“Cha mong đợi phòng làm việc của Turgut lại là một giấc mơ phương Đông khác, nơi trú ẩn của một học giả Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cha đã lầm. Căn phòng ông ta dẫn Helen và cha vào nhỏ hơn phòng mà bọn ta vừa ra khỏi, tuy trần cũng cao như vậy, và ánh sáng ban ngày từ hai cửa sổ làm hiện rõ mọi thứ đồ đạc bên trong. Hai bức tường xếp đầy sách từ sàn lên đến trần. Rèm nhung đen vén bên cửa sổ, phủ xuống đến tận nền, thảm thêu hình ngựa và chó săn đang lồng lên trong một cuộc săn bắn, tất cả tạo cho căn phòng một ấn tượng huy hoàng của thời Trung cổ. Hàng chồng sách tham khảo tiếng Anh nằm trên chiếc bàn giữa phòng; một bộ tuyển tập Shakespeare đồ sộ chiếm hết chỗ trong một chiếc tủ kỳ lạ gần bàn làm việc.

“Nhưng ấn tượng trước tiên của cha về phòng làm việc của Turgut không phải tính áp đảo của nền văn học Anh; mà là cảm nhận đến ngay tức khắc về một sự hiện diện tăm tối hơn, thứ ám ảnh đã dần loại mất ảnh hưởng nhẹ nhàng từ những tác phẩm tiếng Anh mà ông viết. Sự hiện diện này như đột ngột nhảy ra, lao vào cha bằng một khuôn mặt hiện hữu khắp nơi, ngạo mạn tóm lấy ánh mắt cha từ một tấm ảnh treo phía sau bàn làm việc, từ một khung kệ sách trên bàn, hoặc từ một mảnh tranh thêu kỳ lạ trên tường, từ bìa một tập hồ sơ, từ một bức tranh phác họa gần cửa sổ. Bao giờ cũng là khuôn mặt đó, trong những tư thế và phương cách khác nhau, nhưng bao giờ cũng là gương mặt thời Trung cổ với bộ râu mép và đôi gò má dữ tợn.

Turgut nhìn cha chăm chú. ‘À, anh biết hắn là ai chứ,’ ông ta nói giọng rành rọt. ‘Như anh thấy đấy, tôi sưu tập hình ảnh hắn dưới đủ mọi hình thức.’ Ba người chúng ta đứng bên cạnh nhau, nhìn vào khung hình phía sau bàn làm việc. Đó là một bản sao bức tranh khắc gỗ giống bức mà cha đã thấy ở nhà, nhưng khuôn mặt ở đây được vẽ chính diện, vì vậy đôi mắt đen thẳm màu mực như xoáy thẳng vào mắt chúng ta.

“ ‘Ông đã tìm được toàn bộ những tấm hình khác nhau này ở đâu vậy?’ cha hỏi.

“ ‘Đủ mọi nơi.’ Turgut phác một cử chỉ hướng về cuốn sách khổ đôi trên bàn. ‘Đôi khi tôi thuê vẽ lại từ những cuốn sách cổ, đôi lúc tìm thấy chúng trong các cửa hàng đồ cổ, hoặc các cuộc bán đấu giá. Một khi để mắt đến chúng, anh sẽ nhận ra một điều vô cùng kỳ lạ là có rất nhiều tấm hình chân dung của hắn trôi nổi bày bán khắp mọi nơi trong thành phố chúng tôi. Tôi có cảm giác nếu có thể gom hết những bức chân dung đó, thì từ đôi mắt hắn, có lẽ tôi sẽ đọc được cái bí mật trong cuốn sách trắng trơn của mình.’ Ông ta thở dài. ‘Nhưng các bức tranh khắc gỗ này rất thô sơ - chỉ có hai màu đen trắng. Tôi không thể nào cảm thấy hài lòng với chúng, sau cùng tôi đã nhờ một anh bạn họa sĩ vẽ tất cả lại thành một bức tranh màu.’

“Ông ta dẫn bọn ta đến một hốc tường gần cửa sổ nơi những tấm rèm ngắn, cũng bằng nhung đen, buông xuống che phủ một cái gì đó. Trước khi Turgut đưa tay kéo sợi dây thu rèm, cha đã cảm thấy thoáng kinh hoàng, và khi tấm rèm tinh xảo ấy rẽ ra, tim cha như muốn ngừng đập. Tấm rèm nhung bày ra một bức tranh sơn dầu kích thước bằng và sinh động y như người thật, chân dung từ đầu đến vai của một người đàn ông trẻ, lực lưỡng, rắn rỏi. Tóc dài, những lọn tóc đen nặng nề buông xuống quanh bờ vai. Gương mặt đẹp trai nhưng trông cực kỳ độc ác với màu da tái nhợt, đôi mắt màu xanh lá rực sáng một cách quái dị, mũi dài, thẳng, với hai cánh mũi căng phồng. Đôi môi cong đỏ và trông trần tục dưới hàng ria dài rũ xuống, mím chặt lại tựa như muốn giữ cho cằm ở yên. Hai xương gò má nhọn và hàng lông mày đen rậm dưới một chiếc mũ nhung chỏm nhọn màu xanh lục sậm gắn ở phía trước một lông chim màu nâu trắng. Đó là một khuôn mặt đầy sức sống nhưng cũng hoàn toàn thiếu vắng lòng trắc ẩn, tràn đầy sức mạnh và tỉnh táo nhưng lại thể hiện một nhân cách không ổn định. Đôi mắt chính là đặc điểm gây cảm giác khó chịu nhất của bức tranh; tựa như đôi mắt đó ghim chặt, xuyên qua cha một cách sống động và mãnh liệt, chỉ sau một lát cha phải quay nhìn sang nơi khác cho nhẹ người. Helen, đứng kế bên cha, cũng nhích sát lại gần vai cha hơn một chút, tựa như muốn bày tỏ sự đoàn kết hơn là để tìm nguồn an ủi cho bản thân.

“ ‘Bạn tôi là một họa sĩ tài ba,’ Turgut ôn tồn nói. ‘Các bạn có thể hiểu vì sao tôi che bức tranh này lại rồi đấy. Tôi không muốn nhìn thấy nó lúc đang làm việc.’ Cha nghĩ thực ra có lẽ ông ta định nói là không thích bức tranh ấy nhìn thẳng vào mình. ‘Đây là một hình dung về bề ngoài của Vlad Dracula vào khoảng năm 1456, khi hắn bắt đầu thời gian cai trị dài nhất ở Wallachia. Lúc đó, hắn hai mươi lăm tuổi, được giáo dục kỹ lưỡng theo tiêu chuẩn nền văn hóa của hắn, và do đó còn là một kỵ sĩ tài ba. Suốt hai mươi năm kế tiếp, có lẽ hắn đã giết chết khoảng mười lăm ngàn thần dân của mình - đôi khi vì những lý do chính trị, nhưng thường chỉ vì hắn cảm thấy khoái trá khi được nhìn thấy người khác chết.’

“Turgut kéo rèm lại, cha cảm thấy nhẹ nhõm khi đôi mắt sáng quắc khủng khiếp kia biến mất. ‘Ở đây, tôi còn một số thứ của hiếm kỳ lạ để cho các bạn xem,’ ông ta nói, chỉ vào một chiếc tủ gỗ treo tường. ‘Đây là một con dấu của Giáo đoàn Rồng, tôi tìm được nó trong khu chợ đồ cổ gần bến cảng thành phố. Và đây là một con dao găm bằng bạc, có nguồn gốc từ thời kỳ đầu của đế chế Ottoman ở Istanbul. Tôi tin là nó được sử dụng để săn lùng ma cà rồng, vì trên vỏ dao có khắc những lời cho biết điều gì đó giống như vậy. Những sợi xích và cọc nhọn này’ - ông ta chỉ qua một tủ khác - ‘là những dụng cụ tra tấn, tôi cho là vậy, có thể chúng xuất xứ từ chính Wallachia. Và đây, thưa các bạn, là thứ có giá trị đặc biệt nhất.’ Ông ta cầm rồi mở khóa móc một hộp gỗ có chạm khắc rất đẹp nằm ở rìa bàn làm việc. Bên trong, giữa những lớp vải xa tanh đen là những dụng cụ bén nhọn trông như một bộ đồ nghề phẫu thuật, ngoài ra còn có một khẩu súng lục nhỏ và một con dao bằng bạc.

“ ‘Cái gì vậy?’ Helen ngập ngừng đưa tay ra rồi kéo chiếc hộp về phía mình.

“Một bộ đồ nghề đáng tin cậy dùng cho việc săn lùng ma cà rồng, một trăm năm tuổi rồi đấy,’ Turgut nói, vẻ hãnh diện. ‘Tôi tin nó có xuất xứ từ Bucharest. Một người bạn chuyên sưu tập đồ cổ đã tìm món đó cho tôi từ nhiều năm trước đây. Có rất nhiều bộ như vậy - chúng đã được bán cho du khách đến thăm Đông Âu từ thế kỷ mười tám và mười chín. Thoạt tiên có cả tỏi trong đó, đây, chỗ này, nhưng tôi đã treo lên rồi.’ Ông ta trỏ tay chỉ, cha lại cảm thấy ớn lạnh khi nhìn thấy những dây tỏi khô ở hai bên lối cửa ra vào, đối diện với bàn làm việc. Cha chợt nghĩ, cũng như đã nghĩ như vậy về thầy Rossi chỉ mới một tuần trước đây, có lẽ giáo sư Bora không chỉ tỉ mẩn mà xem ra còn điên khùng nữa.

“Nhiều năm sau cha đã hiểu nhiều hơn về cái phản ứng đầu tiên ấy, hiểu nhiều hơn về thái độ cảnh giác của mình khi thấy phòng làm việc của giáo sư Turgut, nó giống y hệt một căn phòng trong lâu đài của Dracula vậy, một phòng giam nhỏ với những dụng cụ tra tấn. Có một thực tế là các sử gia chúng ta luôn quan tâm tới những gì phản ảnh một phần của chính chúng ta, có lẽ là phần mà chúng ta sẽ chẳng buồn tìm hiểu nếu không có học bổng; nhưng đúng là khi chúng ta để bản thân chìm đắm trong những mối quan tâm ấy, chúng càng lúc càng trở thành một phần của chúng ta. Vài năm sau thời điểm đó, khi viếng thăm một trường đại học Mỹ - không phải trường đại học nơi cha giảng dạy - cha được giới thiệu với một trong những sử gia hàng đầu về Đức Quốc xã. Ông ta sống trong một ngôi nhà tiện nghi, bên rìa khuôn viên trường, ở đó ông ta sưu tập không chỉ những sách có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của mình mà còn cả các thứ đồ sứ của chính quyền Đệ Tam Đế chế. Hai con chó của ông, giống chó Đức chăn cừu khổng lồ, tuần quanh sân trước cả ngày lẫn đêm. Trong phòng khách, khi đã ngà ngà say cùng các bạn đồng sự trong khoa, ông ta đã cả quyết thổ lộ với cha rằng ông ta căm thù những tội ác của Hitler như thế nào và muốn phơi bày chúng với thế giới văn minh một cách càng chi tiết càng tốt. Cha đã rời buổi tiệc sớm, cẩn thận đi ngang qua hai con chó khổng lồ, mà không thể nào tống khứ nỗi khiếp sợ trong lòng.

“ ‘Có thể các bạn cho rằng như thế này là quá nhiều,’ Turgut nói, giọng có vẻ thoáng chút ân hận, tựa như ông ta hiểu được nét biểu lộ trên mặt cha. Ông ta vẫn trỏ vào dây tỏi. ‘Chỉ là tôi không muốn ngồi ở đây, bị bao vây giữa những ý tưởng ma quỷ của quá khứ mà không được bảo vệ. Và bây giờ, để tôi cho anh xem thứ mà tôi đưa anh đến đây để xem.’

“Ông ta mời Helen và cha ngồi xuống những chiếc ghế dựa ọp ẹp, bọc lụa Damas. Lưng cha như chạm vào một cục gì đó - xương chăng? Cha không dựa vào thành ghế nữa. Turgut lôi từ một ngăn kệ sách ra một cặp tài liệu nặng trịch. Từ trong đó, ông ta rút ra các tài liệu được sao chép lại bằng tay mà Helen và cha đã xem trong trung tâm lưu trữ tư liệu - những bản vẽ phác thảo tương tự như các bản của thầy Rossi, điều khác biệt là những bản này được vẽ chăm chút cẩn thận hơn - sau đó rút ra và trao cho cha một lá thư. Nó được đánh máy trên giấy có tiêu đề của trường đại học và do thầy Rossi ký tên. Cha nghĩ không có gì phải nghi ngờ, rõ ràng là chữ ký của thầy Rossi; nét uốn thắt nút của chữ B và R quá quen thuộc đối với cha. Và lá thư này chắc chắn được viết trong thời gian thầy Rossi đang dạy học ở Mỹ. Một vài dòng của lá thư có nội dung như Turgut mô tả: thầy Rossi, không biết gì về kho lưu trữ của Quốc vương Mehmed. Rossi xin lỗi vì đã gây thất vọng và hy vọng công việc của giáo sư Bora sẽ tiến triển tốt đẹp hơn. Đúng là một lá thư khó hiểu.

“Tiếp đó, Turgut mang ra một cuốn sách cổ bọc da nhỏ. Cha cảm thấy khó mà không đưa tay ra để cầm lấy nó ngay, nhưng đã nén lòng chờ đợi trong khi Turgut từ tốn mở ra cho chúng ta thấy những trang đầu và cuối để trống và rồi bức tranh khắc gỗ ở giữa - cái hình dáng vốn đã rất quen thuộc ấy, con rồng với đôi cánh xòe rộng quái đản, trên móng vuốt của nó là cái tiêu kỳ với một chữ độc nhất, đầy đe dọa kia. Cha mở cặp lấy ra cuốn sách của mình. Turgut để hai cuốn sách trên bàn, cạnh nhau. Mỗi người so sánh kho báu của mình với món quà tặng xúi quẩy của người kia, đều cùng nhận ra hai con rồng cùng là một, hình con rồng của ông ta nằm tràn ra đến rìa các trang sách, đậm hơn, hình con rồng của cha nhạt hơn, nhưng cũng là một con rồng, giống y như nhau. Thậm chí cũng có một vết mờ mờ giống nhau gần chóp tai con rồng, tựa như bản khắc gỗ có một chỗ gồ ghề và vấy bẩn một chút mực mỗi lần in. Helen nhìn hai cuốn sách nghiền ngẫm, im lặng.

“ ‘Thật kỳ lạ,’ cuối cùng Turgut thở hắt ra. ‘Tôi chưa bao giờ mơ có một ngày như ngày này, thấy một cuốn sách thứ hai giống như cuốn sách này.’

“ ‘Và nghe nói đến một cuốn thứ ba nữa chứ,’ cha nhắc ông ta. ‘Nên nhớ, đây là cuốn sách thứ ba giống như thế này mà tôi tận mắt nhìn thấy. Bức tranh khắc gỗ trong cuốn sách của giáo sư Rossi cũng y như vậy.’

“Ông ta gật đầu. ‘Vậy thì điều này có thể có ý nghĩa gì?’ Ông ta trải bản sao bản đồ của mình bên cạnh các cuốn sách và di ngón tay to bè so sánh các đường nét vẽ con rồng với đường nét vẽ sông, núi. ‘Thực đáng ngạc nhiên,’ ông ta thì thầm. ‘Cứ nghĩ mà xem, tôi chưa bao giờ tận mắt thấy việc này. Quả thực rất giống nhau. Con rồng là một bản đồ. Nhưng bản đồ của cái gì?’ Mắt ông ta ánh lên.

“ ‘Đó là điều giáo sư Rossi đã cố hình dung ra khi đang ở trong trung tâm lưu trữ của thành phố này,’ cha trả lời kèm theo một tiếng thở dài. ‘Sau đó, ước gì ông ấy tiến thêm vài bước nữa để khám phá ra ý nghĩa của nó.’

“ ‘Có thể ông ấy đã tìm ra.’ Giọng Helen đầy vẻ suy tư, cha bèn quay sang hỏi cô muốn nói gì. Ngay lúc đó, cánh cửa giữa các dây tỏi kỳ lạ kia bỗng mở ra, cả ba người bọn ta đều giật bắn mình. Tuy nhiên, đó không phải sự hiện hình ma quỷ khủng khiếp mà là một phụ nữ nhỏ nhắn, tươi cười, mặc váy màu xanh đang đứng nơi khung cửa. Vợ của Turgut. Helen và cha đứng dậy chào.

“ ‘Chào em,’ Turgut nhanh chóng đưa tay kéo người vợ vào. ‘Như anh đã nói với em, đây là hai người bạn của anh, giáo sư đến từ Mỹ.’

“Ông ta lịch sự giới thiệu lần lượt từng người chúng ta với nhau, bà Bora bắt tay Helen và cha với nụ cười khả ái. Bà chỉ bé bằng đúng nửa Turgut, với đôi mắt xanh lá và hàng lông mi cong dài, chiếc mũi hếch thanh tú, mái tóc hung đỏ uốn thành từng lọn quăn dài. ‘Tôi rất tiếc vì đã không gặp được các bạn sớm hơn.’ Bà ta nói tiếng Anh chậm rãi, cẩn thận để phát âm chuẩn. ‘Chắc hẳn ông chồng tôi chưa mời các bạn ăn gì, đúng không?’

“Cha đã nói là bọn ta đã được ăn một bữa rất thịnh soạn, nhưng bà ta vẫn lắc đầu. ‘Cái ông Bora này chả bao giờ mời khách được một bữa ra hồn. Tôi phải - rầy ông ta mới được!’ Bà ta thụi nhẹ ông chồng một cái, ông Turgut có vẻ thích thú.

“ ‘Tôi sợ bà nhà tôi lắm,’ ông ta nói giọng hả hê. ‘Bà ấy dữ như sư tử vậy.’ Helen, đứng cao hơn hẳn bà vợ, mỉm cười với cả hai người; hai vợ chồng họ thật dễ thương.

“ ‘Và,’ bà Bora tiếp tục, ‘tôi xin lỗi vì chắc hẳn ông nhà tôi đã quấy rầy các bạn bằng mấy cái bộ sưu tập kinh khủng của ông ấy.’ Chỉ trong vòng vài phút chúng ta đã lại an tọa trên chiếc trường kỷ lộng lẫy, trong lúc bà Bora rót cà phê. Cha nhận thấy bà khá đẹp, theo kiểu nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, một phụ nữ tính cách trầm tĩnh, có lẽ vào khoảng tuổi bốn mươi. Tiếng Anh của bà có phần hạn chế, nhưng bà sử dụng một cách hài hước ý nhị, tựa như ông chồng vẫn thường xuyên lôi về nhà những vị khách nói tiếng Anh. Chiếc váy giản dị nhưng thanh lịch, cử chỉ của bà cũng rất tinh tế. Cha hình dung những đứa trẻ mà bà dạy dỗ trong nhà trẻ đang quây quần chung quanh bà - chắc chúng phải cao đến cằm bà mất. Cha băn khoăn tự hỏi liệu hai vợ chồng đã có con với nhau chưa; chẳng thấy hình trẻ con trong phòng, hoặc dấu hiệu gì về chúng, nhưng cha không dám hỏi.

“ ‘Ông xã tôi đã đưa các bạn đi dạo quanh thành phố một vòng rồi chứ?’ bà Bora hỏi Helen.

“ ‘Vâng ạ, đã một vài nơi,’ Helen đáp lời. ‘Tôi e là hôm nay bọn tôi đã làm ông ấy mất nhiều thời giờ rồi đấy.’

“ ‘Không đâu - chính tôi mới là người đã làm các bạn mất nhiều thời giờ.’ Turgut nhấp một ngụm cà phê, vẻ hài lòng ra mặt. ‘Nhưng bọn anh cũng còn rất nhiều việc phải làm, em yêu ạ’ - ông ta nói với vợ - ‘bọn anh sẽ đi tìm một giáo sư đang mất tích, vì vậy anh sẽ bận rộn vài ngày đấy.’

“ ‘Một giáo sư đang mất tích?’ Bà Bora trầm tĩnh nhìn chồng, mỉm cười. ‘Thôi được. Nhưng trước hết chúng ta phải dùng bữa tối đã chứ. Tôi hy vọng anh chị sẽ dùng bữa tối với chúng tôi?’ Bà ta quay sang Helen và cha.

“Nghĩ đến việc phải nhồi nhét thêm thức ăn vào bụng quả là không thể chịu nổi, cha cẩn thận tránh ánh mắt của Helen. Tuy nhiên, dường như Helen nhận thấy tất cả mọi chuyện đều rất bình thường. ‘Cám ơn bà Bora, bà rất tử tế, nhưng tôi nghĩ chúng tôi cần trở về khách sạn vì đã có hẹn ở đó lúc năm giờ.’

“Đã có hẹn à? Đúng là chuyện phịa, nhưng cha cũng hưởng ứng theo. ‘Đúng vậy, có mấy người bạn Mỹ hẹn đến uống nước. Nhưng chúng tôi hy vọng sẽ sớm được gặp lại vợ chồng ông bà.’

“Turgut gật đầu. ‘Tôi sẽ tìm ngay trong thư viện ở đây mọi thứ có ích cho chúng ta. Chúng ta phải nghĩ đến khả năng hầm mộ của Dracula là ở Istanbul - dù những tấm bản đồ này có chỉ đến một khu vực trong thành phố hay không. Tôi có ở đây một ít sách cổ về thành phố này, và những người bạn của tôi cũng có các bộ sưu tập tuyệt vời về Istanbul. Đêm nay tôi sẽ tìm mọi thứ cho anh.’

“ ‘Dracula.’ Bà Bora lắc đầu. ‘Tôi thích Shakespeare hơn Dracula. Một sở thích lành mạnh hơn. Vả lại’ - bà liếc nhìn chúng ta bằng ánh mắt bông đùa - ‘Shakespeare giúp thanh toán các hóa đơn của chúng tôi.’

“Họ nồng nhiệt tiễn chúng tôi ra về, và Turgut hứa sẽ đến gặp chúng tôi tại khách sạn vào lúc chín giờ sáng mai. Ông sẽ mang lại tin tức mới, nếu có thể, và chúng ta sẽ lại viếng trung tâm lưu trữ tư liệu để xem liệu tiến triển được gì thêm không. Đồng thời, ông cũng cảnh báo, chúng ta phải cảnh giác tối đa, quan sát khắp mọi nơi để xem có sự theo dõi hoặc mối nguy hiểm nào khác hay không. Turgut muốn tháp tùng chúng ta trở về chỗ trọ, nhưng cha trấn an ông ta là bọn ta có thể tự mình đáp phà quay trở lại - ông ta liền cho biết phà sẽ rời bến trong vòng hai mươi phút nữa. Hai vợ chồng nhà Bora tiễn Helen và cha đến cửa tòa nhà, họ đứng trên bậc thềm, tay trong tay, nói lời từ biệt. Lúc đi dọc theo con đường có những hàng cây sung và cây đoan dọc hai bên, cha liếc nhìn lui một đôi lần. ‘Tôi nghĩ đó là một cuộc hôn nhân hạnh phúc,’ cha nói với Helen nhận xét đó và ngay lập tức cảm thấy hối tiếc, bởi cô đã khịt mũi, biểu lộ ngay thái độ khinh khỉnh.

“ ‘Thôi nào, Ông Người Mỹ,’ cô thốt lên. ‘Còn khối chuyện phải lo đấy.’

“Bình thường, chắc hẳn cha đã mỉm cười vì cái biệt danh mà cô gán ghép cho mình, nhưng lần này, có gì đó làm cha phải rùng mình và quay lại nhìn thẳng vào mặt cô. Một ý tưởng khác liên quan đến cuộc thăm viếng lạ lùng chiều hôm đó, một ý tưởng mà cha phải cố kìm nén cho đến giây phút cuối cùng. Nhìn vào Helen lúc cô quay lại phía cha cũng với ánh mắt trừng trừng, cha không thể nào không cảm thấy sốc vì sự tương đồng giữa những nét đặc trưng mạnh mẽ mà xinh đẹp của cô với bức chân dung rõ nét đáng sợ phía sau tấm màn che của Turgut.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện