước tới hỏi rằng:
- Mi mời cậu làm chi?
Yêu Ðà nói:
- Tiểu đệ bấy lâu mang ơn cậu cho ở chốn này, chưa chút đền ơn đền nghĩa trả. Bữa hổm em bắt đặng Ðường Tăng, bởi người ấy tu đã mười đời, ăn thịt nó thì trường thọ, nên mời cậu đến coi cho biết người, rồi sẽ làm thịt cho cậu uống rượu.
Thái Tử Ma Ngang nạt lớn rằng:
- Mi thiệt ngu si lắm, biết Ðường Tăng là ai chăng?
Yêu Ðà nói:
- Thầy sải đi thỉnh kinh chớ ai.
Thái Tử Ma Ngang nói:
- Mi biết sãi thỉnh kinh, mà không hiểu đệ tử người thần thông quảng đại.
Yêu Ðà nói:
- Có Bát Giới tôi đã bắt rồi, còn Sa Tăng cũng bại tẩu, nào thấy thần thông bao giờ. Thái Tử Ma Ngang nói:
- Thiệt người không biết, Ðường Tăng còn một người học trò lớn là Tề Thiên đại thánh phá thiên cung đời xưa, nay cách 500 năm dư, tu hành gọi là Tôn Hành Giả. Nay gặp đứa đi thơ, người đoạt đặng thơ của mi, liền vào cung Thủy Tinh bắt tội cha con ta đồng lỏa với mi. Vậy mi mau mau trả thầy trò Ðường Tăng ra ta nói giùm cho lạy mà chịu lỗi, hoặc may tánh mạng hãy còn, nếu nghịch thì ta giết mi trước.
Yêu Ðà nổi giận nói rằng:
- Ta với ngươi là anh em con cô con cậu ruột sao ngươi lại binh vực người dưng, lại còn biểu trả Ðường Tăng cho nó, tưởng ta dễ biểu lắm sao? Thiệt nó có tài mà đánh với ta ba hiệp cho cầm đồng, thì trả Ðường Tăng lập tức, bằng đánh không lại thì ta bắt luôn và nó mần hầm, chừng ấy chẳng biết bà con nào mà mời đóng cửa ăn ba thầy trò nó. Ai sợ nó thì sợ, chớ ta chẳng hề nhát bao giờ.
Thái Tử Ma Ngang mắng rằng:
- Ðồ quái gỡ buông lời vô lễ, mi đừng khoe tài đánh với Tôn Ðại Thánh sức ta là dở, mi dám cự hay chưa?
Yêu Ðà nói:
- Hào kiệt anh hùng, sợ ai mà không dám đánh?
Nói rồi kêu bộ hạ đồng ra.
Hai người trở mặt đánh với nhau, dữ hơn trận Sa Tăng đó nữa.
Giây lâu Thái Tử Ma Ngang đánh Yêu Ðà một giản chơn với, đá bồi một cái té nhào. Binh của Thái Tử bắt trói lại như bó sấu. Rồi lấy dây sắt xỏ xương cổ buộc lại dẫn lên bờ. Ðem dưng cho Tôn Hành Giả xử tội.
Tôn Hành Giả nói:
- Cậu mi cho ở đây mà tu luyện, sao còn ỷ mạnh chiếm đạo phủ Hà thần, lại bắt thầy ta và Bát Giái. Tội ngươi đáng đập một cây Thiết bãng. Song nghĩ Thiết bãng của ta nặng lắm, đập một cái cũng tan xương. Thôi thầy ta và Bát Giới ở đâu, ngươi chỉ cho thiệt.
Yêu Ðà thưa rằng:
- Tiểu Ðà không biết Ðại Thánh nên lầm. Nay anh tôi bắt rồi nhờ ơn Ðại Thánh không giết, tôi cám nghĩa muôn đời. Sư phụ và lịnh đệ tôi còn cầm tại phủ, xin Ðại Thánh tha trói, tôi về đem hai vị trả liền.
Thái Tử Ma Ngang thưa rằng:
- Thằng nầy gian trá mười phần, nếu thả ra e nó phản phúc.
Sa Tăng nói:
- Tôi biết chỗ, xin đi xúông đó cứu thầy.
Nói rồi rủ Hà thần đồng nhảy xuống sông đi tới dinh không thấy Tiểu yêu, vì nó thất kinh trốn hết. Vào sau dinh cứu Tam Tạng và Bát Giới đưa lên.
Khi ấy Bát Giới thấy Yêu Ðà bị trói ké, liền xách cào cỏ lại nói rằng:
- Súc sanh, nay mi hết kể ăn ta, ta đập một Ðinh ba cho nát óc.
Tôn Hành Giả can rằng:
- Thôi em tha nó chẳng giết làm chi, ấy là vị tình Tây Hải Long Vương và Thái Tử. Thái Tử Ma Ngang thưa rằng:
- Tôi chẳng dám ở trễ, nay cứu đặng sư phụ, tôi dẫn Yêu Ðà về nạp. Tuy Ðại Thánh không giết, chớ cha tôi cũng phạt một cách nặng nề.
Tôn Hành Giả nói:
- Vậy thì ngươi lãnh nó đem về cung, và nói ta gởi lời cám ơn lịnh tôn, sau sẽ đàm đạo.
Thái Tử Ma Ngang vân lời.
Còn Hà thần tạ ơn Tôn Hành Giả.
Tam Tạng nói:
- Ðồ đệ! Nay tính làm sao mà qua sông?
Hà thần nói:
- Xin lão gia lên yên, đừng lo việc ấy. Có tôi đi trước dẫn đường.
Nói rồi làm phép nước cạn khô một khúc sông như lộ.
Thầy trò qua khỏi lên bờ, nước đầy lại như cũ.
Nói về thầy trò qua khỏi sông, đi cũng lâu ngày lắm. Cuối tháng ba, đương đi thong thả, xảy nghe tiếng hò hét đông người, dường như binh ó!
Tam Tạng kinh hãi, ngó ngoái hỏi rằng:
- Chuyện chi mà inh ỏi như vậy?
Bát Giới nói:
- Chắc là lỡ non sụp đất.
Sa Tăng nói:
- Tôi nghe như sấm sấm rầm rầm.
Tam Tạng nói:
- Ta nghe như binh mã thì phải.
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Chắc là bàn không trúng hết thảy, để Lão Tôn coi thử thể nào?
Nói rồi nhảy lên mây ngó xuống, thấy trước xa có một cái thành. Coi lại chỗ có tiếng tăm cũng gần, hơi hào quang nhấp nháng, chớ không phải khí yêu.
Tôn Hành Giả ngẫm nghĩ rằng:
- Chỗ tử tế hiền lành, sao tiếng tăm lại ó ré?
Coi cho kỹ thì là các hòa thượng đẩy xe, đồng hè với nhau niệm Ðại lực vương Bồ Tát, rập một lượt nên tiếng nghe vang.
Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy xuống cho gần mà coi, thấy trong xe chở những cây súc, ngói, gạch, đẩy lên chót núi, lớp thời đứng trên cao kéo lên.
Ở trên núi có hai cái ải, trước cửa ải là đường xe dốc đỗ, kéo và đẩy cũng khó lên. Con các sải đều ăn mặc rách rưới, coi chẳng khác tội nhơn!
Tôn Hành Giả nghĩ thầm rằng:
- Có khi làm chùa thì phải! Sao không đụng nhơn công, các sãi phải ra sức như vậy?
Khi ấy Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
- Bồ Tát biết tánh nàng không chịu ở, nên cho đeo vòng vàng cho vui lòng.
Thiện Tài nghe càng giận thêm, đâm Hành Giả một giáo.
Tôn Hành Giả chạy núp sau lưng Quan Âm mà bạch rằng:
- Xin Bồ Tát niệm chú cho mau!
Quan Âm cầm nhành dương nhúng nước cam lộ rảy cho Thiện Tài mà bảo rằng: "Nhập lại!".
Thiện Tài quăng giáo chắp hai tay, vì cặp Kim cô nó dính lại.
Thiện Tài lấy tay ra không đặng, mới chịu phép lạy Phật Quan Âm. (Nên nay bức tượng Quan Âm có vẻ Thiện Tài đeo Kim cô năm cái, chắp tay lạy Phật).
Khi ấy Quan Âm cầm Tịnh bình chúc xuống và niệm chú nước tuôn ra chảy về biển, còn cái bình không.
Rồi nói với Hành Giả rằng:
- Tuy Thiện Tài đã quy y, song còn tánh rừng rú, để ta bắt nó nhứt bộ nhứt bái, cho tới Phổ đà sơn, còn ngươi về cứu thầy cho kiếp.
Tôn Hành Giả mừng rở từ tạ lui về. Còn Thiện Tài nhứt bộ nhứt bái tới gành Lạc đà, rồi lạy Phật Quan Âm 53 lạy mới thành chánh quả.
Nói qua Tôn Hành Giả về gần tới rừng Tòng, thấy Sa Tăng đương dắt ngựa đi kiếm, anh em gặp nhau mừng rỡ, Sa Tăng hỏi thăm rằng:
- Anh đi thỉnh Bồ Tát đã lâu lắm, sao bây giờ mới về? Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, Sa Tăng mừng rở mười phần. Anh em đồng nhảy khỏi suối, xông vào động giết yêu tinh, mở túi da thả Bát Giới ra, sau mở Tam Tạng, và thuật chuyện vân vân. Tam Tạng quì day mặt về hướng Nam, lạy tạ ơn Bồ Tát.
Còn Sa Tăng coi dọn cơm, thầy trò đồng ăn uống. Rồi cùng nhau ra khỏi động, thẳng chỉ Tây Phương.
Cách một tháng đi đến cụm rừng kia, Tam Tạng nghe tiếng sóng bủa.
Liền hỏi rằng:
- Các đồ đệ ôi! Tiếng sóng ở đâu dữ vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Ba đứa tôi không nghe tiếng sóng, sao có một mình thầy nghe mà thôi, chẳng qua thầy nghi quá, nên quên hết tâm kinh!
Tam Tạng nói:
- Từ khi Ô Sào thiền sư truyền tâm kinh đến nay, ngày ngào ta không đóc! Thầy quên câu nào ở đâu?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Thầy quên câu nầy: Vô nhãn nhỉ tỉ thiệt thân ý. Nghĩa là: Không biết tới con mắt, lổ tai, lỗ mũi, cái lưởi, cái mình, cái ý. Nên người tu hành, con mắt chẳng xem sắc tốt, lỗ tai chẳng nghe tiếng tục tiểu, lỗ mũi chẳng ngửi hơi thơm, cái lưỡi chẳng nếm mùi ngon, cái mình chẳng thèm sung sướng, cái ý chẳng hay vọng tưởng, ấy là trừ sáu môi giặc trong mình. Chớ thầy trong ý hay nghi sợ yêu quái, lỗ tai nghe tiếng sóng cũng giật mình, sao gọi là nhờ tâm kinh, e đi Tây Phương không đặng.
Tam Tạng nói:
- Ta nghĩ từ khi phụng chỉ ra khỏi Trường An, chải gió tắm mưa, ăn sương nằm tuyết, biết ngày nào đến Phật mà thỉnh kinh.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy cứ nhớ quê hương hoài, thì đi khó tới Tây Phương lắm. Nếu bền lòng tri chí, lẽ nào thỉnh chẳng đặng bửu kinh.
Bát Giới nói:
- Nếu bị yêu bắt mãi, dục dặc như vầy hoài, dầu đi một ngàn năm cũng không tới Phật.
Sa Tăng nói:
- Nhị ca với tôi tuy bất tài, song bền lòng quảy gánh đi hoài, cũng có ngày đặng thành chánh quả.
Giây phút đi khỏi cụm rừng, đến mé sông lớn; nước đen như mực, sóng bủa có vòi! Tam Tạng hỏi rằng:
- Ðồ đệ ôi! Nước gì đen dữ vậy?
Bát Giới nói:
- Tại thợ nhuộm đổ chàm.
Sa Tăng nói:
- Không phải đâu, chàm gì đen dữ vậy? Chắc là gần lò mực, họ rửa mực đen nước cả sông.
Tôn Hành Giả dứt rằng:
- Chúng bây đừng nói vô ích, hãy lo kết đưa sư phụ qua sông.
Tam Tạng hỏi:
- Sông nầy lớn chừng mấy dặm?
Bát Giới nói:
- Chừng hơn mười dặm mà thôi.
Tam Tạng hỏi: "Ba đứa bây, tính ai cõng ta lội qua sông ấy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
- Bát Giới cõng đặng.
Bát Giới nói:
- Tôi cõng không đặng đâu. Rất đổi cõng người phàm mà đằng vân hỏng đất ba thước còn nặng như núi thay, huống chi cõng mà lội qua sông sâu, chắc chôn tôi nơi đất cái!.
Khi ấy thầy trò đương bàn luận, xảy thấy có một người chèo đò, ở trên dòng nước thả xuống.
Tam Tạng mừng rõ nói rằng:
- Có đò chèo tới đó, kêu lại cho mau?
Sa Tăng cả kêu rằng:
- Ðò, ghé đưa thầy trò ta, sẽ tạ ơn xứng đáng.
Tên chèo đò ghé lại nói rằng:
- Chiếc xuồng nầy nhỏ xiếu, chở một lần sao hết bốn thầy!
Tam Tạng coi lại thiệt là chiếc ghe lường, ngồi trước chừng hai người thì khẩm. Liền hỏi rằng:
- Như vầy biết tính làm sao?
Sa Tăng thưa:
- Không hề chi, đi hai chuyến cũng đặng.
Bát Giới nói:
Ðể tôi đi trước với thầy.
Nói rồi đỡ Tam Tạng xuống thuyền, tên đò chèo riết. Ðến giữa dòng nổi gió nổi sóng, đò ấy đã chìm.
Còn Sa Tăng hoảng hốt nói rằng:
- Sư huynh ôi! Ðò chìm rồi, chắc thầy uống nước!
Tôn Hành Giả nói:
- Không phải chìm đâu. Nếu thiệt chìm thì Bát Giới cỏng thầy lên đặng. Ta coi tướng thằng chèo đò có hơi yêu khí, chắc là quái vật, giã dạng mà bắt thầy rồi.
Sa Tăng trách rằng:
- Sao anh không nói trước! Thôi, anh coi chừng ngựa và hành lý, để tôi lặn xuống kiếm thầy.
Nói rồi cởi áo, cầm Bữu trượng nhả xuống sông.
Nghe tiếng người nói chuyện, Sa Tăng men tới, thấy có một cái nhà lớn, ngoài treo tam biển có tám chữ như vầy: Hoành dương cốc, Hắc thủy Hà thần phủ. Nghĩa là dinh thần sông Hắc thủy, tại hang Hoành dương.
Sa Tăng nép dựa cửa, nghe tiếng nói rằng:
- Công bấy lâu cực khổ, nay mới về tay, Hòa Thượng nầy tu hành đã mười đời, ăn thịt nó thì sống hoài chẳng thác. Vậy chúng bây khiêng cái lồng sắt ra đây, bỏ thầy trò nó vào lồng, mà nấu cho thiệt chín, đặng mời cậu hai uống rượu cho trường thọ. Sa Tăng nghe rõ nổi giận, vác gậy phá cửa mà mắng rằng:
- Ðồ quái gở, trả sư phụ và sư huynh cho ta!
Tiểu yêu kinh hãi vào phi báo, vân vân.
Con quái ấy nghe nói, liền nai nịt tề chỉnh, cầm roi sắt ra cửa động mắng rằng:
- Ai cả gan dám phá cửa ta đó?
Sa Tăng nói:
- Loài yêu quái giả hình bắt thầy ta, phải trả cho mau kẻo mà chết.
Con quái cười ha hả nói rằng:
- Hòa Thượng nầy không muốn sống, mới đến đây nạp mình. Ta bắt đặng thầy ngươi, tinh lan, thịt mà đãi khách. Nay ngươi tới đây, ta bắt nấu luôn một chảo, hết trông đi thỉnh kinh.
Sa Tăng nổi giận đập đùa, con quái ấy đỡ rồi đánh lại. Hai người giao chiến ba mươi hiệp cầm đồng.
Khi ấy Sa Tăng nghĩ thầm rằng:
- Con yêu nầy đồng lực với mình, đánh hoài vô ích, chi bằng trá bại dụ nó lên mé đặng anh ta đập một bãng cho rồi đời.
Nghĩ rồi liền bại tẩu.
Con quái ầy đứng dừng lại nói rằng:
- Ngươi chạy về cho rãnh, ta chẳng đuổi làm chi. Ðể viết thiệp mời người ăn tiệc.
Còn Sa Tăng thở hào hển, nhảy lên mé, thuật chuyện vân vân.
Tôn Hành Giả nói:
- Không biết con quái ấy thuộc về loại gì?
Sa Tăng nói:
- Tôi coi hình dạng nó, chắc là con trạch thành tinh, không cũng loài cù chi đó.
Tôn Hành Giả nói:
- Không biết cậu nó là ai?
Xảy thấy ông già ở dưới sông bước lên là lễ thưa rằng:
- Tôi là thần sông nầy ra mắt Ðại Thánh.
Tôn Hành Giả nói:
- Hay là con yêu giả người đưa đò hồi nãy, bây giờ đến gạt ta chăng?
Ông già ấy lạy và khóc rằng:
- Tôi thiệt là thần sông Hắc thủy, không phải là yêu tinh, nguyên tháng 5 năm rồi, con yêu ấy ở Tây hải, thừa dịp nước lụt đến đây. Nó giao chiến với tôi, bởi sức già phải sút, nên nó chiếm cứ hang Hoành dương là chỗ ở của tôi. Tôi vào đơn kiện với Tây Hải Long Vương, chẳng ngờ là cậu nó, xử hiếp tôi phải nhường cho nó ở. Tôi muốn cáo với Thượng Ðế, ngặt chức mọn không dám đến cửa Trời. Nay nghe Ðại Thánh đến đây, nên tôi xin lấy lòng công bình trị tội loài độc ác.
Tôn Hành Giả nói:
- Như vậy thì Tây Hải long vương cũng có tội nữa. Thôi, Hà thần ở đây với Sa Tăng, ta đi bắt Ngao Thuận đến đây thâu nó.
Hà thần lạy tạ ơn.
Khi ấy Tôn Hành Giả đằng vân tới Tây hải sa xuống, đương đi dưới đáy biển, xảy thấy con các mực ôm phong thơ trong hộp mà lội như tên bay.
Tôn Hành Giả đập chết, mợ hộp lấy thơ xem thấy như vầy:
"Cháu là Ðã Khiết, trăm lạy dưng thơ cho cậu hai là Ngao lão đại nhơn. Trước saÜn mang ơn, nay lo đáp ngãi, cháu bắt đặng hai thịt ngon, trong đời ít có. Ngày sanh nhựt của cậu cũng gần đây. Sẳn dịp cháu làm tiệc chúc mừng cho cậu muôn tuổi. Xin cụ dời gót, cháu rất đội ơn".
Tôn Hành Giả xem rồi cười rằng:
- Con quỷ nầy nó bưng cái án cho ta.
Nói rồi bỏ thơ vào tay áo. Ði gần tới, gặp Dạ Xoa tuần tiểu.
Dạ Xoa thấy Ðại Thánh, trở vào báo lời Tây Hải Long Vương.
Ngao Thuận liền ra nghinh tiếp ngồi xong mời uống trà.
Tôn Hành Giả nói:
- Thôi, tôi không uống trà, để mời ông nhậu rượu.
Ngao Thuận mời rằng:
- Ðại Thánh bấy lâu tu hành theo phép Phật, cử tiêng tửu tục rất nghiêm. Sao lại mời tôi uống rượu?
Tôn Hành Giả nói:
- Tuy ông chưa uống rượu mặc lòng, mà ông đã mang tội uống rượu nặng lắm!
Nói rồi lấy thơ mời đưa ra.
Ngao Thuận mới xem qua, kinh hồn mất vía! Liền quì xuống thưa rằng:
- Xin Ðại Thánh thứ tội, nó là con trai thứ nhì của em gái tôi. Bởi cha nó khi xưa tráo bờ bớt nước, bị Nguy Trưng chém đầu, nên tôi thấy cháu còn nhỏ dại, cho nó vào ở sông Hắc thủy mà tu thân, không dè nó làm dữ như vậy! Ðể tôi sai người đi bắt nó tức thì.
Nói rồi đòi Thái Tử Ma Ngang truyền điểm 500 lính bắt Tiểu Ðà về nạp.
Thái Tử Ma Ngang vưng lịnh Tôn Hành Giả cũng từ biệt đi theo.
Khi đến ấy cửa sông Hắc thủy, Ma Ngang Thái Tử sai người vào báo tin rằng:
- Có con Tây hải Long vương là Ma Ngang đến.
Con quái ấy nghe báo hồ nghi rằng:
- Mình nghi người đem thơ mời không thấy trở lại, sao cậu chẳng đến, lại sai anh nầy tới!
Xảy thấy tiểu yêu vào báo rằng:
- Có một đạo binh đóng tại phía Tây.
Yêu Ðà nói:
- Anh ta phó hội, sao lại đem binh, chắc có cớ chi đó!
Nói rồi nai nịt cầm roi sắt ra ngoài chào rằng:
- Ðại biểu huynh, có tiểu đệ nghinh tiếp.
Thái Tử Ma Ngang cầm giản bước tới hỏi rằng:
- Mi mời cậu làm chi?
Yêu Ðà nói:
- Tiểu đệ bấy lâu mang ơn cậu cho ở chốn này, chưa chút đền ơn đền nghĩa trả. Bữa hổm em bắt đặng Ðường Tăng, bởi người ấy tu đã mười đời, ăn thịt nó thì trường thọ, nên mời cậu đến coi cho biết người, rồi sẽ làm thịt cho cậu uống rượu.
Thái Tử Ma Ngang nạt lớn rằng:
- Mi thiệt ngu si lắm, biết Ðường Tăng là ai chăng?
Yêu Ðà nói:
- Thầy sải đi thỉnh kinh chớ ai.
Thái Tử Ma Ngang nói:
- Mi biết sãi thỉnh kinh, mà không hiểu đệ tử người thần thông quảng đại.
Yêu Ðà nói:
- Có Bát Giới tôi đã bắt rồi, còn Sa Tăng cũng bại tẩu, nào thấy thần thông bao giờ. Thái Tử Ma Ngang nói:
- Thiệt người không biết, Ðường Tăng còn một người học trò lớn là Tề Thiên đại thánh phá thiên cung đời xưa, nay cách 500 năm dư, tu hành gọi là Tôn Hành Giả. Nay gặp đứa đi thơ, người đoạt đặng thơ của mi, liền vào cung Thủy Tinh bắt tội cha con ta đồng lỏa với mi. Vậy mi mau mau trả thầy trò Ðường Tăng ra ta nói giùm cho lạy mà chịu lỗi, hoặc may tánh mạng hãy còn, nếu nghịch thì ta giết mi trước.
Yêu Ðà nổi giận nói rằng:
- Ta với ngươi là anh em con cô con cậu ruột sao ngươi lại binh vực người dưng, lại còn biểu trả Ðường Tăng cho nó, tưởng ta dễ biểu lắm sao? Thiệt nó có tài mà đánh với ta ba hiệp cho cầm đồng, thì trả Ðường Tăng lập tức, bằng đánh không lại thì ta bắt luôn và nó mần hầm, chừng ấy chẳng biết bà con nào mà mời đóng cửa ăn ba thầy trò nó. Ai sợ nó thì sợ, chớ ta chẳng hề nhát bao giờ.
Thái Tử Ma Ngang mắng rằng:
- Ðồ quái gỡ buông lời vô lễ, mi đừng khoe tài đánh với Tôn Ðại Thánh sức ta là dở, mi dám cự hay chưa?
Yêu Ðà nói:
- Hào kiệt anh hùng, sợ ai mà không dám đánh?
Nói rồi kêu bộ hạ đồng ra.
Hai người trở mặt đánh với nhau, dữ hơn trận Sa Tăng đó nữa.
Giây lâu Thái Tử Ma Ngang đánh Yêu Ðà một giản chơn với, đá bồi một cái té nhào. Binh của Thái Tử bắt trói lại như bó sấu. Rồi lấy dây sắt xỏ xương cổ buộc lại dẫn lên bờ. Ðem dưng cho Tôn Hành Giả xử tội.
Tôn Hành Giả nói:
- Cậu mi cho ở đây mà tu luyện, sao còn ỷ mạnh chiếm đạo phủ Hà thần, lại bắt thầy ta và Bát Giái. Tội ngươi đáng đập một cây Thiết bãng. Song nghĩ Thiết bãng của ta nặng lắm, đập một cái cũng tan xương. Thôi thầy ta và Bát Giới ở đâu, ngươi chỉ cho thiệt.
Yêu Ðà thưa rằng:
- Tiểu Ðà không biết Ðại Thánh nên lầm. Nay anh tôi bắt rồi nhờ ơn Ðại Thánh không giết, tôi cám nghĩa muôn đời. Sư phụ và lịnh đệ tôi còn cầm tại phủ, xin Ðại Thánh tha trói, tôi về đem hai vị trả liền.
Thái Tử Ma Ngang thưa rằng:
- Thằng nầy gian trá mười phần, nếu thả ra e nó phản phúc.
Sa Tăng nói:
- Tôi biết chỗ, xin đi xúông đó cứu thầy.
Nói rồi rủ Hà thần đồng nhảy xuống sông đi tới dinh không thấy Tiểu yêu, vì nó thất kinh trốn hết. Vào sau dinh cứu Tam Tạng và Bát Giới đưa lên.
Khi ấy Bát Giới thấy Yêu Ðà bị trói ké, liền xách cào cỏ lại nói rằng:
- Súc sanh, nay mi hết kể ăn ta, ta đập một Ðinh ba cho nát óc.
Tôn Hành Giả can rằng:
- Thôi em tha nó chẳng giết làm chi, ấy là vị tình Tây Hải Long Vương và Thái Tử. Thái Tử Ma Ngang thưa rằng:
- Tôi chẳng dám ở trễ, nay cứu đặng sư phụ, tôi dẫn Yêu Ðà về nạp. Tuy Ðại Thánh không giết, chớ cha tôi cũng phạt một cách nặng nề.
Tôn Hành Giả nói:
- Vậy thì ngươi lãnh nó đem về cung, và nói ta gởi lời cám ơn lịnh tôn, sau sẽ đàm đạo.
Thái Tử Ma Ngang vân lời.
Còn Hà thần tạ ơn Tôn Hành Giả.
Tam Tạng nói:
- Ðồ đệ! Nay tính làm sao mà qua sông?
Hà thần nói:
- Xin lão gia lên yên, đừng lo việc ấy. Có tôi đi trước dẫn đường.
Nói rồi làm phép nước cạn khô một khúc sông như lộ.
Thầy trò qua khỏi lên bờ, nước đầy lại như cũ.
Nói về thầy trò qua khỏi sông, đi cũng lâu ngày lắm. Cuối tháng ba, đương đi thong thả, xảy nghe tiếng hò hét đông người, dường như binh ó!
Tam Tạng kinh hãi, ngó ngoái hỏi rằng:
- Chuyện chi mà inh ỏi như vậy?
Bát Giới nói:
- Chắc là lỡ non sụp đất.
Sa Tăng nói:
- Tôi nghe như sấm sấm rầm rầm.
Tam Tạng nói:
- Ta nghe như binh mã thì phải.
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Chắc là bàn không trúng hết thảy, để Lão Tôn coi thử thể nào?
Nói rồi nhảy lên mây ngó xuống, thấy trước xa có một cái thành. Coi lại chỗ có tiếng tăm cũng gần, hơi hào quang nhấp nháng, chớ không phải khí yêu.
Tôn Hành Giả ngẫm nghĩ rằng:
- Chỗ tử tế hiền lành, sao tiếng tăm lại ó ré?
Coi cho kỹ thì là các hòa thượng đẩy xe, đồng hè với nhau niệm Ðại lực vương Bồ Tát, rập một lượt nên tiếng nghe vang.
Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy xuống cho gần mà coi, thấy trong xe chở những cây súc, ngói, gạch, đẩy lên chót núi, lớp thời đứng trên cao kéo lên.
Ở trên núi có hai cái ải, trước cửa ải là đường xe dốc đỗ, kéo và đẩy cũng khó lên. Con các sải đều ăn mặc rách rưới, coi chẳng khác tội nhơn!
Tôn Hành Giả nghĩ thầm rằng:
- Có khi làm chùa thì phải! Sao không đụng nhơn công, các sãi phải ra sức như vậy?
Danh sách chương