Sau khi An Long Nhi và Tôn Tồn Chân tách nhóm với bọn Lục Kiều Kiều, liền lên núi để đại đội binh mã đuổi theo phía sau đi qua, rồi lập tức xuống núi đi vào trấn Thượng Thanh .
Trấn Thượng Thanh thoạt nhìn bề ngoài chỉ là một thị trấn nhỏ bình thường, chính giữa có một con đường cái, hai bên là nhà dân. Họ thúc ngựa vào trong trấn, nhanh chóng thấy giữa thị trấn có một cổng chào cao lớn hướng ra phía sông Lô Khê, trên tấm biển sơn son thếp vàng viết năm chữ lớn màu vàng to như cái đấu, “Tự Hán Thiên Sư phủ.” Trước cổng chào là một đôi kỳ lân đá cao to, bên cạnh có một dãy cột đá để buộc ngựa, Tôn Tồn Chân đang định xuống ngựa, thì An Long Nhi đã lập tức ngăn y lại, vẫy tay ra hiệu cho y đi theo mình, hai người cưỡi ngựa vòng ra phía sau phủ Thiên Sư.
Không vòng qua thì không biết, đi một vòng quanh phủ Thiên Sư mới hay nơi này rộng tới mấy chục mẫu đất, chẳng rõ bên trong có bao nhiêu phòng ốc đại điện nữa. Họ buộc ngựa vào một thân cây nhỏ, ôm Đại Hoa Bối ra cho nó trông ngựa và hành lý, rồi hai người phi thân phóng lên tường.
Từ trên bờ tường nhìn xuống là một vườn hoa rộng lớn và hoa lệ, thi thoảng có một hai thị nữ trẻ tuổi đi qua, trông như nơi ở của một nhà giàu có nào đó. Tôn Tồn Chân hỏi An Long Nhi: “Có cần tôi đi với cậu không? Đi trộm ra hay phải hỏi người để lấy?”
An Long Nhi vẫn chăm chú quan sát địa hình trong phủ Thiên Sư, miệng trả lời Tôn Tồn Chân: “Cô Kiều nói cho tôi khẩu quyết địa hình, không dặn là phải hỏi người tìm Long Quyết, chúng ta cũng không phải đến mượn tiền, để người ta trông thấy lại phải phí lời giải thích, đám ở phía sau sẽ nhanh chóng đuổi tới đây… vì vậy chỉ có cách là tập trung lực lượng lấy được đồ về tay trong thời gian ngắn nhất thôi, chúng ta cùng đi một lượt đi.”
Tôn Tồn Chân và An Long Nhi đều lòng như lửa đốt, không muốn nói dù chỉ một câu thừa thãi, trao đổi xong xuôi liền men theo bờ tường nhanh chóng lao vào khu vực giữa của phủ Thiên Sư.
Phủ Thiên Sư này là nơi ở của các đời Thiên Sư, đồng thời cũng tượng trưng cho hạch tâm của Đạo giáo trong thiên hạ[1].
[1] Tác giả chú thích: Kể cả ngày nay, đạo sĩ trên toàn thế giới đều phải đăng kí tại phủ Thiên Sư ở núi Long Hổ thì mới được thừa nhận là đạo sĩ chân chính, nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì phủ Thiên Sư này là nơi duy nhất được chỉ định phát giấy chứng nhận đạo sĩ trên toàn cầu.
Từ thời Thiên Sư đầu tiên là Trương Đạo Lăng thời Hán tới những năm Đạo Quang, Thiên Sư trong phủ Thiên Sư đã truyền thừa được sáu mươi đời, xét về mặt huyết mạch chính thống, ở Trung Quốc chỉ có gia tộc Khổng tử ở Sơn Đông đã truyền thừa nghìn năm là sánh được. Giống như miếu Khổng, phủ Thiên Sư đã được các đời hoàng đế nhiều lần phong thưởng, diện tích càng lúc càng lớn, điện tế, cung thất trong phủ ngày một nhiều lên, những thay đổi và dấu vết của Đạo giáo qua từng thời kỳ đều lắng kết trong phủ Thiên Sư. Nhưng tới những năm giữa thời Đạo Quang, lại xảy ra một sự thay đổi xưa nay chưa từng có, trước mặt An Long Nhi và Tôn Tồn Chân, là một khung cảnh hoang tàn điêu linh, phía sau vẻ bề ngoài lộng lẫy lộ ra những gian nhà lớn đổ nát tăm tối.
An Long Nhi men theo bức tường chạy như bay, chẳng khác ở trong nhà mình, Tôn Tồn Chân không biết khẩu quyết địa hình, vì vậy chỉ theo sát phía sau thằng bé làm trợ thủ. Đến khu vực giữa phủ Thiên Sư, trước mặt họ là gian đại điện cao nhất trong phủ, An Long Nhi ra hiệu cho Tôn Tồn Chân dừng lại, ngồi thụp xuống quan sát tấm hoành phi trước cửa đại điện, bên trên đề bốn chữ lớn “Ngọc Hoàng đại điện”, từ trong điện văng vẳng truyền ra tiếng tụng kinh lầm rầm, có mấy đạo sĩ đang chầm chậm tiến vào.
Có điều, nơi này không phải mục tiêu của An Long Nhi, nó chẳng qua chỉ lấy điểm này làm mốc, hòng tìm nơi tiếp theo được nhắc đến trong khẩu quyết.
Khẩu quyết mà Lục Kiều Kiều đưa cho nó là: Ngọc Đế càn khôn trung, Hồ Tiên Giáp Tý hậu; tâm hoài Thẩm tướng quân, chân nhân bộ canh tẩu. Khẩu quyết này đã khiến Lục Kiều Kiều vắt óc nghiền ngẫm suốt mười năm, lật tung cả nhà mình lên để tìm, nhưng không sao hiểu được rốt cuộc mấy câu này có ý nghĩa gì; nhưng An Long Nhi vừa tới phủ Thiên Sư, mọi vấn đề đều được giải quyết dễ dàng.
Ngọc Đế đương nhiên chỉ đại điện Ngọc Hoàng rồi, nhưng mà càn khôn trung không phải chỉ khoảng giữa cung Càn và cung Khôn trong tám cung bát quái, mà là chỉ khe hở giữa quẻ Càn và quẻ Khôn trong la bàn chuyên dụng của các phong thủy sư phái Tam Nguyên, khe này vừa khéo chính là hướng từ Nam sang Bắc.
An Long Nhi ngoảnh đầu lại nhìn, phía sau đại điện Ngọc Hoàng là điện Hồ Tiên, nó liền dẫn Tôn Tồn Chân vòng qua bờ tường. Trong điện Hồ Tiên vẳng ra tiếng cổ cầm, tiếng đàn tản mác mà sục sôi, không hay mà cũng chẳng có tiết tấu, tựa hồ có thể nhận ra tâm tình rối loạn của người gảy đàn.
Bọn họ không để tâm đến những chuyện ngoài lề ấy, tiếp tục đi vòng tới một cái sân lớn, ở giữa là một tòa điện Đại Chân Vũ, một bên là cục Pháp Lục, bên kia chính là điện Giáp Tý. An Long Nhi khẽ nói nhỏ một câu “điện Giáp Tý” với Tôn Tồn Chân, đoạn nhảy xuống bên dưới tường bao trước, sau đó hai người men theo tường bao đi ra phía sau điện Giáp Tý. Theo suy đoán của An Long Nhi, Giáp Tý hậu chính là phía sau của điện Giáp Tý này. Phía sau điện Giáp Tý là tường điện và tường bao xung quanh phủ Thiên Sư, giữa hai bức tường có một khóm trúc, An Long Nhi và Tôn Tồn Chân đứng bên cạnh khóm trúc ấy gãi đầu. Tôn Tồn Chân hỏi: “Có phải đào ở chỗ này không?” An Long Nhi đáp: “Khẩu quyết nói là ‘Hồ Tiên Giáp Tý hậu’, phía sau điện Hồ Tiên chính là điện Giáp Tý rồi còn gì, Giáp Tý hậu không phải chính là chỗ này sao?”
Tôn Tồn Chân nói: “Không đúng, trong điện Giáp Tý còn một Giáp Tý hậu nữa, chính là sau lưng Giáp Tý Thái Tuế Kim Biện tướng quân, mau vào trong điện xem…” Y vừa nói vừa chạy trước An Long Nhi. An Long Nhi không kịp phản ứng, lòng thầm thắc mắc không hiểu tại sao Tôn Tồn Chân lại biết chuyện bên trong Đạo giáo như thế? Hẳn những người từng làm đạo sĩ đều biết Giáp Tý hậu là cái gì? Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng người nó đã phóng theo Tôn Tồn Chân ra phía sân, vòng tới cửa chính của điện Giáp Tý.
Bên kia sân là Pháp Lục cục, nơi lưu trữ hồ sơ, bí điển của các triều đại, bên trong cửa có một lão đạo sĩ đi ra, vừa khéo trông thấy hai người lạ tướng mạo ăn mặc đều cổ quái chạy vào điện Giáp Tý, đang định cất tiếng hỏi là ai, thì người đàn ông che mặt áo đen dáng người nhỏ nhắn đã vung gậy lên đập vỡ khóa cửa xông vào điện, sau đó thiếu niên đầu chít khăn cũng xông vào theo.
Lão đạo sĩ thấy vậy liền nghĩ, hai kẻ này không phải trộm thì còn là gì nữa, vội hô hoán: “Người đâu! Mau tới điện Giáp Tý bắt trộm!”
An Long Nhi vừa vào trong điện Giáp Tý, Tôn Tồn Chân liền xoay tay chốt cửa lại. Họ đảo mắt quan sát, chỉ thấy giữa đại điện trống không, phía trước mặt có một tấm hoành phi lớn đề chữ “Thiên thu vạn đại”, phía trước, bên phải và bên trái đều có ban thờ dài, trên ban thờ là sáu mươi bức tượng thần cao chừng hai thước đặt ngay ngắn. Các tượng thần này đều ăn mặc kiểu võ tướng, phía trước mỗi tượng thần đều có một tấm biển dựng thẳng đứng, bên trên đề tên người đại biểu cho sáu mươi Giáp Tý, hay còn được gọi là Trị Niên Thái Tuế. Tương truyền, mỗi năm đều có một vị tướng quân tương ứng chưởng quản khí vận của cả năm đó, nếu có người phạm phải Thái Tuế, thì có thể đến điện Giáp Tý này để bái vị Thái Tuế tương ứng hòng hóa giải tai họa trong năm. Giáp Tý hậu mà Tôn Tồn Chân nói đến, chính là sau lưng bức tượng của Giáp Tý Thái Tuế Kim Biện đại tướng quân.
Bọn họ vừa nhìn đã trông thấy Giáp Tý Thái Tuế đứng ở vị trí chính giữa thần điện, bèn tức khắc chạy tới phía trước bức tượng quan sát, phía sau Giáp Tý Thái Tuế nhìn ngang nhìn dọc thế nào cũng chỉ có một bức tường, hoàn toàn không có gì khác.
Lúc này, bên ngoài vang lên tiếng gọi của lão đạo sĩ: “Các ngươi là ai! Mau mở cửa ra, ta đã gọi người đến rồi, các ngươi mà làm chuyện xấu chúng ta sẽ bắt giải lên quan đấy!” Liền sau đó là một tràng tiếng đập cửa dồn dập, vừa nghe đã biết ít nhất có năm sáu người đang ở bên ngoài đạp cửa quát tháo, cũng có người thử dùng chìa khóa mở cửa, nhưng Tôn Tồn Chân đã chốt trong, bọn họ không sao dùng những phương pháp văn minh để mở cánh cửa ấy được.
Tôn Tồn Chân chẳng buồn liếc mắt nhìn ra phía cửa, nhảy phắt lên ban thờ dùng gậy chọc vào bức tường phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế, làm phát ra một tiếng “đang”, âm thanh tựa như một chiếc chuông đồng rất nặng, hai người đều ngạc nhiên, thì ra bức tường này là tường sắt rỗng. Chọc liền mấy cái mà bức tường không có phản ứng gì, Tôn Tồn Chân liền khom lưng thò tay ra phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế lần mò. Bức tượng có vẻ chắc chắn lại trơn nhẵn, y cứ rờ qua rờ lại, An Long Nhi lo lắng hỏi: “Sao vậy? Có phát hiện gì không?” Nó còn chưa dứt lời, Tôn Tồn Chân đã đấm một đấm vào lưng tượng Thái Tuế, phát ra tiếng vỡ rất lớn, làm An Long Nhi giật nảy mình, đồng thời cũng khiến âm thanh quát tháo bên ngoài càng lớn hơn nữa.
Tôn Tồn Chân thò tay vào phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế, mò được một cái tay nắm, y cầm vào dùng sức kéo mạnh lên, trên bức tường sau lưng liền có chín viên gạch gồ ra, xếp thành hình vuông.
“Nhanh lên nhanh lên, câu tiếp theo là gì!” Tôn Tồn Chân vừa nhìn đã biết đây là một cái Cửu cung mật tỏa, phải dùng phương thức phi cửu cung ít nhất cũng có bốn năm chục loại, y tin rằng cơ quan này không cho người ta lần lượt thử hết, mà họ chỉ có một cơ hội duy nhất, ấn sai một bước có thể sẽ khiến cơ quan bị khóa chặt vĩnh viễn. Mặc dù đã vào mùa đông, ai nấy đều mặc áo bông, song người An Long Nhi vẫn đầm đìa mồ hôi, nó vội vàng đọc câu tiếp theo: “Tâm hoài Thẩm tướng quân, chân nhân bộ canh tẩu.”
Tôn Tồn Chân lại nói: “Thẩm tướng quân gì chứ, bên chỗ Thẩm tướng quân làm gì có cái gì! Khẩu quyết kiểu gì kì vậy!”
An Long Nhi hiểu Thẩm tướng quân là chỉ một vị Thái Tuế khác trong điện Giáp Tý, nó đang quay đầu lại ngó nghiêng tìm kiếm tượng Thái Tuế Tinh Quân đó, thì Tôn Tồn Chân đã nhảy xuống nói: “Không cần tìm nữa, chỗ Thẩm tướng quân không có gì cả đâu.”
An Long Nhi nói: “Huynh thấy chỗ đó không có gì à? Sau lưng Giáp Tý tướng quân chẳng phải có cơ quan đấy còn gì?”
Tôn Tồn Chân bực mình, hậm hực hừ một tiếng, nhảy phắt tới bên cạnh một bức tượng Thái Tuế vung côn đập xuống, tiếng loảng xoảng vang lên, tượng thần bị đập cho vỡ tung tóe, bên trong và trên ban thờ đều không có gì cả. An Long Nhi giờ mới thấy tấm biển phía trước bức tượng Thái Tuế ấy viết rằng: “Đinh Mão Thẩm Hưng, Thẩm Hưng là Đinh Mão, Đinh Mão là cái gì? Là cái gì? Cô Kiều có ở đây thì tốt quá… cô Kiều sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Cô ấy làm sao mà nghĩ ra cách nhỉ? Chân nhân canh bộ tẩu, chân nhân canh bộ… Tôn Tồn Chân! Có bao nhiêu loại chân nhân canh bộ?”
Tôn Tồn Chân rảo bước tới phía sau cánh cửa đang bị rung lắc nãy giờ, đạp mạnh một cú, cánh cửa bị rung lên từ trong ra ngoài, phát ra tiếng động rất lớn, đám đạo sĩ bên ngoài đều hoảng hốt im bặt một hồi. Y lớn tiếng nói với An Long Nhi: “Canh bộ gì mà chẳng là chân nhân canh bộ, Thái Bạch chân nhân, Thái Ất chân nhân, Thái Cực chân nhân, tất cả đều là chân nhân, có trời mới biết là ông nào chứ?”
“Tôi biết rồi…” An Long Nhi đang gãi đầu đột nhiên lóe lên một tia linh cảm: “Đinh Mão là Thái Ất, Đinh là hảo, thuộc dương, vì vậy dùng chữ Thái trong Thái Dương làm đại biểu, Mão là địa chi, song lại ẩn tàng một thiên can, chính là Ất…”
An Long Nhi còn đang nói dở, Tôn Tồn Chân đã bước mấy bước xông lên chỗ ban thờ Giáp Tý Thái Tuế, vung thanh Tề mi côn nhanh chóng đánh lên chín viên gạch lồi ra trên tường theo thứ tự của Thái Ất canh bộ, hai người đồng thanh đọc thành tiếng: “Cấn, Tốn, Khôn, Càn, Chấn, Đoài, Khảm, Ly, mở ra!”
Sàn nhà dưới chân họ mở ra một cái hố lớn, hai người và cả ban thờ cùng rơi xuống dưới, tiếng đập cửa quát tháo bên ngoài cũng im bặt, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy.
An Long Nhi và Tôn Tồn Chân không bị trượt quá sâu, họ cảm thấy mình chỉ rơi khoảng hai trượng là ngã xuống một tấm ván sắt. Hai người đứng lên nhìn ngó xung quanh, chỉ thấy bốn bề đều tối đen như mực, giơ tay ra chầm chậm lần mò một lúc, họ phát hiện mình đang ở bên trong một cái lồng sắt rộng chừng một trượng vuông.
Sàn nhà phía trên đã khép lại, An Long Nhi thò đầu vào giữa các chấn song sắt, đo thử khoảng cách giữa chúng, rõ ràng nó không thể chui ra được, vóc dáng Tôn Tồn Chân còn cao to hơn nó, lại càng không có khả năng lách ra ngoài. Nó vươn tay ra phía ngoài lồng sờ mó, chỉ thấy trống không, hai người họ tựa như đang bị treo trong một khe nứt chết chóc không có cả thời gian lẫn không gian. An Long Nhi mặc kệ đây là nơi nào, chỉ chăm chăm sờ lần khắp cái lồng hòng tìm ra cửa lồng hay khóa lồng, như vậy ít nhất cũng biết được phải dùng cách gì để phá khóa đi ra.
Tôn Tồn Chân đứng phía sau An Long Nhi, hai tay khoanh trước ngực, thanh Tề mi côn kẹp trong tay, để mặc cho An Long Nhi lần sờ mó cái lồng sắt, y chỉ lẳng lặng không nói một lời nhìn chằm chằm vào khoảng không tăm tối phía trước. An Long Nhi vừa sờ mó vừa nói với Tôn Tồn Chân: “Huynh cũng qua lần dò đi, xem có cửa hay khóa gì không…”
Tôn Tồn Chân đứng bất động nhìn về phía trước, đáp: “Không cần, cái lồng này chỉ mở được từ bên trên hoặc bên dưới, bốn phía đều không có cơ quan… nơi này là tầng xép nằm giữa mặt đất và địa lao, bên trên là đá phiến, bên dưới cũng là đá phiến, cách chúng ta mười trượng phía trước có một cầu thang, bên trên cầu thang có một cánh cửa, sẽ có người đến xem chúng ta, nhanh thôi…”
An Long Nhi dừng tay lại nói: “Sao huynh biết, huynh trông thấy à? Sau khi đến điện Giáp Tý, hình như cái gì huynh cũng biết?” Nó nghi hoặc nhìn Tôn Tồn Chân, nhưng chỉ thấy bóng tối vô tận, song Tôn Tồn Chân lại có thể nhận ra vẻ nghi vấn và không tín nhiệm đầy trong mắt nó. Tôn Tồn Chân lấy trong người ra chiếc bật lửa Jack tặng, nhét vào tay An Long Nhi, An Long Nhi cầm lấy bật lên, chiếc bật lửa lóe ra một tia lửa chói mắt.
Đến khi mắt có thể thích ứng với ánh sáng, An Long Nhi nhận ra khung cảnh quả nhiên giống như những gì Tôn Tồn Chân nói, trước mắt nó là một không gian chật hẹp bức bối do đá phiến ghép thành. Trên bậc thang phía xa có một đạo sĩ trung niên đang đi xuống, An Long Nhi chỉ thấy ông ta mặc đạo bào, tay cầm một vật trông như cái gậy, chắc là trường kiếm, nhưng vì tối quá nên không nhìn rõ bộ dạng mặt mày thế nào.
Đạo sĩ đó đứng trên bậc thang, nhìn về phía cái lồng từ đằng xa, chăm chú một hồi, đoạn lại không nói không rằng tiếp tục đi xuống địa lao, biến mất khỏi tầm mắt An Long Nhi. An Long Nhi lớn tiếng gọi: “Đạo gia! Đạo gia! Thả chúng tôi ra…”
Gọi liền mấy tiếng mà không ai trả lời, An Long Nhi đành im lặng đợi người ta đến xử lý. Nó bắt đầu nghi ngờ không biết khẩu quyết của Lục Kiều Kiều có chính xác không, ngộ nhỡ Lục Kiều Kiều bị người truyền khẩu quyết cho cô ám hại há chẳng phải rất nguy hiểm sao? Nhưng nghĩ tới đây, nó lại thầm cảm thấy may mắn, dù cho có người muốn hại Lục Kiều Kiều, đối phương cũng không thể ngờ được kẻ bị vây khốn ở đây lại là An Long Nhi. Muốn bắt cô Kiều sao? Làm gì có chuyện dễ như vậy? Chỉ là không biết cô Kiều bây giờ thế nào, chẳng rõ đã thoát được bọn truy binh hay chưa? Nó đang nghĩ ngợi lung tung một hồi, lồng sắt đột nhiên rơi xuống dưới, nó và Tôn Tồn Chân rơi xuống một căn phòng quái dị bốn mặt đều là gạch đỏ. Căn phòng rộng chừng hai trượng vuông, bốn mặt tường gạch đều ở rất xa, hai người họ không thể với tay tới, cái lồng nằm chính giữa phòng, một đạo sĩ trung niên đang đứng ngay trước mặt hai người.
Đạo sĩ ấy xõa tóc ngang vai, hàm râu trên miệng trông như mấy ngày chưa cạo, chỉ có bộ đạo bào trên người mới khiến người ta cảm thấy ông ta là một đạo sĩ. Vóc dáng ông ta hơi gầy, hai mắt trông như ngủ không đủ giấc, trên tay cầm một cây gậy bằng gỗ đen.
Cây gậy gỗ đen ấy dài ba thước năm phân, đầu tròn thân thẳng đuôi nhọn, toàn thân đen nhánh được đánh bóng cẩn thận, bên trên khắc hoa văn rất tinh xảo, nhìn kĩ thì thấy hoa văn ở phần giữa là tề chỉnh và phức tạp nhất, làm nó nhớ đến ba mũi Tam thi câu mệnh tiễn từng ghim sau lưng Tôn Tồn Chân. Trên ba mũi tên ấy vẽ đầy bùa, trên cây gậy gỗ đen này cũng chi chít những bùa chú. An Long Nhi vừa nhìn đã nhận ra đây là loại gậy tùy thân của các phong thủy sư, chỉ là nó không ngờ thứ công cụ mà các phong thủy sư ngày ngày đều mang theo người ấy lại có thể đẹp đẽ tinh xảo nhường này.
Đạo sĩ uể oải cầm cây gậy, hai mắt nửa nhắm nửa mở như thể chưa ngủ dậy, ông ta thả lỏng cần cổ, ngoẹo đầu, nhìn hai người một lúc, rồi cất tiếng hỏi An Long Nhi: “Ngươi biết cây gậy này là gì không?”
An Long Nhi lắc đầu.
“Không biết thì các ngươi đến đây làm gì?” Đạo sĩ lùi tới cạnh tường, cây gậy gỗ đen buông thõng bên người, hai mắt trợn lên nhìn trần nhà, chờ An Long Nhi trả lời.
An Long Nhi thấy tình hình như vậy thì rất bất ngờ, nó cũng không thể nói mình đến đây để lấy Long Quyết, giờ vẫn chưa tìm thấy, chẳng lẽ bảo người ta thả mình ra để đi tìm? Nó chỉ có thể cố gắng suy đoán xem nếu là cô Kiều thì sẽ đối phó với đạo sĩ này như thế nào.
Nhưng Tôn Tồn Chân lại cất tiếng hỏi đạo sĩ: “Ông tới đây làm gì vậy?”
Đạo sĩ bật cười thành tiếng, cười đến nỗi cả người dựa vào tường đều rung lên bần bật: “Đây là nhà ta, ta đến đây xem kẻ nào vào nhà ta… phải rồi, các ngươi là ai thế?”
Lần này An Long Nhi đã thông minh hơn, nó học theo Tôn Tồn Chân hỏi ngược lại: “Thế ông là ai?”
“Ha ha ha…” Câu hỏi của An Long Nhi làm đạo sĩ cười rộ lên một trận, cười đến nỗi chảy nước mắt: “Chậc chậc, ta là ai hả… các ngươi cũng thú vị thật, ta tên là Trương Bồi Nguyên, còn các ngươi? Tự tiện xông vào nhà ta, không báo danh thì xem ra cũng không phải phép cho lắm nhỉ?”
An Long Nhi xưa nay vốn rất lễ độ, vừa nghe đạo sĩ nói mình tự tiện xông vào nhà người ta, nó liền cảm thấy hơi ngượng ngùng, bèn dứt khoát trả lời thành thực: “Cháu tên là An Long Nhi, huynh ấy là Tôn Tồn Chân, chúng cháu dựa theo một khẩu quyết tìm đến nơi này.”
Trương Bồi Nguyên dựa vào tường, ngồi xổm cúi đầu nhìn xuống đất, mái tóc dài xõa ra che phủ khuôn mặt, ông ta cứ cúi đầu như thế cất tiếng hỏi: “Khẩu quyết ở đâu mà có?”
“An Vị Thu.”
Trương Bồi Nguyên bấy giờ mới ngẩng đầu, ánh mắt mơ màng nhìn An Long Nhi hỏi: “Sao ông ta không tự đến?”
“Ông ấy mất tích hai năm rồi.”
“Vậy các ngươi làm sao có được khẩu quyết?”
“Trước khi mất tích, ông ấy đã truyền lại cho con gái, con gái ông ấy bảo cháu đến đây.”
“Con gái ông ta không tự đến, mà lại để các ngươi đến sao?” Trương Bồi Nguyên mở miệng châm biếm, thân thể không ngừng lắc lư: “Ngươi hại chết người ta rồi mới trộm được khẩu quyết đó phải không?”
“Không phải, cháu không bao giờ hại cô Kiều!” An Long Nhi vừa nghe thấy câu này liền lập tức lớn tiếng biện bạch, khiến Trương Bồi Nguyên cười thêm một chập nữa, trong tiếng cười ấy, An Long Nhi nói tiếp: “Cô Kiều bảo cháu đến lấy một thứ rất quan trọng.”
Trương Bồi Nguyên khịt khịt mũi: “Thói đời kiểu gì vậy? Để một đứa trẻ đến lấy một thứ rất quan trọng… ngươi… ngươi biết thứ đấy là cái gì không?”
“Biết.”
“Là cái gì?”
Trò thăm dò này của Trương Bồi Nguyên làm Tôn Tồn Chân và An Long Nhi sốt ruột vô cùng, Tôn Tồn Chân dứt khoát nói: “Chúng tôi có nói cho ông cũng vô dụng, ông có thì đưa ra đây, không có thì mau thả chúng tôi ra, chúng tôi phải hỏa tốc đi cứu người.”
“Tốt thôi, các ngươi có giỏi thì tự ra khỏi căn phòng này đi.” Trương Bồi Nguyên nói xong liền lấy một cây đuốc trên tường xuống, quạt tay vào ngọn lửa một cái, cả gian phòng lập tức bùng lên ánh lửa, xung quanh đều là ngọn lửa màu xanh lam pha lẫn sắc đỏ. An Long Nhi lùi lại một bước, rùn người xuống giơ cánh tay lên che mặt, ngọn lửa cháy phừng phừng một hồi rồi dừng lại. Khi nó ngẩng đầu lên, cái lồng đã biến mất khỏi gian phòng, Trương Bồi Nguyên cũng không còn ở đó nữa, trước mặt chỉ có bốn bức tường không có cửa nẻo gì.
Nó buột miệng hỏi: “Cái lồng đâu rồi?”
Tôn Tồn Chân chỉ lên phía trên, An Long Nhi ngẩng đầu nhìn lên, quả nhiên thấy cái lồng đã được treo lên trần nhà, nó lập tức lao tới cạnh tường sờ mó xem chỗ nào có khe mở cửa, nó biết chắc Trương Bồi Nguyên này không thể nào tự dưng xuất hiện trong phòng được, nhất định là có lối ra vào nào đó mà mình không trông thấy.
Tôn Tồn Chân tựa như đã biết ở đâu có lối ra, y lấy một cây đuốc trên tường rồi nhảy tới góc phòng, đưa tay ấn lên một viên gạch đỏ, để lộ khe hở chỉ đủ cho một người chui qua. An Long Nhi cũng cầm một cây đuốc, rồi bám theo Tôn Tồn Chân lách người ra khỏi gian phòng, trước mắt họ là một hành lang hình vuông quay xung quanh gian phòng vừa nãy.
An Long Nhi lập tức lấy la bàn trên người ra, nhưng lại phát hiện kim la bàn không ngừng chuyển động rất nhanh trong vị trí một cung, đây là Đường châm trong La kinh bát kỳ, An Long Nhi đã từng thấy trong Kỳ môn ảo trận của Lục Hữu bày ra bên dưới chân núi Thanh Nguyên. Lục Kiều Kiều nói với nó, Đường châm xuất hiện, chứng tỏ dưới đất có thâm đàm quái huyệt, giờ bọn họ đã ở dưới lòng đất, chỉ có thể lý giải rằng nơi này chính là thâm đàm quái huyệt. Bốn phía đều không có trăng sao cây cỏ để tham chiếu phương hướng, như vậy cũng không thể biết được mũi kim đang di động bên trong cung vị nào, càng không thể tính toán được đang xảy ra chuyện gì.
An Long Nhi vô vọng thu la bàn lại hỏi Tôn Tồn Chân: “Có phải sau khi mở thiên nhãn, huynh có thể nhìn thấy cửa ra vào và cơ quan cạm bẫy ở đâu hay không?”
“Những cơ quan ở gần thì nhìn thấy được.”
“Vậy huynh dẫn đường đi.”
Tôn Tồn Chân lại lắc đầu nói: “Có nhiều phòng quá, bốn phía xung quanh đều là các gian phòng, không biết gian nào có lối ra…”
“Vậy huynh thử mở bừa một cánh cửa ra xem thế nào?”
Tôn Tồn Chân bèn ấn lên viên gạch đỏ ở bức tường cạnh đó, lại mở ra một cánh cửa lật khác. Hai người đi vào, thấy trước mắt không phải căn phòng hình vuông nữa, mà là một thông đạo dài quanh co khúc khuỷu, nhìn sang bên trái thì thông đạo uốn khúc về phía trước. Tôn Tồn Chân nói: “Chỗ này còn có nhiều cơ quan hơn nữa, hai bên thông đạo toàn các cánh cửa.”
An Long Nhi biết tình hình lần này rất gay go, đây là một mê cung ngầm khổng lồ dưới lòng đất, có các gian phòng hình vuông cùng thông đạo ngoằn ngoèo hình rắn, mà la bàn của nó lại đã không còn công hiệu, nếu xông bừa chỉ tổ càng bị vây khốn ở đây lâu hơn. Nó ngẩng đầu lên nhìn cây đuốc trên tay, ngọn lửa dựng thẳng đứng, có thể thấy không có không khí lưu động, cũng có nghĩa là hai đầu thông đạo đều không có cửa mở ra.
Nó rút con dao găm Jack tặng cho, cắt một ống tay áo bông của mình nhét vào khe cửa lật vừa mới đi ra lúc nãy, đoạn nói với Tôn Tồn Chân: “Huynh đứng ở đây đợi, tôi sẽ chạy men theo thông đạo này xem phía bên kia có gì không, huynh cứ đếm từ một tới hai trăm mà tôi vẫn chưa quay lại, thì hãy đi về phía đó tìm tôi.”
Tôn Tồn Chân gật gật đầu, An Long Nhi cầm đuốc trên tay, chạy về phía con đường ngoằn ngoèo bên phải.
Nó vừa chạy, miệng vừa lẩm nhẩm đếm, tay không ngừng rút bông từ ống tay áo bị cắt ra rải xuống đất. Nó chạy rất nhanh, khi đếm tới bốn mươi thì đã tới cuối thông đạo. Phía trước là một bức tường, nhưng nó tin rằng trên bức tường này chắc chắn có cửa lật, liền nhanh chóng dùng nắm tay gõ lên từng viên gạch có thể là chốt mở cơ quan, quả nhiên thoáng cái đã gõ đúng, chỉ nghe cách cách một tiếng, trên tường liền mở ra một khung cửa lật.
An Long Nhi giơ đuốc vào trong khua khua, rồi thò đầu vào, thấy bên trong là một gian phòng hình vuông, giống hệt như gian phòng nó đi ra, ba mặt đều là tường. Nó lách người vào rồi tụt một chiếc giày bông ra kẹp dưới cửa, để cánh cửa không đóng lại được, sau đó đi tới bức tường mé bên phải cửa tìm kiếm chốt lẫy cơ quan.
An Long Nhi biết nếu cứ thuận theo hướng của thông đạo này, tức là tìm cửa ở bức tường đối diện với cánh cửa nó đi vào, thì sẽ chỉ đi vào một vòng tròn quái ác, nếu tìm cửa ở bức tường mé bên trái, thì sẽ quay vào mé trong của thông đạo ngoằn ngoèo này, chỉ có đi ra phía ngoài của thông đạo gấp khúc, mới hòng phá vỡ được lối tư duy của đối phương.
Nó cũng không hy vọng tìm được cửa trên bức tường này, vì nó biết mỗi cánh cửa đều được thiết kế để khiến bọn họ đi nhầm đường. Nó đã học được trong chiến thuật của Lục Kiều Kiều rằng, không bao giờ thuận theo tư duy của đối phương, trong chiến đấu chỉ nên xông về phía kẻ địch không muốn mình đi tới. Nó dò dẫm từng viên gạch trên cả bức tường ấy, quả nhiên không có chốt lẫy cơ quan nào để mở cửa. Phía sau vẳng lại tiếng Tôn Tồn Chân đi tới, vì An Long Nhi đã dùng chiếc giày chặn cửa lật lại, nên y tìm tới đây rất dễ dàng.
Vừa trông thấy Tôn Tồn Chân, nó liền hỏi: “Huynh thấy trên tường này có cơ quan gì không?”
Tôn Tồn Chân nói: “Đây là tường đặt, không có cơ quan.”
An Long Nhi rút dao găm ra nói: “Vậy thì tốt, để tôi khoét một cái lỗ xem thế nào.”
Nhưng Tôn Tồn Chân đã nói: “Không cần phải khoét, cậu đi giày vào đi, để đấy tôi.”
Nói dứt lời, y liền cởi bao hành lý sau lưng xuống, lấy ra hai ống kim loại sáng bóng, hai cái ống này một đầu kín một đầu hở, Tôn Tồn Chân lồng hai cái ống vào hai thanh Tề mi côn, khiến thanh trường côn lập tức biến thành Kim cương bổng của Tôn đại thánh. An Long Nhi không ngờ Tôn Tồn Chân lại trang sức cho cây côn của mình đẹp đến vậy, vừa xỏ giày vừa trợn tròn mắt lên nhìn xem y muốn làm gì.
Tôn Tồn Chân đứng thẳng, hai tay nâng côn, giơ cao quá đầu giơ ra thế cao bình, sau đó nhanh chóng lùi lại phía sau xuống tấn, thanh Tề mi côn bọc sắt hai đầu kéo về phía sau thành thế trung bình, một đầu côn chỉ về phía bức tường muốn công phá, An Long Nhi biết chiêu tiếp theo, đầu côn sẽ đâm ra. Nó còn thấy hai đầu côn phát ra ánh sáng bàng bạc, không phải ánh sáng màu đỏ do ánh lửa hắt lên, thứ ánh sáng tỏa ra từ trong ra ngoài này, do thân côn phát ra. Ánh bạc vừa lóe lên, cây gậy bịt kim loại đã đâm về phía bức tường gạch đỏ như một tia chớp bạc trong tiếng quát của Tôn Tồn Chân.
Tiếng va đập dữ dội vang lên, bức tường bị chọc thủng một cái lỗ to bằng đầu người, bụi bay mù mịt khắp phòng, nhưng An Long Nhi mặc kệ, nó lập tức tới chỗ lỗ hổng thò cây đuốc qua bên kia. Thằng bé liếc mắt nhìn, phía bên kia vẫn là một gian phòng bốn mặt đều là tường gạch đỏ. Nó cùng Tôn Tồn Chân dùng tay khoét rộng lỗ hổng trên tường, bấy giờ mới phát hiện đây là tường đôi hai lớp gạch, nếu dùng dao găm như lúc nãy nó định làm thì ít nhất phải nửa canh giờ mới nạy ra được một viên gạch. Kể cả có dùng dùi sắt thì cũng phải tốn một khắc thời gian, nhưng Tôn Tồn Chân chỉ cần chọc một cái đã thủng, công lực của y so với lúc bị bắt ở đồi Song Long dường như đã khác nhau một trời một vực, chắc hẳn đây là kết quả tu luyện với Vô Vị đại sư ở chùa Tịnh Cư. An Long Nhi đã liều mạng giao đấu với Tôn Tồn Chân một lần, rất hiểu cây côn trên tay họ Tôn nặng chừng nào, nó nhìn cái lỗ trên tường mà rùng mình, nếu hôm nay Tôn Tồn Chân đánh nó một côn, chỉ sợ đánh cho thân thể nó gãy ngang lưng chứ chẳng chơi.
Hai người nhanh chóng khoét rộng lỗ hổng, co người chui qua phía bên kia, Tôn Tồn Chân quan sát thấy bức tường đối diện cũng không có cơ quan, mà nơi nào không có cơ quan thì chính là người bày ra cục diện này không muốn kẻ bị vây khốn bên trong đi tới, không đánh vào đây thì còn đánh vào đâu nữa? Tôn Tồn Chân lại giở ra chiêu cũ, đâm mạnh một côn, phía bên kia vẫn là một gian phòng. An Long Nhi nói với Tôn Tồn Chân: “Đây là gian thứ ba rồi đấy, huynh còn sức không?”
Tôn Tồn Chân nói: “Tôi còn chưa dùng sức đâu. Bên kia có người, cậu tắt đuốc đi, rút đao ra chuẩn bị chiến đấu, xem côn đây!
“Ầm ầm!” Tôn Tồn Chân chọc thủng một cái lỗ lớn đủ cho một người chui qua trên tường, phía bên kia có ánh đèn chiếu sang, Tôn Tồn Chân không nhìn qua lỗ thủng quan sát tình hình bên ngoài mà nhảy vọt lên phóng sang bên kia. An Long Nhi cũng làm theo, nó thấy mình đang quỳ ở góc một căn phòng lớn rộng chừng bảy tám trượng vuông.
Bốn bức tường trong căn phòng lớn này cũng bị bịt kín, trên tường cắm đuốc chiếu sáng, xung quanh không có đồ đạc gì, chỗ này thực ra chỉ là một mật động hình vuông mà thôi. An Long Nhi biết, trong mắt Tôn Tồn Chân, tất cả đều chỉ là giả tượng, ở đây chắc chắn có cửa lật để ra vào; chính giữa căn phòng là một bức âm dương bát quái đồ lớn khảm bằng cẩm thạch trắng, bên trên còn có một sợi dây đồng vòng qua tám quẻ, vừa nhìn đã biết là một lộ tuyến canh bộ trong phi cửu cung.
Tôn Tồn Chân ở ngay gần An Long Nhi, chân xuống tấn, tay cầm trường côn chỉ vào một người ở bên kia gian phòng, chính là đạo sĩ Trương Bồi Nguyên để tóc xõa mặt mày râu ria lúc nãy. Trương Bồi Nguyên nhìn hai người trẻ tuổi nghiêm túc trước mặt, phá lên cười sảng khoái. An Long Nhi nói với ông ta: “Trương đạo trưởng, chúng cháu đã thoát ra rồi, nếu không có chuyện gì khác, chúng cháu phải lập tức rời khỏi đây, xin ông chớ ngăn cản.”
An Long Nhi thầm nghĩ, cái chỗ quái quỷ này không có Long Quyết, thì coi như uổng công một chuyến vậy. Xông vào nơi của người ta là không đúng, nhưng nó và Tôn Tồn Chân không làm ai bị thương, cũng không gây ra chuyện lớn gì, bây giờ hai người lập tức rời đi thì vẫn còn kịp đuổi theo xem bọn Lục Kiều Kiều an nguy thế nào. Tuy chỗ này không có Long Quyết, nhưng An Long Nhi cũng không thấy hụt hẫng, bằng không nó sẽ phải lập tức mang Long Quyết đi Quảng Châu, chẳng biết còn phải xa Lục Kiều Kiều bao lâu nữa.
Trương Bồi Nguyên cười chán chê rồi nói với hai người: “Các ngươi buông mấy thứ trên tay kia xuống đi, hay là muốn đánh ta hả?”
An Long Nhi nghe ông ta nói thế, liền cất dao găm đi, Tôn Tồn Chân cũng lập tức thu côn đứng bên cạnh nó. Nó hỏi Tôn Tồn Chân: “Lối ra ở chỗ nào? Chúng ta phải ra ngoài thôi, tôi muốn đi giúp cô Kiều…”
Tôn Tồn Chân đi thẳng tới một góc tường, nhưng Trương Bồi Nguyên lại đột nhiên cất tiếng: “Cứ vậy là đi sao? Các ngươi không cần Trảm long quyết nữa à?”
An Long Nhi và Tôn Tồn Chân lập tức đứng yên tại chỗ, tim An Long Nhi đập rộn cả lên, không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì. Nó quay ngoắt lại hỏi Trương Bồi Nguyên: “Ông có Long Quyết ? Có thể đưa cho chúng cháu được không? Chúng cháu đến là để lấy Long Quyết.”
Trương Bồi Nguyên vẫn giữ nguyên bộ dạng hờ hững, tay phải tung tung cây gậy gỗ đen, tay trái giơ lên vẫy vẫy hai người, ý bảo bọn họ đi tới chỗ mình, còn bản thân thì đã dựa vào tường, thuận đà ngồi bệt luôn xuống đất.
An Long Nhi chưa từng thấy đạo sĩ nào lờ phờ đến thế, có điều dáng vẻ này của Trương Bồi Nguyên lại khiến nó bớt phần nào cảnh giác. Một người muốn hại người khác, sát khí sẽ lộ ra ánh mắt, còn trong ánh mắt Trương Bồi Nguyên, nó chỉ thấy vẻ hờ hững rỗi việc của một gã lang thang. Nó và Tôn Tồn Chân chầm chậm bước tới, Trương Bồi Nguyên lại vẫy tay bảo hai người cùng ngồi luôn xuống đất, bọn họ đành ngồi trên Bát quái đồ dưới sàn.
Trương Bồi Nguyên nói bằng giọng trầm đục: “Cái mê cung này, vốn là để các ngươi đi hết, rồi ra từ cánh cửa kia thì ta mới có thể giao Trảm long quyết… giờ thì tốt rồi, các ngươi đục thủng tường xông thẳng tới đây luôn, ta có nên đưa cho các ngươi hay không? Hả?”
An Long Nhi nói với Trương Bồi Nguyên: “Chúng cháu có việc gấp nên mới làm vậy, mong Trương đạo trưởng hiểu cho, nếu ông có Long Quyết, xin ông nhanh chóng đưa cho chúng cháu đi.” Nó nói xong, liền quỳ xuống trước mặt Trương Bồi Nguyên dập đầu sát đất, hồi lâu vẫn chưa ngẩng lên.
Trương Bồi Nguyên trợn mắt lên nhìn trần nhà, sau đó bực tức nói với An Long Nhi: “Ngẩng lên đi, đừng gọi ta là Trương đạo trưởng, phải gọi là Trương Thiên Sư…”
Tôn Tồn Chân nghe ông ta nói vậy cũng không có phản ứng gì, nhưng An Long Nhi thì tỏ ra hết sức kinh ngạc: “Ông chính là Trương Thiên Sư? Vì vậy ông mới nói phủ Thiên Sư chính là nhà ông.”
“Ta không giống sao? Khụ khụ… ta là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, Trương Bồi Nguyên, phải rồi, ra ngoài đừng nói với ai là đã gặp ta đấy nhé.” Trương Bồi Nguyên đùa nghịch xoay xoay cây gậy gỗ đen trên tay, chậm rãi nói:
“Từ đời Thiên Sư triều trước đã truyền xuống sứ mệnh bảo vệ Trảm long quyết, nhưng ta chưa bao giờ trông thấy Trảm long quyết, mà chỉ biết được một số việc liên quan đến Long Quyết thôi. Các Thiên Sư đời trước để lại cây Lôi thích này, cùng với một mật quyết chỉ có Thiên Sư mới được truyền dạy: Giáp tý tiền, Hồ Tiên hậu, Thiên Ngục khai, Tam nương tẩu. Tặng Lôi thích, truyền thần phù, âm dương khí, khu Long Quyết... Cha ta, ông nội ta, ông nội của ông nội ta đều ngày đêm ngẫm nghĩ xem rốt cuộc là có ý quái quỷ gì, đến hôm nay rốt cuộc ta đã hiểu…”
An Long Nhi lấy làm kỳ quái, tại sao mọi người đều vì Long Quyết, nhưng mỗi nhà lại có một bộ khẩu quyết khác nhau, kỳ quái hơn nữa là Trương Bồi Nguyên lại nói ra khẩu quyết có vẻ rất bí mật đó với thái độ như đang chuyện phiếm vậy. Nó thắc mắc: “Trương Thiên Sư, ông nói những chuyện này cho chúng cháu là có ý gì? Ông không muốn giao Long Quyết sao?”
Trương Bồi Nguyên nở một nụ cười đầy ý vị, đôi mắt sáng rực thấp thoáng sau mái tóc dài buông xõa nhìn về phía An Long Nhi: “Ta cho ngươi Trảm long quyết, ngươi có biết dùng không? Kể cả có biết cũng không dùng được, sức mạnh cuối cùng của Trảm long quyết nằm ở đây…” Trương Bồi Nguyên nói tới đây, liền giơ cây gậy đen trên tay lên, khiến An Long Nhi cơ hồ muốn giơ tay ra giật lấy.
“Ngồi yên nghe ta nói đã, Trảm long quyết có thể chặt đứt long mạch thiên tử không chỉ là một cuốn sách, mấy câu khẩu quyết…” Trương Bồi Nguyên nói xong thì xoay người nằm ngửa ra sàn, tựa như một chú chó bị ngứa ở lưng cọ cọ chỗ ngứa xuống đất: “Chậc… chậc… các ngươi có thể tới được đây thì đều là người tu đạo, biết một Giáp Tý tuần hoàn có sáu mươi thiên can địa chi, đến sáu mươi mốt thì lại bắt đầu lại từ đầu, ta đây, là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, vì vậy ‘Giáp Tý tiền’ trong mật quyết, chính là chỉ ta. Điện Hồ Tiên các ngươi có biết không?”
Lúc ở trên bờ tường trước khi tiến vào, An Long Nhi và Tôn Tồn Chân đều trông thấy trong phủ Thiên Sư có một gian điện Hồ Tiên, vì vậy liền đồng thời gật đầu với Trương Bồi Nguyên. Giờ nghĩ lại, tiếng cổ cầm rối loạn vẳng ra trong điện Hồ Tiên lúc nãy, chắc cũng là do vị Thiên Sư rỗi việc Trương Bồi Nguyên này diễn tấu.
Trương Bồi Nguyên thấy hai người gật đầu, lại tiếp tục nói: “Phía sau điện Hồ Tiên có một cửa ngầm, từ nhỏ ta đã biết ở đó có cơ quan, nhưng dùng đủ mọi cách mà vẫn không mở ra được.
Lúc đi hỏi cha ta, ông ấy nói mật quyết chính là gợi ý để mở cửa. Đến khi các ngươi lén lút mở cửa trong điện Giáp Tý, ta mới hiểu ra ý nghĩa của đoạn mật quyết này, thì ra không phải dùng mật quyết của ta để mở cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên, mà phải dùng mật quyết của các ngươi. Thiên Sư chỉ bảo vệ nơi cất giữ Trảm long quyết, nhưng người họ An các ngươi mới có thể mở được cánh cửa này… Vùng núi Long Hổ này là đất Thiên Ngục, từ lâu ta đã biết điểm này,vì vậy trước nay vẫn cho rằng ‘Thiên Ngục khai’ trong mật quyết, là chỉ việc địa chấn làm mặt đất nứt toác ra, nhưng vừa nãy ta lần đầu tiên đi xuống mê cung dưới lòng đất này, lấy được Lôi thích, Trảm long quyết và trông thấy Tam nương canh bộ đồ, mới biết hóa ra Thiên Ngục là chỉ mê cung này…”
Trương Bồi Nguyên nói xong, lật ngón tay chỉ chỉ vào bức Bát quái đồ dưới sàn: “Đây là Tam nương phu nhân canh bộ, dùng bộ pháp và tuyến đường này có thể thuận lợi đi qua mê cung tới nơi này. Ha ha ha… ha ha ha…” Trương Bồi Nguyên nói tới đây thì không nhịn được, lại cười phá lên một trận: “Bộ pháp này nằm ở phía ta, ý là muốn ta vào xem các ngươi là người thế nào, sau đó tùy theo tình hình để đưa ra cho các ngươi một thử thách, kẻ không thể ra khỏi mê cung tuyệt đối không phải người tu đạo tu tiên, ta có thể ra ngoài đóng cửa nhốt các ngươi ở đây đến chết. Nhưng mà các ngươi lại khoét lỗ trên tường để tới đây, chậc… các vị lão Tổ tông cũng chẳng thể ngờ được đâu…”
An Long Nhi chau mày hỏi: “Chúng cháu khoét lỗ trên tường đi thẳng tới đây, thì ông không giao Long Quyết?”
Trương Bồi Nguyên nằm dưới sàn nhà, hai tay ôm cây gậy Lôi thích, nhìn lên trần nói: “Đạo có thể giảng thì không phải là đạo. Kẻ đạt đại đạo, khéo mà như vụng, trí mà như ngu, biết đi theo Tam cô nương canh bộ tất nhiên là đạo, nhưng tên ngốc biết khoét lỗ trên tường… cũng coi như đại trí nhược ngu rồi… các ngươi có biết Long Quyết là gì không ?”
An Long Nhi nghe Trương Bồi Nguyên nói câu nào cũng có lý, chắc không có gì giả trá, liền thành thực trả lời: “Long Quyết là thuật phong thủy thiên tử, có thể lập một triều đại, cũng có thể phá một triều đại.”
Trương Bồi Nguyên gối đầu lên một cánh tay nói: “Biết được thì tốt, nhưng các ngươi có biết, Long Quyết là loại thuật phong thủy không thể dùng các pháp khí phong thủy bình thường để khu động hay không, trước tiên cần phải có khí âm dương…”
An Long Nhi hỏi: “Khí âm dương là cái gì?”
Trương Bồi Nguyên đáp: “Thiên địa vạn vật đều do hai khí âm dương giao hòa mới có thể sinh thành, muốn khu động long mạch thiên tử, thì không thể chỉ dùng khí thuần dương của đàn ông, mà cần phải dùng khí thuần âm của đàn bà mới hợp với lẽ trời đất. Phong thủy sư tìm được long mạch thiên tử rồi, phải có nam nữ cùng hợp lực sử dụng hai khí âm dương mới có thể mở huyệt đánh thức rồng, mà nếu muốn trảm long… thì phải dùng máu huyết của nam và nữ phun lên Lôi thích, dùng máu tế trời đất trước, mới có thể dùng Lôi thích này trảm sát long mạch Thiên tử, còn trảm thế nào, trảm vào đâu… thì trong sách đều có cả rồi…” Nói xong, ông ta lấy trong người ra một quyển sách quăng xuống đất.
An Long Nhi nhìn xuống quyển sách Trương Bồi Nguyên tùy tiện ném xuống đất, lập tức vươn tay ra cầm lên xem, trong sách quả nhiên toàn khẩu quyết và bản đồ địa lý, nhưng dù sách đã cầm trên tay, nó vẫn trân trân nhìn cây gậy gỗ đen được gọi là Lôi thích kia.
Trương Bồi Nguyên lăn một vòng dưới đất ngồi dậy, hai chân khoanh tròn, tay chống cằm, ngón tay chầm chậm vân vê sợi râu: “Lúc nãy khi các ngươi đào tường, ta tranh thủ thời gian xem qua Trảm long quyết này, trảm sát long mạch ngoài việc phải tìm ra tử huyệt của long mạch, còn phải dùng pháp lực của Thiên Sư đạo nữa. Ta là Thiên Sư, các ngươi có chìa khóa vào đây rồi, thì ta phải có nghĩa vụ truyền phép… nhưng ta không ngờ người đến lấy Trảm long quyết lại có tới hai người, điều làm ta bất ngờ nhất không phải các ngươi đục lỗ trên tường, mà là hai người cùng đến một lượt đấy. Các ngươi nói xem, ta nên truyền Trảm long quyết có thể hủy diệt một triều đại này cho ai đây?”
Trương Bồi Nguyên nhìn người này rồi lại nhìn người kia, bộ dạng có vẻ chỉ muốn thiên hạ đại loạn, ông ta đang đợi An Long Nhi và Tôn Tồn Chân tranh đấu, nếu hai người này đánh nhau, thì loại người tham lam tàn bạo ấy không xứng đáng được truyền Trảm long quyết, ông ta sẽ lập tức xông ra khỏi mê cung, việc truyền pháp quyết để đời sau hãy tính.
An Long Nhi quay đầu lại nhìn Tôn Tồn Chân, họ Tôn khẽ gật đầu, nó liền quay sang khấu đầu với Trương Bồi Nguyên nói: “Xin Trương Thiên Sư truyền cho cháu.”
“Ồ! Khụ khụ, các ngươi cũng đồng lòng quá nhỉ.” Trương Bồi Nguyên hơi ngạc nhiên trước phản ứng này, mỉm cười chăm chú quan sát hai người bọn họ một hồi, sau đó lại nói: “Vậy các ngươi hãy ngồi yên đừng động đậy, ta muốn thăm dò công lực của các ngươi trước…”
Trương Bồi Nguyên lật tay đâm cây Lôi thích vào bức tường phía sau, “soạt” một tiếng, cây gậy đã cắm ngập quá nửa vào bức tường gạch đỏ, chỉ để lại tay nắm chừng một thước bên ngoài. An Long Nhi thấy cây gậy đen ấy đâm vào tường gạch mà như đâm vào đậu phụ, có vẻ như Lôi thích quá cứng lại có vẻ bức tường quá mềm, cũng không có mấy bụi đất bắn ra, từ điểm này có thể thấy công lực của Trương Bồi Nguyên tinh thuần tới nhường nào. Ông ta biểu diễn màn này, một là để cho hai người trẻ tuổi biết mình có đủ tư cách truyền pháp lực, hai là bảo họ đừng hy vọng có thể làm bừa. Trương Bồi Nguyên ta khoét lỗ trên tường đẹp hơn ngươi nhiều.
Trương Bồi Nguyên ngồi xếp bằng tròn, đùi nhẹ nhàng ép xuống dưới một cái, đã bay vọt lên lộn nhào một vòng trên không trung, rơi xuống giữa hai người, hai tay lần lượt ấn lên huyệt Bách hội trên đỉnh đầu. Hai người lập tức cảm thấy một luồng khí tinh thuần ấm áp chầm chậm từ đỉnh đầu lan tỏa đi khắp toàn thân, hơi ấm còn vận hành trong cơ thể, Trương Bồi Nguyên đã nhảy lên bức Bát quái đồ ở giữa phòng, chắp tay sau lưng, thần thái hồng hào quắc thước, vẻ uể oải biếng nhác lúc nãy đã biến mất, lớn giọng hỏi: “Tôn đạo trưởng, ngươi có nội công tinh thâm của phái Toàn Chân, đã đạt tới trình độ của pháp sư bậc cao rồi, xin hỏi đến đây có công việc gì? Liễu Tinh Nam đạo trưởng là gì của ngươi?”
Tôn Tồn Chân quay lưng lại phía Trương Bồi Nguyên, cũng chẳng buồn ngoảnh đầu đáp: “Liễu Tinh Nam là sư phụ của tôi, có điều giờ tôi đã không còn là đạo sĩ Toàn Chân nữa, tôi cũng không phải đến vì Long Quyết mà chỉ giúp Long Nhi lấy được Long Quyết, những chuyện khác thảy đều không liên quan, Long Nhi mà đi thì tôi cũng đi, sẽ không quay trở lại nữa.”
Trương Bồi Nguyên biết, yêu cầu cơ bản của một đạo sĩ là tôn sư trọng đạo, nếu Tôn Tồn Chân vẫn là đạo sĩ của phái Toàn Chân, y tuyệt đối không dám nói như vậy, một khi đã nói năng quyết liệt như thế, đằng sau chuyện này hẳn phải có ân oán lằng nhằng phức tạp vô cùng, đương nhiên Trương Bồi Nguyên cũng không muốn biết những chuyện đó làm gì. Có điều, Tôn Tồn Chân bày tỏ thái độ như vậy làm ông ta rất yên tâm. Ông ta lại hỏi An Long Nhi:
“Trên người ngươi có công pháp nữ đan của phe Thiên Sư đạo ta, ngươi là đàn ông, ngươi học ở đâu ra cái thứ ấy thế?”
An Long Nhi ngồi xếp bằng tròn, xoay người lại trả lời Trương Bồi Nguyên: “Cháu học công phu luyện nữ đan của cô Kiều, cô ấy là con gái của An Vị Thu.”
“Chậc chậc, đúng là ý trời.” Trương Bồi Nguyên khẽ cười lên hai tiếng, ánh mắt bừng lên một sắc thái kỳ dị: “Trảm long sát mạch, vốn dĩ cần phải một nam một nữ cùng lúc vận dụng Tử thần ngự long khí, nhưng trên người ngươi lại có công pháp nữ đan âm nhu, được Tam muội dương hỏa của nam nhi đề luyện thời gian dài, công lực lại sâu thêm một tầng nữa, nên một mình ngươi cũng có thể sử dụng Trảm long quyết rồi. Ý trời, đúng là ý trời! Có người như ngươi đến lấy Trảm long quyết, khí số Đại Thanh tận rồi. Trảm long quyết không chỉ là một quyển sách, trong sách có dạy ngươi cách tìm được tử huyệt của long mạch thiên tử, nhưng chỉ khi dùng Lôi thích đâm vào tử huyệt thì mới có thể trảm sát long mạch một cách triệt để, mà muốn vận dụng Lôi thích thì lại cần đến Trảm long quyết chân chính.”
An Long Nhi lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Cây gậy này chính là Lôi thích ạ? Lôi thích là cái gì?”
Trương Bồi Nguyên trả lời nói: “Đi nhổ Lôi thích ra đây.”
An Long Nhi đi tới bên cạnh bức tường, hai tay nắm lấy cây Lôi thích đen kịt dùng sức kéo mạnh, nhưng không rút ra được. Nó lại đạp một chân lên tường, dồn sức vào hai tay lần nữa, song cây Lôi thích cắm trong tường vẫn không hề nhúc nhích.
Lúc này Trương Bồi Nguyên nói với nó: “Sư phụ ngươi đã tạo cho ngươi một nền tảng rất tốt, luyện ra được Ngũ sắc nội đơn, với công lực của ngươi hiện tại thừa sức rút Lôi thích ra rồi, có biết vẽ bùa không vậy?”
“Chưa học bao giờ.”
“Làm theo lời ta nói, tay chụm lại thành kiếm quyết, vận nội đơn đến đầu ngón tay, vẽ ra Đại Minh Thần hỏa ấn ở khoảng không phía trên tay nắm Lôi thích, làm theo ta!” Trương Bồi Nguyên nói xong liền dùng ngón tay vạch lên không trung một loạt những đường nét phức tạp và đẹp đẽ, An Long Nhi nhìn qua một lần, liền làm theo, vẽ lên phía trên tay nắm của Lôi thích, sau khi vẽ xong, Trương Bồi Nguyên nói với nó: “Nội đơn dừng ở tay, nắm vào Lôi thích rút ra!”
An Long Nhi nắm lấy Lôi thích, bắt đầu dùng sức một cách nhẹ nhàng, nhưng vừa hơi dồn lực một chút, Lôi thích đã trượt ra luôn, cảm giác như thể rút cái chày cán bột ra khỏi nắm bột đang nhào mềm nhũn vậy. Tim An Long Nhi đột nhiên đập dồn dập, tâm trí nó đang mạnh mẽ tiếp nhận một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Trước đây, khi nhìn Lục Kiều Kiều vẽ bùa niệm chú, nó đều chỉ coi là trông thấy thần tích hoặc xem ảo thuật, thần kỳ thì cũng thần kỳ thật, nhưng cảm giác chấn động ấy tuyệt đối không mạnh mẽ và khoáng hậu như lúc này. Khi mình tự cảm nhận được sức mạnh thần kỳ như trong mộng ấy, trong lòng nó chợt nhận thấy thế giới mà nó biết mười mấy năm nay đã đột nhiên biến đổi, đây là một thứ sức mạnh vượt trên mọi thứ mà thường ngày nó vẫn biết, vẫn thấy, thứ sức mạnh này thậm chí còn vượt trên cả bản thân nó nữa, lẽ nào đây chính là đạo?
Niềm vui không sao kiềm chế nổi khiến nó nở một nụ cười tự đáy lòng, sau khi nhẹ nhàng rút cây Lôi thích ra cầm trên tay, cây gậy truyền cho nó một sự tự tin xưa nay chưa từng có, một thứ cảm giác quyền lực không gì sánh nổi, những bùa chú ngoằn ngoèo khắc trên Lôi thích mở ra trước mắt nó một thế giới rộng lớn vô cùng tận. Nó chầm chậm xoay người lại phía Trương Bồi Nguyên, qua vẻ kinh ngạc của nó, Trương Bồi Nguyên có thể nhìn ra đây là một đứa trẻ chưa từng tiếp xúc với đạo thuật, và ông ta cũng rất vui lòng truyền thụ Trảm long quyết cho đứa nhỏ thuần khiết này. Ông ta nói với An Long Nhi: “Cây gỗ thích từng bị sét đánh rất hiếm có, gỗ thích từng bị sét đánh có ẩn chứa dương khí mạnh mẽ nhất trong trời đất, trong Thiên Sư đạo, nó được coi là nguyên liệu chế tạo pháp khí chí cao vô thượng, từ đời Thiên Sư đầu tiên, ấn phù của các đời đều dùng Lôi thích điêu khắc mà thành. Cây gậy Lôi thích trên tay ngươi chính là pháp khí chí cương chí dương trong thiên hạ, chỉ có pháp khí như vậy, công với Trảm long quyết, mới có thể trảm sát được long mạch.”
Trương Bồi Nguyên ngưng lại giây lát, để An Long Nhi rờ mó cây Lôi thích cho thỏa, sau đó lại nói: “Trong Thiên Sư đạo, quyết không chỉ là khẩu quyết, mà còn phải phối hợp với thủ ấn, bộ pháp và chú ngữ, thậm chí còn phải cộng thêm cả bùa chú thì mới được gọi là quyết, Trảm long quyết cũng vậy. Ngươi phải học của ta bộ pháp và thủ ấn, mới có thể vận dụng Trảm long quyết hoàn chỉnh đi trảm sát long mạch, bằng không khi ngươi đến phía trên long mạch, dù có đào núi khoét non thế nào chăng nữa, long mạch ấy vẫn có ngày tái sinh. Nếu không phải ngươi trảm long mạch, vậy thì cần một nam một nữ cùng lúc vận dụng Trảm long quyết theo hai hướng chính phản mới có hiệu quả… Được rồi, chúng ta không có nhiều thời gian, lập tức vào trong Bát quái đồ, đứng trước mặt ta làm theo những gì ta làm, cả quá trình không cần vận dụng đan công chỉ học động tác là được rồi.”
An Long Nhi buông Lôi thích ra đi tới trước mặt Trương Bồi Nguyên, hai người chia nhau đứng ở vị trí âm dương như trên Bát quái đồ, chân trái của Trương Bồi Nguyên bước lên trước chân phải, hơi rùn người xuống, hai tay làm ra một động tác giống như bắt quyết, ngón cái và ngón út chạm nhau chèn lên ngón đeo nhẫn, ngón trỏ và ngón giữa chĩa thẳng lên trời, ngón tay bàn tay phải lồng vào bàn tay trái. Ông ta nói với An Long Nhi: “Chân bước Kỳ lân bộ, tay bắt Triều thiên ấn…” An Long Nhi chăm chú quan sát, dồn hết toàn bộ sự chú ý chầm chậm mô phỏng theo động tác của Trương Bồi Nguyên, bắt đầu lần lượt học từng chiêu từng thức của Trảm long quyết mà Lục Kiều Kiều bọn họ đã dùng cả sinh mệnh mình để tìm kiếm.
Sau một canh giờ, An Long Nhi đã học hết Trảm long quyết, toàn thân đều đẫm mồ hôi, còn Trương Bồi Nguyên thì vẫn giữ dáng vẻ thong thả ung dung, tiên phong đạo cốt. Tôn Tồn Chân ngồi dưới đất, lặng lẽ xoay lưng về phía hai người. Trương Bồi Nguyên yêu cầu An Long Nhi thề độc, chỉ được truyền miệng chứ tuyệt không được ghi lại thủ ấn, bộ pháp và chú ngữ của Trảm long quyết, vì vậy An Long Nhi cũng không dám nôn nóng rời khỏi đây nữa, nó phải đảm bảo khi rời khỏi phủ Thiên Sư, mình đã nhớ kỹ tất cả những gì học được ngày hôm nay.
Lúc này, dưới lòng đất vang lên tiếng nổ ì ầm trầm đục, trong tiếng nổ không ngừng lại thấp thoáng kèm theo tiếng rít gào the thé, cả mê cung ngầm không ngừng rung lên nhè nhẹ, khiến người ta cảm giác như thể một nguy cơ lớn lao sắp ập đến cạnh bên. Cả bọn đều dừng lại, Trương Bồi Nguyên bấm ngón tay lên tính toán, An Long Nhi lập tức lấy la bàn trên người ra, nó thấy kim la bàn không liên tục đảo qua đảo lại như lúc trước nữa, mà đang không ngừng xoay chuyển rất nhanh, chứng tỏ xung quanh có tà khí rất mạnh tồn tại. Cả nó và Trương Bồi Nguyên đều không hẹn mà thốt lên: “Hỏng bét!”
Trương Bồi Nguyên nói: “Các ngươi ở đây, để ta ra xem sao.” Ông ta vừa dứt lời, liền nghe bên ngoài bức tường có người đang đập cửa hò hét dữ dội, âm thanh rất xa xôi mờ mịt, không rõ người bên ngoài đang gào thét chuyện gì, nhưng có thể tưởng tượng ra được mức độ khẩn cấp của sự việc. Trương Bồi Nguyên lại nói: “Lớn chuyện rồi, các ngươi đừng đi bừa bãi, An Long Nhi tự mình luyện tập thêm mấy lần nữa, ta ra ngoài trước xem sao.” Nói xong, ông ta chạy tới trước một bức tường, đẩy cánh cửa lật ra rời khỏi mê cung dưới lòng đất.
Khi ông ta trở lên mặt đất từ phía sau điện Hồ Tiên, liền trông thấy phủ Thiên Sư đã trở nên hết sức rối loạn, toàn bộ đạo sĩ đều đã chạy ra khỏi các đại điện đến chỗ thông thoáng nhìn về phía Đông, phía đó chính là hướng của cung Đại Thượng Thanh, trên núi có một luồng khí đen bổ thẳng lên trời. Trương Bồi Nguyên biết rất rõ đó là gì, khi có người đến lấy Trảm long quyết, đồng thời cũng có người lên cung Đại Thượng Thanh thả ra ma khí trong Thiên Ngục, cuộc đại loạn thiên hạ tám trăm năm trước sẽ tái diễn lần nữa.
Ông ta biết người thả ma khí Thiên Ngục ra dĩ nhiên cũng nhằm vào Trảm long quyết, vì vậy liền tổ chức các đạo sĩ trong phủ Thiên Sư lại, ra lệnh cho mọi người chuẩn bị cung tên vũ khí, bố trí phòng thủ các nơi trong phủ Thiên Sư, đồng thời phái hai người đi về phía cung Đại Thượng Thanh thăm dò. Bận bịu sắp xếp mất chừng hai khắc thời gian, Trương Bồi Nguyên vội vàng quay về mê cung dưới lòng đất, lấy ra một quyển sách nhét vào tay An Long Nhi, nhưng không nói gì, chỉ bảo An Long Nhi: “Nơi này đã trở nên rất nguy hiểm, ngươi học xong rồi thì nhanh chóng đi đi. Nhớ kỹ, làm gì cũng phải dựa vào lương tâm, thuận theo ý trời, tận hết sức người… khi nào thiên hạ thái bình thì về đây trả lại Trảm long quyết.”
An Long Nhi quỳ thụp xuống trước mặt Trương Bồi Nguyên nói: “Đa tạ Trương Thiên Sư.” Dứt lời, nó nhanh chóng dập đầu ba cái, cất Trảm long quyết và quyển sách Trương Bồi Nguyên mới đưa cho vào lòng, tay cầm Lôi thích, rồi cùng Tôn Tồn Chân lên mặt đất theo lối Trương Bồi Nguyên vừa đi vào.
Khi bọn họ mở cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên, vẫn còn chưa ló đầu lên khỏi mặt đất, đã trông thấy một con bướm trắng đang bay lượn phía trước mặt.
Trương Bồi Nguyên vừa ngẩng lên nhìn con bướm trắng ấy, liền cười khẩy một tiếng nói: “Trò vặt vãnh mà cũng dám đến phủ Thiên Sư khoe khoang.” Nói đoạn, ông ta phất ống tay áo về phía con bướm, con bướm “phù” một tiếng, bốc cháy trên không trung hóa thành tro tàn rơi xuống đất. Trương Bồi Nguyên lại quay sang bảo An Long Nhi: “Các ngươi bị người ta theo dõi rồi, thành thật nói cho ta biết, đối phương là ai, có bao nhiêu người?”
An Long Nhi thành thực trả lời: “Bọn họ đều là người của triều đình, trước khi tới đây cháu thấy có khoảng sáu mươi tên cưỡi ngựa.”
Trương Bồi Nguyên nghe xong lập tức bấm đốt ngón tay tính toán, vừa nhẩm vừa nói: “Không ngoài dự liệu, bao đời nay chỉ có triều đình vong quốc mới bất chấp tất cả để tìm kiếm Trảm long quyết, lúc thiên hạ thái bình thì chẳng ai nghĩ đến thứ này cả. Giờ đối phương cũng không còn nhiều người như vậy nữa rồi, các ngươi hãy đi theo lối phía sau phủ đi. Trì Tú…” Lúc này đằng trước bọn họ có một đạo sĩ trẻ tên là Trì Tú đi tới, anh ta đã buộc thắt lưng bên ngoài đạo bào, hông đeo trường kiếm, lưng đeo túi tên đầy, tay cầm một cây cung mây, đang rảo bước chạy về phía trước phủ Thiên Sư, chuẩn bị phòng vệ ứng chiến. Nghe Trương Bồi Nguyên gọi tên mình, anh ta lập tức chạy tới trước mặt họ.
“Trương Thiên Sư, có gì dặn dò ạ?”
“Dẫn hai vị đạo huynh này ra theo cửa ngách, nhanh lên!”
“Vâng, xin đi theo tôi!” Trì Tú vẫy tay với Tôn Tồn Chân và An Long Nhi, lập tức dẫn họ chạy về phía hậu viện.
Trương Bồi Nguyên vội vã chạy ra khỏi điện Ngọc Hoàng, từ xa đã nghe thấy tiếng đánh giết, khi ông ta rảo chân phóng ra khỏi gian chính của điện Ngọc Hoàng, một cái bóng cao lớn mang theo tiếng gió phần phật cũng lao nhanh về phía ông ta, trên không trung vang lên một tiếng quát: “Triều đình bắt khâm phạm, người không liên quan tránh ra!”
Thân hình người kia nhanh thì có nhanh thật, nhưng Trương Bồi Nguyên vẫn nhìn rõ trước mặt mình không chỉ có người, mà còn một thanh trường kiếm chém đến tựa như rắn bạc đang múa lượn. Trương Bồi Nguyên không lùi nửa bước, giơ chân hất cái bồ đoàn dưới đất lên, bồ đoàn bay vèo vào mặt người kia, cước thứ hai đã như bóng với hình lách qua khoảng trống của kiếm, đá vào bụng đối phương.
Người kia thấy tầm mắt đột nhiên bị cản trở, liền nhanh nhẹn thu kiếm chém nát bồ đoàn, không đợi chân Trương Bồi Nguyên đá tới, y đã giơ chân trước lên đạp vào lòng bàn chân họ Trương. Hai cước đụng nhau, hai người tách ra hai hướng, giữa màn bông vải bay đầy trời, Trương Bồi Nguyên trông thấy một người đàn ông trung niên cao lớn, nét mặt thanh tú nho nhã.
Trương Bồi Nguyên lại đưa mắt nhìn quanh, mấy chục đạo sĩ đang chống lại bốn võ sĩ ăn mặc kỳ quái, các đạo sĩ rõ ràng không phải đối thủ của bốn người này, liên tục có người bị thương ngã xuống, chỉ có thể vừa đánh vừa lui.
Trương Bồi Nguyên nhếch miệng hỏi: “Ruồi nhặng cũng dám đến phủ Thiên Sư làm loạn, các ngươi là ai?”
An Thanh Nguyên lấy trong ngực áo ra một lệnh bài bằng vàng giơ ra trước mặt Trương Bồi Nguyên: “Tại hạ là Hàn Lâm viện Đại học sĩ An Thanh Nguyên, con trai của An Vị Thu, hiện đang tra án, cần bắt một đứa trẻ tóc vàng, Trương Thiên Sư nếu không lập tức giao người, thì hãy nhường đường để hạ quan tự mình đi tróc nã.”
An Thanh Nguyên khí thế hùng hổ, nói năng lấn lướt, Trương Bồi Nguyên nghe xong chỉ cười khẩy một tiếng rồi đáp: “Ngươi là con trai của An Vị Thu? Cũng họ An à, khụ khụ, quan to quá đè chết người ta đấy, Hàn Lâm viện Đại học sĩ là quan văn, bắt người cái gì chứ? Ta biết ngươi đến đây là vì cái gì rồi…”
“Biết rồi thì tốt, một là giao người, không thì giao Long Quyết ra, bản quan không có thời gian nói chuyện phiếm với ông.”
“Khụ khụ… toàn là người hiểu chuyện, vậy thì không cần nói nữa, Vương đạo trưởng! Có người mạo xưng mệnh quan triều đình xông vào phủ Thiên Sư cướp của giết người, đóng cửa giết giặc cho ta! Phóng tên!”
Trương Bồi Nguyên vừa phát lệnh, Vương đạo trưởng phụ trách phòng thủ bên trong liền xoay người đóng cánh cửa lớn lại, những đạo sĩ đang chiến đấu khác đồng loạt lùi về sau, tất cả đạo sĩ trên mái nhà, dưới mái hiên đồng loạt buông tên về phía bốn người Nhật Bản và An Thanh Nguyên.
Bọn Hotta Masayoshi thấy tên bay tới rào rào, cách duy nhất chính là xông thẳng về phía trước, chỉ cần quấn lấy Trương Bồi Nguyên, đám đạo sĩ muốn bắn tên sẽ phải kiêng dè, sau khi xông được vào trong điện Ngọc Hoàng, tình thế hẳn sẽ đổi khác. Vì vậy, bốn cái bóng cùng An Thanh Nguyên đồng thời bổ thẳng tới Trương Bồi Nguyên đang trấn giữ trước cửa lớn của Ngọc Hoàng đại điện.
Trương Bồi Nguyên lần này lại lướt người bay về phía sau, An Thanh Nguyên và Hotta Masayoshi cùng các gia thần đồng loạt xông vào trong điện Ngọc Hoàng. Khi họ đặt chân vào trong, trước mắt đột nhiên sáng bừng, bên trong đại điện biến thành một vùng hư không sáng trưng, năm người đứng giữa một không gian trống trơn, xung quanh hoàn toàn không có gì, nhìn bên trái bên phải cũng chỉ thấy có mấy người phe mình mà chẳng thấy bóng dáng Thiên Sư Trương Bồi Nguyên đâu.
Niwa Kumo mỉm cười bước lên trước nói: “Ảo thuật của Thiên Sư thật khiến người ta khâm phục, tại hạ xin phô bày cái xấu vậy.” Vừa nói, anh ta vừa xòe chiếc quạt giấy trên tay ra, vạch một vòng tròn trên không trung, bên trong vòng tròn ấy tối đen như mực, bóng tối tức thì lan rộng ra khắp bốn phía, nhanh chóng phủ lấp lên hư không sáng bừng, trên ngón tay bắt quyết của anh ta ánh lên mấy điểm sáng trắng, chầm chậm chuyển động theo các ngón tay, một ngôi sao năm cánh phát ra ánh sáng trắng từ đầu ngón tay nhảy lên không trung, sau đó bay tản ra năm hướng. Đây là Ngũ tinh thức thần của Niwa Kumo, lơ lửng trên cao, chiếu sáng xung quanh. An Thanh Nguyên và mấy người còn lại thấy Trương Bồi Nguyên đang đứng ở đằng xa, đầu tóc xõa ra, hai tay khoanh trước ngực nghiêng đầu nhìn bọn họ hờ hững như không.
An Thanh Nguyên vươn kiếm xông về phía Trương Bồi Nguyên, người còn chưa tới, tiếng quát đã vang lên: “Trương Thiên Sư, giờ chính là cơ hội để ông lập công, không có thời gian cho ông nghĩ ngợi đâu, hãy giúp hạ quan làm tốt chuyện này, ta có thể đảm bảo giúp ông khôi phục chức vị!” Lời vừa mới dứt, Ngũ tinh thức thần đã tụ thành một luồng ánh sáng trắng, đâm thẳng về phía Trương Bồi Nguyên trước cả An Thanh Nguyên…
Lời của An Thanh Nguyên đã nói trúng vào nỗi đau trong lòng Trương Bồi Nguyên, nhưng lại khiến ông ta càng thêm khinh thường và phẫn nộ. Thì ra Thiên Sư đạo truyền thừa từ thời Hán hai nghìn năm trước, dù thiên hạ thay triều đổi đại ra sao, xưa nay vẫn chưa từng có vị quân vương nào dám coi thường vị trí thống lĩnh Đạo giáo của Thiên Sư, Thiên Sư trong phủ từ xưa đều được các triều hoàng đế phong làm đại quan nhị phẩm. Nhưng đến triều Thanh, triều đình lại độc tôn Phật giáo, đối với Đạo giáo chỉ vỗ về một cách tượng trưng, trong triều có lập ra Đạo lục ty cùng với Tăng lập ty để quản lý đạo sĩ và tăng nhân, nhưng địa vị của Đạo lục ty còn xa mới bằng Tăng lục ty. Thiên Sư thống lĩnh các đạo phái trong thiên hạ vào cung cũng chỉ như con gái do tiểu thiếp sinh ra, không hề được coi trọng. Vả lại, vị trí Thiên Sư trong Đạo lục ty cũng do đạo sĩ Toàn Chân nắm giữ, như vậy địa vị của Thiên Sư đạo đã bị Toàn Chân đạo áp chế.
Đến thời Đạo Quang, cũng chính là lúc Trương Bồi Nguyên tiếp nhận vị trí Thiên Sư chưa lâu, hoàng đế Đạo Quang ra thánh chỉ giáng phẩm cấp của Thiên Sư từ nhị phẩm xuống ngũ phẩm, một lần giáng liền sáu cấp, từ mỗi năm đều vào triều tấn kiến đổi thành từ giờ không cần vào kinh tấn kiến. Trương Bồi Nguyên như bị sét đánh trúng, danh dự hai nghìn năm của Thiên Sư đạo đã bị hủy trong tay ông ta, trách nhiệm lịch sử này, thử hỏi làm sao ông ta gánh vác cho nổi?
Mấy năm nay Trương Bồi Nguyên coi sóc tòa phủ Thiên Sư rộng lớn mà suy bại điêu linh này, nỗi bi thương trong lòng không biết tỏ cùng ai, có nỗi khổ hay chuyện gì không vui cũng chỉ có thể nuốt vào bụng. Bản thân ông ta là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, là thống lĩnh trên danh nghĩa của Đạo giáo trong thiên hạ, lẽ nào lại có thể tìm một người mà ôm đầu khóc lóc? Trương Bồi Nguyên ngày ngày đều nhìn sao tính lịch, tìm hiểu xem Đạo giáo còn bao nhiêu tiền đồ, tông pháp hai nghìn năm liệu có bị hủy trong tay mình hay không. Ông ta từ lâu đã chú ý đến thủ ấn và bộ pháp Trảm long quyết mà tổ tiên truyền lại, nhưng lại không biết Lôi thích là gì? Kỳ thư ở nơi đâu? Ông ta từng suy đoán thời đại này có thể kết thúc bởi Trảm long quyết, cũng có thể sẽ nhờ Trảm long quyết mà mở ra một thời đại mới, ông ta cần phải biết kho báu mà tổ tiên truyền lại ấy có thể vãn hồi lại cục thế này hay không. Trương Bồi Nguyên tinh thông thuật chiêm tinh bói toán, biết chắc rằng ngày này sẽ tới, tính thì cũng tính rồi, kết quả cũng có, nhưng chờ đợi là việc khiến người ta vô cùng sốt ruột, dẫu có tính ra được thì sao chứ?
Hôm nay khi có người xông vào điện Giáp Tý, cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên mở ra, Trương Bồi Nguyên liền biết cơ hội đã tới…
Khi ông ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử của một vị Thiên Sư là truyền thụ Trảm long quyết cho An Long Nhi, thì lại nghe được những lời này từ miệng An Thanh Nguyên, điều này đối với Trương Bồi Nguyên rõ ràng là một sự chế giễu sâu cay. Trải qua nhiều năm chán nản và trầm luân, ông ta đã dần hiểu được một đạo lý, bèn ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Ngũ tinh thức thần đang bắn thẳng tới mặt, cao giọng nói: “Tinh thần của Đạo giáo là do triều đình tứ phong ư? Đạo là sáng tạo chính khí và công lý trong trời đất, Đạo là ở lòng người! An Thanh Nguyên, tên cẩu quan nhà ngươi làm mất hết mặt mũi của Thiên Sư đạo rồi!”
Nói dứt lời, ông ta xông tới Ngũ tinh thức thần và trường kiếm của An Thanh Nguyên, đồng thời rút từ sau lưng ra một cây dù Thiên Vương còn cao hơn người, chiếc dù mở ra đánh bay đòn tấn công của Ngũ tinh thức thần, rồi lập tức khép lại, Trương Bồi Nguyên một tay cầm dù hết sức nhẹ nhàng, đâm về phía An Thanh Nguyên, hướng đâm không ngờ lại hệt như đường kiếm của An Thanh Nguyên, cũng không chút khách khí nhắm vào cổ họng của kẻ địch.
Có câu dài một phân là mạnh một phân, trường kiếm của An Thanh Nguyên làm sao có thể so chiều dài với dù Thiên Vương, mũi nhọn của chiếc dù đâm tới cổ họng, anh ta không thể đỡ cũng không thể gạt, chỉ đành lách người né tránh. An Thanh Nguyên nghiêng đầu để mũi dù đâm qua, rồi xoay người lách ra phía sau lưng Trương Bồi Nguyên, định vượt qua ông ta xông vào sâu trong phủ Thiên Sư .
Trương Bồi Nguyên đứng ở đây chính là để ngăn cản mấy kẻ xâm nhập này, sớm đã bất chấp tất cả, dùng phương pháp đóng cửa đánh chó để giải quyết, làm sao có thể để anh ta dễ dàng vượt qua như thế? Ông ta vung dù Thiên Vương xòe ra ném về phía bốn người bọn Hotta Masayoshi, chiếc dù xoay tròn như một bánh xe khổng lồ cắt về bốn người Nhật Bản, còn bản thân ông ta lại nhảy lên không trung, tay kia điểm về phía An Thanh Nguyên, quát lớn: “Định!”, một lá bùa vàng nhanh chóng bay tới sau lưng An Thanh Nguyên.
An Thanh Nguyên sớm đã đoán được sẽ có chiêu này, xoay người phóng ra một luồng kiếm khí bắn vào lá bùa màu vàng. Bùa giấy bị đánh nát thành một đốm hoa lửa, đà phóng đi của anh ta vẫn không dừng lại, nhưng chợt đụng mạnh vào một bức tường đá. Thì ra bùa định thân của Trương Bồi Nguyên chỉ là hư chiêu, mục đích thực sự của ông ta là đánh lạc hướng chú ý của An Thanh Nguyên, hòng thi triển thuật vây khốn của Thiên Sư đạo, Minh Lao chú.
An Thanh Nguyên đưa tay rờ thử thấy tường đá băng lạnh như sắt, ngoảnh đầu nhìn lại, bức tường đã kéo dài ra hình thành nên một nhà ngục bằng đá hình tròn, Trương Bồi Nguyên đang bắt lấy dù Thiên Vuơng bay trở về tay, quét mạnh về phía Miyabe Ryokura. An Thanh Nguyên sực hiểu ra, đối thủ của anh ta đã không còn quan tâm đến tước vị hay sinh tử, mà muốn rửa sạch sự sỉ nhục của hoàng đế Đạo Quang đối với Thiên Sư đạo, cuộc chiến mà anh ta đang phải đối mặt cũng không còn là cuộc chiến tranh đoạt Long Quyết nữa, mà là sự tranh đấu giữa triều đình Đại Thanh và Thiên Sư đạo…
Trương Bồi Nguyên vừa xông ra khỏi điện Ngọc Hoàng, Trì Tú liền dẫn theo An Long Nhi và Tôn Tồn Chân định rời phủ Thiên Sư theo lối cửa sau, nhưng mới chạy được vài bước, đã nghe ở đằng sau vẳng lại tiếng con Đại Hoa Bối sủa, vừa nghe tiếng, hai người biết ngay nhất định có kẻ lạ mặt tiếp cận vườn sau của phủ Thiên Sư. Vì cửa ngách của phủ Thiên Sư không phải ở vườn sau, rõ ràng là có kẻ cố tình vòng qua vườn sau, mới bị Đại Hoa Bối phát hiện.
Trì Tú không hề biết tiếng chó sủa bên ngoài tường có ý nghĩa gì, nhưng bọn họ lập tức hiểu ra ngay, vì trước mặt đột nhiên xuất hiện hơn hai chục người áo đen bịt mặt, chia thành ba nhóm trái, phải, giữa, ba người đi đầu tiên hai tay cầm trường đao, những người phía sau toàn bộ đều cầm câu liêm, cán câu liêm nối với một sợi xích sắt dài, đầu bên kia còn đeo một quả chùy sắt nhỏ. Ba tên bịt mặt đi đầu lẳng lặng vung đao lên chém về phía ba người họ. Trì Tú giương cung lắp tên, quát hỏi một câu: “Các ngươi là ai?”
Lời còn chưa dứt, đối phương đã xông tới trước mặt, Trì Tú đành phải buông dây cung bắn tên ra, nhưng đối phương tránh né nhanh nhẹn lạ thường, vừa tránh được tên, hai tay đã vung trường đao từ dưới đất hất ngược lên chém xéo về phía Trì Tú. Trì Tú bước chéo một bước né đi, tên bịt mặt lập tức vọt qua sau lưng anh ta, mấy tên cầm câu liêm phía sau lại đánh tới. Kiểu tấn công liên hoàn không gián đoạn này khiến người chỉ được tập luyện đơn đả độc đấu trong thời gian dài như Trì Tú luống cuống tay chân, ra sức né tránh, chỉ biết vung cây cung lên quật loạn xạ đón đỡ đòn tấn công dồn dập của kẻ địch, song trên người vẫn bị chém trúng năm sáu nhát.
An Long Nhi nhớ ra Miyabe Ryokura từng kể với nó về loại người có bộ dạng thế này cùng với những thứ binh khí kỳ quái trước mặt, bèn lớn tiếng kêu lên: “Cẩn thận! Bọn chúng là ninja Nhật Bản, toàn bộ đều là thích khách!” Lời vừa mới dứt, ở cửa điện Hồ Tiên và cục Pháp Lục đã có rất nhiều đạo sĩ chạy ra trợ chiến, bọn họ kêu to: “Đạo huynh tránh ra, bắn tên!” An Long Nhi, Tôn Tồn Chân và Trì Tú xoay người chạy về phía điện Hồ Tiên, cung tên của các đạo sĩ nhắm ra rất chuẩn xác, tất cả đều lướt qua bên cạnh ba người nhắm về đám ninja. Nhưng giữa đám ninja đột nhiên bùng lên một tia sáng chói mắt, trong khoảnh khắc các đạo sĩ nhắm mắt lại, một nhóm ninja đã nhảy lên nóc điện Giáp Tý, một nhóm khác tấn công về phía cửa cục Pháp Lục, còn nhóm thứ ba thì trực chỉ điện Hồ Tiên mà bọn An Long Nhi đang lùi về.
Thì ra hai mươi mấy tên ninja này chính là quân đoàn Nhật Bản vượt biển đến Trung Quốc để giết chết Hotta Masayoshi. Vì ở Nhật Bản, Hotta Masayoshi có sức ảnh hưởng chính trị đặc biệt trong chính quyền Mạc Phủ, phái bảo thủ trong Mạc Phủ đã quyết tâm ám sát ông ta, vì vậy dù bọn Hotta Masayoshi chỉ có bốn người, nhưng kẻ phía sau bức màn đã dùng rất nhiều vàng bạc mời ninja dạn dày kinh nghiệm chiến trường trà trộn vào Trung Quốc, tiến hành truy sát nhà Hotta Masayoshi không ngừng nghỉ.
Khi bốn người nhà Hotta Masayoshi ẩn náu trong chùa Tịnh Cư, ninja đích thực đã để mất dấu bọn họ, nhưng hai tháng sau, chúng lại phát hiện ra nhà Hotta Masayoshi và quan binh Đại Thanh cùng đến núi Long Hổ. Năng lực lần theo dấu vết của đám ninja này cao hơn mấy kẻ tiêu cục chểnh mảng như Đặng Nghiêu nhiều. Bọn họ sớm đã nhận ra Lục Kiều Kiều và An Long Nhi tách ra hai đường đồng thời, khi giám sát ở cung Đại Thượng Thanh, qua đoạn đối thoại giữa Lục Kiều Kiều và An Thanh Nguyên, họ biết được trận huyết chiến này là vì một quyển sách phong thủy thần bí tên là Long Quyết. Yamashita Hagakure không ngăn được hứng thú với thứ bảo vật tầm cỡ này, đầu Hotta Masayoshi tuy đáng tiền, nhưng dẫu sao cũng chỉ hữu hạn, mà Long Quyết lại là bảo vật không thể dùng tiền bạc đong đếm được. Yamashita Hagakure không phải võ sĩ thuộc quyền ai, ninja chỉ trung thành với bản thân họ, nhiệm vụ của chủ thuê phải hoàn thành, mà thứ mình muốn cũng nhất định phải về tay, thế nên sau khi tiềm phục đợi được thời cơ thích hợp nhất, Yamashita Hagakure liền quyết đoán ra tay.
Đám ninja nhảy xuống khỏi nóc điện Giáp Tý ném về phía các đạo sĩ bên dưới một loạt phi tiêu, những phi tiêu hình chữ thập này đánh bay các mũi tên bay tới, đồng thời cũng bắn về những người phát tên, các đạo sĩ không tránh né kịp lần lượt ngã xuống, những người tránh được phi tiêu lập tức đỡ đồng bọn bị thương lùi lại.
Cục Pháp Lục là nơi cất giữ kinh điển đạo gia và hồ sơ giấy tờ, bên trong chỉ không có Trảm long quyết, còn lại toàn là bảo thư bí điển, vì vậy các đạo sĩ trong điện đều liều chết tử thủ. Mấy đạo sĩ đứng sau cửa cục Pháp Lục xông lên đóng cửa lớn lại, cắt đôi đội hình của đám ninja tấn công vào điện, chỉ có mấy tên xông được vào, xem ra bên trong cũng khó tránh khỏi một trường ác đấu.
Thủ lĩnh của đám ninja Yamashita Hagakure hiểu rất rõ, đối với ninja, đạo lý duy nhất chính là trực tiếp đạt được mục đích, ở nơi này chỉ có một người duy nhất mang Long Quyết mà thôi. Nghĩ vậy y bổ thẳng tới chỗ An Long Nhi. Nhân lúc tia sáng bùng lên, y nhảy tới trước mặt An Long Nhi chém xả một đao, chợt thấy An Long Nhi cầm một cây gậy ngắn bằng gỗ đen, trong khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi nó đã giơ ngón tay lên vạch vào cây gậy một đạo phù ấn, sau đó dùng cả hai tay vung gậy lên cũng chém bổ vào mặt mình.
Đao của Yamashita Hagakure chém vào đầu An Long Nhi theo phương từ trên xuống, Lôi thích của An Long Nhi cũng ép sát vào lưỡi đao của kẻ địch theo phương từ trên xuống dưới, nhìn từ bên cạnh thì thấy hai người đều dùng một chiêu thức giống nhau, nhưng thực ra, phương hướng công kích và lực đạo lại khác hẳn. Chiêu này tuyệt đối không phải là võ thuật Trung Quốc, đao của Yamashita Hagakure đã bị An Long Nhi khéo léo đẩy lệch đi nửa phân, đao chém xuống nhưng không trúng bất cứ thứ gì, ngược lại còn bị Lôi thích của An Long Nhi đè lên trên. Yamashita Hagakure thấy đao thế đã đứt, đang định nhấc đao lên tiếp tục tấn công, Lôi thích của An Long Nhi đã nương thế hất lên đâm vào cổ họng y, y hét lớn một tiếng, chiêu thức của Kiếm Hào Cực chỉ có ở bản thổ Nhật Bản, tại sao lại xuất hiện trên người một thằng nhóc tóc vàng ở vùng núi Trung Quốc này được chứ?
Chiêu thức đã bị chiếm mất tiên cơ, lùi lại chỉnh đốn rồi tái chiến là chiến thuật tốt nhất, Yamashita Hagakure đột nhiên lùi nhanh một bước né tránh, nhưng An Long Nhi đã liên tiếp bước lên, hai tay giơ Lôi thích chém xả xuống. Những đòn tấn công này không thể trảm sát được Yamashita Hagakure, nhưng lại khiến y phát hiện ra cây gậy bằng gỗ đen kia cứng rắn như gậy sắt, lực đạo và tốc độ chém xuống đều đạt tới cực hạn mà y có thể chống đỡ, đây là do võ công của thằng nhóc này cao cường, hay có liên quan đến cây gậy gỗ đen trong tay nó? Nếu là lý do thứ hai, vậy thì cây gậy này cũng là một bảo vật hiếm có. Lôi thích và Long Quyết đều hấp dẫn lòng tham của Yamashita Hagakure, đồng thời trong lúc chiến đấu y cũng biết được nguồn gốc của những chiêu thức này, y vừa chống đỡ vừa lùi lại, cùng lúc lớn tiếng hét: “Giết thằng lỏi tóc vàng này trước, kiếm thuật của nó là của phái Shinto Munen (Thần Đạo Vô Niệm lưu), nó là người nhà Hotta!”
Câu nói này đã định tính cho An Long Nhi, nếu giết được An Long Nhi, vừa có thể tính là giết chết một gia thần nhà Hotta, lại có thể đoạt được Long Quyết, chuyện một hòn đá ném chết hai con chim này, bất cứ tên ninja nào cũng sẽ dốc toàn lực thực hiện. Vả lại, bọn họ sớm đã biết chuyện Hotta Masayoshi đến Trung Quốc cầu sách, nếu để ông ta có được Long Quyết trong tay, há sẽ chẳng phải hỏng hết mọi chuyện hay sao? Vì vậy, đám ninja vừa nghe thấy Yamashita Hagakure nói, lập tức quay hết mũi giáo chĩa về phía An Long Nhi, từ bốn phương tám hướng tràn tới như nước thủy triều.
An Long Nhi đã không còn là đứa trẻ chỉ biết dùng thể lực chiến đấu như ngày trước nữa, nó dùng Đại Minh Thần hỏa ấn vừa học được khi nãy truyền công lực vào Lôi thích, cây gậy gỗ trên tay nó nhẹ như cán trúc, nhanh như tia chớp, triển khai một cuộc chiến công phòng không ai có thể xen vào với Yamashita Hagakure. Nhưng Yamashita Hagakure là cao thủ ninja được người ta dùng rất nhiều vàng bạc thuê đến Trung Quốc giết người, sở hữu thực lực và võ nghệ cao nhất quân đoàn ninja, y sao có thể bị thực lực của An Long Nhi áp đảo? Mới đầu y liên tiếp thoái lui, chẳng qua chỉ là phương pháp hóa giải cao minh trong lúc trở tay không kịp mà thôi, sau mười mấy chiêu, Yamashita Hagakure đã khống chế ngược lại tiết tấu công kích của đối phương…
Tôn Tồn Chân và An Long Nhi vừa rút vào điện Hồ Tiên, Yamashita Hagakure liền quấn lấy An Long Nhi, hai người lập tức triển khai tấn công phòng thủ dồn dập như bánh xe lửa, ngay cả Tôn Tồn Chân cũng không có cách nào xen vào giữa, nhưng y lại có thể nắm được toàn bộ hành tung của đám ninja còn lại. Phía sau Yamashita Hagakure là hơn hai mươi tên cầm câu liêm gắn xích chờ thời cơ công kích, có điều, mỗi hành vi của hơn hai mươi tên này đều không thoát khỏi thiên nhãn của y. Y giương côn cản ở phía sau điện Hồ Tiên, chặn đám ninja bên ngoài. Đám ninja không ngừng dùng phi tiêu, câu liêm, cũng như trực tiếp tiến công vào Tôn Tồn Chân, nhưng đều bị cây côn bọc kim loại và côn pháp Đại Thánh Thiên mô côn đánh lùi, chốc chốc lại có ninja trúng côn tử thương ngã xuống trước mặt họ Tôn, chẳng mấy chốc, dưới chân y đã chất thêm năm cái xác ninja.
Điện Hồ Tiên không rộng lắm, An Long Nhi tung người lên chủ động nhảy xuống lối vào mê cung dưới lòng đất, nó biết mê cung này được bố trí theo lộ tuyến của bộ pháp Tam nương phu nhân, một tên ninja Nhật Bản rất có thể chưa từng học qua các bộ pháp phức tạp của Đạo giáo, kể cả hắn có trông thấy đồ hình bộ pháp Bát Quái Tam Nương phía trước mê cung thì cũng chưa chắc đã hiểu được gì, càng không nói tới chuyện có thể dựa theo đồ án ấy mà ra khỏi mê cung. An Long Nhi tâm ý đã quyết, liền dẫn dụ Yamashita Hagakure nhanh chóng quay lại mê cung.
Vượt qua gian sảnh trên sàn có khắc hình bát quái, An Long Nhi không kịp tìm kiếm cửa vào mê cung, mà nhảy luôn qua lỗ thủng trên tường do Tôn Tồn Chân dùng côn khoét để tiến vào. Yamashita Hagakure quả nhiên đuổi riết không buông, cũng nhảy vào theo nó. Y đuổi theo qua ba lỗ thủng trên tường, rồi lại qua hai cánh cửa lật, rốt cuộc cũng nhận ra âm mưu của thằng bé tóc vàng này, y đã lọt vào một mê cung tăm tối, xung quanh chỉ có những gian phòng gạch đỏ bốn phía đều không có cửa nẻo gì, bất luận thế nào cũng không thể đi ra được.
Mặc dù đang chiến đấu kịch liệt với quân đoàn ninja, song Tôn Tồn Chân cũng nhận ra An Long Nhi cố ý dẫn dụ Yamashita Hagakure vào mê cung. Y lập tức cảm thấy có vấn đề: đó là một mê cung phức tạp, ngay cả la bàn cũng không phân định được phương hướng; An Long Nhi dẫn dụ kẻ địch vào đó là hành vi thông minh, nhưng bản thân nó liệu có thể ra khỏi nơi đó hay không? An Long Nhi cần có y phối hợp, y không nghĩ ngợi nhiều nữa, lộn ngược một vòng trên không trung về phía điện Hồ Tiên, rồi cũng lao xuống mê cung. Đám ninja đối thủ của y chỉ còn chưa đầy hai chục tên, nhưng tên nào tên đó đều hăng hái đuổi theo Tôn Tồn Chân xuống dưới.
Các đạo sĩ đang phối hợp với Tôn Tồn Chân tác chiến trên mặt đất, phát hiện đám ninja thình lình chuyển hướng một cách kỳ lạ, đồng thời nhận ra trong điện Hồ Tiên mà ngày ngày mình vẫn đi qua không ngờ lại có một cánh cửa ngầm lớn thông xuống lòng đất. Tất cả tuy rằng hết sức kinh ngạc, song cũng không chút do dự đuổi theo xuống mê cung, vì bọn họ đều hiểu rất rõ rằng, nơi đám ninja tấn công vào, nhất định là có thứ chúng muốn nhất. Bảo vệ phủ Thiên Sư, giết hết lũ ninja như đám cường bạo xâm nhập kia, là chức trách của mỗi đạo sĩ nơi này.
Trấn Thượng Thanh thoạt nhìn bề ngoài chỉ là một thị trấn nhỏ bình thường, chính giữa có một con đường cái, hai bên là nhà dân. Họ thúc ngựa vào trong trấn, nhanh chóng thấy giữa thị trấn có một cổng chào cao lớn hướng ra phía sông Lô Khê, trên tấm biển sơn son thếp vàng viết năm chữ lớn màu vàng to như cái đấu, “Tự Hán Thiên Sư phủ.” Trước cổng chào là một đôi kỳ lân đá cao to, bên cạnh có một dãy cột đá để buộc ngựa, Tôn Tồn Chân đang định xuống ngựa, thì An Long Nhi đã lập tức ngăn y lại, vẫy tay ra hiệu cho y đi theo mình, hai người cưỡi ngựa vòng ra phía sau phủ Thiên Sư.
Không vòng qua thì không biết, đi một vòng quanh phủ Thiên Sư mới hay nơi này rộng tới mấy chục mẫu đất, chẳng rõ bên trong có bao nhiêu phòng ốc đại điện nữa. Họ buộc ngựa vào một thân cây nhỏ, ôm Đại Hoa Bối ra cho nó trông ngựa và hành lý, rồi hai người phi thân phóng lên tường.
Từ trên bờ tường nhìn xuống là một vườn hoa rộng lớn và hoa lệ, thi thoảng có một hai thị nữ trẻ tuổi đi qua, trông như nơi ở của một nhà giàu có nào đó. Tôn Tồn Chân hỏi An Long Nhi: “Có cần tôi đi với cậu không? Đi trộm ra hay phải hỏi người để lấy?”
An Long Nhi vẫn chăm chú quan sát địa hình trong phủ Thiên Sư, miệng trả lời Tôn Tồn Chân: “Cô Kiều nói cho tôi khẩu quyết địa hình, không dặn là phải hỏi người tìm Long Quyết, chúng ta cũng không phải đến mượn tiền, để người ta trông thấy lại phải phí lời giải thích, đám ở phía sau sẽ nhanh chóng đuổi tới đây… vì vậy chỉ có cách là tập trung lực lượng lấy được đồ về tay trong thời gian ngắn nhất thôi, chúng ta cùng đi một lượt đi.”
Tôn Tồn Chân và An Long Nhi đều lòng như lửa đốt, không muốn nói dù chỉ một câu thừa thãi, trao đổi xong xuôi liền men theo bờ tường nhanh chóng lao vào khu vực giữa của phủ Thiên Sư.
Phủ Thiên Sư này là nơi ở của các đời Thiên Sư, đồng thời cũng tượng trưng cho hạch tâm của Đạo giáo trong thiên hạ[1].
[1] Tác giả chú thích: Kể cả ngày nay, đạo sĩ trên toàn thế giới đều phải đăng kí tại phủ Thiên Sư ở núi Long Hổ thì mới được thừa nhận là đạo sĩ chân chính, nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì phủ Thiên Sư này là nơi duy nhất được chỉ định phát giấy chứng nhận đạo sĩ trên toàn cầu.
Từ thời Thiên Sư đầu tiên là Trương Đạo Lăng thời Hán tới những năm Đạo Quang, Thiên Sư trong phủ Thiên Sư đã truyền thừa được sáu mươi đời, xét về mặt huyết mạch chính thống, ở Trung Quốc chỉ có gia tộc Khổng tử ở Sơn Đông đã truyền thừa nghìn năm là sánh được. Giống như miếu Khổng, phủ Thiên Sư đã được các đời hoàng đế nhiều lần phong thưởng, diện tích càng lúc càng lớn, điện tế, cung thất trong phủ ngày một nhiều lên, những thay đổi và dấu vết của Đạo giáo qua từng thời kỳ đều lắng kết trong phủ Thiên Sư. Nhưng tới những năm giữa thời Đạo Quang, lại xảy ra một sự thay đổi xưa nay chưa từng có, trước mặt An Long Nhi và Tôn Tồn Chân, là một khung cảnh hoang tàn điêu linh, phía sau vẻ bề ngoài lộng lẫy lộ ra những gian nhà lớn đổ nát tăm tối.
An Long Nhi men theo bức tường chạy như bay, chẳng khác ở trong nhà mình, Tôn Tồn Chân không biết khẩu quyết địa hình, vì vậy chỉ theo sát phía sau thằng bé làm trợ thủ. Đến khu vực giữa phủ Thiên Sư, trước mặt họ là gian đại điện cao nhất trong phủ, An Long Nhi ra hiệu cho Tôn Tồn Chân dừng lại, ngồi thụp xuống quan sát tấm hoành phi trước cửa đại điện, bên trên đề bốn chữ lớn “Ngọc Hoàng đại điện”, từ trong điện văng vẳng truyền ra tiếng tụng kinh lầm rầm, có mấy đạo sĩ đang chầm chậm tiến vào.
Có điều, nơi này không phải mục tiêu của An Long Nhi, nó chẳng qua chỉ lấy điểm này làm mốc, hòng tìm nơi tiếp theo được nhắc đến trong khẩu quyết.
Khẩu quyết mà Lục Kiều Kiều đưa cho nó là: Ngọc Đế càn khôn trung, Hồ Tiên Giáp Tý hậu; tâm hoài Thẩm tướng quân, chân nhân bộ canh tẩu. Khẩu quyết này đã khiến Lục Kiều Kiều vắt óc nghiền ngẫm suốt mười năm, lật tung cả nhà mình lên để tìm, nhưng không sao hiểu được rốt cuộc mấy câu này có ý nghĩa gì; nhưng An Long Nhi vừa tới phủ Thiên Sư, mọi vấn đề đều được giải quyết dễ dàng.
Ngọc Đế đương nhiên chỉ đại điện Ngọc Hoàng rồi, nhưng mà càn khôn trung không phải chỉ khoảng giữa cung Càn và cung Khôn trong tám cung bát quái, mà là chỉ khe hở giữa quẻ Càn và quẻ Khôn trong la bàn chuyên dụng của các phong thủy sư phái Tam Nguyên, khe này vừa khéo chính là hướng từ Nam sang Bắc.
An Long Nhi ngoảnh đầu lại nhìn, phía sau đại điện Ngọc Hoàng là điện Hồ Tiên, nó liền dẫn Tôn Tồn Chân vòng qua bờ tường. Trong điện Hồ Tiên vẳng ra tiếng cổ cầm, tiếng đàn tản mác mà sục sôi, không hay mà cũng chẳng có tiết tấu, tựa hồ có thể nhận ra tâm tình rối loạn của người gảy đàn.
Bọn họ không để tâm đến những chuyện ngoài lề ấy, tiếp tục đi vòng tới một cái sân lớn, ở giữa là một tòa điện Đại Chân Vũ, một bên là cục Pháp Lục, bên kia chính là điện Giáp Tý. An Long Nhi khẽ nói nhỏ một câu “điện Giáp Tý” với Tôn Tồn Chân, đoạn nhảy xuống bên dưới tường bao trước, sau đó hai người men theo tường bao đi ra phía sau điện Giáp Tý. Theo suy đoán của An Long Nhi, Giáp Tý hậu chính là phía sau của điện Giáp Tý này. Phía sau điện Giáp Tý là tường điện và tường bao xung quanh phủ Thiên Sư, giữa hai bức tường có một khóm trúc, An Long Nhi và Tôn Tồn Chân đứng bên cạnh khóm trúc ấy gãi đầu. Tôn Tồn Chân hỏi: “Có phải đào ở chỗ này không?” An Long Nhi đáp: “Khẩu quyết nói là ‘Hồ Tiên Giáp Tý hậu’, phía sau điện Hồ Tiên chính là điện Giáp Tý rồi còn gì, Giáp Tý hậu không phải chính là chỗ này sao?”
Tôn Tồn Chân nói: “Không đúng, trong điện Giáp Tý còn một Giáp Tý hậu nữa, chính là sau lưng Giáp Tý Thái Tuế Kim Biện tướng quân, mau vào trong điện xem…” Y vừa nói vừa chạy trước An Long Nhi. An Long Nhi không kịp phản ứng, lòng thầm thắc mắc không hiểu tại sao Tôn Tồn Chân lại biết chuyện bên trong Đạo giáo như thế? Hẳn những người từng làm đạo sĩ đều biết Giáp Tý hậu là cái gì? Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng người nó đã phóng theo Tôn Tồn Chân ra phía sân, vòng tới cửa chính của điện Giáp Tý.
Bên kia sân là Pháp Lục cục, nơi lưu trữ hồ sơ, bí điển của các triều đại, bên trong cửa có một lão đạo sĩ đi ra, vừa khéo trông thấy hai người lạ tướng mạo ăn mặc đều cổ quái chạy vào điện Giáp Tý, đang định cất tiếng hỏi là ai, thì người đàn ông che mặt áo đen dáng người nhỏ nhắn đã vung gậy lên đập vỡ khóa cửa xông vào điện, sau đó thiếu niên đầu chít khăn cũng xông vào theo.
Lão đạo sĩ thấy vậy liền nghĩ, hai kẻ này không phải trộm thì còn là gì nữa, vội hô hoán: “Người đâu! Mau tới điện Giáp Tý bắt trộm!”
An Long Nhi vừa vào trong điện Giáp Tý, Tôn Tồn Chân liền xoay tay chốt cửa lại. Họ đảo mắt quan sát, chỉ thấy giữa đại điện trống không, phía trước mặt có một tấm hoành phi lớn đề chữ “Thiên thu vạn đại”, phía trước, bên phải và bên trái đều có ban thờ dài, trên ban thờ là sáu mươi bức tượng thần cao chừng hai thước đặt ngay ngắn. Các tượng thần này đều ăn mặc kiểu võ tướng, phía trước mỗi tượng thần đều có một tấm biển dựng thẳng đứng, bên trên đề tên người đại biểu cho sáu mươi Giáp Tý, hay còn được gọi là Trị Niên Thái Tuế. Tương truyền, mỗi năm đều có một vị tướng quân tương ứng chưởng quản khí vận của cả năm đó, nếu có người phạm phải Thái Tuế, thì có thể đến điện Giáp Tý này để bái vị Thái Tuế tương ứng hòng hóa giải tai họa trong năm. Giáp Tý hậu mà Tôn Tồn Chân nói đến, chính là sau lưng bức tượng của Giáp Tý Thái Tuế Kim Biện đại tướng quân.
Bọn họ vừa nhìn đã trông thấy Giáp Tý Thái Tuế đứng ở vị trí chính giữa thần điện, bèn tức khắc chạy tới phía trước bức tượng quan sát, phía sau Giáp Tý Thái Tuế nhìn ngang nhìn dọc thế nào cũng chỉ có một bức tường, hoàn toàn không có gì khác.
Lúc này, bên ngoài vang lên tiếng gọi của lão đạo sĩ: “Các ngươi là ai! Mau mở cửa ra, ta đã gọi người đến rồi, các ngươi mà làm chuyện xấu chúng ta sẽ bắt giải lên quan đấy!” Liền sau đó là một tràng tiếng đập cửa dồn dập, vừa nghe đã biết ít nhất có năm sáu người đang ở bên ngoài đạp cửa quát tháo, cũng có người thử dùng chìa khóa mở cửa, nhưng Tôn Tồn Chân đã chốt trong, bọn họ không sao dùng những phương pháp văn minh để mở cánh cửa ấy được.
Tôn Tồn Chân chẳng buồn liếc mắt nhìn ra phía cửa, nhảy phắt lên ban thờ dùng gậy chọc vào bức tường phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế, làm phát ra một tiếng “đang”, âm thanh tựa như một chiếc chuông đồng rất nặng, hai người đều ngạc nhiên, thì ra bức tường này là tường sắt rỗng. Chọc liền mấy cái mà bức tường không có phản ứng gì, Tôn Tồn Chân liền khom lưng thò tay ra phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế lần mò. Bức tượng có vẻ chắc chắn lại trơn nhẵn, y cứ rờ qua rờ lại, An Long Nhi lo lắng hỏi: “Sao vậy? Có phát hiện gì không?” Nó còn chưa dứt lời, Tôn Tồn Chân đã đấm một đấm vào lưng tượng Thái Tuế, phát ra tiếng vỡ rất lớn, làm An Long Nhi giật nảy mình, đồng thời cũng khiến âm thanh quát tháo bên ngoài càng lớn hơn nữa.
Tôn Tồn Chân thò tay vào phía sau tượng Giáp Tý Thái Tuế, mò được một cái tay nắm, y cầm vào dùng sức kéo mạnh lên, trên bức tường sau lưng liền có chín viên gạch gồ ra, xếp thành hình vuông.
“Nhanh lên nhanh lên, câu tiếp theo là gì!” Tôn Tồn Chân vừa nhìn đã biết đây là một cái Cửu cung mật tỏa, phải dùng phương thức phi cửu cung ít nhất cũng có bốn năm chục loại, y tin rằng cơ quan này không cho người ta lần lượt thử hết, mà họ chỉ có một cơ hội duy nhất, ấn sai một bước có thể sẽ khiến cơ quan bị khóa chặt vĩnh viễn. Mặc dù đã vào mùa đông, ai nấy đều mặc áo bông, song người An Long Nhi vẫn đầm đìa mồ hôi, nó vội vàng đọc câu tiếp theo: “Tâm hoài Thẩm tướng quân, chân nhân bộ canh tẩu.”
Tôn Tồn Chân lại nói: “Thẩm tướng quân gì chứ, bên chỗ Thẩm tướng quân làm gì có cái gì! Khẩu quyết kiểu gì kì vậy!”
An Long Nhi hiểu Thẩm tướng quân là chỉ một vị Thái Tuế khác trong điện Giáp Tý, nó đang quay đầu lại ngó nghiêng tìm kiếm tượng Thái Tuế Tinh Quân đó, thì Tôn Tồn Chân đã nhảy xuống nói: “Không cần tìm nữa, chỗ Thẩm tướng quân không có gì cả đâu.”
An Long Nhi nói: “Huynh thấy chỗ đó không có gì à? Sau lưng Giáp Tý tướng quân chẳng phải có cơ quan đấy còn gì?”
Tôn Tồn Chân bực mình, hậm hực hừ một tiếng, nhảy phắt tới bên cạnh một bức tượng Thái Tuế vung côn đập xuống, tiếng loảng xoảng vang lên, tượng thần bị đập cho vỡ tung tóe, bên trong và trên ban thờ đều không có gì cả. An Long Nhi giờ mới thấy tấm biển phía trước bức tượng Thái Tuế ấy viết rằng: “Đinh Mão Thẩm Hưng, Thẩm Hưng là Đinh Mão, Đinh Mão là cái gì? Là cái gì? Cô Kiều có ở đây thì tốt quá… cô Kiều sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Cô ấy làm sao mà nghĩ ra cách nhỉ? Chân nhân canh bộ tẩu, chân nhân canh bộ… Tôn Tồn Chân! Có bao nhiêu loại chân nhân canh bộ?”
Tôn Tồn Chân rảo bước tới phía sau cánh cửa đang bị rung lắc nãy giờ, đạp mạnh một cú, cánh cửa bị rung lên từ trong ra ngoài, phát ra tiếng động rất lớn, đám đạo sĩ bên ngoài đều hoảng hốt im bặt một hồi. Y lớn tiếng nói với An Long Nhi: “Canh bộ gì mà chẳng là chân nhân canh bộ, Thái Bạch chân nhân, Thái Ất chân nhân, Thái Cực chân nhân, tất cả đều là chân nhân, có trời mới biết là ông nào chứ?”
“Tôi biết rồi…” An Long Nhi đang gãi đầu đột nhiên lóe lên một tia linh cảm: “Đinh Mão là Thái Ất, Đinh là hảo, thuộc dương, vì vậy dùng chữ Thái trong Thái Dương làm đại biểu, Mão là địa chi, song lại ẩn tàng một thiên can, chính là Ất…”
An Long Nhi còn đang nói dở, Tôn Tồn Chân đã bước mấy bước xông lên chỗ ban thờ Giáp Tý Thái Tuế, vung thanh Tề mi côn nhanh chóng đánh lên chín viên gạch lồi ra trên tường theo thứ tự của Thái Ất canh bộ, hai người đồng thanh đọc thành tiếng: “Cấn, Tốn, Khôn, Càn, Chấn, Đoài, Khảm, Ly, mở ra!”
Sàn nhà dưới chân họ mở ra một cái hố lớn, hai người và cả ban thờ cùng rơi xuống dưới, tiếng đập cửa quát tháo bên ngoài cũng im bặt, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy.
An Long Nhi và Tôn Tồn Chân không bị trượt quá sâu, họ cảm thấy mình chỉ rơi khoảng hai trượng là ngã xuống một tấm ván sắt. Hai người đứng lên nhìn ngó xung quanh, chỉ thấy bốn bề đều tối đen như mực, giơ tay ra chầm chậm lần mò một lúc, họ phát hiện mình đang ở bên trong một cái lồng sắt rộng chừng một trượng vuông.
Sàn nhà phía trên đã khép lại, An Long Nhi thò đầu vào giữa các chấn song sắt, đo thử khoảng cách giữa chúng, rõ ràng nó không thể chui ra được, vóc dáng Tôn Tồn Chân còn cao to hơn nó, lại càng không có khả năng lách ra ngoài. Nó vươn tay ra phía ngoài lồng sờ mó, chỉ thấy trống không, hai người họ tựa như đang bị treo trong một khe nứt chết chóc không có cả thời gian lẫn không gian. An Long Nhi mặc kệ đây là nơi nào, chỉ chăm chăm sờ lần khắp cái lồng hòng tìm ra cửa lồng hay khóa lồng, như vậy ít nhất cũng biết được phải dùng cách gì để phá khóa đi ra.
Tôn Tồn Chân đứng phía sau An Long Nhi, hai tay khoanh trước ngực, thanh Tề mi côn kẹp trong tay, để mặc cho An Long Nhi lần sờ mó cái lồng sắt, y chỉ lẳng lặng không nói một lời nhìn chằm chằm vào khoảng không tăm tối phía trước. An Long Nhi vừa sờ mó vừa nói với Tôn Tồn Chân: “Huynh cũng qua lần dò đi, xem có cửa hay khóa gì không…”
Tôn Tồn Chân đứng bất động nhìn về phía trước, đáp: “Không cần, cái lồng này chỉ mở được từ bên trên hoặc bên dưới, bốn phía đều không có cơ quan… nơi này là tầng xép nằm giữa mặt đất và địa lao, bên trên là đá phiến, bên dưới cũng là đá phiến, cách chúng ta mười trượng phía trước có một cầu thang, bên trên cầu thang có một cánh cửa, sẽ có người đến xem chúng ta, nhanh thôi…”
An Long Nhi dừng tay lại nói: “Sao huynh biết, huynh trông thấy à? Sau khi đến điện Giáp Tý, hình như cái gì huynh cũng biết?” Nó nghi hoặc nhìn Tôn Tồn Chân, nhưng chỉ thấy bóng tối vô tận, song Tôn Tồn Chân lại có thể nhận ra vẻ nghi vấn và không tín nhiệm đầy trong mắt nó. Tôn Tồn Chân lấy trong người ra chiếc bật lửa Jack tặng, nhét vào tay An Long Nhi, An Long Nhi cầm lấy bật lên, chiếc bật lửa lóe ra một tia lửa chói mắt.
Đến khi mắt có thể thích ứng với ánh sáng, An Long Nhi nhận ra khung cảnh quả nhiên giống như những gì Tôn Tồn Chân nói, trước mắt nó là một không gian chật hẹp bức bối do đá phiến ghép thành. Trên bậc thang phía xa có một đạo sĩ trung niên đang đi xuống, An Long Nhi chỉ thấy ông ta mặc đạo bào, tay cầm một vật trông như cái gậy, chắc là trường kiếm, nhưng vì tối quá nên không nhìn rõ bộ dạng mặt mày thế nào.
Đạo sĩ đó đứng trên bậc thang, nhìn về phía cái lồng từ đằng xa, chăm chú một hồi, đoạn lại không nói không rằng tiếp tục đi xuống địa lao, biến mất khỏi tầm mắt An Long Nhi. An Long Nhi lớn tiếng gọi: “Đạo gia! Đạo gia! Thả chúng tôi ra…”
Gọi liền mấy tiếng mà không ai trả lời, An Long Nhi đành im lặng đợi người ta đến xử lý. Nó bắt đầu nghi ngờ không biết khẩu quyết của Lục Kiều Kiều có chính xác không, ngộ nhỡ Lục Kiều Kiều bị người truyền khẩu quyết cho cô ám hại há chẳng phải rất nguy hiểm sao? Nhưng nghĩ tới đây, nó lại thầm cảm thấy may mắn, dù cho có người muốn hại Lục Kiều Kiều, đối phương cũng không thể ngờ được kẻ bị vây khốn ở đây lại là An Long Nhi. Muốn bắt cô Kiều sao? Làm gì có chuyện dễ như vậy? Chỉ là không biết cô Kiều bây giờ thế nào, chẳng rõ đã thoát được bọn truy binh hay chưa? Nó đang nghĩ ngợi lung tung một hồi, lồng sắt đột nhiên rơi xuống dưới, nó và Tôn Tồn Chân rơi xuống một căn phòng quái dị bốn mặt đều là gạch đỏ. Căn phòng rộng chừng hai trượng vuông, bốn mặt tường gạch đều ở rất xa, hai người họ không thể với tay tới, cái lồng nằm chính giữa phòng, một đạo sĩ trung niên đang đứng ngay trước mặt hai người.
Đạo sĩ ấy xõa tóc ngang vai, hàm râu trên miệng trông như mấy ngày chưa cạo, chỉ có bộ đạo bào trên người mới khiến người ta cảm thấy ông ta là một đạo sĩ. Vóc dáng ông ta hơi gầy, hai mắt trông như ngủ không đủ giấc, trên tay cầm một cây gậy bằng gỗ đen.
Cây gậy gỗ đen ấy dài ba thước năm phân, đầu tròn thân thẳng đuôi nhọn, toàn thân đen nhánh được đánh bóng cẩn thận, bên trên khắc hoa văn rất tinh xảo, nhìn kĩ thì thấy hoa văn ở phần giữa là tề chỉnh và phức tạp nhất, làm nó nhớ đến ba mũi Tam thi câu mệnh tiễn từng ghim sau lưng Tôn Tồn Chân. Trên ba mũi tên ấy vẽ đầy bùa, trên cây gậy gỗ đen này cũng chi chít những bùa chú. An Long Nhi vừa nhìn đã nhận ra đây là loại gậy tùy thân của các phong thủy sư, chỉ là nó không ngờ thứ công cụ mà các phong thủy sư ngày ngày đều mang theo người ấy lại có thể đẹp đẽ tinh xảo nhường này.
Đạo sĩ uể oải cầm cây gậy, hai mắt nửa nhắm nửa mở như thể chưa ngủ dậy, ông ta thả lỏng cần cổ, ngoẹo đầu, nhìn hai người một lúc, rồi cất tiếng hỏi An Long Nhi: “Ngươi biết cây gậy này là gì không?”
An Long Nhi lắc đầu.
“Không biết thì các ngươi đến đây làm gì?” Đạo sĩ lùi tới cạnh tường, cây gậy gỗ đen buông thõng bên người, hai mắt trợn lên nhìn trần nhà, chờ An Long Nhi trả lời.
An Long Nhi thấy tình hình như vậy thì rất bất ngờ, nó cũng không thể nói mình đến đây để lấy Long Quyết, giờ vẫn chưa tìm thấy, chẳng lẽ bảo người ta thả mình ra để đi tìm? Nó chỉ có thể cố gắng suy đoán xem nếu là cô Kiều thì sẽ đối phó với đạo sĩ này như thế nào.
Nhưng Tôn Tồn Chân lại cất tiếng hỏi đạo sĩ: “Ông tới đây làm gì vậy?”
Đạo sĩ bật cười thành tiếng, cười đến nỗi cả người dựa vào tường đều rung lên bần bật: “Đây là nhà ta, ta đến đây xem kẻ nào vào nhà ta… phải rồi, các ngươi là ai thế?”
Lần này An Long Nhi đã thông minh hơn, nó học theo Tôn Tồn Chân hỏi ngược lại: “Thế ông là ai?”
“Ha ha ha…” Câu hỏi của An Long Nhi làm đạo sĩ cười rộ lên một trận, cười đến nỗi chảy nước mắt: “Chậc chậc, ta là ai hả… các ngươi cũng thú vị thật, ta tên là Trương Bồi Nguyên, còn các ngươi? Tự tiện xông vào nhà ta, không báo danh thì xem ra cũng không phải phép cho lắm nhỉ?”
An Long Nhi xưa nay vốn rất lễ độ, vừa nghe đạo sĩ nói mình tự tiện xông vào nhà người ta, nó liền cảm thấy hơi ngượng ngùng, bèn dứt khoát trả lời thành thực: “Cháu tên là An Long Nhi, huynh ấy là Tôn Tồn Chân, chúng cháu dựa theo một khẩu quyết tìm đến nơi này.”
Trương Bồi Nguyên dựa vào tường, ngồi xổm cúi đầu nhìn xuống đất, mái tóc dài xõa ra che phủ khuôn mặt, ông ta cứ cúi đầu như thế cất tiếng hỏi: “Khẩu quyết ở đâu mà có?”
“An Vị Thu.”
Trương Bồi Nguyên bấy giờ mới ngẩng đầu, ánh mắt mơ màng nhìn An Long Nhi hỏi: “Sao ông ta không tự đến?”
“Ông ấy mất tích hai năm rồi.”
“Vậy các ngươi làm sao có được khẩu quyết?”
“Trước khi mất tích, ông ấy đã truyền lại cho con gái, con gái ông ấy bảo cháu đến đây.”
“Con gái ông ta không tự đến, mà lại để các ngươi đến sao?” Trương Bồi Nguyên mở miệng châm biếm, thân thể không ngừng lắc lư: “Ngươi hại chết người ta rồi mới trộm được khẩu quyết đó phải không?”
“Không phải, cháu không bao giờ hại cô Kiều!” An Long Nhi vừa nghe thấy câu này liền lập tức lớn tiếng biện bạch, khiến Trương Bồi Nguyên cười thêm một chập nữa, trong tiếng cười ấy, An Long Nhi nói tiếp: “Cô Kiều bảo cháu đến lấy một thứ rất quan trọng.”
Trương Bồi Nguyên khịt khịt mũi: “Thói đời kiểu gì vậy? Để một đứa trẻ đến lấy một thứ rất quan trọng… ngươi… ngươi biết thứ đấy là cái gì không?”
“Biết.”
“Là cái gì?”
Trò thăm dò này của Trương Bồi Nguyên làm Tôn Tồn Chân và An Long Nhi sốt ruột vô cùng, Tôn Tồn Chân dứt khoát nói: “Chúng tôi có nói cho ông cũng vô dụng, ông có thì đưa ra đây, không có thì mau thả chúng tôi ra, chúng tôi phải hỏa tốc đi cứu người.”
“Tốt thôi, các ngươi có giỏi thì tự ra khỏi căn phòng này đi.” Trương Bồi Nguyên nói xong liền lấy một cây đuốc trên tường xuống, quạt tay vào ngọn lửa một cái, cả gian phòng lập tức bùng lên ánh lửa, xung quanh đều là ngọn lửa màu xanh lam pha lẫn sắc đỏ. An Long Nhi lùi lại một bước, rùn người xuống giơ cánh tay lên che mặt, ngọn lửa cháy phừng phừng một hồi rồi dừng lại. Khi nó ngẩng đầu lên, cái lồng đã biến mất khỏi gian phòng, Trương Bồi Nguyên cũng không còn ở đó nữa, trước mặt chỉ có bốn bức tường không có cửa nẻo gì.
Nó buột miệng hỏi: “Cái lồng đâu rồi?”
Tôn Tồn Chân chỉ lên phía trên, An Long Nhi ngẩng đầu nhìn lên, quả nhiên thấy cái lồng đã được treo lên trần nhà, nó lập tức lao tới cạnh tường sờ mó xem chỗ nào có khe mở cửa, nó biết chắc Trương Bồi Nguyên này không thể nào tự dưng xuất hiện trong phòng được, nhất định là có lối ra vào nào đó mà mình không trông thấy.
Tôn Tồn Chân tựa như đã biết ở đâu có lối ra, y lấy một cây đuốc trên tường rồi nhảy tới góc phòng, đưa tay ấn lên một viên gạch đỏ, để lộ khe hở chỉ đủ cho một người chui qua. An Long Nhi cũng cầm một cây đuốc, rồi bám theo Tôn Tồn Chân lách người ra khỏi gian phòng, trước mắt họ là một hành lang hình vuông quay xung quanh gian phòng vừa nãy.
An Long Nhi lập tức lấy la bàn trên người ra, nhưng lại phát hiện kim la bàn không ngừng chuyển động rất nhanh trong vị trí một cung, đây là Đường châm trong La kinh bát kỳ, An Long Nhi đã từng thấy trong Kỳ môn ảo trận của Lục Hữu bày ra bên dưới chân núi Thanh Nguyên. Lục Kiều Kiều nói với nó, Đường châm xuất hiện, chứng tỏ dưới đất có thâm đàm quái huyệt, giờ bọn họ đã ở dưới lòng đất, chỉ có thể lý giải rằng nơi này chính là thâm đàm quái huyệt. Bốn phía đều không có trăng sao cây cỏ để tham chiếu phương hướng, như vậy cũng không thể biết được mũi kim đang di động bên trong cung vị nào, càng không thể tính toán được đang xảy ra chuyện gì.
An Long Nhi vô vọng thu la bàn lại hỏi Tôn Tồn Chân: “Có phải sau khi mở thiên nhãn, huynh có thể nhìn thấy cửa ra vào và cơ quan cạm bẫy ở đâu hay không?”
“Những cơ quan ở gần thì nhìn thấy được.”
“Vậy huynh dẫn đường đi.”
Tôn Tồn Chân lại lắc đầu nói: “Có nhiều phòng quá, bốn phía xung quanh đều là các gian phòng, không biết gian nào có lối ra…”
“Vậy huynh thử mở bừa một cánh cửa ra xem thế nào?”
Tôn Tồn Chân bèn ấn lên viên gạch đỏ ở bức tường cạnh đó, lại mở ra một cánh cửa lật khác. Hai người đi vào, thấy trước mắt không phải căn phòng hình vuông nữa, mà là một thông đạo dài quanh co khúc khuỷu, nhìn sang bên trái thì thông đạo uốn khúc về phía trước. Tôn Tồn Chân nói: “Chỗ này còn có nhiều cơ quan hơn nữa, hai bên thông đạo toàn các cánh cửa.”
An Long Nhi biết tình hình lần này rất gay go, đây là một mê cung ngầm khổng lồ dưới lòng đất, có các gian phòng hình vuông cùng thông đạo ngoằn ngoèo hình rắn, mà la bàn của nó lại đã không còn công hiệu, nếu xông bừa chỉ tổ càng bị vây khốn ở đây lâu hơn. Nó ngẩng đầu lên nhìn cây đuốc trên tay, ngọn lửa dựng thẳng đứng, có thể thấy không có không khí lưu động, cũng có nghĩa là hai đầu thông đạo đều không có cửa mở ra.
Nó rút con dao găm Jack tặng cho, cắt một ống tay áo bông của mình nhét vào khe cửa lật vừa mới đi ra lúc nãy, đoạn nói với Tôn Tồn Chân: “Huynh đứng ở đây đợi, tôi sẽ chạy men theo thông đạo này xem phía bên kia có gì không, huynh cứ đếm từ một tới hai trăm mà tôi vẫn chưa quay lại, thì hãy đi về phía đó tìm tôi.”
Tôn Tồn Chân gật gật đầu, An Long Nhi cầm đuốc trên tay, chạy về phía con đường ngoằn ngoèo bên phải.
Nó vừa chạy, miệng vừa lẩm nhẩm đếm, tay không ngừng rút bông từ ống tay áo bị cắt ra rải xuống đất. Nó chạy rất nhanh, khi đếm tới bốn mươi thì đã tới cuối thông đạo. Phía trước là một bức tường, nhưng nó tin rằng trên bức tường này chắc chắn có cửa lật, liền nhanh chóng dùng nắm tay gõ lên từng viên gạch có thể là chốt mở cơ quan, quả nhiên thoáng cái đã gõ đúng, chỉ nghe cách cách một tiếng, trên tường liền mở ra một khung cửa lật.
An Long Nhi giơ đuốc vào trong khua khua, rồi thò đầu vào, thấy bên trong là một gian phòng hình vuông, giống hệt như gian phòng nó đi ra, ba mặt đều là tường. Nó lách người vào rồi tụt một chiếc giày bông ra kẹp dưới cửa, để cánh cửa không đóng lại được, sau đó đi tới bức tường mé bên phải cửa tìm kiếm chốt lẫy cơ quan.
An Long Nhi biết nếu cứ thuận theo hướng của thông đạo này, tức là tìm cửa ở bức tường đối diện với cánh cửa nó đi vào, thì sẽ chỉ đi vào một vòng tròn quái ác, nếu tìm cửa ở bức tường mé bên trái, thì sẽ quay vào mé trong của thông đạo ngoằn ngoèo này, chỉ có đi ra phía ngoài của thông đạo gấp khúc, mới hòng phá vỡ được lối tư duy của đối phương.
Nó cũng không hy vọng tìm được cửa trên bức tường này, vì nó biết mỗi cánh cửa đều được thiết kế để khiến bọn họ đi nhầm đường. Nó đã học được trong chiến thuật của Lục Kiều Kiều rằng, không bao giờ thuận theo tư duy của đối phương, trong chiến đấu chỉ nên xông về phía kẻ địch không muốn mình đi tới. Nó dò dẫm từng viên gạch trên cả bức tường ấy, quả nhiên không có chốt lẫy cơ quan nào để mở cửa. Phía sau vẳng lại tiếng Tôn Tồn Chân đi tới, vì An Long Nhi đã dùng chiếc giày chặn cửa lật lại, nên y tìm tới đây rất dễ dàng.
Vừa trông thấy Tôn Tồn Chân, nó liền hỏi: “Huynh thấy trên tường này có cơ quan gì không?”
Tôn Tồn Chân nói: “Đây là tường đặt, không có cơ quan.”
An Long Nhi rút dao găm ra nói: “Vậy thì tốt, để tôi khoét một cái lỗ xem thế nào.”
Nhưng Tôn Tồn Chân đã nói: “Không cần phải khoét, cậu đi giày vào đi, để đấy tôi.”
Nói dứt lời, y liền cởi bao hành lý sau lưng xuống, lấy ra hai ống kim loại sáng bóng, hai cái ống này một đầu kín một đầu hở, Tôn Tồn Chân lồng hai cái ống vào hai thanh Tề mi côn, khiến thanh trường côn lập tức biến thành Kim cương bổng của Tôn đại thánh. An Long Nhi không ngờ Tôn Tồn Chân lại trang sức cho cây côn của mình đẹp đến vậy, vừa xỏ giày vừa trợn tròn mắt lên nhìn xem y muốn làm gì.
Tôn Tồn Chân đứng thẳng, hai tay nâng côn, giơ cao quá đầu giơ ra thế cao bình, sau đó nhanh chóng lùi lại phía sau xuống tấn, thanh Tề mi côn bọc sắt hai đầu kéo về phía sau thành thế trung bình, một đầu côn chỉ về phía bức tường muốn công phá, An Long Nhi biết chiêu tiếp theo, đầu côn sẽ đâm ra. Nó còn thấy hai đầu côn phát ra ánh sáng bàng bạc, không phải ánh sáng màu đỏ do ánh lửa hắt lên, thứ ánh sáng tỏa ra từ trong ra ngoài này, do thân côn phát ra. Ánh bạc vừa lóe lên, cây gậy bịt kim loại đã đâm về phía bức tường gạch đỏ như một tia chớp bạc trong tiếng quát của Tôn Tồn Chân.
Tiếng va đập dữ dội vang lên, bức tường bị chọc thủng một cái lỗ to bằng đầu người, bụi bay mù mịt khắp phòng, nhưng An Long Nhi mặc kệ, nó lập tức tới chỗ lỗ hổng thò cây đuốc qua bên kia. Thằng bé liếc mắt nhìn, phía bên kia vẫn là một gian phòng bốn mặt đều là tường gạch đỏ. Nó cùng Tôn Tồn Chân dùng tay khoét rộng lỗ hổng trên tường, bấy giờ mới phát hiện đây là tường đôi hai lớp gạch, nếu dùng dao găm như lúc nãy nó định làm thì ít nhất phải nửa canh giờ mới nạy ra được một viên gạch. Kể cả có dùng dùi sắt thì cũng phải tốn một khắc thời gian, nhưng Tôn Tồn Chân chỉ cần chọc một cái đã thủng, công lực của y so với lúc bị bắt ở đồi Song Long dường như đã khác nhau một trời một vực, chắc hẳn đây là kết quả tu luyện với Vô Vị đại sư ở chùa Tịnh Cư. An Long Nhi đã liều mạng giao đấu với Tôn Tồn Chân một lần, rất hiểu cây côn trên tay họ Tôn nặng chừng nào, nó nhìn cái lỗ trên tường mà rùng mình, nếu hôm nay Tôn Tồn Chân đánh nó một côn, chỉ sợ đánh cho thân thể nó gãy ngang lưng chứ chẳng chơi.
Hai người nhanh chóng khoét rộng lỗ hổng, co người chui qua phía bên kia, Tôn Tồn Chân quan sát thấy bức tường đối diện cũng không có cơ quan, mà nơi nào không có cơ quan thì chính là người bày ra cục diện này không muốn kẻ bị vây khốn bên trong đi tới, không đánh vào đây thì còn đánh vào đâu nữa? Tôn Tồn Chân lại giở ra chiêu cũ, đâm mạnh một côn, phía bên kia vẫn là một gian phòng. An Long Nhi nói với Tôn Tồn Chân: “Đây là gian thứ ba rồi đấy, huynh còn sức không?”
Tôn Tồn Chân nói: “Tôi còn chưa dùng sức đâu. Bên kia có người, cậu tắt đuốc đi, rút đao ra chuẩn bị chiến đấu, xem côn đây!
“Ầm ầm!” Tôn Tồn Chân chọc thủng một cái lỗ lớn đủ cho một người chui qua trên tường, phía bên kia có ánh đèn chiếu sang, Tôn Tồn Chân không nhìn qua lỗ thủng quan sát tình hình bên ngoài mà nhảy vọt lên phóng sang bên kia. An Long Nhi cũng làm theo, nó thấy mình đang quỳ ở góc một căn phòng lớn rộng chừng bảy tám trượng vuông.
Bốn bức tường trong căn phòng lớn này cũng bị bịt kín, trên tường cắm đuốc chiếu sáng, xung quanh không có đồ đạc gì, chỗ này thực ra chỉ là một mật động hình vuông mà thôi. An Long Nhi biết, trong mắt Tôn Tồn Chân, tất cả đều chỉ là giả tượng, ở đây chắc chắn có cửa lật để ra vào; chính giữa căn phòng là một bức âm dương bát quái đồ lớn khảm bằng cẩm thạch trắng, bên trên còn có một sợi dây đồng vòng qua tám quẻ, vừa nhìn đã biết là một lộ tuyến canh bộ trong phi cửu cung.
Tôn Tồn Chân ở ngay gần An Long Nhi, chân xuống tấn, tay cầm trường côn chỉ vào một người ở bên kia gian phòng, chính là đạo sĩ Trương Bồi Nguyên để tóc xõa mặt mày râu ria lúc nãy. Trương Bồi Nguyên nhìn hai người trẻ tuổi nghiêm túc trước mặt, phá lên cười sảng khoái. An Long Nhi nói với ông ta: “Trương đạo trưởng, chúng cháu đã thoát ra rồi, nếu không có chuyện gì khác, chúng cháu phải lập tức rời khỏi đây, xin ông chớ ngăn cản.”
An Long Nhi thầm nghĩ, cái chỗ quái quỷ này không có Long Quyết, thì coi như uổng công một chuyến vậy. Xông vào nơi của người ta là không đúng, nhưng nó và Tôn Tồn Chân không làm ai bị thương, cũng không gây ra chuyện lớn gì, bây giờ hai người lập tức rời đi thì vẫn còn kịp đuổi theo xem bọn Lục Kiều Kiều an nguy thế nào. Tuy chỗ này không có Long Quyết, nhưng An Long Nhi cũng không thấy hụt hẫng, bằng không nó sẽ phải lập tức mang Long Quyết đi Quảng Châu, chẳng biết còn phải xa Lục Kiều Kiều bao lâu nữa.
Trương Bồi Nguyên cười chán chê rồi nói với hai người: “Các ngươi buông mấy thứ trên tay kia xuống đi, hay là muốn đánh ta hả?”
An Long Nhi nghe ông ta nói thế, liền cất dao găm đi, Tôn Tồn Chân cũng lập tức thu côn đứng bên cạnh nó. Nó hỏi Tôn Tồn Chân: “Lối ra ở chỗ nào? Chúng ta phải ra ngoài thôi, tôi muốn đi giúp cô Kiều…”
Tôn Tồn Chân đi thẳng tới một góc tường, nhưng Trương Bồi Nguyên lại đột nhiên cất tiếng: “Cứ vậy là đi sao? Các ngươi không cần Trảm long quyết nữa à?”
An Long Nhi và Tôn Tồn Chân lập tức đứng yên tại chỗ, tim An Long Nhi đập rộn cả lên, không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì. Nó quay ngoắt lại hỏi Trương Bồi Nguyên: “Ông có Long Quyết ? Có thể đưa cho chúng cháu được không? Chúng cháu đến là để lấy Long Quyết.”
Trương Bồi Nguyên vẫn giữ nguyên bộ dạng hờ hững, tay phải tung tung cây gậy gỗ đen, tay trái giơ lên vẫy vẫy hai người, ý bảo bọn họ đi tới chỗ mình, còn bản thân thì đã dựa vào tường, thuận đà ngồi bệt luôn xuống đất.
An Long Nhi chưa từng thấy đạo sĩ nào lờ phờ đến thế, có điều dáng vẻ này của Trương Bồi Nguyên lại khiến nó bớt phần nào cảnh giác. Một người muốn hại người khác, sát khí sẽ lộ ra ánh mắt, còn trong ánh mắt Trương Bồi Nguyên, nó chỉ thấy vẻ hờ hững rỗi việc của một gã lang thang. Nó và Tôn Tồn Chân chầm chậm bước tới, Trương Bồi Nguyên lại vẫy tay bảo hai người cùng ngồi luôn xuống đất, bọn họ đành ngồi trên Bát quái đồ dưới sàn.
Trương Bồi Nguyên nói bằng giọng trầm đục: “Cái mê cung này, vốn là để các ngươi đi hết, rồi ra từ cánh cửa kia thì ta mới có thể giao Trảm long quyết… giờ thì tốt rồi, các ngươi đục thủng tường xông thẳng tới đây luôn, ta có nên đưa cho các ngươi hay không? Hả?”
An Long Nhi nói với Trương Bồi Nguyên: “Chúng cháu có việc gấp nên mới làm vậy, mong Trương đạo trưởng hiểu cho, nếu ông có Long Quyết, xin ông nhanh chóng đưa cho chúng cháu đi.” Nó nói xong, liền quỳ xuống trước mặt Trương Bồi Nguyên dập đầu sát đất, hồi lâu vẫn chưa ngẩng lên.
Trương Bồi Nguyên trợn mắt lên nhìn trần nhà, sau đó bực tức nói với An Long Nhi: “Ngẩng lên đi, đừng gọi ta là Trương đạo trưởng, phải gọi là Trương Thiên Sư…”
Tôn Tồn Chân nghe ông ta nói vậy cũng không có phản ứng gì, nhưng An Long Nhi thì tỏ ra hết sức kinh ngạc: “Ông chính là Trương Thiên Sư? Vì vậy ông mới nói phủ Thiên Sư chính là nhà ông.”
“Ta không giống sao? Khụ khụ… ta là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, Trương Bồi Nguyên, phải rồi, ra ngoài đừng nói với ai là đã gặp ta đấy nhé.” Trương Bồi Nguyên đùa nghịch xoay xoay cây gậy gỗ đen trên tay, chậm rãi nói:
“Từ đời Thiên Sư triều trước đã truyền xuống sứ mệnh bảo vệ Trảm long quyết, nhưng ta chưa bao giờ trông thấy Trảm long quyết, mà chỉ biết được một số việc liên quan đến Long Quyết thôi. Các Thiên Sư đời trước để lại cây Lôi thích này, cùng với một mật quyết chỉ có Thiên Sư mới được truyền dạy: Giáp tý tiền, Hồ Tiên hậu, Thiên Ngục khai, Tam nương tẩu. Tặng Lôi thích, truyền thần phù, âm dương khí, khu Long Quyết... Cha ta, ông nội ta, ông nội của ông nội ta đều ngày đêm ngẫm nghĩ xem rốt cuộc là có ý quái quỷ gì, đến hôm nay rốt cuộc ta đã hiểu…”
An Long Nhi lấy làm kỳ quái, tại sao mọi người đều vì Long Quyết, nhưng mỗi nhà lại có một bộ khẩu quyết khác nhau, kỳ quái hơn nữa là Trương Bồi Nguyên lại nói ra khẩu quyết có vẻ rất bí mật đó với thái độ như đang chuyện phiếm vậy. Nó thắc mắc: “Trương Thiên Sư, ông nói những chuyện này cho chúng cháu là có ý gì? Ông không muốn giao Long Quyết sao?”
Trương Bồi Nguyên nở một nụ cười đầy ý vị, đôi mắt sáng rực thấp thoáng sau mái tóc dài buông xõa nhìn về phía An Long Nhi: “Ta cho ngươi Trảm long quyết, ngươi có biết dùng không? Kể cả có biết cũng không dùng được, sức mạnh cuối cùng của Trảm long quyết nằm ở đây…” Trương Bồi Nguyên nói tới đây, liền giơ cây gậy đen trên tay lên, khiến An Long Nhi cơ hồ muốn giơ tay ra giật lấy.
“Ngồi yên nghe ta nói đã, Trảm long quyết có thể chặt đứt long mạch thiên tử không chỉ là một cuốn sách, mấy câu khẩu quyết…” Trương Bồi Nguyên nói xong thì xoay người nằm ngửa ra sàn, tựa như một chú chó bị ngứa ở lưng cọ cọ chỗ ngứa xuống đất: “Chậc… chậc… các ngươi có thể tới được đây thì đều là người tu đạo, biết một Giáp Tý tuần hoàn có sáu mươi thiên can địa chi, đến sáu mươi mốt thì lại bắt đầu lại từ đầu, ta đây, là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, vì vậy ‘Giáp Tý tiền’ trong mật quyết, chính là chỉ ta. Điện Hồ Tiên các ngươi có biết không?”
Lúc ở trên bờ tường trước khi tiến vào, An Long Nhi và Tôn Tồn Chân đều trông thấy trong phủ Thiên Sư có một gian điện Hồ Tiên, vì vậy liền đồng thời gật đầu với Trương Bồi Nguyên. Giờ nghĩ lại, tiếng cổ cầm rối loạn vẳng ra trong điện Hồ Tiên lúc nãy, chắc cũng là do vị Thiên Sư rỗi việc Trương Bồi Nguyên này diễn tấu.
Trương Bồi Nguyên thấy hai người gật đầu, lại tiếp tục nói: “Phía sau điện Hồ Tiên có một cửa ngầm, từ nhỏ ta đã biết ở đó có cơ quan, nhưng dùng đủ mọi cách mà vẫn không mở ra được.
Lúc đi hỏi cha ta, ông ấy nói mật quyết chính là gợi ý để mở cửa. Đến khi các ngươi lén lút mở cửa trong điện Giáp Tý, ta mới hiểu ra ý nghĩa của đoạn mật quyết này, thì ra không phải dùng mật quyết của ta để mở cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên, mà phải dùng mật quyết của các ngươi. Thiên Sư chỉ bảo vệ nơi cất giữ Trảm long quyết, nhưng người họ An các ngươi mới có thể mở được cánh cửa này… Vùng núi Long Hổ này là đất Thiên Ngục, từ lâu ta đã biết điểm này,vì vậy trước nay vẫn cho rằng ‘Thiên Ngục khai’ trong mật quyết, là chỉ việc địa chấn làm mặt đất nứt toác ra, nhưng vừa nãy ta lần đầu tiên đi xuống mê cung dưới lòng đất này, lấy được Lôi thích, Trảm long quyết và trông thấy Tam nương canh bộ đồ, mới biết hóa ra Thiên Ngục là chỉ mê cung này…”
Trương Bồi Nguyên nói xong, lật ngón tay chỉ chỉ vào bức Bát quái đồ dưới sàn: “Đây là Tam nương phu nhân canh bộ, dùng bộ pháp và tuyến đường này có thể thuận lợi đi qua mê cung tới nơi này. Ha ha ha… ha ha ha…” Trương Bồi Nguyên nói tới đây thì không nhịn được, lại cười phá lên một trận: “Bộ pháp này nằm ở phía ta, ý là muốn ta vào xem các ngươi là người thế nào, sau đó tùy theo tình hình để đưa ra cho các ngươi một thử thách, kẻ không thể ra khỏi mê cung tuyệt đối không phải người tu đạo tu tiên, ta có thể ra ngoài đóng cửa nhốt các ngươi ở đây đến chết. Nhưng mà các ngươi lại khoét lỗ trên tường để tới đây, chậc… các vị lão Tổ tông cũng chẳng thể ngờ được đâu…”
An Long Nhi chau mày hỏi: “Chúng cháu khoét lỗ trên tường đi thẳng tới đây, thì ông không giao Long Quyết?”
Trương Bồi Nguyên nằm dưới sàn nhà, hai tay ôm cây gậy Lôi thích, nhìn lên trần nói: “Đạo có thể giảng thì không phải là đạo. Kẻ đạt đại đạo, khéo mà như vụng, trí mà như ngu, biết đi theo Tam cô nương canh bộ tất nhiên là đạo, nhưng tên ngốc biết khoét lỗ trên tường… cũng coi như đại trí nhược ngu rồi… các ngươi có biết Long Quyết là gì không ?”
An Long Nhi nghe Trương Bồi Nguyên nói câu nào cũng có lý, chắc không có gì giả trá, liền thành thực trả lời: “Long Quyết là thuật phong thủy thiên tử, có thể lập một triều đại, cũng có thể phá một triều đại.”
Trương Bồi Nguyên gối đầu lên một cánh tay nói: “Biết được thì tốt, nhưng các ngươi có biết, Long Quyết là loại thuật phong thủy không thể dùng các pháp khí phong thủy bình thường để khu động hay không, trước tiên cần phải có khí âm dương…”
An Long Nhi hỏi: “Khí âm dương là cái gì?”
Trương Bồi Nguyên đáp: “Thiên địa vạn vật đều do hai khí âm dương giao hòa mới có thể sinh thành, muốn khu động long mạch thiên tử, thì không thể chỉ dùng khí thuần dương của đàn ông, mà cần phải dùng khí thuần âm của đàn bà mới hợp với lẽ trời đất. Phong thủy sư tìm được long mạch thiên tử rồi, phải có nam nữ cùng hợp lực sử dụng hai khí âm dương mới có thể mở huyệt đánh thức rồng, mà nếu muốn trảm long… thì phải dùng máu huyết của nam và nữ phun lên Lôi thích, dùng máu tế trời đất trước, mới có thể dùng Lôi thích này trảm sát long mạch Thiên tử, còn trảm thế nào, trảm vào đâu… thì trong sách đều có cả rồi…” Nói xong, ông ta lấy trong người ra một quyển sách quăng xuống đất.
An Long Nhi nhìn xuống quyển sách Trương Bồi Nguyên tùy tiện ném xuống đất, lập tức vươn tay ra cầm lên xem, trong sách quả nhiên toàn khẩu quyết và bản đồ địa lý, nhưng dù sách đã cầm trên tay, nó vẫn trân trân nhìn cây gậy gỗ đen được gọi là Lôi thích kia.
Trương Bồi Nguyên lăn một vòng dưới đất ngồi dậy, hai chân khoanh tròn, tay chống cằm, ngón tay chầm chậm vân vê sợi râu: “Lúc nãy khi các ngươi đào tường, ta tranh thủ thời gian xem qua Trảm long quyết này, trảm sát long mạch ngoài việc phải tìm ra tử huyệt của long mạch, còn phải dùng pháp lực của Thiên Sư đạo nữa. Ta là Thiên Sư, các ngươi có chìa khóa vào đây rồi, thì ta phải có nghĩa vụ truyền phép… nhưng ta không ngờ người đến lấy Trảm long quyết lại có tới hai người, điều làm ta bất ngờ nhất không phải các ngươi đục lỗ trên tường, mà là hai người cùng đến một lượt đấy. Các ngươi nói xem, ta nên truyền Trảm long quyết có thể hủy diệt một triều đại này cho ai đây?”
Trương Bồi Nguyên nhìn người này rồi lại nhìn người kia, bộ dạng có vẻ chỉ muốn thiên hạ đại loạn, ông ta đang đợi An Long Nhi và Tôn Tồn Chân tranh đấu, nếu hai người này đánh nhau, thì loại người tham lam tàn bạo ấy không xứng đáng được truyền Trảm long quyết, ông ta sẽ lập tức xông ra khỏi mê cung, việc truyền pháp quyết để đời sau hãy tính.
An Long Nhi quay đầu lại nhìn Tôn Tồn Chân, họ Tôn khẽ gật đầu, nó liền quay sang khấu đầu với Trương Bồi Nguyên nói: “Xin Trương Thiên Sư truyền cho cháu.”
“Ồ! Khụ khụ, các ngươi cũng đồng lòng quá nhỉ.” Trương Bồi Nguyên hơi ngạc nhiên trước phản ứng này, mỉm cười chăm chú quan sát hai người bọn họ một hồi, sau đó lại nói: “Vậy các ngươi hãy ngồi yên đừng động đậy, ta muốn thăm dò công lực của các ngươi trước…”
Trương Bồi Nguyên lật tay đâm cây Lôi thích vào bức tường phía sau, “soạt” một tiếng, cây gậy đã cắm ngập quá nửa vào bức tường gạch đỏ, chỉ để lại tay nắm chừng một thước bên ngoài. An Long Nhi thấy cây gậy đen ấy đâm vào tường gạch mà như đâm vào đậu phụ, có vẻ như Lôi thích quá cứng lại có vẻ bức tường quá mềm, cũng không có mấy bụi đất bắn ra, từ điểm này có thể thấy công lực của Trương Bồi Nguyên tinh thuần tới nhường nào. Ông ta biểu diễn màn này, một là để cho hai người trẻ tuổi biết mình có đủ tư cách truyền pháp lực, hai là bảo họ đừng hy vọng có thể làm bừa. Trương Bồi Nguyên ta khoét lỗ trên tường đẹp hơn ngươi nhiều.
Trương Bồi Nguyên ngồi xếp bằng tròn, đùi nhẹ nhàng ép xuống dưới một cái, đã bay vọt lên lộn nhào một vòng trên không trung, rơi xuống giữa hai người, hai tay lần lượt ấn lên huyệt Bách hội trên đỉnh đầu. Hai người lập tức cảm thấy một luồng khí tinh thuần ấm áp chầm chậm từ đỉnh đầu lan tỏa đi khắp toàn thân, hơi ấm còn vận hành trong cơ thể, Trương Bồi Nguyên đã nhảy lên bức Bát quái đồ ở giữa phòng, chắp tay sau lưng, thần thái hồng hào quắc thước, vẻ uể oải biếng nhác lúc nãy đã biến mất, lớn giọng hỏi: “Tôn đạo trưởng, ngươi có nội công tinh thâm của phái Toàn Chân, đã đạt tới trình độ của pháp sư bậc cao rồi, xin hỏi đến đây có công việc gì? Liễu Tinh Nam đạo trưởng là gì của ngươi?”
Tôn Tồn Chân quay lưng lại phía Trương Bồi Nguyên, cũng chẳng buồn ngoảnh đầu đáp: “Liễu Tinh Nam là sư phụ của tôi, có điều giờ tôi đã không còn là đạo sĩ Toàn Chân nữa, tôi cũng không phải đến vì Long Quyết mà chỉ giúp Long Nhi lấy được Long Quyết, những chuyện khác thảy đều không liên quan, Long Nhi mà đi thì tôi cũng đi, sẽ không quay trở lại nữa.”
Trương Bồi Nguyên biết, yêu cầu cơ bản của một đạo sĩ là tôn sư trọng đạo, nếu Tôn Tồn Chân vẫn là đạo sĩ của phái Toàn Chân, y tuyệt đối không dám nói như vậy, một khi đã nói năng quyết liệt như thế, đằng sau chuyện này hẳn phải có ân oán lằng nhằng phức tạp vô cùng, đương nhiên Trương Bồi Nguyên cũng không muốn biết những chuyện đó làm gì. Có điều, Tôn Tồn Chân bày tỏ thái độ như vậy làm ông ta rất yên tâm. Ông ta lại hỏi An Long Nhi:
“Trên người ngươi có công pháp nữ đan của phe Thiên Sư đạo ta, ngươi là đàn ông, ngươi học ở đâu ra cái thứ ấy thế?”
An Long Nhi ngồi xếp bằng tròn, xoay người lại trả lời Trương Bồi Nguyên: “Cháu học công phu luyện nữ đan của cô Kiều, cô ấy là con gái của An Vị Thu.”
“Chậc chậc, đúng là ý trời.” Trương Bồi Nguyên khẽ cười lên hai tiếng, ánh mắt bừng lên một sắc thái kỳ dị: “Trảm long sát mạch, vốn dĩ cần phải một nam một nữ cùng lúc vận dụng Tử thần ngự long khí, nhưng trên người ngươi lại có công pháp nữ đan âm nhu, được Tam muội dương hỏa của nam nhi đề luyện thời gian dài, công lực lại sâu thêm một tầng nữa, nên một mình ngươi cũng có thể sử dụng Trảm long quyết rồi. Ý trời, đúng là ý trời! Có người như ngươi đến lấy Trảm long quyết, khí số Đại Thanh tận rồi. Trảm long quyết không chỉ là một quyển sách, trong sách có dạy ngươi cách tìm được tử huyệt của long mạch thiên tử, nhưng chỉ khi dùng Lôi thích đâm vào tử huyệt thì mới có thể trảm sát long mạch một cách triệt để, mà muốn vận dụng Lôi thích thì lại cần đến Trảm long quyết chân chính.”
An Long Nhi lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Cây gậy này chính là Lôi thích ạ? Lôi thích là cái gì?”
Trương Bồi Nguyên trả lời nói: “Đi nhổ Lôi thích ra đây.”
An Long Nhi đi tới bên cạnh bức tường, hai tay nắm lấy cây Lôi thích đen kịt dùng sức kéo mạnh, nhưng không rút ra được. Nó lại đạp một chân lên tường, dồn sức vào hai tay lần nữa, song cây Lôi thích cắm trong tường vẫn không hề nhúc nhích.
Lúc này Trương Bồi Nguyên nói với nó: “Sư phụ ngươi đã tạo cho ngươi một nền tảng rất tốt, luyện ra được Ngũ sắc nội đơn, với công lực của ngươi hiện tại thừa sức rút Lôi thích ra rồi, có biết vẽ bùa không vậy?”
“Chưa học bao giờ.”
“Làm theo lời ta nói, tay chụm lại thành kiếm quyết, vận nội đơn đến đầu ngón tay, vẽ ra Đại Minh Thần hỏa ấn ở khoảng không phía trên tay nắm Lôi thích, làm theo ta!” Trương Bồi Nguyên nói xong liền dùng ngón tay vạch lên không trung một loạt những đường nét phức tạp và đẹp đẽ, An Long Nhi nhìn qua một lần, liền làm theo, vẽ lên phía trên tay nắm của Lôi thích, sau khi vẽ xong, Trương Bồi Nguyên nói với nó: “Nội đơn dừng ở tay, nắm vào Lôi thích rút ra!”
An Long Nhi nắm lấy Lôi thích, bắt đầu dùng sức một cách nhẹ nhàng, nhưng vừa hơi dồn lực một chút, Lôi thích đã trượt ra luôn, cảm giác như thể rút cái chày cán bột ra khỏi nắm bột đang nhào mềm nhũn vậy. Tim An Long Nhi đột nhiên đập dồn dập, tâm trí nó đang mạnh mẽ tiếp nhận một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Trước đây, khi nhìn Lục Kiều Kiều vẽ bùa niệm chú, nó đều chỉ coi là trông thấy thần tích hoặc xem ảo thuật, thần kỳ thì cũng thần kỳ thật, nhưng cảm giác chấn động ấy tuyệt đối không mạnh mẽ và khoáng hậu như lúc này. Khi mình tự cảm nhận được sức mạnh thần kỳ như trong mộng ấy, trong lòng nó chợt nhận thấy thế giới mà nó biết mười mấy năm nay đã đột nhiên biến đổi, đây là một thứ sức mạnh vượt trên mọi thứ mà thường ngày nó vẫn biết, vẫn thấy, thứ sức mạnh này thậm chí còn vượt trên cả bản thân nó nữa, lẽ nào đây chính là đạo?
Niềm vui không sao kiềm chế nổi khiến nó nở một nụ cười tự đáy lòng, sau khi nhẹ nhàng rút cây Lôi thích ra cầm trên tay, cây gậy truyền cho nó một sự tự tin xưa nay chưa từng có, một thứ cảm giác quyền lực không gì sánh nổi, những bùa chú ngoằn ngoèo khắc trên Lôi thích mở ra trước mắt nó một thế giới rộng lớn vô cùng tận. Nó chầm chậm xoay người lại phía Trương Bồi Nguyên, qua vẻ kinh ngạc của nó, Trương Bồi Nguyên có thể nhìn ra đây là một đứa trẻ chưa từng tiếp xúc với đạo thuật, và ông ta cũng rất vui lòng truyền thụ Trảm long quyết cho đứa nhỏ thuần khiết này. Ông ta nói với An Long Nhi: “Cây gỗ thích từng bị sét đánh rất hiếm có, gỗ thích từng bị sét đánh có ẩn chứa dương khí mạnh mẽ nhất trong trời đất, trong Thiên Sư đạo, nó được coi là nguyên liệu chế tạo pháp khí chí cao vô thượng, từ đời Thiên Sư đầu tiên, ấn phù của các đời đều dùng Lôi thích điêu khắc mà thành. Cây gậy Lôi thích trên tay ngươi chính là pháp khí chí cương chí dương trong thiên hạ, chỉ có pháp khí như vậy, công với Trảm long quyết, mới có thể trảm sát được long mạch.”
Trương Bồi Nguyên ngưng lại giây lát, để An Long Nhi rờ mó cây Lôi thích cho thỏa, sau đó lại nói: “Trong Thiên Sư đạo, quyết không chỉ là khẩu quyết, mà còn phải phối hợp với thủ ấn, bộ pháp và chú ngữ, thậm chí còn phải cộng thêm cả bùa chú thì mới được gọi là quyết, Trảm long quyết cũng vậy. Ngươi phải học của ta bộ pháp và thủ ấn, mới có thể vận dụng Trảm long quyết hoàn chỉnh đi trảm sát long mạch, bằng không khi ngươi đến phía trên long mạch, dù có đào núi khoét non thế nào chăng nữa, long mạch ấy vẫn có ngày tái sinh. Nếu không phải ngươi trảm long mạch, vậy thì cần một nam một nữ cùng lúc vận dụng Trảm long quyết theo hai hướng chính phản mới có hiệu quả… Được rồi, chúng ta không có nhiều thời gian, lập tức vào trong Bát quái đồ, đứng trước mặt ta làm theo những gì ta làm, cả quá trình không cần vận dụng đan công chỉ học động tác là được rồi.”
An Long Nhi buông Lôi thích ra đi tới trước mặt Trương Bồi Nguyên, hai người chia nhau đứng ở vị trí âm dương như trên Bát quái đồ, chân trái của Trương Bồi Nguyên bước lên trước chân phải, hơi rùn người xuống, hai tay làm ra một động tác giống như bắt quyết, ngón cái và ngón út chạm nhau chèn lên ngón đeo nhẫn, ngón trỏ và ngón giữa chĩa thẳng lên trời, ngón tay bàn tay phải lồng vào bàn tay trái. Ông ta nói với An Long Nhi: “Chân bước Kỳ lân bộ, tay bắt Triều thiên ấn…” An Long Nhi chăm chú quan sát, dồn hết toàn bộ sự chú ý chầm chậm mô phỏng theo động tác của Trương Bồi Nguyên, bắt đầu lần lượt học từng chiêu từng thức của Trảm long quyết mà Lục Kiều Kiều bọn họ đã dùng cả sinh mệnh mình để tìm kiếm.
Sau một canh giờ, An Long Nhi đã học hết Trảm long quyết, toàn thân đều đẫm mồ hôi, còn Trương Bồi Nguyên thì vẫn giữ dáng vẻ thong thả ung dung, tiên phong đạo cốt. Tôn Tồn Chân ngồi dưới đất, lặng lẽ xoay lưng về phía hai người. Trương Bồi Nguyên yêu cầu An Long Nhi thề độc, chỉ được truyền miệng chứ tuyệt không được ghi lại thủ ấn, bộ pháp và chú ngữ của Trảm long quyết, vì vậy An Long Nhi cũng không dám nôn nóng rời khỏi đây nữa, nó phải đảm bảo khi rời khỏi phủ Thiên Sư, mình đã nhớ kỹ tất cả những gì học được ngày hôm nay.
Lúc này, dưới lòng đất vang lên tiếng nổ ì ầm trầm đục, trong tiếng nổ không ngừng lại thấp thoáng kèm theo tiếng rít gào the thé, cả mê cung ngầm không ngừng rung lên nhè nhẹ, khiến người ta cảm giác như thể một nguy cơ lớn lao sắp ập đến cạnh bên. Cả bọn đều dừng lại, Trương Bồi Nguyên bấm ngón tay lên tính toán, An Long Nhi lập tức lấy la bàn trên người ra, nó thấy kim la bàn không liên tục đảo qua đảo lại như lúc trước nữa, mà đang không ngừng xoay chuyển rất nhanh, chứng tỏ xung quanh có tà khí rất mạnh tồn tại. Cả nó và Trương Bồi Nguyên đều không hẹn mà thốt lên: “Hỏng bét!”
Trương Bồi Nguyên nói: “Các ngươi ở đây, để ta ra xem sao.” Ông ta vừa dứt lời, liền nghe bên ngoài bức tường có người đang đập cửa hò hét dữ dội, âm thanh rất xa xôi mờ mịt, không rõ người bên ngoài đang gào thét chuyện gì, nhưng có thể tưởng tượng ra được mức độ khẩn cấp của sự việc. Trương Bồi Nguyên lại nói: “Lớn chuyện rồi, các ngươi đừng đi bừa bãi, An Long Nhi tự mình luyện tập thêm mấy lần nữa, ta ra ngoài trước xem sao.” Nói xong, ông ta chạy tới trước một bức tường, đẩy cánh cửa lật ra rời khỏi mê cung dưới lòng đất.
Khi ông ta trở lên mặt đất từ phía sau điện Hồ Tiên, liền trông thấy phủ Thiên Sư đã trở nên hết sức rối loạn, toàn bộ đạo sĩ đều đã chạy ra khỏi các đại điện đến chỗ thông thoáng nhìn về phía Đông, phía đó chính là hướng của cung Đại Thượng Thanh, trên núi có một luồng khí đen bổ thẳng lên trời. Trương Bồi Nguyên biết rất rõ đó là gì, khi có người đến lấy Trảm long quyết, đồng thời cũng có người lên cung Đại Thượng Thanh thả ra ma khí trong Thiên Ngục, cuộc đại loạn thiên hạ tám trăm năm trước sẽ tái diễn lần nữa.
Ông ta biết người thả ma khí Thiên Ngục ra dĩ nhiên cũng nhằm vào Trảm long quyết, vì vậy liền tổ chức các đạo sĩ trong phủ Thiên Sư lại, ra lệnh cho mọi người chuẩn bị cung tên vũ khí, bố trí phòng thủ các nơi trong phủ Thiên Sư, đồng thời phái hai người đi về phía cung Đại Thượng Thanh thăm dò. Bận bịu sắp xếp mất chừng hai khắc thời gian, Trương Bồi Nguyên vội vàng quay về mê cung dưới lòng đất, lấy ra một quyển sách nhét vào tay An Long Nhi, nhưng không nói gì, chỉ bảo An Long Nhi: “Nơi này đã trở nên rất nguy hiểm, ngươi học xong rồi thì nhanh chóng đi đi. Nhớ kỹ, làm gì cũng phải dựa vào lương tâm, thuận theo ý trời, tận hết sức người… khi nào thiên hạ thái bình thì về đây trả lại Trảm long quyết.”
An Long Nhi quỳ thụp xuống trước mặt Trương Bồi Nguyên nói: “Đa tạ Trương Thiên Sư.” Dứt lời, nó nhanh chóng dập đầu ba cái, cất Trảm long quyết và quyển sách Trương Bồi Nguyên mới đưa cho vào lòng, tay cầm Lôi thích, rồi cùng Tôn Tồn Chân lên mặt đất theo lối Trương Bồi Nguyên vừa đi vào.
Khi bọn họ mở cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên, vẫn còn chưa ló đầu lên khỏi mặt đất, đã trông thấy một con bướm trắng đang bay lượn phía trước mặt.
Trương Bồi Nguyên vừa ngẩng lên nhìn con bướm trắng ấy, liền cười khẩy một tiếng nói: “Trò vặt vãnh mà cũng dám đến phủ Thiên Sư khoe khoang.” Nói đoạn, ông ta phất ống tay áo về phía con bướm, con bướm “phù” một tiếng, bốc cháy trên không trung hóa thành tro tàn rơi xuống đất. Trương Bồi Nguyên lại quay sang bảo An Long Nhi: “Các ngươi bị người ta theo dõi rồi, thành thật nói cho ta biết, đối phương là ai, có bao nhiêu người?”
An Long Nhi thành thực trả lời: “Bọn họ đều là người của triều đình, trước khi tới đây cháu thấy có khoảng sáu mươi tên cưỡi ngựa.”
Trương Bồi Nguyên nghe xong lập tức bấm đốt ngón tay tính toán, vừa nhẩm vừa nói: “Không ngoài dự liệu, bao đời nay chỉ có triều đình vong quốc mới bất chấp tất cả để tìm kiếm Trảm long quyết, lúc thiên hạ thái bình thì chẳng ai nghĩ đến thứ này cả. Giờ đối phương cũng không còn nhiều người như vậy nữa rồi, các ngươi hãy đi theo lối phía sau phủ đi. Trì Tú…” Lúc này đằng trước bọn họ có một đạo sĩ trẻ tên là Trì Tú đi tới, anh ta đã buộc thắt lưng bên ngoài đạo bào, hông đeo trường kiếm, lưng đeo túi tên đầy, tay cầm một cây cung mây, đang rảo bước chạy về phía trước phủ Thiên Sư, chuẩn bị phòng vệ ứng chiến. Nghe Trương Bồi Nguyên gọi tên mình, anh ta lập tức chạy tới trước mặt họ.
“Trương Thiên Sư, có gì dặn dò ạ?”
“Dẫn hai vị đạo huynh này ra theo cửa ngách, nhanh lên!”
“Vâng, xin đi theo tôi!” Trì Tú vẫy tay với Tôn Tồn Chân và An Long Nhi, lập tức dẫn họ chạy về phía hậu viện.
Trương Bồi Nguyên vội vã chạy ra khỏi điện Ngọc Hoàng, từ xa đã nghe thấy tiếng đánh giết, khi ông ta rảo chân phóng ra khỏi gian chính của điện Ngọc Hoàng, một cái bóng cao lớn mang theo tiếng gió phần phật cũng lao nhanh về phía ông ta, trên không trung vang lên một tiếng quát: “Triều đình bắt khâm phạm, người không liên quan tránh ra!”
Thân hình người kia nhanh thì có nhanh thật, nhưng Trương Bồi Nguyên vẫn nhìn rõ trước mặt mình không chỉ có người, mà còn một thanh trường kiếm chém đến tựa như rắn bạc đang múa lượn. Trương Bồi Nguyên không lùi nửa bước, giơ chân hất cái bồ đoàn dưới đất lên, bồ đoàn bay vèo vào mặt người kia, cước thứ hai đã như bóng với hình lách qua khoảng trống của kiếm, đá vào bụng đối phương.
Người kia thấy tầm mắt đột nhiên bị cản trở, liền nhanh nhẹn thu kiếm chém nát bồ đoàn, không đợi chân Trương Bồi Nguyên đá tới, y đã giơ chân trước lên đạp vào lòng bàn chân họ Trương. Hai cước đụng nhau, hai người tách ra hai hướng, giữa màn bông vải bay đầy trời, Trương Bồi Nguyên trông thấy một người đàn ông trung niên cao lớn, nét mặt thanh tú nho nhã.
Trương Bồi Nguyên lại đưa mắt nhìn quanh, mấy chục đạo sĩ đang chống lại bốn võ sĩ ăn mặc kỳ quái, các đạo sĩ rõ ràng không phải đối thủ của bốn người này, liên tục có người bị thương ngã xuống, chỉ có thể vừa đánh vừa lui.
Trương Bồi Nguyên nhếch miệng hỏi: “Ruồi nhặng cũng dám đến phủ Thiên Sư làm loạn, các ngươi là ai?”
An Thanh Nguyên lấy trong ngực áo ra một lệnh bài bằng vàng giơ ra trước mặt Trương Bồi Nguyên: “Tại hạ là Hàn Lâm viện Đại học sĩ An Thanh Nguyên, con trai của An Vị Thu, hiện đang tra án, cần bắt một đứa trẻ tóc vàng, Trương Thiên Sư nếu không lập tức giao người, thì hãy nhường đường để hạ quan tự mình đi tróc nã.”
An Thanh Nguyên khí thế hùng hổ, nói năng lấn lướt, Trương Bồi Nguyên nghe xong chỉ cười khẩy một tiếng rồi đáp: “Ngươi là con trai của An Vị Thu? Cũng họ An à, khụ khụ, quan to quá đè chết người ta đấy, Hàn Lâm viện Đại học sĩ là quan văn, bắt người cái gì chứ? Ta biết ngươi đến đây là vì cái gì rồi…”
“Biết rồi thì tốt, một là giao người, không thì giao Long Quyết ra, bản quan không có thời gian nói chuyện phiếm với ông.”
“Khụ khụ… toàn là người hiểu chuyện, vậy thì không cần nói nữa, Vương đạo trưởng! Có người mạo xưng mệnh quan triều đình xông vào phủ Thiên Sư cướp của giết người, đóng cửa giết giặc cho ta! Phóng tên!”
Trương Bồi Nguyên vừa phát lệnh, Vương đạo trưởng phụ trách phòng thủ bên trong liền xoay người đóng cánh cửa lớn lại, những đạo sĩ đang chiến đấu khác đồng loạt lùi về sau, tất cả đạo sĩ trên mái nhà, dưới mái hiên đồng loạt buông tên về phía bốn người Nhật Bản và An Thanh Nguyên.
Bọn Hotta Masayoshi thấy tên bay tới rào rào, cách duy nhất chính là xông thẳng về phía trước, chỉ cần quấn lấy Trương Bồi Nguyên, đám đạo sĩ muốn bắn tên sẽ phải kiêng dè, sau khi xông được vào trong điện Ngọc Hoàng, tình thế hẳn sẽ đổi khác. Vì vậy, bốn cái bóng cùng An Thanh Nguyên đồng thời bổ thẳng tới Trương Bồi Nguyên đang trấn giữ trước cửa lớn của Ngọc Hoàng đại điện.
Trương Bồi Nguyên lần này lại lướt người bay về phía sau, An Thanh Nguyên và Hotta Masayoshi cùng các gia thần đồng loạt xông vào trong điện Ngọc Hoàng. Khi họ đặt chân vào trong, trước mắt đột nhiên sáng bừng, bên trong đại điện biến thành một vùng hư không sáng trưng, năm người đứng giữa một không gian trống trơn, xung quanh hoàn toàn không có gì, nhìn bên trái bên phải cũng chỉ thấy có mấy người phe mình mà chẳng thấy bóng dáng Thiên Sư Trương Bồi Nguyên đâu.
Niwa Kumo mỉm cười bước lên trước nói: “Ảo thuật của Thiên Sư thật khiến người ta khâm phục, tại hạ xin phô bày cái xấu vậy.” Vừa nói, anh ta vừa xòe chiếc quạt giấy trên tay ra, vạch một vòng tròn trên không trung, bên trong vòng tròn ấy tối đen như mực, bóng tối tức thì lan rộng ra khắp bốn phía, nhanh chóng phủ lấp lên hư không sáng bừng, trên ngón tay bắt quyết của anh ta ánh lên mấy điểm sáng trắng, chầm chậm chuyển động theo các ngón tay, một ngôi sao năm cánh phát ra ánh sáng trắng từ đầu ngón tay nhảy lên không trung, sau đó bay tản ra năm hướng. Đây là Ngũ tinh thức thần của Niwa Kumo, lơ lửng trên cao, chiếu sáng xung quanh. An Thanh Nguyên và mấy người còn lại thấy Trương Bồi Nguyên đang đứng ở đằng xa, đầu tóc xõa ra, hai tay khoanh trước ngực nghiêng đầu nhìn bọn họ hờ hững như không.
An Thanh Nguyên vươn kiếm xông về phía Trương Bồi Nguyên, người còn chưa tới, tiếng quát đã vang lên: “Trương Thiên Sư, giờ chính là cơ hội để ông lập công, không có thời gian cho ông nghĩ ngợi đâu, hãy giúp hạ quan làm tốt chuyện này, ta có thể đảm bảo giúp ông khôi phục chức vị!” Lời vừa mới dứt, Ngũ tinh thức thần đã tụ thành một luồng ánh sáng trắng, đâm thẳng về phía Trương Bồi Nguyên trước cả An Thanh Nguyên…
Lời của An Thanh Nguyên đã nói trúng vào nỗi đau trong lòng Trương Bồi Nguyên, nhưng lại khiến ông ta càng thêm khinh thường và phẫn nộ. Thì ra Thiên Sư đạo truyền thừa từ thời Hán hai nghìn năm trước, dù thiên hạ thay triều đổi đại ra sao, xưa nay vẫn chưa từng có vị quân vương nào dám coi thường vị trí thống lĩnh Đạo giáo của Thiên Sư, Thiên Sư trong phủ từ xưa đều được các triều hoàng đế phong làm đại quan nhị phẩm. Nhưng đến triều Thanh, triều đình lại độc tôn Phật giáo, đối với Đạo giáo chỉ vỗ về một cách tượng trưng, trong triều có lập ra Đạo lục ty cùng với Tăng lập ty để quản lý đạo sĩ và tăng nhân, nhưng địa vị của Đạo lục ty còn xa mới bằng Tăng lục ty. Thiên Sư thống lĩnh các đạo phái trong thiên hạ vào cung cũng chỉ như con gái do tiểu thiếp sinh ra, không hề được coi trọng. Vả lại, vị trí Thiên Sư trong Đạo lục ty cũng do đạo sĩ Toàn Chân nắm giữ, như vậy địa vị của Thiên Sư đạo đã bị Toàn Chân đạo áp chế.
Đến thời Đạo Quang, cũng chính là lúc Trương Bồi Nguyên tiếp nhận vị trí Thiên Sư chưa lâu, hoàng đế Đạo Quang ra thánh chỉ giáng phẩm cấp của Thiên Sư từ nhị phẩm xuống ngũ phẩm, một lần giáng liền sáu cấp, từ mỗi năm đều vào triều tấn kiến đổi thành từ giờ không cần vào kinh tấn kiến. Trương Bồi Nguyên như bị sét đánh trúng, danh dự hai nghìn năm của Thiên Sư đạo đã bị hủy trong tay ông ta, trách nhiệm lịch sử này, thử hỏi làm sao ông ta gánh vác cho nổi?
Mấy năm nay Trương Bồi Nguyên coi sóc tòa phủ Thiên Sư rộng lớn mà suy bại điêu linh này, nỗi bi thương trong lòng không biết tỏ cùng ai, có nỗi khổ hay chuyện gì không vui cũng chỉ có thể nuốt vào bụng. Bản thân ông ta là Thiên Sư đời thứ sáu mươi, là thống lĩnh trên danh nghĩa của Đạo giáo trong thiên hạ, lẽ nào lại có thể tìm một người mà ôm đầu khóc lóc? Trương Bồi Nguyên ngày ngày đều nhìn sao tính lịch, tìm hiểu xem Đạo giáo còn bao nhiêu tiền đồ, tông pháp hai nghìn năm liệu có bị hủy trong tay mình hay không. Ông ta từ lâu đã chú ý đến thủ ấn và bộ pháp Trảm long quyết mà tổ tiên truyền lại, nhưng lại không biết Lôi thích là gì? Kỳ thư ở nơi đâu? Ông ta từng suy đoán thời đại này có thể kết thúc bởi Trảm long quyết, cũng có thể sẽ nhờ Trảm long quyết mà mở ra một thời đại mới, ông ta cần phải biết kho báu mà tổ tiên truyền lại ấy có thể vãn hồi lại cục thế này hay không. Trương Bồi Nguyên tinh thông thuật chiêm tinh bói toán, biết chắc rằng ngày này sẽ tới, tính thì cũng tính rồi, kết quả cũng có, nhưng chờ đợi là việc khiến người ta vô cùng sốt ruột, dẫu có tính ra được thì sao chứ?
Hôm nay khi có người xông vào điện Giáp Tý, cửa ngầm phía sau điện Hồ Tiên mở ra, Trương Bồi Nguyên liền biết cơ hội đã tới…
Khi ông ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử của một vị Thiên Sư là truyền thụ Trảm long quyết cho An Long Nhi, thì lại nghe được những lời này từ miệng An Thanh Nguyên, điều này đối với Trương Bồi Nguyên rõ ràng là một sự chế giễu sâu cay. Trải qua nhiều năm chán nản và trầm luân, ông ta đã dần hiểu được một đạo lý, bèn ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Ngũ tinh thức thần đang bắn thẳng tới mặt, cao giọng nói: “Tinh thần của Đạo giáo là do triều đình tứ phong ư? Đạo là sáng tạo chính khí và công lý trong trời đất, Đạo là ở lòng người! An Thanh Nguyên, tên cẩu quan nhà ngươi làm mất hết mặt mũi của Thiên Sư đạo rồi!”
Nói dứt lời, ông ta xông tới Ngũ tinh thức thần và trường kiếm của An Thanh Nguyên, đồng thời rút từ sau lưng ra một cây dù Thiên Vương còn cao hơn người, chiếc dù mở ra đánh bay đòn tấn công của Ngũ tinh thức thần, rồi lập tức khép lại, Trương Bồi Nguyên một tay cầm dù hết sức nhẹ nhàng, đâm về phía An Thanh Nguyên, hướng đâm không ngờ lại hệt như đường kiếm của An Thanh Nguyên, cũng không chút khách khí nhắm vào cổ họng của kẻ địch.
Có câu dài một phân là mạnh một phân, trường kiếm của An Thanh Nguyên làm sao có thể so chiều dài với dù Thiên Vương, mũi nhọn của chiếc dù đâm tới cổ họng, anh ta không thể đỡ cũng không thể gạt, chỉ đành lách người né tránh. An Thanh Nguyên nghiêng đầu để mũi dù đâm qua, rồi xoay người lách ra phía sau lưng Trương Bồi Nguyên, định vượt qua ông ta xông vào sâu trong phủ Thiên Sư .
Trương Bồi Nguyên đứng ở đây chính là để ngăn cản mấy kẻ xâm nhập này, sớm đã bất chấp tất cả, dùng phương pháp đóng cửa đánh chó để giải quyết, làm sao có thể để anh ta dễ dàng vượt qua như thế? Ông ta vung dù Thiên Vương xòe ra ném về phía bốn người bọn Hotta Masayoshi, chiếc dù xoay tròn như một bánh xe khổng lồ cắt về bốn người Nhật Bản, còn bản thân ông ta lại nhảy lên không trung, tay kia điểm về phía An Thanh Nguyên, quát lớn: “Định!”, một lá bùa vàng nhanh chóng bay tới sau lưng An Thanh Nguyên.
An Thanh Nguyên sớm đã đoán được sẽ có chiêu này, xoay người phóng ra một luồng kiếm khí bắn vào lá bùa màu vàng. Bùa giấy bị đánh nát thành một đốm hoa lửa, đà phóng đi của anh ta vẫn không dừng lại, nhưng chợt đụng mạnh vào một bức tường đá. Thì ra bùa định thân của Trương Bồi Nguyên chỉ là hư chiêu, mục đích thực sự của ông ta là đánh lạc hướng chú ý của An Thanh Nguyên, hòng thi triển thuật vây khốn của Thiên Sư đạo, Minh Lao chú.
An Thanh Nguyên đưa tay rờ thử thấy tường đá băng lạnh như sắt, ngoảnh đầu nhìn lại, bức tường đã kéo dài ra hình thành nên một nhà ngục bằng đá hình tròn, Trương Bồi Nguyên đang bắt lấy dù Thiên Vuơng bay trở về tay, quét mạnh về phía Miyabe Ryokura. An Thanh Nguyên sực hiểu ra, đối thủ của anh ta đã không còn quan tâm đến tước vị hay sinh tử, mà muốn rửa sạch sự sỉ nhục của hoàng đế Đạo Quang đối với Thiên Sư đạo, cuộc chiến mà anh ta đang phải đối mặt cũng không còn là cuộc chiến tranh đoạt Long Quyết nữa, mà là sự tranh đấu giữa triều đình Đại Thanh và Thiên Sư đạo…
Trương Bồi Nguyên vừa xông ra khỏi điện Ngọc Hoàng, Trì Tú liền dẫn theo An Long Nhi và Tôn Tồn Chân định rời phủ Thiên Sư theo lối cửa sau, nhưng mới chạy được vài bước, đã nghe ở đằng sau vẳng lại tiếng con Đại Hoa Bối sủa, vừa nghe tiếng, hai người biết ngay nhất định có kẻ lạ mặt tiếp cận vườn sau của phủ Thiên Sư. Vì cửa ngách của phủ Thiên Sư không phải ở vườn sau, rõ ràng là có kẻ cố tình vòng qua vườn sau, mới bị Đại Hoa Bối phát hiện.
Trì Tú không hề biết tiếng chó sủa bên ngoài tường có ý nghĩa gì, nhưng bọn họ lập tức hiểu ra ngay, vì trước mặt đột nhiên xuất hiện hơn hai chục người áo đen bịt mặt, chia thành ba nhóm trái, phải, giữa, ba người đi đầu tiên hai tay cầm trường đao, những người phía sau toàn bộ đều cầm câu liêm, cán câu liêm nối với một sợi xích sắt dài, đầu bên kia còn đeo một quả chùy sắt nhỏ. Ba tên bịt mặt đi đầu lẳng lặng vung đao lên chém về phía ba người họ. Trì Tú giương cung lắp tên, quát hỏi một câu: “Các ngươi là ai?”
Lời còn chưa dứt, đối phương đã xông tới trước mặt, Trì Tú đành phải buông dây cung bắn tên ra, nhưng đối phương tránh né nhanh nhẹn lạ thường, vừa tránh được tên, hai tay đã vung trường đao từ dưới đất hất ngược lên chém xéo về phía Trì Tú. Trì Tú bước chéo một bước né đi, tên bịt mặt lập tức vọt qua sau lưng anh ta, mấy tên cầm câu liêm phía sau lại đánh tới. Kiểu tấn công liên hoàn không gián đoạn này khiến người chỉ được tập luyện đơn đả độc đấu trong thời gian dài như Trì Tú luống cuống tay chân, ra sức né tránh, chỉ biết vung cây cung lên quật loạn xạ đón đỡ đòn tấn công dồn dập của kẻ địch, song trên người vẫn bị chém trúng năm sáu nhát.
An Long Nhi nhớ ra Miyabe Ryokura từng kể với nó về loại người có bộ dạng thế này cùng với những thứ binh khí kỳ quái trước mặt, bèn lớn tiếng kêu lên: “Cẩn thận! Bọn chúng là ninja Nhật Bản, toàn bộ đều là thích khách!” Lời vừa mới dứt, ở cửa điện Hồ Tiên và cục Pháp Lục đã có rất nhiều đạo sĩ chạy ra trợ chiến, bọn họ kêu to: “Đạo huynh tránh ra, bắn tên!” An Long Nhi, Tôn Tồn Chân và Trì Tú xoay người chạy về phía điện Hồ Tiên, cung tên của các đạo sĩ nhắm ra rất chuẩn xác, tất cả đều lướt qua bên cạnh ba người nhắm về đám ninja. Nhưng giữa đám ninja đột nhiên bùng lên một tia sáng chói mắt, trong khoảnh khắc các đạo sĩ nhắm mắt lại, một nhóm ninja đã nhảy lên nóc điện Giáp Tý, một nhóm khác tấn công về phía cửa cục Pháp Lục, còn nhóm thứ ba thì trực chỉ điện Hồ Tiên mà bọn An Long Nhi đang lùi về.
Thì ra hai mươi mấy tên ninja này chính là quân đoàn Nhật Bản vượt biển đến Trung Quốc để giết chết Hotta Masayoshi. Vì ở Nhật Bản, Hotta Masayoshi có sức ảnh hưởng chính trị đặc biệt trong chính quyền Mạc Phủ, phái bảo thủ trong Mạc Phủ đã quyết tâm ám sát ông ta, vì vậy dù bọn Hotta Masayoshi chỉ có bốn người, nhưng kẻ phía sau bức màn đã dùng rất nhiều vàng bạc mời ninja dạn dày kinh nghiệm chiến trường trà trộn vào Trung Quốc, tiến hành truy sát nhà Hotta Masayoshi không ngừng nghỉ.
Khi bốn người nhà Hotta Masayoshi ẩn náu trong chùa Tịnh Cư, ninja đích thực đã để mất dấu bọn họ, nhưng hai tháng sau, chúng lại phát hiện ra nhà Hotta Masayoshi và quan binh Đại Thanh cùng đến núi Long Hổ. Năng lực lần theo dấu vết của đám ninja này cao hơn mấy kẻ tiêu cục chểnh mảng như Đặng Nghiêu nhiều. Bọn họ sớm đã nhận ra Lục Kiều Kiều và An Long Nhi tách ra hai đường đồng thời, khi giám sát ở cung Đại Thượng Thanh, qua đoạn đối thoại giữa Lục Kiều Kiều và An Thanh Nguyên, họ biết được trận huyết chiến này là vì một quyển sách phong thủy thần bí tên là Long Quyết. Yamashita Hagakure không ngăn được hứng thú với thứ bảo vật tầm cỡ này, đầu Hotta Masayoshi tuy đáng tiền, nhưng dẫu sao cũng chỉ hữu hạn, mà Long Quyết lại là bảo vật không thể dùng tiền bạc đong đếm được. Yamashita Hagakure không phải võ sĩ thuộc quyền ai, ninja chỉ trung thành với bản thân họ, nhiệm vụ của chủ thuê phải hoàn thành, mà thứ mình muốn cũng nhất định phải về tay, thế nên sau khi tiềm phục đợi được thời cơ thích hợp nhất, Yamashita Hagakure liền quyết đoán ra tay.
Đám ninja nhảy xuống khỏi nóc điện Giáp Tý ném về phía các đạo sĩ bên dưới một loạt phi tiêu, những phi tiêu hình chữ thập này đánh bay các mũi tên bay tới, đồng thời cũng bắn về những người phát tên, các đạo sĩ không tránh né kịp lần lượt ngã xuống, những người tránh được phi tiêu lập tức đỡ đồng bọn bị thương lùi lại.
Cục Pháp Lục là nơi cất giữ kinh điển đạo gia và hồ sơ giấy tờ, bên trong chỉ không có Trảm long quyết, còn lại toàn là bảo thư bí điển, vì vậy các đạo sĩ trong điện đều liều chết tử thủ. Mấy đạo sĩ đứng sau cửa cục Pháp Lục xông lên đóng cửa lớn lại, cắt đôi đội hình của đám ninja tấn công vào điện, chỉ có mấy tên xông được vào, xem ra bên trong cũng khó tránh khỏi một trường ác đấu.
Thủ lĩnh của đám ninja Yamashita Hagakure hiểu rất rõ, đối với ninja, đạo lý duy nhất chính là trực tiếp đạt được mục đích, ở nơi này chỉ có một người duy nhất mang Long Quyết mà thôi. Nghĩ vậy y bổ thẳng tới chỗ An Long Nhi. Nhân lúc tia sáng bùng lên, y nhảy tới trước mặt An Long Nhi chém xả một đao, chợt thấy An Long Nhi cầm một cây gậy ngắn bằng gỗ đen, trong khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi nó đã giơ ngón tay lên vạch vào cây gậy một đạo phù ấn, sau đó dùng cả hai tay vung gậy lên cũng chém bổ vào mặt mình.
Đao của Yamashita Hagakure chém vào đầu An Long Nhi theo phương từ trên xuống, Lôi thích của An Long Nhi cũng ép sát vào lưỡi đao của kẻ địch theo phương từ trên xuống dưới, nhìn từ bên cạnh thì thấy hai người đều dùng một chiêu thức giống nhau, nhưng thực ra, phương hướng công kích và lực đạo lại khác hẳn. Chiêu này tuyệt đối không phải là võ thuật Trung Quốc, đao của Yamashita Hagakure đã bị An Long Nhi khéo léo đẩy lệch đi nửa phân, đao chém xuống nhưng không trúng bất cứ thứ gì, ngược lại còn bị Lôi thích của An Long Nhi đè lên trên. Yamashita Hagakure thấy đao thế đã đứt, đang định nhấc đao lên tiếp tục tấn công, Lôi thích của An Long Nhi đã nương thế hất lên đâm vào cổ họng y, y hét lớn một tiếng, chiêu thức của Kiếm Hào Cực chỉ có ở bản thổ Nhật Bản, tại sao lại xuất hiện trên người một thằng nhóc tóc vàng ở vùng núi Trung Quốc này được chứ?
Chiêu thức đã bị chiếm mất tiên cơ, lùi lại chỉnh đốn rồi tái chiến là chiến thuật tốt nhất, Yamashita Hagakure đột nhiên lùi nhanh một bước né tránh, nhưng An Long Nhi đã liên tiếp bước lên, hai tay giơ Lôi thích chém xả xuống. Những đòn tấn công này không thể trảm sát được Yamashita Hagakure, nhưng lại khiến y phát hiện ra cây gậy bằng gỗ đen kia cứng rắn như gậy sắt, lực đạo và tốc độ chém xuống đều đạt tới cực hạn mà y có thể chống đỡ, đây là do võ công của thằng nhóc này cao cường, hay có liên quan đến cây gậy gỗ đen trong tay nó? Nếu là lý do thứ hai, vậy thì cây gậy này cũng là một bảo vật hiếm có. Lôi thích và Long Quyết đều hấp dẫn lòng tham của Yamashita Hagakure, đồng thời trong lúc chiến đấu y cũng biết được nguồn gốc của những chiêu thức này, y vừa chống đỡ vừa lùi lại, cùng lúc lớn tiếng hét: “Giết thằng lỏi tóc vàng này trước, kiếm thuật của nó là của phái Shinto Munen (Thần Đạo Vô Niệm lưu), nó là người nhà Hotta!”
Câu nói này đã định tính cho An Long Nhi, nếu giết được An Long Nhi, vừa có thể tính là giết chết một gia thần nhà Hotta, lại có thể đoạt được Long Quyết, chuyện một hòn đá ném chết hai con chim này, bất cứ tên ninja nào cũng sẽ dốc toàn lực thực hiện. Vả lại, bọn họ sớm đã biết chuyện Hotta Masayoshi đến Trung Quốc cầu sách, nếu để ông ta có được Long Quyết trong tay, há sẽ chẳng phải hỏng hết mọi chuyện hay sao? Vì vậy, đám ninja vừa nghe thấy Yamashita Hagakure nói, lập tức quay hết mũi giáo chĩa về phía An Long Nhi, từ bốn phương tám hướng tràn tới như nước thủy triều.
An Long Nhi đã không còn là đứa trẻ chỉ biết dùng thể lực chiến đấu như ngày trước nữa, nó dùng Đại Minh Thần hỏa ấn vừa học được khi nãy truyền công lực vào Lôi thích, cây gậy gỗ trên tay nó nhẹ như cán trúc, nhanh như tia chớp, triển khai một cuộc chiến công phòng không ai có thể xen vào với Yamashita Hagakure. Nhưng Yamashita Hagakure là cao thủ ninja được người ta dùng rất nhiều vàng bạc thuê đến Trung Quốc giết người, sở hữu thực lực và võ nghệ cao nhất quân đoàn ninja, y sao có thể bị thực lực của An Long Nhi áp đảo? Mới đầu y liên tiếp thoái lui, chẳng qua chỉ là phương pháp hóa giải cao minh trong lúc trở tay không kịp mà thôi, sau mười mấy chiêu, Yamashita Hagakure đã khống chế ngược lại tiết tấu công kích của đối phương…
Tôn Tồn Chân và An Long Nhi vừa rút vào điện Hồ Tiên, Yamashita Hagakure liền quấn lấy An Long Nhi, hai người lập tức triển khai tấn công phòng thủ dồn dập như bánh xe lửa, ngay cả Tôn Tồn Chân cũng không có cách nào xen vào giữa, nhưng y lại có thể nắm được toàn bộ hành tung của đám ninja còn lại. Phía sau Yamashita Hagakure là hơn hai mươi tên cầm câu liêm gắn xích chờ thời cơ công kích, có điều, mỗi hành vi của hơn hai mươi tên này đều không thoát khỏi thiên nhãn của y. Y giương côn cản ở phía sau điện Hồ Tiên, chặn đám ninja bên ngoài. Đám ninja không ngừng dùng phi tiêu, câu liêm, cũng như trực tiếp tiến công vào Tôn Tồn Chân, nhưng đều bị cây côn bọc kim loại và côn pháp Đại Thánh Thiên mô côn đánh lùi, chốc chốc lại có ninja trúng côn tử thương ngã xuống trước mặt họ Tôn, chẳng mấy chốc, dưới chân y đã chất thêm năm cái xác ninja.
Điện Hồ Tiên không rộng lắm, An Long Nhi tung người lên chủ động nhảy xuống lối vào mê cung dưới lòng đất, nó biết mê cung này được bố trí theo lộ tuyến của bộ pháp Tam nương phu nhân, một tên ninja Nhật Bản rất có thể chưa từng học qua các bộ pháp phức tạp của Đạo giáo, kể cả hắn có trông thấy đồ hình bộ pháp Bát Quái Tam Nương phía trước mê cung thì cũng chưa chắc đã hiểu được gì, càng không nói tới chuyện có thể dựa theo đồ án ấy mà ra khỏi mê cung. An Long Nhi tâm ý đã quyết, liền dẫn dụ Yamashita Hagakure nhanh chóng quay lại mê cung.
Vượt qua gian sảnh trên sàn có khắc hình bát quái, An Long Nhi không kịp tìm kiếm cửa vào mê cung, mà nhảy luôn qua lỗ thủng trên tường do Tôn Tồn Chân dùng côn khoét để tiến vào. Yamashita Hagakure quả nhiên đuổi riết không buông, cũng nhảy vào theo nó. Y đuổi theo qua ba lỗ thủng trên tường, rồi lại qua hai cánh cửa lật, rốt cuộc cũng nhận ra âm mưu của thằng bé tóc vàng này, y đã lọt vào một mê cung tăm tối, xung quanh chỉ có những gian phòng gạch đỏ bốn phía đều không có cửa nẻo gì, bất luận thế nào cũng không thể đi ra được.
Mặc dù đang chiến đấu kịch liệt với quân đoàn ninja, song Tôn Tồn Chân cũng nhận ra An Long Nhi cố ý dẫn dụ Yamashita Hagakure vào mê cung. Y lập tức cảm thấy có vấn đề: đó là một mê cung phức tạp, ngay cả la bàn cũng không phân định được phương hướng; An Long Nhi dẫn dụ kẻ địch vào đó là hành vi thông minh, nhưng bản thân nó liệu có thể ra khỏi nơi đó hay không? An Long Nhi cần có y phối hợp, y không nghĩ ngợi nhiều nữa, lộn ngược một vòng trên không trung về phía điện Hồ Tiên, rồi cũng lao xuống mê cung. Đám ninja đối thủ của y chỉ còn chưa đầy hai chục tên, nhưng tên nào tên đó đều hăng hái đuổi theo Tôn Tồn Chân xuống dưới.
Các đạo sĩ đang phối hợp với Tôn Tồn Chân tác chiến trên mặt đất, phát hiện đám ninja thình lình chuyển hướng một cách kỳ lạ, đồng thời nhận ra trong điện Hồ Tiên mà ngày ngày mình vẫn đi qua không ngờ lại có một cánh cửa ngầm lớn thông xuống lòng đất. Tất cả tuy rằng hết sức kinh ngạc, song cũng không chút do dự đuổi theo xuống mê cung, vì bọn họ đều hiểu rất rõ rằng, nơi đám ninja tấn công vào, nhất định là có thứ chúng muốn nhất. Bảo vệ phủ Thiên Sư, giết hết lũ ninja như đám cường bạo xâm nhập kia, là chức trách của mỗi đạo sĩ nơi này.
Danh sách chương