– Phim thảm họa.
Cũng không bao lâu sau, tới lượt Lục Lăng Hằng thử vai.
Đây là một bộ phim võ hiệp, niên đại triều nhà Minh, nói về một nhóm hiệp khách võ lâm bị gọi vào triều phân tranh cao thấp. Vào cuối triều nhà Minh, Ngụy Trung Hiền[1] được hoàng đế sủng hạnh, không ít quan viên trong triều phản đối, rất nhiều người muốn lật đổ ông ta. Ngụy Trung Hiền muốn diệt trừ phe đối lập, nhưng không thể quang minh chính đại làm, cho nên phải mượn đến nhân sĩ võ lâm trên giang hồ. Ông ta tìm được một người rất nổi danh trên giang hồ, kiếm khách Bạch Văn Bằng. Thê tử của Bạch Văng Bằng bị bệnh nặng, mà kiếm khách này không có tiền chữa trị cho thê tử, Ngụy Trung Hiền đồng ý chữa trị thật tốt cho vợ y, điều kiện là y giúp ông ta ám sát một viên quan thanh liêm. Bạch Văn Bằng ám sát thành công, kết quả sau khi thành công rồi y cũng bị diệt khẩu. Ngụy Trung Hiền lại phái người đi giết thê tử của y, thê tử của y nghe thấy tin đồn thổi, giao con gái cho một người bằng hữu, còn mình thì tự sát.
Phần tiếp theo câu chuyện là mười mấy năm sau. Con gái của Bạch Văn Bằng đã hai mươi tuổi, chuyên tâm luyện võ ở phái Côn Lôn, định bụng luyện võ công thật giỏi sau đó đi tìm Ngụy Trung Hiền báo thù. Mà viên thanh quan năm đó bị Bạch Văn Bằng giết cũng có một người con trai chừng mười tuổi, sau khi viên thanh quan chết, người cho trai vào Thanh Thành, khổ học võ công phái Thanh Thành, cũng muốn báo thù cho phụ thân, chỉ là y không biết tất cả đều là quỷ kế của Ngụy Trung Hiền. Sau khi Ngụy Trung Hiền giết Bạch Văn Bằng xong đã nói dối là Bạch Văn Bằng sợ tội nên trốn đi, cho nên con trai của viên thanh quan kia muốn tìm Bạch Văn Bằng báo thù cho cha mình.
Hai người con trai và con gái này cũng chính là nam nữ chính trong phim “Đại võ lâm”. Nữ chính còn có một người sư huynh, là một thiếu niên căn chính miêu hồng hiền lành thành thật, toàn tâm toàn ý với nữ chính, chỉ tiếc là nữ chính một lòng muốn báo thù, không hề chú ý tới tình cảm của sư huynh. Lúc này võ lâm tổ chức một đại hội luận võ, người thắng cuộc có thể giành được thanh kiếm độc nhất vô nhị, nghe nói đây là thanh kiếm đệ nhất thiên hạ. Mà thanh kiếm kia chính là bảo kiếm bên người Bạch Văn Bằng, nghe tin này, đương nhiên nam nữ chính muốn đi đoạt kiếm, mà sư huynh giúp đỡ sư muội nên đi cùng, ngoài ra còn có một nữ hiệp giang hồ cũng tới tham dự đại hội luận võ, đây đều là những nhân vật chính trong phim. Tiếp theo câu chuyện là các cảnh tình cảm hiểu lầm tương sát cẩu huyết quen thuộc. (Căn chính miêu hồng: chỉ người kiên quyết, vững vàng)
Nhưng đại hội luận võ này thật ra là âm mưu của Ngụy Trung Hiền. Sau khi hoàng đế Sùng Trinh[2] lên ngôi, địa vị của ông ta bị uy hiếp, ông ta muốn nhân đại hội võ lâm này để chiêu mộ người có thể lợi dụng được.
Kết phim, sư huynh kia chết vì nhân vật nữ chính, nhân vật nữ chính chết, nam chính hiểu được chân tướng cùng nữ thứ hai liên thủ giết Ngụy Trung Hiền, sau đó lang bạt giang hồ.
Đây là một kịch bản tạp bí lù, trước đây lúc Lục Lăng Hằng mới đọc xong kịch bản, trong đầu chỉ có bốn chữ —— không thể tin nổi. Giờ có rất nhiều kịch bản phim, võ hiệp thôi còn chưa đủ, phải pha thêm cung đấu vào, đủ loại linh tinh lang tang nhét vào với nhau, hơn nữa Ngụy Trung Hiền trở thành bia ngắm nhận đủ đạn bom, cái xấu gì cũng nhét vào ông ta. Nhưng với thị trường quốc nội bây giờ, chỉ cần có diễn viên tên tuổi và pha cảnh đẹp, dù cho phim có tệ nữa cũng vẫn hót hòn họt. Bộ phim nói về thuyết âm mưu trong triều đình, nghe có vẻ đao to búa lớn lắm.
Vai mà Lục Lăng Hằng muốn thử là vai con nuôi của Ngụy Trung Hiền, đệ nhất cao thủ thái giám, cảnh của nhân vật này có ba loại, một là đứng bên cạnh làm nền cho Ngụy Trung Hiền, thứ hai là xum xoe bợ đỡ Ngụy Trung Hiền, thứ ba là ngăn cản nam nữ chính, cũng may mắn có một hai pha đánh nhau. Kết cục của nhân vật này là vì cứu Ngụy Trung Hiền mà chết.
Không bao lâu đến lượt anh thử vai.
Lần thử vai này phải mặc trang phục cổ trang, hơn nữa nhân vật này trang điểm đậm, bởi vì là thái giám nên mặt đánh phấn rất trắng, còn kẻ mắt rất đậm. Nhưng nhân vật Uông Lăng này không phải người ẻo lả, y là đệ nhất cao thủ Đông Hán[3], y không phải tỏ vẻ nữ tính mà là thể hiện ra vẻ nhu hòa trung tính.
Lục Lăng Hằng đi vào phòng thử vai, anh vào vị trí, cũng không chào hỏi giám khảo, đứng thẳng lưng, hơi ngước đầu, dùng ánh mắt kiêu căng nhìn lướt qua mọi người.
Vài giám khảo thử vai đều gật đầu.
Tới thử nhân vật Uông Lăng này, có người quá mềm, có người quá cứng, nhưng Lục Lăng Hằng rất vừa đủ. Tuy rằng còn chưa chính thức bắt đầu diễn, nhưng Lục Lăng Hằng vừa vào gian phòng, anh liền vào trạng thái. Nhân vật Uông Lăng này vô cùng cao ngạo. Thái giám là người bị khinh bỉ, cũng đều rất tự ti, mà những người càng tự ti thì càng dễ tự phụ. Uông Lăng là nghĩa tử mà Ngụy Trung Hiền vừa ý nhất, có quyền cao thế cao, cho nên y càng thêm cao ngạo. Trên đời này y chỉ trung thành tận tâm với một người duy nhất, người đó chính là Ngụy Trung Hiền, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng không vào mắt y. (Nghĩa tử: con nuôi)
“Uông Lăng, tới đây cho nghĩa phụ xem.” Phó đạo diễn nói.
Lục Lăng Hằng đi tới trước mặt phó đạo diễn mà quỳ gối, khí thế ban nãy mới thể hiện ra đều thu hết lại, thuận theo như một con cún con: “Nghĩa phụ.”
“Nhi tử ngoan, nghĩa phụ muốn con đi giết một người.”
Lục Lăng Hằng lập tức ngẩng đầu. Bờ vai anh buông xuống, thể hiện thái độ chấp thuận cung kính, nhưng ánh mắt sắc bén, tựa như có sát khí: “Nghĩa phụ nói đi.”
Các giám khảo thử vai đều rất hài lòng.
Sau khi thử vai xong, nhà sản xuất nói Lục Lăng Hằng quay về đợi tin, Lục Lăng Hằng liền dẫn Tiền Duyệt ngồi máy bay trở về.
Qua vài ngày, Thẩm Bác Diễn dẫn Lục Lăng Hằng đi tới gặp nhà sản xuất và biên kịch, đạo diễn phim hôn quân.
Trên đường tới nhà hàng, Thẩm Bác Diễn mở nhạc trên xe.
Nhạc dạo vừa lên, Lục Lăng Hằng liền nhận ra Thẩm Bác Diễn mở bài “Mộng tưởng”. Anh cứ tưởng chỉ mở nhạc đệm, thế nhưng hết khúc nhạc dạo, giọng hát khàn khàn của anh vang lên, anh ngạc nhiên nhìn Thẩm Bác Diễn: “Nhanh như vậy đã xong rồi.”
“À ừ.” Thẩm Bác Diễn nói, “Xong từ lâu rồi, tại dạo này em bận quá nên không có thời gian cho em nghe. Em nghe một chút xem, thế nào?”
“Mọi người luôn nói anh quá dũng cảm..liều lĩnh kích động trước thách thức…”
Đạo nhạc đầu chậm rãi, nghe như ca dao, giọng Lục Lăng Hằng trầm thấp, có cảm giác ưu thương mơ hồ.
“Anh nói ước mơ chính là điều anh mong ngóng..tiếp thêm toàn bộ năng lượng giúp anh chiến thắng….”
Tiết tấu nhạc dần thanh thoát, nhịp trống cũng dần trở nên mạnh mẽ, tựa như cuối cùng ánh bình minh cũng ló dạng sau đêm tối.
Lục Lăng Hằng cảm thán nói: “Giỏi ghê.”
Thẩm Bác Diễn cười nói: “Ừ, anh cũng thấy em hát rất tốt.”
“Không phải vậy.” Lục Lăng Hằng nói, “Em nói người sáng tác nhạc giỏi cơ.”
Giống như diễn viên diễn xuất, khán giả chỉ chú ý tới diễn viên, nhưng thật ra đấy chỉ là bề nổi, những yếu tố như bối cảnh âm thanh,.. tất cả đều góp phần quan trọng, nhờ có nó mới có thể đưa đến hình ảnh đẹp mắt. Mà hát cũng giống như vậy, giọng hát của ca sĩ chỉ là một phần, sáng tác, phối nhạc,.. có những yếu tố này mới có thể cho ra một ca khúc êm tai.
“Em có thể vừa hát vừa diễn.”
“Coi như được.” Lục Lăng Hằng cười nói, “Dựa vào ngón giọng của em, cũng không đến nỗi mất mặt.”
Đảo mắt xe tới nhà hàng gặp mặt. Bọn họ đến sớm hơn thời gian hẹn mười phút, nhưng nhà sản xuất và đạo diễn để bày tỏ thành ý còn tới sớm hớn, đã ngồi chờ sẵn trong bao sương.
Vừa vào cửa, Lục Lăng Hằng thấy trong phòng có một người đàn ông lớn tuổi, nhất thời hai mắt sáng lên: “Đạo diễn Quách!”
Đó là đạo diễn mà nhà sản xuất mời tới, Quách Xuyên. Năm nay Quách Xuyên đã sáu mươi tuổi, vóc người thấp bé, tóc hoa râm, trên mặt có nếp nhăn, có lẽ là vì hôm nay tới gặp nhà đầu tư nên ăn mặc long trọng, cho nên ông mặc một bộ tây trang, nhưng kiểu dáng bộ tây trang đã cũ, hơn nữa còn không vừa người, thoạt nhìn ông còn lớn hơn tuổi thật.
Bị Lục Lăng Hằng gọi tên, Quách Xuyên vội vàng đứng lên: “Thẩm tổng, Tiểu Lục, chào hai cậu.”
Nhà sản xuất Sài Vân cũng nhiệt tình đi tới bắt tay chào hỏi hai người.
Mọi người vừa nói chuyện vừa vào ghế ngồi. Lục Lăng Hằng nhiệt tình nói: “Đạo diễn Quách, cháu rất thích phim của bác, cháu là fan của bác đó.”
Quách Xuyên thụ sủng nhược kinh: “Tôi? Thật sao?” (thụ sủng nhược kinh: được sủng ái mà vừa mừng lại vừa lo)
Giờ có rất ít người trẻ tuổi biết đến Quách Xuyên, bởi vì giờ ông không còn nổi nữa. Hơn mười năm trước là thời hoàng kim của ông, quay không biết bao phim nghệ thuật, thế nhưng khi đó thị trường điện ảnh không phát triển, bản lậu tràn lan, rất ít người làm điện ảnh không lăn lộn được phải đổi nghề. Sau này thị trường điện ảnh phát triển, Quách Xuyên lại không theo kịp sự chuyển đổi bây giờ, bị gạt tới mép lề, mấy năm gần đây nhận bừa vài dự án kiếm miếng ăn qua ngày.
Dự án hôn quân này mặc dù kịch bản không tệ, nhưng một kịch bản tốt nếu không có đạo diễn tốt sẽ không quay tốt được. Lục Lăng Hằng vừa biết dự án này, chuyện đầu tiên hỏi là ai đạo diễn bộ phim. Một diễn viên từng đạt giải Oscar từng nói, một diễn viên dù diễn tốt đến đâu, cũng không vượt qua nổi đạo diễn, hạn mức tối đa của đạo diễn quyết định hạn mức cao nhất của diễn viên. Sau khi biết Quách Xuyên nhận bộ phim này, Lục Lăng Hằng mới tiến lên một bước mà tìm cách bàn bạc.
Lục Lăng Hằng nói: “Cháu rất thích phim “Thiên lý” và “Lực vãn cuồng lan” mà bác đạo diễn, hồi còn đi học đã xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần.”
Quách Xuyên vốn tưởng Lục Lăng Hằng chỉ nói khách sáo với mình, lúc nghe Lục Lăng Hằng nói ra tác phẩm mà ông tâm đắc nhất mới cười tươi như hoa: “Không ngờ mấy cô cậu 9x các cậu cũng xem phim cũ như vậy.”
Lục Lăng Hằng ngại ngùng. Em họ nhỏ hơn anh vài tuổi, nay bị coi như 9x, có cảm giác ngượng như đang cưa sừng làm nghé.
Mấy phút sau, biên kịch phim hôn quân cũng tới. Đó là một người phụ nữ ngoài bốn mươi, tên là Tạ Dụ. Bà vừa vào cửa, thấy mọi người đã đến đông đủ cả rồi, nhất thời luống cuống, vội vàng áy náy xin lỗi: “Xin lỗi, xin lỗi, tôi đến muộn.”
“Không đâu.” Thẩm Bác Diễn nhìn đồng hồ đeo tay, “Cô đến đúng giờ mà.”
Giờ mọi người đã tới đông đủ, Thẩm Bác Diễn gọi vài món ăn, mọi người bắt đầu họp.
Kịch bản hôn quân này Tạ Dụ viết năm năm mới hoàn thành. Bà cũng như Quách Xuyên, cũng đã lăn lộn rất nhiều năm trong cái giới này, nhưng vẫn không lên được. Tác phẩm biên kịch của bà đều rất sâu sắc, khống chế được tốt nhịp truyện và mâu thuẫn trong cốt truyện, cũng đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật, một vai dù nhỏ nhưng cũng có lập trường và cảm xúc hợp lý. Nhưng những kịch bản sáng tác của bà phần lớn đều thiếu tính thương mại hóa, cho nên khó có thể sinh tồn trong thị trường bây giờ.
Giờ thị trường tương đối lộn xộn, tất cả phim ra rạp đều là thảm họa, cốt truyện cẩu huyết, nhân vật và nội dung thì vớ vẩn, phải dựa vào kỹ xảo nhạc đệm và những ngôi sao tên tuổi để thu hút khán giả. Nhưng vậy mà những phim điện ảnh ấy lại bán chạy nhất, thậm chí phim càng tệ, càng nhiều người chê bai thì lại càng nhiều người xem, thậm chí có đoàn phim còn thuê người chê phim, khán giả muốn biết phim tệ đến mức nào nên đi xem. Nhà đầu tư thì chỉ cần tiền, phim gì cũng được chỉ cần kiếm được tiền, nhà đầu tư mặc kệ danh tiếng thế nào. Giống như một sản phẩm thương mại, có đôi khi người dân mua hàng hóa, đơn giản là vì tiếp thị chứ không phải vì bản thân sản phẩm. Mà một câu chuyện có cốt truyện tốt, bởi vì tiền lời thấp, tính mạo hiểm cao, cho nên bị đẩy ra ngoài cuộc chơi.
Mà những bộ phim mờ nhạt như vậy, bởi vì đầu tư ít, thù lao quay phim ít, cho nên không mời được diễn viên nổi tiếng, phân cảnh quay cũng không được tốt. Những đoàn phim như vậy mạng giao thiếp và tài nguyên ít, đến tấm poster cũng không được treo tử tế ở rạp chiếu, sao có thể chống được các phim thương mại có nền tảng lớn.
Tạ Dụ viết rất nhiều câu chuyện, nhưng không có mấy câu chuyện đắt khách, duy nhất có một kịch bản tương đối khá là “Công chúa thái bình” thì bị một đoàn phim mời một biên kịch nổi danh cẩu huyết về sửa lại kịch bản của bà, biến một câu chuyện hay thành câu chuyện tình yêu tổng tài bá đạo với nữ chính ngu ngốc, nhân vật và lời thoại bị bóp méo vặn vẹo, kết quả bà không có tác phẩm nào được đánh giá tốt, nhiều năm như vậy vẫn vô danh.
Nguồn :
Một nhóm người như vậy sắp vào một đoàn, thành ra không ai coi trọng bộ phim này, nếu không có Thẩm Bác Diễn, có lẽ dự án này sẽ sinh non.
Thẩm Bác Diễn hắng giọng một cái: “Chúng ta bắt đầu thôi.”
[1] Ngụy Trung Hiền (魏忠賢) (1568-16 tháng 10, 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu “đảng hoạn quan” dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Vương triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền.
[2] Sùng Trinh: niên hiệu của Vua Tư Tông thời nhà Minh bên Trung Quốc, công nguyên 1628-1644.
[3] Đông Hán, là cách gọi khác của Đông xưởng, là cơ quan đặc vụ của hoạn quan thời Thanh, chính xác hơn là thời Minh Thành Tổ. Vốn lên ngôi bằng cách cướp ngai vàng của người cháu, Minh Thành Tổ đa nghi, vì vậy để trấn áp các lực lượng chính trị chống đối, vị hoàng đế này quyết định thành lập Đông xưởng vào năm 1420 để bí mật giám sát các quan lại trong triều đình, các tướng lĩnh trong quân đội, các quan viên bên ngoài, các học giả có tiếng trong xã hội. Viên hoạn quan đứng đầu nổi tiếng là Ngụy Trung Hiền.
Cũng không bao lâu sau, tới lượt Lục Lăng Hằng thử vai.
Đây là một bộ phim võ hiệp, niên đại triều nhà Minh, nói về một nhóm hiệp khách võ lâm bị gọi vào triều phân tranh cao thấp. Vào cuối triều nhà Minh, Ngụy Trung Hiền[1] được hoàng đế sủng hạnh, không ít quan viên trong triều phản đối, rất nhiều người muốn lật đổ ông ta. Ngụy Trung Hiền muốn diệt trừ phe đối lập, nhưng không thể quang minh chính đại làm, cho nên phải mượn đến nhân sĩ võ lâm trên giang hồ. Ông ta tìm được một người rất nổi danh trên giang hồ, kiếm khách Bạch Văn Bằng. Thê tử của Bạch Văng Bằng bị bệnh nặng, mà kiếm khách này không có tiền chữa trị cho thê tử, Ngụy Trung Hiền đồng ý chữa trị thật tốt cho vợ y, điều kiện là y giúp ông ta ám sát một viên quan thanh liêm. Bạch Văn Bằng ám sát thành công, kết quả sau khi thành công rồi y cũng bị diệt khẩu. Ngụy Trung Hiền lại phái người đi giết thê tử của y, thê tử của y nghe thấy tin đồn thổi, giao con gái cho một người bằng hữu, còn mình thì tự sát.
Phần tiếp theo câu chuyện là mười mấy năm sau. Con gái của Bạch Văn Bằng đã hai mươi tuổi, chuyên tâm luyện võ ở phái Côn Lôn, định bụng luyện võ công thật giỏi sau đó đi tìm Ngụy Trung Hiền báo thù. Mà viên thanh quan năm đó bị Bạch Văn Bằng giết cũng có một người con trai chừng mười tuổi, sau khi viên thanh quan chết, người cho trai vào Thanh Thành, khổ học võ công phái Thanh Thành, cũng muốn báo thù cho phụ thân, chỉ là y không biết tất cả đều là quỷ kế của Ngụy Trung Hiền. Sau khi Ngụy Trung Hiền giết Bạch Văn Bằng xong đã nói dối là Bạch Văn Bằng sợ tội nên trốn đi, cho nên con trai của viên thanh quan kia muốn tìm Bạch Văn Bằng báo thù cho cha mình.
Hai người con trai và con gái này cũng chính là nam nữ chính trong phim “Đại võ lâm”. Nữ chính còn có một người sư huynh, là một thiếu niên căn chính miêu hồng hiền lành thành thật, toàn tâm toàn ý với nữ chính, chỉ tiếc là nữ chính một lòng muốn báo thù, không hề chú ý tới tình cảm của sư huynh. Lúc này võ lâm tổ chức một đại hội luận võ, người thắng cuộc có thể giành được thanh kiếm độc nhất vô nhị, nghe nói đây là thanh kiếm đệ nhất thiên hạ. Mà thanh kiếm kia chính là bảo kiếm bên người Bạch Văn Bằng, nghe tin này, đương nhiên nam nữ chính muốn đi đoạt kiếm, mà sư huynh giúp đỡ sư muội nên đi cùng, ngoài ra còn có một nữ hiệp giang hồ cũng tới tham dự đại hội luận võ, đây đều là những nhân vật chính trong phim. Tiếp theo câu chuyện là các cảnh tình cảm hiểu lầm tương sát cẩu huyết quen thuộc. (Căn chính miêu hồng: chỉ người kiên quyết, vững vàng)
Nhưng đại hội luận võ này thật ra là âm mưu của Ngụy Trung Hiền. Sau khi hoàng đế Sùng Trinh[2] lên ngôi, địa vị của ông ta bị uy hiếp, ông ta muốn nhân đại hội võ lâm này để chiêu mộ người có thể lợi dụng được.
Kết phim, sư huynh kia chết vì nhân vật nữ chính, nhân vật nữ chính chết, nam chính hiểu được chân tướng cùng nữ thứ hai liên thủ giết Ngụy Trung Hiền, sau đó lang bạt giang hồ.
Đây là một kịch bản tạp bí lù, trước đây lúc Lục Lăng Hằng mới đọc xong kịch bản, trong đầu chỉ có bốn chữ —— không thể tin nổi. Giờ có rất nhiều kịch bản phim, võ hiệp thôi còn chưa đủ, phải pha thêm cung đấu vào, đủ loại linh tinh lang tang nhét vào với nhau, hơn nữa Ngụy Trung Hiền trở thành bia ngắm nhận đủ đạn bom, cái xấu gì cũng nhét vào ông ta. Nhưng với thị trường quốc nội bây giờ, chỉ cần có diễn viên tên tuổi và pha cảnh đẹp, dù cho phim có tệ nữa cũng vẫn hót hòn họt. Bộ phim nói về thuyết âm mưu trong triều đình, nghe có vẻ đao to búa lớn lắm.
Vai mà Lục Lăng Hằng muốn thử là vai con nuôi của Ngụy Trung Hiền, đệ nhất cao thủ thái giám, cảnh của nhân vật này có ba loại, một là đứng bên cạnh làm nền cho Ngụy Trung Hiền, thứ hai là xum xoe bợ đỡ Ngụy Trung Hiền, thứ ba là ngăn cản nam nữ chính, cũng may mắn có một hai pha đánh nhau. Kết cục của nhân vật này là vì cứu Ngụy Trung Hiền mà chết.
Không bao lâu đến lượt anh thử vai.
Lần thử vai này phải mặc trang phục cổ trang, hơn nữa nhân vật này trang điểm đậm, bởi vì là thái giám nên mặt đánh phấn rất trắng, còn kẻ mắt rất đậm. Nhưng nhân vật Uông Lăng này không phải người ẻo lả, y là đệ nhất cao thủ Đông Hán[3], y không phải tỏ vẻ nữ tính mà là thể hiện ra vẻ nhu hòa trung tính.
Lục Lăng Hằng đi vào phòng thử vai, anh vào vị trí, cũng không chào hỏi giám khảo, đứng thẳng lưng, hơi ngước đầu, dùng ánh mắt kiêu căng nhìn lướt qua mọi người.
Vài giám khảo thử vai đều gật đầu.
Tới thử nhân vật Uông Lăng này, có người quá mềm, có người quá cứng, nhưng Lục Lăng Hằng rất vừa đủ. Tuy rằng còn chưa chính thức bắt đầu diễn, nhưng Lục Lăng Hằng vừa vào gian phòng, anh liền vào trạng thái. Nhân vật Uông Lăng này vô cùng cao ngạo. Thái giám là người bị khinh bỉ, cũng đều rất tự ti, mà những người càng tự ti thì càng dễ tự phụ. Uông Lăng là nghĩa tử mà Ngụy Trung Hiền vừa ý nhất, có quyền cao thế cao, cho nên y càng thêm cao ngạo. Trên đời này y chỉ trung thành tận tâm với một người duy nhất, người đó chính là Ngụy Trung Hiền, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng không vào mắt y. (Nghĩa tử: con nuôi)
“Uông Lăng, tới đây cho nghĩa phụ xem.” Phó đạo diễn nói.
Lục Lăng Hằng đi tới trước mặt phó đạo diễn mà quỳ gối, khí thế ban nãy mới thể hiện ra đều thu hết lại, thuận theo như một con cún con: “Nghĩa phụ.”
“Nhi tử ngoan, nghĩa phụ muốn con đi giết một người.”
Lục Lăng Hằng lập tức ngẩng đầu. Bờ vai anh buông xuống, thể hiện thái độ chấp thuận cung kính, nhưng ánh mắt sắc bén, tựa như có sát khí: “Nghĩa phụ nói đi.”
Các giám khảo thử vai đều rất hài lòng.
Sau khi thử vai xong, nhà sản xuất nói Lục Lăng Hằng quay về đợi tin, Lục Lăng Hằng liền dẫn Tiền Duyệt ngồi máy bay trở về.
Qua vài ngày, Thẩm Bác Diễn dẫn Lục Lăng Hằng đi tới gặp nhà sản xuất và biên kịch, đạo diễn phim hôn quân.
Trên đường tới nhà hàng, Thẩm Bác Diễn mở nhạc trên xe.
Nhạc dạo vừa lên, Lục Lăng Hằng liền nhận ra Thẩm Bác Diễn mở bài “Mộng tưởng”. Anh cứ tưởng chỉ mở nhạc đệm, thế nhưng hết khúc nhạc dạo, giọng hát khàn khàn của anh vang lên, anh ngạc nhiên nhìn Thẩm Bác Diễn: “Nhanh như vậy đã xong rồi.”
“À ừ.” Thẩm Bác Diễn nói, “Xong từ lâu rồi, tại dạo này em bận quá nên không có thời gian cho em nghe. Em nghe một chút xem, thế nào?”
“Mọi người luôn nói anh quá dũng cảm..liều lĩnh kích động trước thách thức…”
Đạo nhạc đầu chậm rãi, nghe như ca dao, giọng Lục Lăng Hằng trầm thấp, có cảm giác ưu thương mơ hồ.
“Anh nói ước mơ chính là điều anh mong ngóng..tiếp thêm toàn bộ năng lượng giúp anh chiến thắng….”
Tiết tấu nhạc dần thanh thoát, nhịp trống cũng dần trở nên mạnh mẽ, tựa như cuối cùng ánh bình minh cũng ló dạng sau đêm tối.
Lục Lăng Hằng cảm thán nói: “Giỏi ghê.”
Thẩm Bác Diễn cười nói: “Ừ, anh cũng thấy em hát rất tốt.”
“Không phải vậy.” Lục Lăng Hằng nói, “Em nói người sáng tác nhạc giỏi cơ.”
Giống như diễn viên diễn xuất, khán giả chỉ chú ý tới diễn viên, nhưng thật ra đấy chỉ là bề nổi, những yếu tố như bối cảnh âm thanh,.. tất cả đều góp phần quan trọng, nhờ có nó mới có thể đưa đến hình ảnh đẹp mắt. Mà hát cũng giống như vậy, giọng hát của ca sĩ chỉ là một phần, sáng tác, phối nhạc,.. có những yếu tố này mới có thể cho ra một ca khúc êm tai.
“Em có thể vừa hát vừa diễn.”
“Coi như được.” Lục Lăng Hằng cười nói, “Dựa vào ngón giọng của em, cũng không đến nỗi mất mặt.”
Đảo mắt xe tới nhà hàng gặp mặt. Bọn họ đến sớm hơn thời gian hẹn mười phút, nhưng nhà sản xuất và đạo diễn để bày tỏ thành ý còn tới sớm hớn, đã ngồi chờ sẵn trong bao sương.
Vừa vào cửa, Lục Lăng Hằng thấy trong phòng có một người đàn ông lớn tuổi, nhất thời hai mắt sáng lên: “Đạo diễn Quách!”
Đó là đạo diễn mà nhà sản xuất mời tới, Quách Xuyên. Năm nay Quách Xuyên đã sáu mươi tuổi, vóc người thấp bé, tóc hoa râm, trên mặt có nếp nhăn, có lẽ là vì hôm nay tới gặp nhà đầu tư nên ăn mặc long trọng, cho nên ông mặc một bộ tây trang, nhưng kiểu dáng bộ tây trang đã cũ, hơn nữa còn không vừa người, thoạt nhìn ông còn lớn hơn tuổi thật.
Bị Lục Lăng Hằng gọi tên, Quách Xuyên vội vàng đứng lên: “Thẩm tổng, Tiểu Lục, chào hai cậu.”
Nhà sản xuất Sài Vân cũng nhiệt tình đi tới bắt tay chào hỏi hai người.
Mọi người vừa nói chuyện vừa vào ghế ngồi. Lục Lăng Hằng nhiệt tình nói: “Đạo diễn Quách, cháu rất thích phim của bác, cháu là fan của bác đó.”
Quách Xuyên thụ sủng nhược kinh: “Tôi? Thật sao?” (thụ sủng nhược kinh: được sủng ái mà vừa mừng lại vừa lo)
Giờ có rất ít người trẻ tuổi biết đến Quách Xuyên, bởi vì giờ ông không còn nổi nữa. Hơn mười năm trước là thời hoàng kim của ông, quay không biết bao phim nghệ thuật, thế nhưng khi đó thị trường điện ảnh không phát triển, bản lậu tràn lan, rất ít người làm điện ảnh không lăn lộn được phải đổi nghề. Sau này thị trường điện ảnh phát triển, Quách Xuyên lại không theo kịp sự chuyển đổi bây giờ, bị gạt tới mép lề, mấy năm gần đây nhận bừa vài dự án kiếm miếng ăn qua ngày.
Dự án hôn quân này mặc dù kịch bản không tệ, nhưng một kịch bản tốt nếu không có đạo diễn tốt sẽ không quay tốt được. Lục Lăng Hằng vừa biết dự án này, chuyện đầu tiên hỏi là ai đạo diễn bộ phim. Một diễn viên từng đạt giải Oscar từng nói, một diễn viên dù diễn tốt đến đâu, cũng không vượt qua nổi đạo diễn, hạn mức tối đa của đạo diễn quyết định hạn mức cao nhất của diễn viên. Sau khi biết Quách Xuyên nhận bộ phim này, Lục Lăng Hằng mới tiến lên một bước mà tìm cách bàn bạc.
Lục Lăng Hằng nói: “Cháu rất thích phim “Thiên lý” và “Lực vãn cuồng lan” mà bác đạo diễn, hồi còn đi học đã xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần.”
Quách Xuyên vốn tưởng Lục Lăng Hằng chỉ nói khách sáo với mình, lúc nghe Lục Lăng Hằng nói ra tác phẩm mà ông tâm đắc nhất mới cười tươi như hoa: “Không ngờ mấy cô cậu 9x các cậu cũng xem phim cũ như vậy.”
Lục Lăng Hằng ngại ngùng. Em họ nhỏ hơn anh vài tuổi, nay bị coi như 9x, có cảm giác ngượng như đang cưa sừng làm nghé.
Mấy phút sau, biên kịch phim hôn quân cũng tới. Đó là một người phụ nữ ngoài bốn mươi, tên là Tạ Dụ. Bà vừa vào cửa, thấy mọi người đã đến đông đủ cả rồi, nhất thời luống cuống, vội vàng áy náy xin lỗi: “Xin lỗi, xin lỗi, tôi đến muộn.”
“Không đâu.” Thẩm Bác Diễn nhìn đồng hồ đeo tay, “Cô đến đúng giờ mà.”
Giờ mọi người đã tới đông đủ, Thẩm Bác Diễn gọi vài món ăn, mọi người bắt đầu họp.
Kịch bản hôn quân này Tạ Dụ viết năm năm mới hoàn thành. Bà cũng như Quách Xuyên, cũng đã lăn lộn rất nhiều năm trong cái giới này, nhưng vẫn không lên được. Tác phẩm biên kịch của bà đều rất sâu sắc, khống chế được tốt nhịp truyện và mâu thuẫn trong cốt truyện, cũng đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật, một vai dù nhỏ nhưng cũng có lập trường và cảm xúc hợp lý. Nhưng những kịch bản sáng tác của bà phần lớn đều thiếu tính thương mại hóa, cho nên khó có thể sinh tồn trong thị trường bây giờ.
Giờ thị trường tương đối lộn xộn, tất cả phim ra rạp đều là thảm họa, cốt truyện cẩu huyết, nhân vật và nội dung thì vớ vẩn, phải dựa vào kỹ xảo nhạc đệm và những ngôi sao tên tuổi để thu hút khán giả. Nhưng vậy mà những phim điện ảnh ấy lại bán chạy nhất, thậm chí phim càng tệ, càng nhiều người chê bai thì lại càng nhiều người xem, thậm chí có đoàn phim còn thuê người chê phim, khán giả muốn biết phim tệ đến mức nào nên đi xem. Nhà đầu tư thì chỉ cần tiền, phim gì cũng được chỉ cần kiếm được tiền, nhà đầu tư mặc kệ danh tiếng thế nào. Giống như một sản phẩm thương mại, có đôi khi người dân mua hàng hóa, đơn giản là vì tiếp thị chứ không phải vì bản thân sản phẩm. Mà một câu chuyện có cốt truyện tốt, bởi vì tiền lời thấp, tính mạo hiểm cao, cho nên bị đẩy ra ngoài cuộc chơi.
Mà những bộ phim mờ nhạt như vậy, bởi vì đầu tư ít, thù lao quay phim ít, cho nên không mời được diễn viên nổi tiếng, phân cảnh quay cũng không được tốt. Những đoàn phim như vậy mạng giao thiếp và tài nguyên ít, đến tấm poster cũng không được treo tử tế ở rạp chiếu, sao có thể chống được các phim thương mại có nền tảng lớn.
Tạ Dụ viết rất nhiều câu chuyện, nhưng không có mấy câu chuyện đắt khách, duy nhất có một kịch bản tương đối khá là “Công chúa thái bình” thì bị một đoàn phim mời một biên kịch nổi danh cẩu huyết về sửa lại kịch bản của bà, biến một câu chuyện hay thành câu chuyện tình yêu tổng tài bá đạo với nữ chính ngu ngốc, nhân vật và lời thoại bị bóp méo vặn vẹo, kết quả bà không có tác phẩm nào được đánh giá tốt, nhiều năm như vậy vẫn vô danh.
Nguồn :
Một nhóm người như vậy sắp vào một đoàn, thành ra không ai coi trọng bộ phim này, nếu không có Thẩm Bác Diễn, có lẽ dự án này sẽ sinh non.
Thẩm Bác Diễn hắng giọng một cái: “Chúng ta bắt đầu thôi.”
[1] Ngụy Trung Hiền (魏忠賢) (1568-16 tháng 10, 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu “đảng hoạn quan” dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Vương triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền.
[2] Sùng Trinh: niên hiệu của Vua Tư Tông thời nhà Minh bên Trung Quốc, công nguyên 1628-1644.
[3] Đông Hán, là cách gọi khác của Đông xưởng, là cơ quan đặc vụ của hoạn quan thời Thanh, chính xác hơn là thời Minh Thành Tổ. Vốn lên ngôi bằng cách cướp ngai vàng của người cháu, Minh Thành Tổ đa nghi, vì vậy để trấn áp các lực lượng chính trị chống đối, vị hoàng đế này quyết định thành lập Đông xưởng vào năm 1420 để bí mật giám sát các quan lại trong triều đình, các tướng lĩnh trong quân đội, các quan viên bên ngoài, các học giả có tiếng trong xã hội. Viên hoạn quan đứng đầu nổi tiếng là Ngụy Trung Hiền.
Danh sách chương