Lâm Gia Thái Bảo

Những đường sáng rực rỡ, chìm sâu dưới nước trông như pha lê rọi cả một vùng biển. Con thuyền bỗng lắc lư dữ dội bởi những đợt sóng, chúng đập vào sườn của chiếc thuyền làm vang lên tiếng “phập phập” liên hồi, mặc dù trời hoàn toàn lặng gió. Anh Hùng và Tú Linh bám vào bẹ thuyền, tôi thì bước chân chao đảo, đang cố đi xuống chỗ hai người bọn họ, tôi loạng choạng sắp té may mắn sao té ngay vào chỗ mình cần đến. Bên trong khoang thuyền tôi nghe tiếng ông lão đang gào thét, tội nghiệp, chắc lão ta đang sợ lắm.

Chúng tôi bám vào mạn thuyền, đưa mắt nhìn xuống mặt biển, nó đang sôi lên ùng ục. Chợt những đường sáng đang rực rỡ bỗng chói lòa, đâm xuyên qua cả mặt biển vào tầng mây đen kịt bên trên, như muốn xuyên ra cả vũ trụ chứ chẳng chơi. Kéo theo sau đó, chừng vài giây thôi là một tiếng nổ kinh hồn, như muốn vật ngã cả chiếc thuyền. Lần này, một thứ ánh sáng lân tinh khác lóe lên, soi rọi cả một vùng trời rồi chợt tắt ngắm. Cả đại dương lại chìm vào bóng tối, mặt biển cũng ngừng động, tôi cảm thấy như nó còn êm đềm hơn trước. 

Tôi lo lắng hỏi anh Hùng: “Vụ gì vậy anh?”

Anh đáp: “Là thằng Sinh đó, đúng như anh đoán, nó đã luyện thành Chú này…”

Tú Linh cắt ngang: “Nhưng vẫn còn rất yếu. Theo lời của sư phụ chế kể lại, thì Thiên Đăng Ẩn Quang Chú phải đúng như cái tên của nó: sáng như mặt trời!”

“Thôi vậy cũng được rồi,” anh Hùng nói rồi đứng dậy, “coi như vùng này may mắn đi.”

“Là sao anh?”

“Thiên Đăng Ẩn Quang Chú là loại Chú thanh trừng, người thi triển Chú này mỗi lần kết Ấn có thể diệt sạch đám ma xó, ma cỏ trong phạm vi rất rộng, riêng những con như Quỷ Biển đứng ở cự ly gần này, nếu thằng Sinh làm đúng thì xác định nó rồi. Nổi lên rồi kìa…”

Quả vậy, mặt biển xuất hiện những bong bóng nước rồi vài giây sau Sinh cũng trồi đầu lên. Cậu ta hớp một hơi oxy thật đầy rồi bơi về thuyền, tay trái bám vào mạn thuyền, cậu ném lên một vật gì đó tròn tròn, nhơn nhớt, nhìn kỹ lại mới nhận ra đó là một con ngươi mắt. Sinh lấy đà phóng lên thuyền rồi ngồi xuống thở hồng hộc, dường như thi triển Chú vừa rồi lấy đi rất nhiều sức lực của cậu. Tôi bước đến chỗ con mắt, nó to như cái rổ, xung quanh vẫn còn dính những mạch máu, chúng đang tuôn ra những dòng huyết màu xanh trông rất tởm, tròng mắt lõm vào trong, trắng bệch, không có một chút sinh động gì cả. Tôi cúi xuống thấp hơn để quan sát tiếp thì một bàn tay lạnh ngắt tóm lấy vai tôi, ấn tôi đến sát con mắt kèm theo một chữ “Hù!” xanh rờn. Tôi xanh mặt đưa tay ra thủ thế, nhưng thì ra là anh Hùng. Anh hù tôi xong rồi cười ha hả, Tú Linh lấy thuốc ra châm giả bộ làm lơ, còn thằng Sinh thì dù đang thở vẫn cố lấy hơi cười đểu tôi vài cái. 

Tôi chửi “Má..” một cái rồi đứng tránh ra cho Hùng đi qua, anh nói: “Đúng là loài Quỷ Biển không mày?”

Sinh vẫn còn cười, tôi đưa mắt hình viên đạn nhìn nó nó mới chịu thôi, nó nói: “Cũng không hẳn. Con này là ác ngư thành tinh thôi anh, em cũng hiểu hơi hơi là tại sao rồi!”

“Chẳng lẽ…”

“Lúc nãy phát Chú, đáy biển sáng lên, em thấy một thứ rất thú vị nhưng ở vùng nước sâu không đủ hơi lặn tới được. Hình như là một kiểu di chỉ gì đó. Phải chi tới đó được thì sẽ biết lý do ở đây lại có ác ngư hóa thành Quỷ Biển.”

Anh Hùng đang đứng trầm ngâm, hồ như đang nghĩ cách hay gì đó thì từ phía sau tôi nghe tiếng mở cửa khoang tàu, ông lão thò cái đầu nấp sau cánh cửa, ánh mắt trợn lên, dò xét tình hình rồi mới dám bước ra. Đôi tay ông run rẩy chấp lại trước ngực, giọng ông khô khan như cả năm trời không uống nước: “Sao..rồi thầy…?”

Hùng và Sinh chia nhau ánh mắt, dường như đã hiểu ý, Sinh nói: “Con quỷ coi như diệt xong, nhưng nếu ông muốn được ngủ yên, phải rước vợ ông về, mai táng đàng hoàng mới được.”

Ông lão tiến đền gần chút nữa: “Rước về? Vợ tôi còn nằm ở dưới hả thầy?”

Ba người bọn họ khẽ cười, anh Hùng tiến đến chỗ ông lão, vỗ vai ông ta rồi chỉ lên nóc tàu. Ông ta nhìn theo thì la ú ớ từng đợt, như cổ họng bị nghẹn, ông ta ngồi phịch xuống nền tàu, trông hết sức bần thần. Trong khi tôi còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nghe Sinh bảo bắt ấn Thiên Nhãn Hộ Pháp, tôi liền làm theo rồi nhìn lên nóc thuyền, là bà lão! Tóc bà ta rũ xuống, vẫn còn những dòng nước biển chảy xuống từ chân tóc, bà vận bộ đồ bà ba cũ mèm, có những vết rách trên da như con gì đó cắn xẻ thịt nhưng không thấy máu chảy ra. Bà ta khẽ lắc lư, hình như cũng nhận ra là ông lão đã thấy mình liền thút thít mấy tiếng, ông lão đến giờ vẫn chỉ ú ớ thêm vài tiếng nữa rồi ông cũng bật khóc. Ông bò bằng đầu gối đến chỗ vợ mình, rồi tức tưởi than trời than đất, chợt bà lão chìa tay ra, trên đó là một vỏ sò, trong lòng vỏ sò còn có một viên ngọc màu xanh lam. Ông lão gật gật cái đầu, đoạn thì bà lão cũng nhòe đi rồi biến mất. 

Ông lão mếu máo: “Giờ sau nữa thầy?”

Anh Hùng nói: “Phải lặn xuống dưới trụt xác của bà lên, à nhầm, giờ chắc cái xác đó không còn nữa đâu mà trục, phải xuống lấy cái vỏ sò lúc nãy lên rồi rước bà về.” 

Sinh thêm vào: “Nhưng lặn sâu vậy không có công cụ, tụi tui đâu phải thần tiên hiển linh.”

Ông lão giơ ngón trỏ lên như nhớ lại gì đó rồi chạy tọt vào trong, lát sau ông đem ra một bình dưỡng khí nhỏ với cái kính lặn. Sinh định chụp lấy rồi tiếp tục bay xuống nhưng anh Hùng đã giành, anh nói nó nghỉ ngơi tí đi, mấy chuyện này anh lo được.

Chúng tôi ngồi đợi anh Hùng, người nào làm việc người nấy: Tú Linh thì bấm lại mấy cái huyệt cho thằng Sinh trong khi nó tiếp tục nốc rượu, ông lão co ro trong góc, ánh mắt ông ướt đẫm và đầy sợ hãi, còn tôi thì ra trước mũi tàu, đưa mắt nhìn xung quanh. Cảm giác như anh Hùng đã nói, chỉ là cảm giác thôi, rằng khu vực này đã yên bình hơn hẳn, có phải là không còn con ma xó, ma cỏ nào thật không? Thiên Đăng Ẩn Quang Chú lợi hại vậy sao? Khoảng nửa tiếng sau thì anh Hùng ngoi lên, trời tối om mà anh lại không có đèn lặn, như vậy không biết làm sao anh mò đường dưới đó được, tôi muốn hỏi lắm nhưng nghĩ lại để sau cũng được. Anh Hùng trèo lên tàu, anh cởi bộ dụng cụ lặn rồi tiến đến chỗ ông lão, lúc này đã nhõm cả người dậy, ánh mắt mong chờ kết quả của cuộc tìm kiếm. Anh Hùng không cần chần chừ, chìa cái vỏ sò ra đưa cho ông lão, ông ta vội chộp lấy rồi dùng cả hai bàn tay áp nó vào má mình, ôm ấp nó nhìn thương vô cùng, tôi nghĩ chắc đây là kỷ vật hẹn ước lúc trẻ của hai người bọn họ. Chúng tôi quay tàu về, trên đường đi Hùng và Sinh thay nhau căn dặn ông lão phải làm như thế này, như thế kia, chỉ là những nghi lễ, thủ tục an táng cho bà lão, cũng không có gì đặt biệt lắm. Tàu cặp bờ, ông lão quỳ xuống cảm tạ cả bọn nhưng anh Hùng đã nhanh tay đỡ ông dậy. 

Anh nói: “Ông không cần làm vậy, hai bên đã có giao kèo, giờ ông về làm theo những gì tụi con đã dặn là mọi việc coi như xong. Ngày mai, con sẽ đến lấy một món đồ trên thuyền của ông như đã nói từ trước.”

Ông lão bước về nhưng vẫn chỉ đi lùi, còn khấu đầu vài cái. Cả ba người Hùng, Sinh và Tú Linh thì lạnh lùng quay người đi, tôi cũng làm theo (tôi tưởng tượng, chà, giờ có cái máy quay nào quay lại cảnh này chắc nhìn ngầu lắm). Chúng tôi thuê nhà trọ gần với chợ Hòn Sơn, Tú Linh ở một phòng, Hùng, Sinh và tôi một phòng. Anh Hùng ra trước mua về một thùng Lager rồi còn kêu nhà bếp làm thêm vài món nhắm, tắm rửa cho thoải mái xong thì cũng gần sáng rồi, tôi nghĩ thầm bộ mấy người này là quái vật hay sao mà còn rủ nhậu nữa, nhưng cũng đúng ý tôi nên thôi, nhậu thì nhậu. Cạnh bên chỗ chúng tôi ở có một lối mòn dẫn xuống một bệ đá mọc nhô ra ngoài, xung quanh cây rừng phủ xuống thành một mái vòm tự nhiên, dưới đó chủ nhà trọ cho lợp một sàn gỗ khá rộng, chắc đủ cho mười người, từ chỗ sàn gỗ này nhìn ra là cảnh biển thơ mộng hiện lên trong tiếng sóng biển rì rào, đằng xa là ánh đèn nhấp nhô của những tàu cá, tàu mực. Ngồi ở đây nhậu thì chỉ có thể tả bằng một từ: Chí!

Lúc đầu, chẳng ai nói với ai gì cả, chỉ lo nốc bia, đến khi ngà ngà thì lôi chuyện lúc nãy tôi bị hù ra chọc. Tôi thì ổn thôi, mặc dù cũng có chút quê nhưng thấy thân thiết với mấy người này hơn nhiều. Chợt Sinh lên tiếng: “Tìm thấy “nó” không đại ca?”

Anh Hùng tu một hơi bia, đốt thuốc rồi nói: “Thấy.”

Tôi hỏi: “Thấy gì vậy anh, cái vỏ sò á hả?”

Tú Linh cười: “Nhóc con, nhóc “đù” vừa thôi. Bộ nhóc không thấy sao, nếu mục đích chính của lặn lúc nãy mà chỉ để kiếm cái vỏ sò cỏn con thì anh Hùng có tự làm không?”

Tôi cũng quen với kiểu xưng hô này rồi nên cũng mặc kệ. Tôi hỏi tiếp: “Vậy thấy cái gì vậy anh?”

“Ca Lâu Thành, ở dưới đó là di chỉ của Ca Lâu Thành. Anh vớt được cái này nè.”

Anh lấy ra một viên ngọc màu đỏ như mã não, vừa trong vừa đục, bên trong có những đường cong màu vàng uốn quanh nhau, kết nối với nhau trông hết sức đẹp mắt. Tôi hỏi anh Hùng thì anh nói đây là ngọc rết thường, bán cũng được một khoảng kha khá, ăn uống khỏe re cho mấy chuyến đi nữa. Tôi nói là loại thường mà đã đẹp như vậy rồi, Ngô Kim Công Thân không biết còn tới mức nào nữa.

Sinh chật lưỡi: “Thiệt. Hồi chiều ông lão đó nói vớt được cái quan tài rồi gặp Quỷ Biển là em cũng nghi nghi rồi.”

Anh Hùng cũng nói thêm, ban đầu nghe kỳ động ở Kiên Lương là tàn tích của Ca Lâu Thành, nhưng còn có một chuyện nữa là Ca Lâu Thành có tới hai mươi tháp lớn, giờ tìm được di chỉ của cỗ thành đó dưới đáy biển, vậy thì Ca Lâu Vương ngày xưa đã cho xây thành trên một vùng trãi dài từ Kiên Lương, Hà Tiên rồi ra cả vùng biển ở Hòn Sơn Rái, những chỗ này thật sự cách nhau không xa. Lúc lặn xuống đáy, anh thấy những tảng đá có kích cỡ khổng lồ nằm ngổn ngang, chúng vây quanh một kiến trúc cao và tròn, cho rằng là tòa tháp nên anh mới bơi vào trong thì tìm được viên ngọc rết kia. Ngoài ra, xung quanh tòa tháp này còn có những bức tượng Ca Lâu La, cao như tòa nhà ba-bốn tầng. 

Cỗ quan tài tình cờ mắc vào lưới ông lão chính là một trong những cái xác được chôn dưới đáy tháp để trấn yểm, dung hòa thái âm cho viên ngọc rết của toàn bộ kiến trúc, vốn đã hấp thụ thái dương của trời đất, đem đến sự thịnh vượng lâu dài, cân bằng trong âm dương nghĩa là vậy. Sau khi mất ngọc, cả tòa tháp chìm xuống biển sâu, cổ quan tài này cũng chìm theo. Ngày nọ, có con Cá Mút Đá tình cờ bơi ngang xác chết trong cỗ quan, ăn thịt cái xác đó rồi hấp thụ âm khí, dần dần bị thi biến, hình hài bị biến dạng, trở thành loài “Quỷ Biển”. 

Sinh gõ mạnh lon bia đã cạn xuống bàn, “khà” một cái khoái chí rồi nói: “Vậy ra chuyến đi đập miễu lần này cũng hên nhỉ? Có khi khỏi cần đi Kiên Lương hả đại ca?”

Hùng nhăn mặt: “Không biết được, Ca Lâu Thành có tới hai chục tháp, khả năng cao là mỗi tháp có một pháp bảo. Ví dụ thôi, là có Ngô Công Kim Thân đi, đâu thể biết được trung tâm của thành cổ, nơi cất giấu của viên ngọc rết này. Mà anh sẽ không làm theo cảm tính, một lần là đủ. Mày quên rồi hả Sinh?”

Lúc này tôi có quá nhiều câu hỏi, không chịu được sự tò mò nên hỏi anh Hùng: “Khoan anh ơi, em hỏi mấy này cái đã, thứ nhất: chuyện mình đi Kiên Lương có liên quan Ca Lâu Thành không? Thứ hai: em thấy anh quan tâm cục đồng đen, vậy nó với ngọc rết thì sao? Thứ ba: di chỉ dưới biển có chính xác là Ca Lâu Thành hay không?”

Sinh định lên tiếng nhưng anh Hùng ngăn lại, anh nói: “Mày hỏi đúng, để anh nói suy nghĩ của anh từ lúc đập miễu trên Ma Thiên Lãnh đến giờ. Thứ nhất, kỳ động mình sắp đi ở Kiên Lương, thú thật anh chưa biết vị trí chính xác, cho nên không chắc Ca Lâu Thành có dính líu đến, đồng nghĩa với việc bảo ngọc trấn Ca Lâu Thành có thể không phải ngọc rết Ngô Kim Công Thân mà là loại khác. Thứ hai: anh quan tâm đồng đen vì nó cũng là một pháp bảo thượng phẩm, thể nào cũng có cách dùng riêng, với lại, theo những gì anh biết, đồng đen đó xác suất cao là Trấn Môn Thiên Đỉnh, loại pháp bảo dùng để khóa cửa tông miếu. Nếu có thể tìm được nửa phần còn lại, khi đó phải nói cục đồng này trở thành cực phẩm thượng hạng. Thứ ba: di chỉ anh thấy lúc nãy, khả năng cao nhất anh nghĩ chỉ có liên quan đến Ca Lâu Thành, có thể như là một quan ải vệ tinh. Tuy nhiên có một điểm hồi chiều Sinh kể mày nghe về Ca Lâu Vương là có thật, nếu đụng độ với Quỷ hồn Ca Lâu Vương thì…hơi mệt đó!”

Sinh cười hehe: “Vậy mai mình đi Kiên Lương, làm gì căng!”

Hùng đứng dậy, vươn vai: “Không, không. Mai mình vẫn phải ra biển một chuyến.”

Chúng tôi đánh một giấc đã đời, thức dậy thì cũng gần mười giờ sáng. Chuẩn bị đồ xong xuôi thì liền lên đường đến nhà ông lão. Vừa bước vào đã thấy xác nhang rơi đầy sân, trước hiên nhà có một cái miễu mới được dựng lên, trên đó là di ảnh của bà lão và cái vỏ sò. Chắc tối qua lúc chúng tôi nhậu say bí tỉ, ông lão cũng đã lo xong mọi chuyện. Ông lão thấy chúng tôi tới liền lật đật chạy ra, ông cung kính cúi đầu làm tôi cũng phải cảm thấy ngại. Anh Hùng chào ông rồi đi luôn vào vấn đề chính về cuộc trao đổi, ông lão dẫn chúng tôi ra chỗ đậu thuyền, anh Hùng phóng lên trên rồi nói vọng xuống: “Con xin phép được lấy cái vô lăng nghe!” Anh kết ấn, một tiếng rắc vang lên giòn khấu, ông lão vẫn không có phản ứng gì cả, thật ra tôi nghĩ ông lão biết ơn thì biết ơn, chứ chắc cũng có cười trong bụng, ai mà đi lấy cái vô lăng làm thù lao thế này, thợ mộc làm vài buổi là xong. Tôi thì nghĩ anh Hùng làm gì cũng có lý do nên chỉ đứng im lặng nhìn.

Anh phóng xuống rồi nói: “Ông cho con hỏi, ai là người thợ làm ra cái vô lăng này?”

Ông lão đáp: “Một người bà con của lão, làm thợ mộc ở Nam Du.”

“Ông có địa chỉ không? Cho con xin?”

Sinh lên tiếng: “Đại ca, anh nói mẹ ra đi, úp mở chi hoài vậy?”

Anh Hùng nhăn mặt rồi ném cái vô lăng cho Sinh, nó soi kỹ một hồi thì thốt lên: “Kinh văn?”

“Đúng, trên đó là kinh văn, ngôn ngữ gần giống tiếng Phạn trong Phật Giáo, anh chưa đọc được chính xác. Nhưng khả năng cái vô lăng này làm từ một khối gỗ có xuất xứ liên quan đến Ca Lâu Thành. Lần ông đây gặp quỷ biển với tối qua, con quỷ đủ sức cắn nát tàu, nhưng nó không dám làm, chính là vì cái này! Nếu tìm ra nguồn gốc khúc gỗ này, có thể giải đáp được ba câu hỏi tối qua.” 

Sinh nhìn kỹ vào ký tự thêm lần nữa, có vài đoạn chen vào hình một con chim có đầu người. Rồi nó quay sang ông lão, giọng nói đầy hào hứng: “Nào ông, địa chỉ?”

Ông lão nói: “Không muốn làm mất hứng mấy thầy, nhưng mà ổng mới chết. Đêm qua. Tui đang định bắt tàu đi Nam Du đây…”

-

Ảnh chỉ mang tính chất tham khảo.

Nguồn: BaoXayDung.

mieu duoi nuoc
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện