--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ --------
Hai tuần sau khi rời khỏi vùng lân cận Va-đi Han-pha, đoàn người đi vào khu vực bị Ma-hơ-đi chiếm. Họ vượt qua sa mạc đầy đồi núi Ghê-đi-re ở gần Khen-đi, nơi trước đó người Anh đã tiêu diệt không còn một mảnh giáp quân của Mu-xa U-le đi He-lu, và tiến vào vùng đất hoàn toàn không còn giống gì với sa mạc nữa. Nơi đây không thấy có cát và những lở tích. Nhìn đến hút tầm mắt là thảo nguyên mênh mông, một phần phủ đầy cỏ xanh tươi, một phần là rừng rậm, trong đó mọc những bụi keo gai góc, loài cây cung cấp thứ nhựa Xu-đan nổi tiếng. Đây đó nổi lên những cây na bắc đơn độc khổng lồ, tán xoè rộng đến nỗi dưới mỗi tán cây khoảng một trăm người có thể nấp tránh nắng mặt trời. Thỉnh thoảng cả đoàn lại đi ngang qua những tổ mối cao giống như những chiếc cột, những tổ mối này trải đầy trên toàn bộ vùng nhiệt đới Phi châu.
Màu xanh của thảm cỏ và những cây xiêm gai dịu dàng mơn trớn mắt nhìn, sau màu cát đơn điệu và cằn úa của sa mạc.
Tại những đồng cỏ ở bình nguyên hàng đàn lạc đà đang gặm cỏ dưới sự canh giữ của những toán lính có vũ trang của Ma-hơ-đi.
Nhìn thấy đoàn người, chúng liền bật dậy như những con chim ăn thịt, lao tới phía họ, bao vây họ tứ phía, và vừa múa tít giáo, vừa hét lên ghê người, vừa căn vặn xem họ là ai, tại sao kéo từ phía Bắc xuống và định đi đâu. Nhiều khi, bọn chúng trông thật là dữ tợn đến nỗi I-đrix phải vội vội vàng vàng trả lời ngay những câu hỏi để khỏi bị tấn công.
Vốn hình dung rằng các cư dân Xu-đan chỉ khác với tất cả những chủng người Ả Rập khác sinh sống tại Ai Cập mỗi một điểm là họ tin vào Ma-hơ-đi và không muốn thừa nhận chính quyền của phó vương, giờ đây Xtas mới thấy rằng em nhầm hoàn toàn.
Những người giờ đây cứ chốc chốc lại giữ cả đoàn lại, đại đa số đều có nước da sẫm hơn I-đrix và Ghe-bơ-rơ, còn so với hai tên Bê-đu-in thì da họ gần như màu đen. Trong người họ dòng máu da đen có ưu thế hơn dòng máu Ả Rập. Mặt mũi và ngực của họ đều được xăm chàm, những hình xăm đủ loại, hoặc là những câu kinh Co-ran.
Một số người gần như hoàn toàn ở trần, những người khác mặc diuby, tức là tấm choàng bằng vải bông trắng có may đính những tấm trang trí nhiều màu. Nhiều người có cài một nhánh san hô hoặc một mẩu ngà voi ngang qua lỗ mũi, qua môi hoặc dái tai. Các thủ lĩnh đội mũ tròn không lưỡi trai màu trắng cũng bằng thứ vật liệu như các tấm choàng, những chiến sĩ thường thì để đầu trần nhưng không cạo trọc như người Ả Rập ở Ai Cập, mà ngược lại, đầu họ mọc đầy tóc xoăn xoăn thường ngả màu đỏ do bị nhuộm vôi mà họ thường bôi để chống chấy. Vũ khí của họ chủ yếu là giáo, thứ vũ khí rất kinh khủng khi nằm trong tay họ, song cũng không thiếu súng trường Rê-ming-tơn mà họ đã thu được trong những cuộc chiến đấu với quân Ai Cập và sau trận hạ thành Khác-tum. Nói chung trông họ thật hãi hùng và cách đối xử với đoàn người đầy thù địch và họ cho rằng đoàn người này gồm các thương nhân Ai Cập, những kẻ mà lúc đầu, ngay sau trận chiến thắng, Ma-hơ-đi đã cấm không cho vào Xu=đan.
Thông thường, họ bao vây đoàn người, và trong tiếng ồn ào hỗn loạn xen lẫn những lời doạ nạt, họ gí giáo vào ngực mọi người hoặc nhằm súng vào họ, khiến cho gã I-đrix vội vàng kêu lên rằng hắn và em trai hắn thuộc về bộ tộc Dan-gan của chính đức Ma-hơ-đi, rằng chúng đang mang bọn trẻ con da trắng làm nô lệ đến nộp cho Đấng tiên tri. Chỉ mỗi một điều ấy thôi mới có thể khiến cho các ngọn giáo không làm chuyện dữ. Xtas, ngay sau khi được tiếp xúc với cái thực tế đầy kinh hoàng này, tê tái cả lòng khi nghĩ tới những gì đang chờ đợi cả hai đứa trong những ngày sắp tới, còn I-đrix, kẻ trước đó đã sống những năm dài trong một nước văn minh, cũng không hề tưởng tượng đến một chuyện như thế này bao giờ. Do vậy, hắn rất vui sướng, khi vào một buổi chiều kia, một đơn vị vũ trang của viên êmia Nu-rơ En Ta-thin đón cả đoàn dẫn về Khác-tum.
Trước khi chạy đến với Ma-hơ-đi, Nu-rơ En Ta-thin vốn là một sĩ quan quân đội Ai Cập thuộc trung đoàn da đen của phó vương, nên y không hoang dã như những tín đồ khác của Ma-hơ-đi và I-đrix có thể nói chuyện được với y một cách dễ dàng hơn. Nhưng ngay cả ở đây nữa, hắn cũng thất vọng. Hắn cứ tưởng rằng việc hắn mang bọn trẻ da trắng tới trại của Ma-hơ-đi sẽ gây nên một sự kinh ngạc, dù chỉ là vì những gian khó kinh khủng và nỗi nguy hiểm của con đường mà hắn đã trải qua. Hắn tưởng rằng bọn tín đồ của Ma-hơ-đi sẽ nhiệt tình đón tiếp hắn với cánh tay dang rộng, sẽ hộ tống hắn trong một cuộc ca khúc khải hoàn đến bệ kiến Đấng tiên tri, và Người sẽ rắc vàng và những lời khen ngợi lên đầu hắn, một con người đã không ngần ngại đến tính mạng để phục vụ cho bà Phát-ma, em họ của Người. Trong khi đó thì bọn tín đồ Ma-hơ-đi lại thọc giáo kề tận ngực những người trong đoàn, còn Nu-rơ En Ta-thin thì nghe một cách hững hờ câu chuyện cuộc hành trình của hắn, và cuối cùng, khi bị hỏi rằng y có quen biết Xmai-nơ, chồng của bà Phát-ma hay không, y đáp lại:
- Không, ở Om-đu-a-man và Khác-tum hiện nay có tới trên một trăm nghìn chiến hữu, nên chẳng dễ gặp nhau đâu, và không phải mọi sĩ quan đều quen biết nhau cả. Quốc gia của Đấng tiên tri thật bao la, do vậy nhiều vị emia hiện đang phải cai trị những thành phố xa xôi, ở Xen-na-ra, ở Coóc-đô-phan, Đác-phua và vùng lân cận Pha-sô-đa. Rất có thể là cái ông Xmai-nơ nào đó mà nhà anh hỏi, hiện nay không có mặt bên cạnh Đấng tiên tri đâu.
I-đrix hơi bị phật ý vì kiểu nói coi thường của Nu-rơ khi nói đến “cái ông Xmai-nơ nào đó”, bèn đáp lại bằng một giọng hơi nóng nảy:
- Ngài Xmai-nơ lấy em con cô của Đức Ma-hơ-đi,nên con cái của ngài là họ hàng của Đấng tiên tri đấy.
Nu-rơ En Ta-thin nhún vai:
- Đức Ma-hơ-đi có nhiều bà con họ hàng nên không thể nhớ tất cả mọi người được.
Chúng đi một lúc lâu trong im lặng, rồi I-đrix lại hỏi:
- Bao lâu nữa thì chúng ta tới Khác-tum? - Trước nửa đêm. - Ta-thin vừa đáp vừa ngắm các vì sao đang hiện dần ở phương Đông của bầu trời.
- Liệu vào cái lúc khuya khoắt như thế tôi có thể tìm được thức ăn và lương thực cho gia súc hay không? Từ lúc nghỉ trưa tới giờ chúng tôi chưa có miếng nào vào bụng cả...
- Hôm nay tôi sẽ cho các anh ăn và ngủ qua đê mở nhà tôi, nhưng ngày mai, đến Om-đu-a-man, anh phải ráng mà kiếm lấy cái ăn, và tôi có thể nói trước với anh là chuyện đó không dễ đâu.
- Vì sao vậy?
- Vì đang chiến tranh mà. Từ mấy năm nay người ta không gieo cấy mà chỉ sống bằng thịt, nên một khi súc vật thiếu đi thì cái đói tới liền. Hiện nay toàn bộ miền Xu-đan đang bị đói, một bì ngô còn đáng giá hơn một tên nô lệ đấy.
- Lạy đức A-la! - I-đrix sửng sốt thốt lên. - Nhưng tôi trông thấy trên thảo nguyên hàng đàn gia súc và lạc đà kia mà.
- Những cái đó thuộc về Đấng tiên tri, thuộc về những người “cao quý” và thuộc về các ca-líp...
Phải... Những người Dan-gan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Ma-hơ-đi, và những người Bag-ga-rơ, mà thủ lĩnh của họ là ngài Áp-đu-la-hi, có những đàn gia súc đông đảo, còn những bộ lạc khác thì ngày càng khó sống trên đời này.
Nói tới đây, Nu-rơ En Ta-thin vỗ vỗ vào dạ dày và tiếp:
- Đi phục vụ Đấng tiên tri, tôi có chức tước cao hơn, nhiều tiền hơn, nhiều quyền bính hơn, nhưng khi phục vụ cho phó vương thì bụng tôi lại to hơn...
Song chợt nhận thấy mình đã nói hơi nhiều, y liền nói thêm sau một lúc im lặng:
- Nhưng mọi chuyện đó rồi cũng sẽ qua cả thôi, khi có lòng tin vào chiến thắng.
Nghe thấy những lời đó, I-đrix chợt nghĩ rằng, dù sao hồi ở Phai-um, khi phục vụ những người Anh, hắn cũng chưa bao giờ biết đói là gì và thật dễ kiếm tiền, thế là hắn trở nên buồn bã.
Sau đó hắn hỏi tiếp:
- Thế ngày mai ông đưa chúng tôi tới Om-đu-a-man chứ?
- Phải. Theo lệnh của Đấng tiên tri, Khác-tum cần phải bỏ trống nên hiện có rất ít người ở tại đó. Hiện nay người ta đã phá vỡ những ngôi nhà lớn rồi chở gạch ngói cùng các thứ của cải khác đi Om-đu-a-man. Đấng tiên tri không muốn sống ở cái thành phố đã bị bọn vô đạo làm ô uế.
- Ngày mai tôi sẽ rập trán trước Người, Người sẽ ra lệnh cấp thức ăn và lương thực gia súc cho tôi.
- Ha! Nếu như quả thực anh thuộc về bộ tộc Dan-gan thì có thể anh sẽ được phép vào yết kiến Người. Nhưng anh hãy biết cho rằng ngày cũng như đêm có một trăm người cầm roi túc trực canh ngôi nhà của Người và họ không tiếc đòn roi đối với những kẻ nào không được phép mà lại muốn vào yết kiến Ma-hơ-đi đâu. Nếu không thì người ta chẳng khi nào để cho Người có một phút giây ngơi nghỉ... Lạy đức A-la! Tôi cũng đã từng thấy cả những người Dan-gan mang những lằn roi trên lưng.
I-đrix mỗi lúc một thêm thất vọng.
- Thế có nghĩa là, - y hỏi, - tín đồ không được trông thấy Đấng tiên tri hay sao?
- Tín đồ trông thấy Người hàng ngày trên quảng trường cầu nguyện, khi Người quỳ trên tấm da cừu giơ tay lên cầu Thượng đế, hay khi Người răn dạy mọi người giữ lòng tin chân chính. Nhưng được đến gần Người và được nói chuyện với Người là việc rất khó.
Ai đạt được phúc đó đều bị mọi người ghen tị, vì như thế nghĩa là ân phước của Thượng đế đã được ban phát xuống cho người đó, xoá sạch mọi tội lỗi trước kia của hắn.
Đêm đã đi vào chiều sâu, và cùng với đêm, cái lạnh thấm da thấm thịt cũng tràn về. Trong hàng người vang lên những tiếng kêu rừ rừ của ngựa, bước chuyển từ cái nóng bức ban ngày vào cái lạnh ban đêm mạnh và đột ngột đến nỗi da ngựa bốc hơi nghi ngút, khiến đoàn người như đi trong một đám sương mù. Ngồi sau lưng I-đrix, Xtas nghiêng người sang Nen hỏi:
- Em có lạnh không, em?
- Không. - Cô bé đáp. - Nhưng... thế là chẳng còn có ai che chở chúng mình nữa... Và nước mắt khiến cho lời nói của cô bé tắt nghẹn.
Lần này, Xtas không thể tìm ra cho cô bé được một lời an ủi nào vì chính em cũng tin rằng, thế là không còn có cách nào cứu được chúng nữa. Cả hai đã đi vào một nước bần hàn, đói rách, đất nước của những sự dã man thú vật, đất nước của máu đỏ. Chúng giống như hai chiếc lá nhỏ nhoi giữ a cơn bão tố, cơn bão ấy không những chỉ mang cái chết và sự tàn phá gieo rắc cho những mái đầu đơn côi mà còn cho cả các thành phố, các bộ tộc. Bàn tay nào có thể giằng chúng ra khỏi cơn bão táp ấy và cứu lấy hai đứa trẻ nhỏ bé, không ai che chở?
Trăng đã lên cao trên bầu trời, khiến những cành hoa trinh nữ và xiêm gai hoá thành những chùm lông vũ bằng bạc. Đây đó, từ trong rừng thẳm vang lên tiếng cười rùng rợn nghe như vui sướng của loài linh cẩu, bởi trong vùng đất đẫm máu này chúng tìm được quá nhiều thây người. Thỉnh thoảng đơn vị đưa đoàn đi lại chạm trán với các toán lính tuần phòng khác và trao đổi mật khẩu với nhau. Cuối cùng họ đi tới những dãy núi ven bờ sông và qua một hẻm núi dài họ tới được sông Nin. Người, ngựa, lạc đà bước lên một chiếc thuyền rộng, đáy bằng, và chẳng bao lâu sau, những chiếc mái chèo bắt đầu đều đều phá vỡ mặt sông êm đềm trải đầy bóng sao lung linh.
Sau nửa giờ, về phía Nam, phía những chiếc thuyền đi ngược nước đang hướng tới, bừng lên những ánh lửa sáng, và khi các con thuyền tiến lại gần, chúng hoá thành những chùm sáng đỏ trên mặt nước. Nu-rơ En Ta-thin chạm vào tay I-đrix, rồi chỉ ra phía trước nói:
- Khác-tum.
Hai tuần sau khi rời khỏi vùng lân cận Va-đi Han-pha, đoàn người đi vào khu vực bị Ma-hơ-đi chiếm. Họ vượt qua sa mạc đầy đồi núi Ghê-đi-re ở gần Khen-đi, nơi trước đó người Anh đã tiêu diệt không còn một mảnh giáp quân của Mu-xa U-le đi He-lu, và tiến vào vùng đất hoàn toàn không còn giống gì với sa mạc nữa. Nơi đây không thấy có cát và những lở tích. Nhìn đến hút tầm mắt là thảo nguyên mênh mông, một phần phủ đầy cỏ xanh tươi, một phần là rừng rậm, trong đó mọc những bụi keo gai góc, loài cây cung cấp thứ nhựa Xu-đan nổi tiếng. Đây đó nổi lên những cây na bắc đơn độc khổng lồ, tán xoè rộng đến nỗi dưới mỗi tán cây khoảng một trăm người có thể nấp tránh nắng mặt trời. Thỉnh thoảng cả đoàn lại đi ngang qua những tổ mối cao giống như những chiếc cột, những tổ mối này trải đầy trên toàn bộ vùng nhiệt đới Phi châu.
Màu xanh của thảm cỏ và những cây xiêm gai dịu dàng mơn trớn mắt nhìn, sau màu cát đơn điệu và cằn úa của sa mạc.
Tại những đồng cỏ ở bình nguyên hàng đàn lạc đà đang gặm cỏ dưới sự canh giữ của những toán lính có vũ trang của Ma-hơ-đi.
Nhìn thấy đoàn người, chúng liền bật dậy như những con chim ăn thịt, lao tới phía họ, bao vây họ tứ phía, và vừa múa tít giáo, vừa hét lên ghê người, vừa căn vặn xem họ là ai, tại sao kéo từ phía Bắc xuống và định đi đâu. Nhiều khi, bọn chúng trông thật là dữ tợn đến nỗi I-đrix phải vội vội vàng vàng trả lời ngay những câu hỏi để khỏi bị tấn công.
Vốn hình dung rằng các cư dân Xu-đan chỉ khác với tất cả những chủng người Ả Rập khác sinh sống tại Ai Cập mỗi một điểm là họ tin vào Ma-hơ-đi và không muốn thừa nhận chính quyền của phó vương, giờ đây Xtas mới thấy rằng em nhầm hoàn toàn.
Những người giờ đây cứ chốc chốc lại giữ cả đoàn lại, đại đa số đều có nước da sẫm hơn I-đrix và Ghe-bơ-rơ, còn so với hai tên Bê-đu-in thì da họ gần như màu đen. Trong người họ dòng máu da đen có ưu thế hơn dòng máu Ả Rập. Mặt mũi và ngực của họ đều được xăm chàm, những hình xăm đủ loại, hoặc là những câu kinh Co-ran.
Một số người gần như hoàn toàn ở trần, những người khác mặc diuby, tức là tấm choàng bằng vải bông trắng có may đính những tấm trang trí nhiều màu. Nhiều người có cài một nhánh san hô hoặc một mẩu ngà voi ngang qua lỗ mũi, qua môi hoặc dái tai. Các thủ lĩnh đội mũ tròn không lưỡi trai màu trắng cũng bằng thứ vật liệu như các tấm choàng, những chiến sĩ thường thì để đầu trần nhưng không cạo trọc như người Ả Rập ở Ai Cập, mà ngược lại, đầu họ mọc đầy tóc xoăn xoăn thường ngả màu đỏ do bị nhuộm vôi mà họ thường bôi để chống chấy. Vũ khí của họ chủ yếu là giáo, thứ vũ khí rất kinh khủng khi nằm trong tay họ, song cũng không thiếu súng trường Rê-ming-tơn mà họ đã thu được trong những cuộc chiến đấu với quân Ai Cập và sau trận hạ thành Khác-tum. Nói chung trông họ thật hãi hùng và cách đối xử với đoàn người đầy thù địch và họ cho rằng đoàn người này gồm các thương nhân Ai Cập, những kẻ mà lúc đầu, ngay sau trận chiến thắng, Ma-hơ-đi đã cấm không cho vào Xu=đan.
Thông thường, họ bao vây đoàn người, và trong tiếng ồn ào hỗn loạn xen lẫn những lời doạ nạt, họ gí giáo vào ngực mọi người hoặc nhằm súng vào họ, khiến cho gã I-đrix vội vàng kêu lên rằng hắn và em trai hắn thuộc về bộ tộc Dan-gan của chính đức Ma-hơ-đi, rằng chúng đang mang bọn trẻ con da trắng làm nô lệ đến nộp cho Đấng tiên tri. Chỉ mỗi một điều ấy thôi mới có thể khiến cho các ngọn giáo không làm chuyện dữ. Xtas, ngay sau khi được tiếp xúc với cái thực tế đầy kinh hoàng này, tê tái cả lòng khi nghĩ tới những gì đang chờ đợi cả hai đứa trong những ngày sắp tới, còn I-đrix, kẻ trước đó đã sống những năm dài trong một nước văn minh, cũng không hề tưởng tượng đến một chuyện như thế này bao giờ. Do vậy, hắn rất vui sướng, khi vào một buổi chiều kia, một đơn vị vũ trang của viên êmia Nu-rơ En Ta-thin đón cả đoàn dẫn về Khác-tum.
Trước khi chạy đến với Ma-hơ-đi, Nu-rơ En Ta-thin vốn là một sĩ quan quân đội Ai Cập thuộc trung đoàn da đen của phó vương, nên y không hoang dã như những tín đồ khác của Ma-hơ-đi và I-đrix có thể nói chuyện được với y một cách dễ dàng hơn. Nhưng ngay cả ở đây nữa, hắn cũng thất vọng. Hắn cứ tưởng rằng việc hắn mang bọn trẻ da trắng tới trại của Ma-hơ-đi sẽ gây nên một sự kinh ngạc, dù chỉ là vì những gian khó kinh khủng và nỗi nguy hiểm của con đường mà hắn đã trải qua. Hắn tưởng rằng bọn tín đồ của Ma-hơ-đi sẽ nhiệt tình đón tiếp hắn với cánh tay dang rộng, sẽ hộ tống hắn trong một cuộc ca khúc khải hoàn đến bệ kiến Đấng tiên tri, và Người sẽ rắc vàng và những lời khen ngợi lên đầu hắn, một con người đã không ngần ngại đến tính mạng để phục vụ cho bà Phát-ma, em họ của Người. Trong khi đó thì bọn tín đồ Ma-hơ-đi lại thọc giáo kề tận ngực những người trong đoàn, còn Nu-rơ En Ta-thin thì nghe một cách hững hờ câu chuyện cuộc hành trình của hắn, và cuối cùng, khi bị hỏi rằng y có quen biết Xmai-nơ, chồng của bà Phát-ma hay không, y đáp lại:
- Không, ở Om-đu-a-man và Khác-tum hiện nay có tới trên một trăm nghìn chiến hữu, nên chẳng dễ gặp nhau đâu, và không phải mọi sĩ quan đều quen biết nhau cả. Quốc gia của Đấng tiên tri thật bao la, do vậy nhiều vị emia hiện đang phải cai trị những thành phố xa xôi, ở Xen-na-ra, ở Coóc-đô-phan, Đác-phua và vùng lân cận Pha-sô-đa. Rất có thể là cái ông Xmai-nơ nào đó mà nhà anh hỏi, hiện nay không có mặt bên cạnh Đấng tiên tri đâu.
I-đrix hơi bị phật ý vì kiểu nói coi thường của Nu-rơ khi nói đến “cái ông Xmai-nơ nào đó”, bèn đáp lại bằng một giọng hơi nóng nảy:
- Ngài Xmai-nơ lấy em con cô của Đức Ma-hơ-đi,nên con cái của ngài là họ hàng của Đấng tiên tri đấy.
Nu-rơ En Ta-thin nhún vai:
- Đức Ma-hơ-đi có nhiều bà con họ hàng nên không thể nhớ tất cả mọi người được.
Chúng đi một lúc lâu trong im lặng, rồi I-đrix lại hỏi:
- Bao lâu nữa thì chúng ta tới Khác-tum? - Trước nửa đêm. - Ta-thin vừa đáp vừa ngắm các vì sao đang hiện dần ở phương Đông của bầu trời.
- Liệu vào cái lúc khuya khoắt như thế tôi có thể tìm được thức ăn và lương thực cho gia súc hay không? Từ lúc nghỉ trưa tới giờ chúng tôi chưa có miếng nào vào bụng cả...
- Hôm nay tôi sẽ cho các anh ăn và ngủ qua đê mở nhà tôi, nhưng ngày mai, đến Om-đu-a-man, anh phải ráng mà kiếm lấy cái ăn, và tôi có thể nói trước với anh là chuyện đó không dễ đâu.
- Vì sao vậy?
- Vì đang chiến tranh mà. Từ mấy năm nay người ta không gieo cấy mà chỉ sống bằng thịt, nên một khi súc vật thiếu đi thì cái đói tới liền. Hiện nay toàn bộ miền Xu-đan đang bị đói, một bì ngô còn đáng giá hơn một tên nô lệ đấy.
- Lạy đức A-la! - I-đrix sửng sốt thốt lên. - Nhưng tôi trông thấy trên thảo nguyên hàng đàn gia súc và lạc đà kia mà.
- Những cái đó thuộc về Đấng tiên tri, thuộc về những người “cao quý” và thuộc về các ca-líp...
Phải... Những người Dan-gan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Ma-hơ-đi, và những người Bag-ga-rơ, mà thủ lĩnh của họ là ngài Áp-đu-la-hi, có những đàn gia súc đông đảo, còn những bộ lạc khác thì ngày càng khó sống trên đời này.
Nói tới đây, Nu-rơ En Ta-thin vỗ vỗ vào dạ dày và tiếp:
- Đi phục vụ Đấng tiên tri, tôi có chức tước cao hơn, nhiều tiền hơn, nhiều quyền bính hơn, nhưng khi phục vụ cho phó vương thì bụng tôi lại to hơn...
Song chợt nhận thấy mình đã nói hơi nhiều, y liền nói thêm sau một lúc im lặng:
- Nhưng mọi chuyện đó rồi cũng sẽ qua cả thôi, khi có lòng tin vào chiến thắng.
Nghe thấy những lời đó, I-đrix chợt nghĩ rằng, dù sao hồi ở Phai-um, khi phục vụ những người Anh, hắn cũng chưa bao giờ biết đói là gì và thật dễ kiếm tiền, thế là hắn trở nên buồn bã.
Sau đó hắn hỏi tiếp:
- Thế ngày mai ông đưa chúng tôi tới Om-đu-a-man chứ?
- Phải. Theo lệnh của Đấng tiên tri, Khác-tum cần phải bỏ trống nên hiện có rất ít người ở tại đó. Hiện nay người ta đã phá vỡ những ngôi nhà lớn rồi chở gạch ngói cùng các thứ của cải khác đi Om-đu-a-man. Đấng tiên tri không muốn sống ở cái thành phố đã bị bọn vô đạo làm ô uế.
- Ngày mai tôi sẽ rập trán trước Người, Người sẽ ra lệnh cấp thức ăn và lương thực gia súc cho tôi.
- Ha! Nếu như quả thực anh thuộc về bộ tộc Dan-gan thì có thể anh sẽ được phép vào yết kiến Người. Nhưng anh hãy biết cho rằng ngày cũng như đêm có một trăm người cầm roi túc trực canh ngôi nhà của Người và họ không tiếc đòn roi đối với những kẻ nào không được phép mà lại muốn vào yết kiến Ma-hơ-đi đâu. Nếu không thì người ta chẳng khi nào để cho Người có một phút giây ngơi nghỉ... Lạy đức A-la! Tôi cũng đã từng thấy cả những người Dan-gan mang những lằn roi trên lưng.
I-đrix mỗi lúc một thêm thất vọng.
- Thế có nghĩa là, - y hỏi, - tín đồ không được trông thấy Đấng tiên tri hay sao?
- Tín đồ trông thấy Người hàng ngày trên quảng trường cầu nguyện, khi Người quỳ trên tấm da cừu giơ tay lên cầu Thượng đế, hay khi Người răn dạy mọi người giữ lòng tin chân chính. Nhưng được đến gần Người và được nói chuyện với Người là việc rất khó.
Ai đạt được phúc đó đều bị mọi người ghen tị, vì như thế nghĩa là ân phước của Thượng đế đã được ban phát xuống cho người đó, xoá sạch mọi tội lỗi trước kia của hắn.
Đêm đã đi vào chiều sâu, và cùng với đêm, cái lạnh thấm da thấm thịt cũng tràn về. Trong hàng người vang lên những tiếng kêu rừ rừ của ngựa, bước chuyển từ cái nóng bức ban ngày vào cái lạnh ban đêm mạnh và đột ngột đến nỗi da ngựa bốc hơi nghi ngút, khiến đoàn người như đi trong một đám sương mù. Ngồi sau lưng I-đrix, Xtas nghiêng người sang Nen hỏi:
- Em có lạnh không, em?
- Không. - Cô bé đáp. - Nhưng... thế là chẳng còn có ai che chở chúng mình nữa... Và nước mắt khiến cho lời nói của cô bé tắt nghẹn.
Lần này, Xtas không thể tìm ra cho cô bé được một lời an ủi nào vì chính em cũng tin rằng, thế là không còn có cách nào cứu được chúng nữa. Cả hai đã đi vào một nước bần hàn, đói rách, đất nước của những sự dã man thú vật, đất nước của máu đỏ. Chúng giống như hai chiếc lá nhỏ nhoi giữ a cơn bão tố, cơn bão ấy không những chỉ mang cái chết và sự tàn phá gieo rắc cho những mái đầu đơn côi mà còn cho cả các thành phố, các bộ tộc. Bàn tay nào có thể giằng chúng ra khỏi cơn bão táp ấy và cứu lấy hai đứa trẻ nhỏ bé, không ai che chở?
Trăng đã lên cao trên bầu trời, khiến những cành hoa trinh nữ và xiêm gai hoá thành những chùm lông vũ bằng bạc. Đây đó, từ trong rừng thẳm vang lên tiếng cười rùng rợn nghe như vui sướng của loài linh cẩu, bởi trong vùng đất đẫm máu này chúng tìm được quá nhiều thây người. Thỉnh thoảng đơn vị đưa đoàn đi lại chạm trán với các toán lính tuần phòng khác và trao đổi mật khẩu với nhau. Cuối cùng họ đi tới những dãy núi ven bờ sông và qua một hẻm núi dài họ tới được sông Nin. Người, ngựa, lạc đà bước lên một chiếc thuyền rộng, đáy bằng, và chẳng bao lâu sau, những chiếc mái chèo bắt đầu đều đều phá vỡ mặt sông êm đềm trải đầy bóng sao lung linh.
Sau nửa giờ, về phía Nam, phía những chiếc thuyền đi ngược nước đang hướng tới, bừng lên những ánh lửa sáng, và khi các con thuyền tiến lại gần, chúng hoá thành những chùm sáng đỏ trên mặt nước. Nu-rơ En Ta-thin chạm vào tay I-đrix, rồi chỉ ra phía trước nói:
- Khác-tum.
Danh sách chương