Tại quảng trường của gia đình kỵ sĩ Đái Mặc Tạp.
- Pháp Phí! Tới đây đi. Để cho ta thấy thực lực của ngươi. - Một người đàn ông nổi giận gầm lên một tiếng. Thanh trường kiếm trong tay y tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo.
Tay phải Pháp Phí cầm kiếm, ánh mắt ngưng trọng vung kiếm lên đón tiếp.
Keng! Hai thanh trường kiếm va vào nhau phát ra tiếng động.
Cả hai người liên tục tấn công. Sau một lát, Pháp Phí bắt đầu rơi vào thế yếu, nhưng gã vẫn cố gắng, chưa chịu từ bỏ.
Còn Âu Văn Na thì đứng bên quan sát.
Phía trên bậc thang, La Mông và kỵ sĩ Đái Mặc Tạp đang quan sát. Lúc này, ánh mắt của kỵ sĩ sâu thẳm nhìn trận chiến đấu bên dưới mà nói về lịch sử của kỵ sĩ:
- Tiên sinh La Mông! Khôi giáp của kỵ sĩ chính quy có mũ giáp, giáp ngực, bảo vệ tay và đùi. Nó có thể phòng ngự được cung nỏ. Bởi vậy mà sức nặng có bộ giáp cũng kinh người, phải tới hai mươi lăm cân.
- Với sức nặng như vậy đòi hỏi yêu cầu rất lớn. Vì vậy mà gia tộc kỵ sĩ mới cần tới loại ngựa quý, hơn nữa chú trọng tới huyết thống của ngựa. Chỉ có loại thần mã mới có thể chịu được sức nặng của kỵ sĩ.
La Mông lắng nghe rồi gật đầu.
- Nhưng xét cho cùng vẫn là thực lực bản thân của kỵ sĩ. Nếu không đạt tới cấp năm trở lên thì nặng quá cũng làm cho chiến sĩ mất đi sức chiến đấu. Nhiều lần từng có những người chưa tới cấp năm, mặc áo giáp xuất chiến, kết quả bị người khác lợi dụng đánh ngã xuống ngựa rồi sau đó chém chết.
- Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp! Đạt tới cấp năm thì như thế nào? Đấu khí là cái gì? - La Mông quay sang hỏi. Hắn hơi nhìn thoáng qua Âu Văn Na nhưng thấy nàng đang chăm chú nhìn trận chiến.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói với giọng tán dương:
- Đấu khí là sự ban thưởng của thần. Nếu như nói chiến sĩ cấp một và cấp hai chỉ dựa vào huấn luyện thân thể vào kỹ xảo. Chiến sĩ cấp ba và cấp bốn phải trải qua thời gian huấn luyện dài để cho cơ thể của họ tích trữ được lực lượng. Nhưng lực lượng đó còn phụ thuộc vào con người. Chỉ có người nào thành tín nhất mới có thể châm ngòi cho lực lượng trong cơ thể khiến cho chúng thăng hoa, tạo thành đấu khí. Một khi có được đấu khí, cho dù áo giáp nặng tới hai mươi lăm cân cũng không còn là gánh nặng. Nhờ đó mà chiến sĩ mới có thể sử dụng chúng được một cách tự nhiên và phát huy được uy lực thực sự. Hai trăm năm trước, nước ta từng dẫn ba tăm bảy mươi kỵ sĩ mặc trọng giáp, xung phong đánh tan vạn tên địch. Đây đúng là một chiến thắng lừng lẫy.
- Phải có tín ngưỡng? - La Mông líu lưỡi. Hắn gần như hết hy vọng mà hỏi:
- Vậy không có biện pháp nào để có được hay sao?
- Có thì có nhưng bản chất hoàn toàn chênh lệch. Đấu khí là niềm tin thành kính và sự thăng hoa của lực lượng. Điều ấy vốn là bí mật. Nhưng hai trăm năm trước, sau chiến tranh đuổi ma thứ mười người đứng đầu giáo hội đã công bố ọi người. Có điều, cho dừ như vậy. Thì có thể đạt tới cấp năm cũng là một con số ít. - Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói một cách cảm thán. Đột nhiên, lão mỉm cười:
- A...dường như là đã phân thắng bại. Có điều người đội trưởng của ngươi cũng đầy đủ trình độ của chiến sĩ cấp ba. Ta có thể cảm nhận được trong cơ thể y đã bắt đầu tích lũy sức mạnh...
Trên quảng trường, Pháp Phí liên tục lùi về phía sau, hiển nhiên là đã hết sức.
Hai người thu kiếm, quay lên trên bậc thang rồi thi lễ.
Lần này La Mông tới đây chẳng những là để xin lỗi kỵ sĩ Đái Mặc Tạp chuyện lần trước mà còn đưa Pháp Phí tới để thỉnh giáo kỹ năng chiến đấu với gia định kỵ sĩ. Còn Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp cũng rất khẳng khái.
Nhưng vừa vào đến cửa, La Mông hơi nhức đầu khi nhìn thấy một vị phu nhân.
Chồng của phu nhân Bội Lý là một kỵ sĩ thế tập, cũng là một trong năm kỵ sĩ ở trong lãnh địa. Y cũng có một trang viên ở trong thành. Nhưng hai năm trước, ông đã chết, để lại lãnh địa và số lượng tài sản lớn cho con mình.
Nhưng số di sản đó thì trước khi đứa con được mười tám tuổi sẽ có người giám hộ trông coi. Mà theo lẽ thường thì người đó sẽ là phu nhân Bội Lý.
Nhìn thấy phu nhân như vậy, La Mông chỉ đành mỉm cười.
Phu nhân Bội Lý khoảng chừng ba mươi tuổi, dáng người cao gầy, khuôn mặt thanh tú xinh xắn. Nàng nhìn La Mông từ trên xuống dưới rồi mỉm cười:
- A! La Mông phải không? Dường như ta đã nghe người ta nói về cậu. Ừm! Hình như là thiên tài Đức Lỗ Y, mới mười sáu tuổi đã đạt tới cấp ba. Nhưng nghe nói rằng ngươi xuất thân bình dân?
Câu hỏi này có chút không khách khí. Nhưng La Mông vẫn trả lời ngay:
- Đúng vậy.
- Chẳng trách mà phong thái hành động của ngươi đều lộ vẻ quê mùa. Nếu như không được học tập nghi lễ cùng với dáng đi thì sau này ngươi rất khó bước chân vào xã hội thượng lưu. Đặc biệt là lần đầu tiên bước vào, một khi ngươi để cho người ta có ấn tương không tốt sẽ mất rất nhiều thứ.
La Mông có chút xấu hổ.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp liền cười nói:
- Ái chà! Phu nhân Bội Lý! Bây giờ chỗ này cũng không phải là trong buổi nghi lễn. Tới đây đi. Hôm nay sao quý bà lại rảnh rỗi tới đây thế này?
Phu nhân Bội Lý cười cười:
- Ta phải dạy cho con gái của nhà Đức Mạn. Xong rồi nên ta tới đây.
La Mông vội vàng lui lại phía sau hơi xa một chút rồi ngồi xuống ghế sa lông. Âu Văn Na ngồi xuống bên cạnh hắn rồi nói:
- La Mông! Cô ấy là tín đồ của nữ thần Y Ni Ti, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Là một người chuyên về nghi lễ trong thành. Tất cả những nhà quý tộc trong thành, thậm chí là ở gần cũng đều muốn mời cô ấy đến để dạy.
Hóa ra đây là bệnh nghề nghiệp. La Mông bừng tỉnh, nhe răng cười:
- Vừa rồi đúng là khiến cho người ta xấu hổ.
- Điều đó cũng đúng. Đối với đàn ông mà nói thì việc học nghi lễ dù sao cũng có hạn. Bởi vì đàn ông lấy sức mạnh và tri thức làm chính. Nhưng đối với con gái thì nghi lễ, bước đi, ánh mắt, cử chỉ, cánh ăn nói...đều là một môn học vấn tinh tế. - Âu Văn Na nói nhỏ với giọng oán giận:
- So với học những thứ đó, ta thích học kiếm và làm kỵ sĩ hơn. Tất nhiên, may mắn là khi ta tới mười bốn tuổi liền được chuyển sang học. Nếu không chẳng biết ta có chán tới chết hay không.
Hiển nhiên là người con gái bên cạnh hắn trước đây cũng từng bị dạy dỗ một cách "nghiêm khắc". La Mông cũng có chút đồng tình. Đột nhiên hắn nhớ tới một chuyện rồi hỏi:
- Nàng nói bà ta là tín đồ của nữ thần tình yêu và sắc đẹp Y Ni Ti?
Âu Văn Na đỏ mặt lên, trừng mắt liếc nhìn hắn một cái:
- Hừ hừ! Ta biết ngay đàn ông chỉ hứng thú với mấy cái đó mà. Có điều, ngươi để ột cô gái trả lời vấn đề đó đúng là quá thất lễ.
Nói xong, nàng đứng dậy bỏ đi, để lại La Mông ngơ ngác ngồi đó.
Sau một giờ, phu nhân Bội Lý cáo từ, ra về. Khi đi qua, nàng còn nhìn lướt qua La Mông rồi nói:
- Này tiên sinh La Mông! Nếu ngài muốn học kỹ năng giao tiếp thì mới tới số mười lăm trong thành để tìm ta.
La Mông đáp lời rồi nhìn nàng ra ngoài.
- La Mông! Nghe nói ngươi phải vào thành có phải không? - Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp lên tiếng hỏi.
- Đúng vậy! Ta sẽ đi tới công hội mạo hiểm một lần. Dù sao thì ta cũng là hội viên. - La Mông trả lời rồi nói tiếp:
- Đồng thời cũng muốn gặp một vài vị bằng hữu.
- Nếu vậy thì ta không giữ ngươi nữa. - Thấy thời gian không còn sớm, kỵ sĩ Đái Mặc Tạp liền nói:
- Về sau nếu ngươi còn tới đây chơi, ta rất vui được đón tiếp.
- Đa tạ kỵ sĩ.
Chờ một lát, La Mông liền dẫn Pháp Phí lên ngựa rồi đi vào thành.
Diện tích của thành A Phổ Tư cũng không rộng lắm. Số lượng dân cư khoảng chừng một vạn. Nhưng lượng người ở đây bao giờ cũng nhiều, hơn nửa là do thương nhân và thủy thủ thường xuyên tới.
Đây là lãnh địa truyền đời của tử tức Tát Nhĩ Văn.
Ở cái thế giới này, Tử tước không chỉ là một tước vị có địa vị dưới bá tước mà là chư hầu một phương. Địa vị và thực lực hoàn toàn vượt lên trên Nam tước.
Diện tích lãnh địa của tử tước Tát Văn Nhĩ không rộng lắm nhưng cũng chừng ba trăm cây số vuông. Quan trọng nhất là chiếm lĩnh vùng ven biển, có cảng để thông thương mậu dịch nên thành thị hết sức phát triển, trở thành viên ngọc của quận Mạt Khắc Đặc.
Từ lãnh địa của kỵ sĩ tới trong thành mất khoảng nửa ngày. Cả hai người thúc ngựa đi thật nhanh cho tới buổi trưa cũng tới biên giới lãnh địa của tử tước, cho tới chiều cũng vào được trong thành.
- Mặc dù đã tới đây vài lần nhưng ngồi thành này quả thực là rộng. - Pháp Phí là nông dân nên khi vào thành cũng phải thốt lên.
La Mông ngoài mặt thì làm như không biết nhưng trong lòng lại nở nụ cười. Ngoại trừ lần đầu tiên ra những thứ khác đều không thể khiến cho hắn kinh ngạc. Dù sao thì ở Trái Đất những thành thị lớn như thế này có rất nhiều. Thậm chí cả một thị trấn, số lượng dân cũng phải tới năm vạn người thì một cái thành mới có hai vạn dân đã tính là gì?
La Mông cố nhịn cười, chỉ liếc mắt nhìn ngôi thành rồi nói:
- Pháp Phí! Buổi tối công hội kẻ mạo hiểm không mở cửa. Chúng ta hoàn thành một số chuyện khác trước.
Pháp Phí đồng ý. Cả hai người thúc ngựa tới công hội kẻ mạo hiểm, giao ngựa cho người hầu xong, rồi dưới ánh mắt hâm một của những kẻ mạo hiểm mà đi vào trong sảnh.
Hai người nhanh chóng đi tới chỗ giải quyết công việc.
Như trước đây, một số người đang ở trước ô cửa sổ để cố vấn hoặc giải quyết công việc. Còn nhân viên thì ở trong ô cửa mà nói chuyện với người bên ngoài.
Đợi một chút, Pháp Phí xong rồi tới lượt La Mông.
La Mông đưa ra giấy chứng nhận mạo hiểm.
- Thân phận của ngài đã được xác nhận chính xác. Ngài là Đức Lỗ Y cấp ba. Trong năm nay, ngài hoàn thành năm nhiệm vụ còn chưa được đủ mười điểm tích lũy. Mời ngài nhanh chóng hoàn thành, nếu không sẽ mất tư cách kẻ mạo hiểm. - Người con gái bên trong lên tiếng.
Ngất! Lại còn có chuyện như vậy.
Người con gái thấy La Mông như vậy liền cười nói:
- Thực ra kiếm được mười điểm tích lũy rất dễ dàng. Ngài là Đức Lỗ Y cấp ba, nhận nhiệm vụ danh dự cấp hai là có thể đủ số điểm tích lũy rồi.
- A! Để ta xem có nhiệm vụ gì liên quan tới Đức Lỗ Y hay không. - La Mông liền nói.
- Được! Vậy mời ngài chọn. - Sau một lát liền có một số nhiệm vụ của Đức Lỗ Y được đưa ra, phần lớn là kiểm tra cây trồng, trừ sâu bệnh, trị liệu cho gia súc. La Mông không để ý tới mấy nhiệm vụ đó. Đột nhiên, có một nhiệm vụ thu hút sự chú ý của hắn.
- Nhiệm vụ Đức Lỗ Y giao lưu. Yêu cầu từ cấp ba trở lên, có rừng rậm hoặc là lãnh địa. Điểm tích lũy mười lăm.
Giao lưu? Vừa lúc mình cũng phải giao lưu. - La Mông chẳng hề do dự nhận lấy nhiệm vụ này.
- Nhiệm vụ này đã được ghi lại trong hồ sơ. Trong vòng một tháng sẽ có một Đức Lỗ Y tới giao lưu với ngài. Hy vọng ngài có thể tiếp đãi chu đáo, hoàn thành nhiệm vụ công hội ủy thác. - Thiếu nữ ghi xong liền nói.
- Pháp Phí! Tới đây đi. Để cho ta thấy thực lực của ngươi. - Một người đàn ông nổi giận gầm lên một tiếng. Thanh trường kiếm trong tay y tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo.
Tay phải Pháp Phí cầm kiếm, ánh mắt ngưng trọng vung kiếm lên đón tiếp.
Keng! Hai thanh trường kiếm va vào nhau phát ra tiếng động.
Cả hai người liên tục tấn công. Sau một lát, Pháp Phí bắt đầu rơi vào thế yếu, nhưng gã vẫn cố gắng, chưa chịu từ bỏ.
Còn Âu Văn Na thì đứng bên quan sát.
Phía trên bậc thang, La Mông và kỵ sĩ Đái Mặc Tạp đang quan sát. Lúc này, ánh mắt của kỵ sĩ sâu thẳm nhìn trận chiến đấu bên dưới mà nói về lịch sử của kỵ sĩ:
- Tiên sinh La Mông! Khôi giáp của kỵ sĩ chính quy có mũ giáp, giáp ngực, bảo vệ tay và đùi. Nó có thể phòng ngự được cung nỏ. Bởi vậy mà sức nặng có bộ giáp cũng kinh người, phải tới hai mươi lăm cân.
- Với sức nặng như vậy đòi hỏi yêu cầu rất lớn. Vì vậy mà gia tộc kỵ sĩ mới cần tới loại ngựa quý, hơn nữa chú trọng tới huyết thống của ngựa. Chỉ có loại thần mã mới có thể chịu được sức nặng của kỵ sĩ.
La Mông lắng nghe rồi gật đầu.
- Nhưng xét cho cùng vẫn là thực lực bản thân của kỵ sĩ. Nếu không đạt tới cấp năm trở lên thì nặng quá cũng làm cho chiến sĩ mất đi sức chiến đấu. Nhiều lần từng có những người chưa tới cấp năm, mặc áo giáp xuất chiến, kết quả bị người khác lợi dụng đánh ngã xuống ngựa rồi sau đó chém chết.
- Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp! Đạt tới cấp năm thì như thế nào? Đấu khí là cái gì? - La Mông quay sang hỏi. Hắn hơi nhìn thoáng qua Âu Văn Na nhưng thấy nàng đang chăm chú nhìn trận chiến.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói với giọng tán dương:
- Đấu khí là sự ban thưởng của thần. Nếu như nói chiến sĩ cấp một và cấp hai chỉ dựa vào huấn luyện thân thể vào kỹ xảo. Chiến sĩ cấp ba và cấp bốn phải trải qua thời gian huấn luyện dài để cho cơ thể của họ tích trữ được lực lượng. Nhưng lực lượng đó còn phụ thuộc vào con người. Chỉ có người nào thành tín nhất mới có thể châm ngòi cho lực lượng trong cơ thể khiến cho chúng thăng hoa, tạo thành đấu khí. Một khi có được đấu khí, cho dù áo giáp nặng tới hai mươi lăm cân cũng không còn là gánh nặng. Nhờ đó mà chiến sĩ mới có thể sử dụng chúng được một cách tự nhiên và phát huy được uy lực thực sự. Hai trăm năm trước, nước ta từng dẫn ba tăm bảy mươi kỵ sĩ mặc trọng giáp, xung phong đánh tan vạn tên địch. Đây đúng là một chiến thắng lừng lẫy.
- Phải có tín ngưỡng? - La Mông líu lưỡi. Hắn gần như hết hy vọng mà hỏi:
- Vậy không có biện pháp nào để có được hay sao?
- Có thì có nhưng bản chất hoàn toàn chênh lệch. Đấu khí là niềm tin thành kính và sự thăng hoa của lực lượng. Điều ấy vốn là bí mật. Nhưng hai trăm năm trước, sau chiến tranh đuổi ma thứ mười người đứng đầu giáo hội đã công bố ọi người. Có điều, cho dừ như vậy. Thì có thể đạt tới cấp năm cũng là một con số ít. - Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói một cách cảm thán. Đột nhiên, lão mỉm cười:
- A...dường như là đã phân thắng bại. Có điều người đội trưởng của ngươi cũng đầy đủ trình độ của chiến sĩ cấp ba. Ta có thể cảm nhận được trong cơ thể y đã bắt đầu tích lũy sức mạnh...
Trên quảng trường, Pháp Phí liên tục lùi về phía sau, hiển nhiên là đã hết sức.
Hai người thu kiếm, quay lên trên bậc thang rồi thi lễ.
Lần này La Mông tới đây chẳng những là để xin lỗi kỵ sĩ Đái Mặc Tạp chuyện lần trước mà còn đưa Pháp Phí tới để thỉnh giáo kỹ năng chiến đấu với gia định kỵ sĩ. Còn Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp cũng rất khẳng khái.
Nhưng vừa vào đến cửa, La Mông hơi nhức đầu khi nhìn thấy một vị phu nhân.
Chồng của phu nhân Bội Lý là một kỵ sĩ thế tập, cũng là một trong năm kỵ sĩ ở trong lãnh địa. Y cũng có một trang viên ở trong thành. Nhưng hai năm trước, ông đã chết, để lại lãnh địa và số lượng tài sản lớn cho con mình.
Nhưng số di sản đó thì trước khi đứa con được mười tám tuổi sẽ có người giám hộ trông coi. Mà theo lẽ thường thì người đó sẽ là phu nhân Bội Lý.
Nhìn thấy phu nhân như vậy, La Mông chỉ đành mỉm cười.
Phu nhân Bội Lý khoảng chừng ba mươi tuổi, dáng người cao gầy, khuôn mặt thanh tú xinh xắn. Nàng nhìn La Mông từ trên xuống dưới rồi mỉm cười:
- A! La Mông phải không? Dường như ta đã nghe người ta nói về cậu. Ừm! Hình như là thiên tài Đức Lỗ Y, mới mười sáu tuổi đã đạt tới cấp ba. Nhưng nghe nói rằng ngươi xuất thân bình dân?
Câu hỏi này có chút không khách khí. Nhưng La Mông vẫn trả lời ngay:
- Đúng vậy.
- Chẳng trách mà phong thái hành động của ngươi đều lộ vẻ quê mùa. Nếu như không được học tập nghi lễ cùng với dáng đi thì sau này ngươi rất khó bước chân vào xã hội thượng lưu. Đặc biệt là lần đầu tiên bước vào, một khi ngươi để cho người ta có ấn tương không tốt sẽ mất rất nhiều thứ.
La Mông có chút xấu hổ.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp liền cười nói:
- Ái chà! Phu nhân Bội Lý! Bây giờ chỗ này cũng không phải là trong buổi nghi lễn. Tới đây đi. Hôm nay sao quý bà lại rảnh rỗi tới đây thế này?
Phu nhân Bội Lý cười cười:
- Ta phải dạy cho con gái của nhà Đức Mạn. Xong rồi nên ta tới đây.
La Mông vội vàng lui lại phía sau hơi xa một chút rồi ngồi xuống ghế sa lông. Âu Văn Na ngồi xuống bên cạnh hắn rồi nói:
- La Mông! Cô ấy là tín đồ của nữ thần Y Ni Ti, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Là một người chuyên về nghi lễ trong thành. Tất cả những nhà quý tộc trong thành, thậm chí là ở gần cũng đều muốn mời cô ấy đến để dạy.
Hóa ra đây là bệnh nghề nghiệp. La Mông bừng tỉnh, nhe răng cười:
- Vừa rồi đúng là khiến cho người ta xấu hổ.
- Điều đó cũng đúng. Đối với đàn ông mà nói thì việc học nghi lễ dù sao cũng có hạn. Bởi vì đàn ông lấy sức mạnh và tri thức làm chính. Nhưng đối với con gái thì nghi lễ, bước đi, ánh mắt, cử chỉ, cánh ăn nói...đều là một môn học vấn tinh tế. - Âu Văn Na nói nhỏ với giọng oán giận:
- So với học những thứ đó, ta thích học kiếm và làm kỵ sĩ hơn. Tất nhiên, may mắn là khi ta tới mười bốn tuổi liền được chuyển sang học. Nếu không chẳng biết ta có chán tới chết hay không.
Hiển nhiên là người con gái bên cạnh hắn trước đây cũng từng bị dạy dỗ một cách "nghiêm khắc". La Mông cũng có chút đồng tình. Đột nhiên hắn nhớ tới một chuyện rồi hỏi:
- Nàng nói bà ta là tín đồ của nữ thần tình yêu và sắc đẹp Y Ni Ti?
Âu Văn Na đỏ mặt lên, trừng mắt liếc nhìn hắn một cái:
- Hừ hừ! Ta biết ngay đàn ông chỉ hứng thú với mấy cái đó mà. Có điều, ngươi để ột cô gái trả lời vấn đề đó đúng là quá thất lễ.
Nói xong, nàng đứng dậy bỏ đi, để lại La Mông ngơ ngác ngồi đó.
Sau một giờ, phu nhân Bội Lý cáo từ, ra về. Khi đi qua, nàng còn nhìn lướt qua La Mông rồi nói:
- Này tiên sinh La Mông! Nếu ngài muốn học kỹ năng giao tiếp thì mới tới số mười lăm trong thành để tìm ta.
La Mông đáp lời rồi nhìn nàng ra ngoài.
- La Mông! Nghe nói ngươi phải vào thành có phải không? - Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp lên tiếng hỏi.
- Đúng vậy! Ta sẽ đi tới công hội mạo hiểm một lần. Dù sao thì ta cũng là hội viên. - La Mông trả lời rồi nói tiếp:
- Đồng thời cũng muốn gặp một vài vị bằng hữu.
- Nếu vậy thì ta không giữ ngươi nữa. - Thấy thời gian không còn sớm, kỵ sĩ Đái Mặc Tạp liền nói:
- Về sau nếu ngươi còn tới đây chơi, ta rất vui được đón tiếp.
- Đa tạ kỵ sĩ.
Chờ một lát, La Mông liền dẫn Pháp Phí lên ngựa rồi đi vào thành.
Diện tích của thành A Phổ Tư cũng không rộng lắm. Số lượng dân cư khoảng chừng một vạn. Nhưng lượng người ở đây bao giờ cũng nhiều, hơn nửa là do thương nhân và thủy thủ thường xuyên tới.
Đây là lãnh địa truyền đời của tử tức Tát Nhĩ Văn.
Ở cái thế giới này, Tử tước không chỉ là một tước vị có địa vị dưới bá tước mà là chư hầu một phương. Địa vị và thực lực hoàn toàn vượt lên trên Nam tước.
Diện tích lãnh địa của tử tước Tát Văn Nhĩ không rộng lắm nhưng cũng chừng ba trăm cây số vuông. Quan trọng nhất là chiếm lĩnh vùng ven biển, có cảng để thông thương mậu dịch nên thành thị hết sức phát triển, trở thành viên ngọc của quận Mạt Khắc Đặc.
Từ lãnh địa của kỵ sĩ tới trong thành mất khoảng nửa ngày. Cả hai người thúc ngựa đi thật nhanh cho tới buổi trưa cũng tới biên giới lãnh địa của tử tước, cho tới chiều cũng vào được trong thành.
- Mặc dù đã tới đây vài lần nhưng ngồi thành này quả thực là rộng. - Pháp Phí là nông dân nên khi vào thành cũng phải thốt lên.
La Mông ngoài mặt thì làm như không biết nhưng trong lòng lại nở nụ cười. Ngoại trừ lần đầu tiên ra những thứ khác đều không thể khiến cho hắn kinh ngạc. Dù sao thì ở Trái Đất những thành thị lớn như thế này có rất nhiều. Thậm chí cả một thị trấn, số lượng dân cũng phải tới năm vạn người thì một cái thành mới có hai vạn dân đã tính là gì?
La Mông cố nhịn cười, chỉ liếc mắt nhìn ngôi thành rồi nói:
- Pháp Phí! Buổi tối công hội kẻ mạo hiểm không mở cửa. Chúng ta hoàn thành một số chuyện khác trước.
Pháp Phí đồng ý. Cả hai người thúc ngựa tới công hội kẻ mạo hiểm, giao ngựa cho người hầu xong, rồi dưới ánh mắt hâm một của những kẻ mạo hiểm mà đi vào trong sảnh.
Hai người nhanh chóng đi tới chỗ giải quyết công việc.
Như trước đây, một số người đang ở trước ô cửa sổ để cố vấn hoặc giải quyết công việc. Còn nhân viên thì ở trong ô cửa mà nói chuyện với người bên ngoài.
Đợi một chút, Pháp Phí xong rồi tới lượt La Mông.
La Mông đưa ra giấy chứng nhận mạo hiểm.
- Thân phận của ngài đã được xác nhận chính xác. Ngài là Đức Lỗ Y cấp ba. Trong năm nay, ngài hoàn thành năm nhiệm vụ còn chưa được đủ mười điểm tích lũy. Mời ngài nhanh chóng hoàn thành, nếu không sẽ mất tư cách kẻ mạo hiểm. - Người con gái bên trong lên tiếng.
Ngất! Lại còn có chuyện như vậy.
Người con gái thấy La Mông như vậy liền cười nói:
- Thực ra kiếm được mười điểm tích lũy rất dễ dàng. Ngài là Đức Lỗ Y cấp ba, nhận nhiệm vụ danh dự cấp hai là có thể đủ số điểm tích lũy rồi.
- A! Để ta xem có nhiệm vụ gì liên quan tới Đức Lỗ Y hay không. - La Mông liền nói.
- Được! Vậy mời ngài chọn. - Sau một lát liền có một số nhiệm vụ của Đức Lỗ Y được đưa ra, phần lớn là kiểm tra cây trồng, trừ sâu bệnh, trị liệu cho gia súc. La Mông không để ý tới mấy nhiệm vụ đó. Đột nhiên, có một nhiệm vụ thu hút sự chú ý của hắn.
- Nhiệm vụ Đức Lỗ Y giao lưu. Yêu cầu từ cấp ba trở lên, có rừng rậm hoặc là lãnh địa. Điểm tích lũy mười lăm.
Giao lưu? Vừa lúc mình cũng phải giao lưu. - La Mông chẳng hề do dự nhận lấy nhiệm vụ này.
- Nhiệm vụ này đã được ghi lại trong hồ sơ. Trong vòng một tháng sẽ có một Đức Lỗ Y tới giao lưu với ngài. Hy vọng ngài có thể tiếp đãi chu đáo, hoàn thành nhiệm vụ công hội ủy thác. - Thiếu nữ ghi xong liền nói.
Danh sách chương